sophienguyen
07-13-2015, 02:42 AM
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
http://thuvienhoasen.org/images/file/mhzQS2FN0QgBADkI/12-nhanduyen.jpg (http://thuvienhoasen.org/images/file/mhzQS2FN0QgBADkI/12-nhanduyen.jpg)
Duyên khởi là giáo pháp tinh yếu, cốt tủy của đạo Phật. Đức Phật sau khi thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đã để dành bảy ngày đầu tiên để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trong đêm cuối cùng của bảy ngày ấy, Ngài quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, như sau:
- Tùy thuộc vô minh (avijjā), hành (saṅkhāra) phát sanh.
- Tùy thuộc hành (saṅkhāra), thức (viññāṇa) phát sanh.
- Tùy thuộc thức (viññāṇa), danh-sắc (nāmarūpa) phát sanh.
- Tùy thuộc danh-sắc (nāmarūpa), lục nhập (salāyatana) phát sanh.
- Tùy thuộc lục nhập (salāyatana), xúc (phassa) phát sanh.
- Tùy thuộc xúc (phassa), thọ (vedanā) phát sanh.
- Tùy thuộc thọ (vedanā), ái (taṅhā) phát sanh.
- Tùy thuộc ái (taṅhā), thủ (upādāna) phát sanh.
- Tùy thuộc thủ (upādāna), hữu (bhava) phát sanh.
- Tùy thuộc hữu (bhava), sanh (jāti) phát sanh.
- Tùy thuộc sanh (jāti), phát sanh lão, tử (jarāmaraṇa), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa), não (upāyāsa).
Nghĩa là toàn bộ sự đau khổ cùng phát sanh.
Như thế: "Khi cái nầy (nhân) có thì cái kia (quả) có. Với sự phát sanh của cái nầy (nhân) thì cái kia (quả) sẽ phát sanh".Khoảng canh giữa đêm, đức Phật quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, như sau:
- Do vô minh diệt thì hành diệt.
- Do hành diệt thì thức diệt.
- Do thức diệt thì danh, sắc diệt.
- Do danh, sắc diệt thì lục nhập diệt.
- Do lục nhập diệt thì xúc diệt.
- Do xúc diệt thì thọ diệt.
- Do thọ diệt thì ái diệt.
- Do ái diệt thì thủ diệt.
- Do thủ diệt thì hữu diệt.
- Do hữu diệt thì sanh diệt.
- Do sanh diệt thì lão, tử sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Nghĩa là toàn bộ khối đau khổ đều chấm dứt.
Như thế: "Khi cái này (nhân) diệt thì cái kia (quả) sẽ không có. Với sự chấm dứt của cái này (nhân) thì cái kia (quả) sẽ chấm dứt".
Thập Nhị Nhân Duyên, do vậy, là tiến trình của sự tái sanh, luân hồi sinh tử. Tiến trình này nằm trong mắc xích nhân quả, tương quan: "Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không". Rõ ràng, tiến trình này có sanh thì có diệt. Muốn chấm dứt tất cả khổ, không phải là diệt quả khổ mà phải diệt nguyên nhân khổ.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) do tuệ quán của đức Phật, nhằm mục đích soi rọi tiến trình sinh tử luân hồi, khổ đau của chúng sanh trong 3 giới, 4 loài, đồng thời khai mở tuệ giác để chấm dứt tiến trình ấy.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật, là chân lý, là thực tại rốt ráo, là chân đế đệ nhất nghĩa (paramattha), chỉ có thể thấy nó bằng tuệ quán, bằng bát-nhã chiếu soi, bằng trực giác như thị chứ không thể hiểu hay biết nó bằng suy luận, lý luận, bằng lý trí vọng thức. Do vậy, Thập Nhị Nhân Duyên không phải là triết học, không phải là tư tưởng, không phải là lý thuyết, quan niệm, quan điểm, lập trường do đầu óc, tư duy, khái niệm, ý niệm đẻ ra (paññatti).
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật duyên khởi, phải minh sát để thấy rõ sự vận hành ấy mới biết sầu bi khổ ưu não phát sanh từ đâu và do đâu. Rồi nó sinh và diệt như thế nào. Ở đây không hề bàn đến sự tiến hóa của vũ trụ, nguồn gốc của vũ trụ, sinh thành hay hoại diệt của vũ trụ, những bí mật hoặc hỗn mang của vũ trụ.
Thập Nhị Nhân Duyên lấy con người, chúng sanh làm trọng tâm, nhưng con người, chúng sanh ấy không có đàn ông, đàn bà, ngựa, heo, a-tu-la, ngạ quỷ mà tất cả chỉ có... hành, thức, danh, sắc...căn, trần, thức...; nó không bàn đến gia đình, xã hội, giáo dục hay an ninh, an toàn, môi sinh, văn hóa. Sự tương quan giữa chúng là tất yếu, nhưng giải quyết các vấn đề ấy, chỉ là cách giải quyết phần ngọn chứ không phải giải quyết phần gốc, giải quyết phần quả chứ không phải giải quyết phần nhân. Đức Phật là bậc Toàn Tri Diệu Giác, Ngài giải quyết tận căn nguyên đau khổ chứ không bao giờ giải quyết những kết quả của đau khổ.
Muốn thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) Thập Nhị Nhân Duyên, chúng ta phải tu tập thiền tuệ, phải hiện quán, thực chứng tiến trình tâm đang sinh khởi, đang vận hành trong thế giới căn-trần-thức tương quan, chứ không phải qua mớ kiến thức chữ nghĩa. Kiến thức, chữ nghĩa, kinh điển chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải là mặt trăng. Đức Phật dạy: "Ai thấy Thập Nhị Nhân Duyên tức thấy pháp. Ai thấy pháp tức thấy Như Lai".Phải thấy, biết, hiện quán và thực chứng Thập Nhị Nhân Duyên nơi thực tại hiện tiền, nơi duyên sinh của căn-trần-thức ở đây và bây giờ.
I. Giải thích Thập Nhị Nhân Duyên theo vòng luân hồi tử sanh
1. Vô minh (avijjā)
Vô minh là trạng thái không sáng suốt, không tỉnh thức, thường bị si mê, bất giác và những triền cái che mờ, che phủ. Vô minh làm cho chúng sanh không thấy được thực tánh của các pháp.Ta có thể tìm thấy một số định nghĩa về vô minh ở trong kinh điển.- Không thấy rõ tứ đế là vô minh.- Không thấy rõ duyên sinh, vô ngã là vô minh.- Không thấy rõ khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế là vô minh.- Không thấy rõ danh pháp, sắc pháp là vô minh.- Không thấy rõ ngũ uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên là vô minh...Như vậy, không thấy không biết sự khổ và nguyên nhân khổ, không thấy tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên là căn bản của vô minh, là vô minh gốc; từ đó, chúng sanh bị chi phối, trôi lăn trong vòng tử sanh luân hồi vô định.Vì vô minh, chúng sanh sống trong sai lầm, sống trong ảo tưởng, ảo vọng, ảo giác. Lấy cái sai làm cái đúng, lấy cái giả làm cái thật. Người sống trong vô minh không thể biết là mình đang sống trong vô minh. Đang sống trong cái khổ mà tưởng là vui. Đang si mê, lầm lạc mà tưởng là mình thông minh, sáng suốt. Đang đi lạc đường mà tưởng là đi đúng hướng. Đang bị lửa cháy bốn bề mà vẫn nô đùa, cười vui, hò reo, hoan ca nhảy múa. Đang bị đắm giữa vũng lầy đen đúa, hôi hám mà tưởng là hạnh phúc thiên đường...Vô minh với nghĩa như vậy nên những người uyên thâm, uyên bác, bác học, đa tài, thần đồng, giáo sư, viện sử, tiến sĩ, tổng thống, thủ tướng, triệu phú, tỷ phú... khi không thực sự thấy biết Khổ đế, Tập đế, duyên sinh, vô ngã... đều bị vô minh chi phối, đều đang sống trong vô minh, si mê và lầm lạc.Duyên vô minh, hành sinh khởi (avijjāpaccayāsaṅkhāra).
2. Hành (saṅkhāra)
Do vô minh ở trên mà hành này sanh khởi. Hành có rất nhiều nghĩa, tùy theo mỗi trường hợp, nhưng ở đây hành xoay quanh nghĩa tư tác (cetanā), tức là những cố ý, chủ ý tạo tác các nghiệp thiện, bất thiện và bất động rồi tái sanh trong 3 giới, 4 loài.Nếu vô minh là nhân thì hành là quả. Quả của hành là những tư tác của những nghiệp bất thiện, thiện, bất động. Các nghiệp này được gọi là hành nên 3 nghiệp còn được gọi là bất thiện hành, thiện hành và bất động hành.Ngoài ra tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta cũng được gọi là hành: thân hành, khẩu hành và ý hành. Những lời nói, việc làm, tư tưởng của chúng ta được dẫn dắt bởi tư tác, có tạo nghiệp; dầu thiện, ác hay bất động, thảy đều bị chi phối bởi hành, đưa đến tái sanh. Những hành động dù tốt, dù xấu, dù là thiền định đều bắt nguồn bởi vô minh, từ vô minh hoặc do vô minh tạo động cơ thúc đẩy, đưa chúng sanh vào cuộc hành trình xa xôi diệu vợi, lênh đênh vô định trong cuộc tử sinh chìm nổi không thấy bến bờ. Đôi khi càng đi càng xa cách “quê hương” như hai câu thơ của Trần Thái Tông:“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, Nhật viễn gia hương vạn lý trình!”Nếu hành, tư tác, nghiệp do tham sân si thì đọa lạc vào 4 ác đạo và người bất hạnh.Nếu hành, tư tác, nghiệp do vô tham, vô sân, vô si thì tái sanh làm người hữu phúc và 6 cõi trời Dục giới. Nếu hành, tư tác, nghiệp quy tụ các thiền chi thì hóa sanh làm trời Phạm thiên Hữu sắc và Vô sắc.8 Siêu thế tâm của 4 đạo và 4 quả không còn bị hành chi phối vì các tâm này có khuynh hướng xa rời vô minh và tận diệt vô minh. Do vậy, lời nói, việc làm, tư tưởng của các bậc thánh giả không còn bị hành, tư tác và nghiệp chi phối nữa. Lúc ấy tư tác được thay thế bởi tuệ (paññā). Tuệ có công năng đoạn lìa các hành nghiệp, là thành phần chánh yếu trong các loại thánh đạo tâm.Duyên hành, thức sanh khởi (saṅkhārapaccayāviññānaṃ)
3. Thức(viññāṇa)
Do hành ở trên, thức sanh khởi. Tức là do thiện hành, bất thiện hành, bất động hành làm nhân nên có thức là quả. Đây là thức tái sanh (paṭisandhi) ở Tam giới.- Nếu khi ta làm việc ác, tạo nghiệp bất thiện, bất thiện hành là nhân thì nó sẽ đưa ta đầu thai vào 4 khổ cảnh và người bất hạnh- Nếu ta làm việc thiện, tạo nghiệp thiện, thiện hành là nhân thì tùy theo “kiết sanh thức” cùng phát sanh với xả hay hỷ quyết định. Một, nếu là “xả” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì ta sẽ tái sanh làm người bất hạnh hoặc chư thiên ít phước. Hai, nếu là “hỷ” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì được làm người hoặc chư thiên tốt hơn.- Nếu được “hữu trí” làm kiết sanh thức, đầy đủ 3 nhân “vô tham, vô sân, vô si” thì được tái sanh làm người hoặc làm trời hữu phúc, sang cả và ngũ quan toàn hảo.- Nếu là “vô trí” làm kiết sanh thức thì tái sanh làm người, làm trời chỉ có hai nhân “vô tham, vô sân” sẽ thua kém nhiều về phước báu.- Nếu ta tu tập thiền định, chứng 5 thiền ở Sắc giới, tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ sẽ hóa sanh vào cõi trời sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.- Và nếu chứng 4 thiền ở Vô sắc giới, tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ hóa sanh vào cõi trời vô sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.Như vậy, thức tái sanh là do tư tác, do hành nghiệp chi phối, quy tụ năng lực ở chặp tư tưởng cuối cùng (cuti-tử tâm) để quyết định sanh thú, tái sanh, đầu thai hoặc hóa sanh vào cảnh giới tương ứng.Duyên thức, danh-sắc sinh khởi (viññāṇapaccayānāmarūpaṃ).
4. Danh-sắc (nāmarūpa)
Do duyên thức tái sanh mà có danh sắc.Khi một chúng sanh chết, tất cả cái gọi là thân và tâm (danh và sắc cũ) đều phải bỏ lại, không mang theo bất kỳ một cái gì, đoạn diệt hết. Nói như vậy, nhưng không phải là đoạn kiến, là hư vô. Chính tư tưởng cuối cùng, một niệm, một sát-na tâm tức là thức tái sanh, theo năng lực của hành nghiệp đưa tâm thức đến cảnh giới tương ứng.Một người làm việc thiện hay bất thiện, khi lâm tử đều có phát sanh 3 hiện tượng: nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng. Thú tướng chính là cảnh giới mai hậu. Thức tái sanh chỉ như là một ý nghĩ tương ưng với cảnh giới, nó bắt gặp cảnh giới mới và tái sanh ngay tức khắc, nhưng không phải là thường kiến.Thức tái sanh (một ý nghĩ, một chặp tư tưởng) như vậy là một tâm (citta). Tâm không khởi một mình, ít nhất đi theo nó là 7 biến hành tâm sở và một số tâm sở trong 6 biệt cảnh tâm sở ([1] (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn1)) Ngoài ra nếu là bất thiện thì nó quy tụ thêm các tâm sở bất thiện.Có 4 hình thức của thức tái sanh:- Noãn sanh: Được sinh ra từ trứng - thức tái sanh nương gá vào trứng.- Thai sanh: Thức tái sanh nương gá vào thai bào.- Thấp sanh: Thức tái sanh nương gá vào chỗ ẩm thấp, tối tăm, ô uế, rác rưởi.- Hóa sanh: Đột ngột biến hóa ngay tức khắc bằng thân xác kẻ trưởng thành (như Chư thiên, Phạm thiên, ngạ quỷ).Khi thức tái sanh lìa danh sắc cũ, nó tức khắc xảy ra đồng lúc với nghiệp sanh sắc ([2] (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn2)) được gọi là sắc thụ thai (kalala) khởi đầu cho một kiếp sống. Sắc thụ thai này nhỏ xíu, mắt thường không thể thấy, chính nó làm nền tảng cho tinh cha và huyết mẹ để tạo nên cái phôi đầu tiên cho một chúng hữu tình.Như vậy, thức tái sanh, sở hữu tâm và những nghiệp sanh sắc chính là danh, sắc được hình thành trong bụng mẹ, nó mang trong tự thân đầy đủ tất cả nghiệp quá khứ của chúng sanh ấy.Nói cách khác, danh, sắc là quả có thức là nhân.Duyên danh sắc, lục nhập sanh khởi (nāmarūpapaccayāsalāyatanaṃ)
5. Lục nhập (salāyatana)
Do duyên danh sắc mà có lục nhập.Khi sắc thụ thai kết hợp với tinh cha, huyết mẹ (sắc do vật thực, tâm, nghiệp và thời tiết sanh) thì đã tượng hình một giống hữu tình, lần lần lớn lên để hoàn chỉnh lục căn (3) (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn3).Khi có lục căn thì có đối tượng của lục căn là lục trần. Lục căn được gọi là sáu nội xứ và lục trần được gọi là sáu ngoại xứ. Và từ đây, từ sáu cửa này mà phát sanh các lộ trình tâm. Cần lặp lại rằng, thức sẽ không khởi một mình, tối thiểu cũng có những tâm sở như xúc (giao tiếp), tác ý (khởi tâm đến đối tượng), thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), tư (ý chí, cố ý) và đấy chính là duyên khởi sau lục nhập.Duyên lục nhập, xúc sanh khởi (salāyatanapaccayāphassaṃ)
.6. Xúc (phassa)
Do duyên lục nhập mà có xúc.Xúc là giao tiếp, va đụng. Ở đây là sáu nội xứ giao tiếp với sáu ngoại xứ nên có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.Xúc là một tâm sở, là tâm sở đầu tiên trong 7 biến hành tâm sở, mà từ đó, các lộ trình tâm được vận hành. Do vậy, có những trường hợp có xúc, có sự giao tiếp, va đụng nhưng lộ trình tâm không vận hành thì không được gọi là xúc. Như mắt người chết hoặc khi ta nhìn một vật, một cảnh sắc mà ta không “để tâm" ở đấy. Muốn xúc trở thành xúc tâm sở thì xúc ấy phải có thức hoặc tác ý ở bên sau:Tác ý, thức ® xúc.Vậy, hợp lý, hợp với sự thực hơn, ta có thể sắp xếp sự diễn tiến của các tâm sở đồng sanh:Tác ý ® xúc, thọ, tưởng, tư...Hoặc (thức) danh-sắc ® thọ, tưởng, hành, thức... (trong ngũ uẩn).Xúc tâm sở là quả chứ không phải nhân. Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại mà chúng hữu tình nào cũng có sẵn, đó là: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.Duyên xúc, thọ sinh khởi (phassapaccayāvedanaṃ)
.7. Thọ (vedanā)
Do duyên xúc mà có các cảm thọĐây là 6 thọ căn bản: Thọ do nhãn xúc sinh gọi là nhãn thọ. Thọ do nhĩ xúc sinh gọi là nhĩ thọ. Thọ do tỷ xúc sinh gọi là tỷ thọ. Thọ do thiệt xúc sinh gọi là thiệt thọ... Tương tự thế là thân thọ và ý thọ.Thọ là cảm giác. Ví dụ: Đưa tay sờ nước đá ta có cảm giác lạnh. Sờ là xúc, lạnh là cảm thọ, cảm giác.Rải rác trong kinh điển, khi nói 3 thọ ở nơi thân thì có thọ khổ, thọ lạc và thọ xả (Chỉ có thân mới thọ khổ, lạc; còn mắt, tai, mũi, lưỡi luôn luôn là thọ xả). Ba thọ ở nơi tâm là hỷ, ưu và xả (xả là lúc không có hỷ hay ưu chứ không phải xả của đệ ngũ thiền hoặc xả của Tứ vô lượng tâm).Do duyên thọ, ái sinh khởi (vedanāpaccayātaṅhā)
.8. Ái (taṅhā)
Do duyên cảm thọ mà phát sanh ái.Ái hay ái dục có bản chất thèm muốn hay khao khát các đối tượng mà nó yêu thích, nhưng không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ được thỏa mãn.Ái dục là một cơn khát lạ lùng, càng uống càng khát thêm. Các loại ngạ quỷ và các vị chư thiên đều có chung một cái khát do ái này. Ngạ quỷ thì khát ăn, khát uống, khát tất cả ngũ trần nhưng chúng không bao giờ có được. Các vị trời thì có đầy đủ dục lạc ngũ trần nhưng họ vẫn luôn luôn khát, mong được thụ hưởng thêm nữa, mong được thỏa mãn thêm nữa.Thọ khổ ® từ chối khổ, tìm lạcThọ lạc ® tìm lạc nữa...Loài người cũng tương tự thế. Người đói khổ thì mong ước có được chén cơm, manh áo. Người giàu có, mặc dầu đã sở hữu nhiều của cải, tài sản, địa vị, danh vọng... nhưng thường thì họ còn khao khát tìm kiếm, mong được giàu sang hơn nữa... Về mặt này, cường độ khát ái, khát dục của người giàu còn hơn cả người nghèo.Ngày nay, các nước thịnh cường về vật chất, bá chủ về quyền lực... vẫn muốn nước mình thịnh cường hơn nữa, có nhiều quyền lực hơn nữa - là đặc trưng bản chất của ái dục muôn đời của chúng sanh: không bao giờ toại nguyện, thỏa lòng.
8.1. Ái trong cõi Dục hay Dục ái (kāmataṅhā)Đây là các loại ái đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà đối tượng của nó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.Mắt không bao giờ chán xem cảnh sắc đẹp, phố thị lâu đài; tiện nghi vật chất xa hoa, hào nhoáng; người nam, người nữ mà nó thích ...Tai không bao giờ chán nghe những âm thanh ngọt ngào, quyến rũ, trầm bỗng, du dương; tiếng nhạc lời ca mùi mẩn hoan lạc và cả âm thanh giới tính...Mũi không bao giờ chán ngửi những mùi thơm, các loại nước hoa, các hương liệu, mùi các thức ăn kích thích khẩu vị, mùi đặc trưng lôi cuốn, hấp dẫn giới tính...Lưỡi không bao giờ chán các vị ngon, các loại thức uống thích khoái, các món ăn kiểu cách, xa hoa, cầu kỳ, đôi khi không từ nan một ác độc, tàn bạo nào - ví dụ thí ăn óc khỉ, lưỡi chim sẻ...Thân không bao giờ chán sự xúc chạm mềm mại, êm ái... từ giường nệm, ghế ngồi, chân đi, áo quần, vật dụng tiện nghi sinh hoạt..., cả bồn tắm, chỗ đi cầu..., và sự xúc chạm mê hoặc cho ái chính là giới tính.- Ý đối tượng của nó là pháp, tức là cảnh pháp; cảnh này ở trong tâm, được lưu giữ từ ngũ trần hoặc cảnh do ý tưởng tượng ra. Cảnh ở trong tâm có mặt ở cả 3 thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Ý này cũng không bao giờ chán săn tìm những cảnh giới từ sắc, thanh, hương, vị, xúc do nó nhào nặn, vẽ vời thêm, sáng tạo ra!Sáu ái vừa kể thuộc lục trần. Bên cạnh đó, còn có sáu ái thuộc lục căn nữa:- Mắt, ta thường muốn mắt ta trong, xanh, đẹp (phần phù trần căn), và muốn mắt ta phải trông rõ hơn, xa hơn (phần tịnh sắc căn).- Tai, ta thường muốn tai ta đẹp, thành quách đầy đủ, thùy châu to, dày... (phần phù trần căn), và muốn nghe xa hơn, rõ hơn, tinh hơn (phần tịnh sắc căn).- Mũi, cũng tương tự vậy, mũi phải thẳng, dọc dừa, chuẩn đầu dày, to... phải có tướng phú quý (phần phù trần căn), ngoài ra lại còn muốn thần kinh nhạy bén hơn (phần tịnh sắc căn) để tăng hiệu năng tỷ giác.- Lưỡi dài, rộng cũng là một phúc tướng. Nếm được tất cả những vị tinh tế cũng nhờ thần kinh lưỡi tốt. Cả hai phần: Phù trần căn và tịnh sắc căn của lưỡi cũng phát sanh một loại ái dục.- Thân phải nhẹ nhàng, da mịn và tươi sáng. Do ái dục ở thân nên ai cũng yêu thân mình; tẩm bổ cho thân, xức nước hoa, ăn mặc lụa là gấm vóc hoặc trang điểm cho cái thân. Biết bao nhiêu loại thuốc thời nay, tốn cả hằng tỷ đô la để giữ gìn thân, làm đẹp thân, nước da phải sáng phải mịn, để tăng thêm sự hấp dẫn cho hình vóc, diện mạo...- Ý, muốn mình thông minh, trí nhớ tốt, nhiều kiến văn... là ái dục thuộc về ý, về tinh thần. Nó còn nảy sinh tham vọng thay đổi gène di truyền, kết hợp những thành tựu vinh quang của khoa học hiện đại để biến mình thành thiên tài, thần đồng, thành những bộ óc khoa học kỳ vĩ... Ái dục ở ý căn rất vi tế, rất khó nhận biết.Nói tóm lại, ái trong cõi dục như vậy là có 12 (lục căn 6, lục trần 6), nếu nhân cho 3 thời thì có 36 ái dục.
8.2- Ái trong cõi Sắc hay Sắc ái (rūpataṅhā)Sắc ái là ái dục trong cõi Sắc, Sắc giới; tức là yêu thích, ham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần: đó là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định.Loại ái dục này còn được xem như là hữu ái (bhavataṅhā), tức là khao khát được trường xuân, trường tồn miên viễn.Hữu ái ở lục căn: Là mong muốn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý của mình... đẹp mãi, xuân mãi, trẻ mãi, sống mãi. Đấy cũng là những điều tốt đẹp được chư Tăng hay chúc mừng cho mọi người: sắc đẹp, sức khỏe, vô bệnh, sống lâu...Hữu ái ở lục trần: Khi đã yêu thích cái gì rồi thì mong muốn cái ấy mãi mãi thường còn. Đấy là tất cả cái gì thuộc sắc, đối tượng của nhãn căn: Lâu đài, vườn tược, vợ con, tiện nghi vật chất. Đấy là tất cả cái gì thuộc về âm thanh, đối tượng của nhĩ căn: tiếng nói của người mình yêu thương, tiếng hát, lời ca mình yêu thích...Có mấy câu thơ của vua Tự Đức khi khóc Bằng Phi - là minh chứng cho loại hữu ái này:“- Đập cổ kính ra tìm lấy bóngXếp tàn y lại để dành hơi!”Tương tự thế là vị, xúc và pháp. Tất cả thế giới căn trần nay, tạo thành 12 loại ái, được gọi là hữu ái (bhavataṅhā); nhân cho 3 thời, cả thảy có 36 hữu ái.
8.3- Ái trong cõi Vô sắc hay là Vô sắc ái (arūpataṅhā).Vô sắc ái là loại ái dục phát sanh do chán các sắc, sắc tướng, sắc pháp. Họ chán luôn cái thân sắc vật chất dù thô hay tế. Họ chỉ muốn sống bởi các ý niệm, khái niệm trừu tượng mà thôi. Tương ứng với loại ái dục này, là từ bỏ các thiền sắc giới để tu tập các thiền vô sắc giới. Họ không còn các cảm thọ thô tháo nữa mà chỉ còn trạng thái xả và định.Vô sắc ái còn được xem như là phi hữu ái (vibhavataṅhā), nghĩa là có quan niệm của đoạn kiến. Cái gì cũng sợ mất, sợ hết, sợ chết nên hối hả hưởng thụ, quay cuồng hưởng thụ.Nếu phân tích vi tế thì có cả thảy 36 ái dục thuộc loại phi hữu ái này.Nói tóm lại, tất cả ái đều không bao giờ chấm dứt; cả 108 loại ái đều được duy trì tiếp diễn, nuôi nấng bởi thọ. Và ái còn là nhân, cho quả là thủ, tiếp nối lộ trình duyên khởi.Do duyên ái, thủ phát sanh (taṅhāpaccayāupādānaṃ).
9. Thủ (upādāna)
Thủ có nghĩa nắm giữ, chấp chặt, cầm lấy.Khi ái yêu thích một đối tượng nào đấy thì thủ nắm giữ, đam mê, chấp chặt đối tượng ấy.Thủ có bốn loại: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ.
9.1- Dục thủ: Đây là sự ham muốn ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc.Những cảnh sắc khả ái, nam hoặc nữ, áo quần, vàng ngọc, xe hơi, đồ tiêu dùng, tiện nghi sinh hoạt... phát sanh sự khao khát, ưa thích; và ai cũng muốn chiếm hữu chúng, giữ lấy làm của mình.Âm thanh biểu lộ qua giọng nói nam hay nữ, tiếng nhạc, lời ca... (thanh). Cũng tương tự thế là hương thơm, bột thơm, nước hoa hấp dẫn người khác phái (hương); những kích thích, khoái lạc trong các chất ngọt, béo, nồng, cay... hoặc các chất say (vị), giường nệm êm ái, y phục mịn màng và sự đụng chạm khác giới tính... đều phát sanh xúc dục (xúc).Sự bám víu, ôm ấp, chiếm giữ... cùng với sự khát khao mãnh liệt những đối tượng ngũ trần ấy mà phát sanh dục thủ.
9.2- Kiến thủ: Với nghĩa tổng quát của chấp thủ này là khư khư bám chấp vào ý kiến, quan niệm, quan điểm, chủ trương, chủ thuyết, lập trường... của mình. Và những người như vậy khó ngồi chung trên một "chiếu đối thoại" để cảm thông để tìm ra chân lý. Họ cũng khó mở rộng kiến văn để thấy nhìn, nghe, nghĩ cho xa, cho sâu được. Người có “kiến thủ”, mọi cánh cửa xung quanh đã bị bít chặt.Với nghĩa kinh điển, kiến thủ là bảo vệ, bám chấp, khư khư giữ lấy cái thấy biết sai lầm của mình, tà kiến của mình. Nói cách khác, mọi tà kiến trên thế gian đều được xem là kiến thủ. Có những kiến thủ sau đây:
- Tà kiến cho rằng bố thí chẳng có lợi ích gì mà chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Tức là không tin quả của việc lành bố thí.
- Tà kiến cho rằng, những tình cảm qua lại giữa nhau được biểu hiện qua việc tặng kinh sách, quà lưu niệm, quà biếu hiếu hỷ, tiếp khách... hoàn toàn vô tích sự.
- Tà kiến cho rằng, chẳng có kết quả của thiện nghiệp, ác nghiệp trên đời này.
- Tà kiến cho rằng, cha mẹ vì thoả mãn tình dục nên con cái mới ra đời, vậy những cái gọi là ân, hiếu, nghĩa, tình gì gì đó đối với cha mẹ là việc làm vô ích.
- Tà kiến cho rằng, chỉ có muôn vật muôn loài ở thế giới này; chẳng có thế giới khác, chúng sanh khác. Họ bác bỏ luônlý nhân quả, luân hồi tái sanh. Với tà kiến này, chết là hết. Đây còn được gọi là đoạn diệt luận hay đoạn kiến.
- Tà kiến cho rằng, tất cả mọi sa-môn, bà-la-môn chẳng chứng đắc, chẳng thấy, chẳng giác ngộ gì hết. Tuyệt đối không có Thánh nhân trên đời này. A-la-hán và Phật cũng bị tà kiến này phủ nhận.Những tà kiến như vậy đã vấy độc thế gian; tung bóng tối cho thế gian; phỉ báng đạo đức, luân lý; chà đạp lẽ phải, điều thiện, cái đẹp, nhân văn, nhân tính và đóng bít những cánh cửa hướng về chân lý cũng như những ước mơ, hy vọng cao đẹp của con người muôn nơi muôn thuở.
http://thuvienhoasen.org/images/file/mhzQS2FN0QgBADkI/12-nhanduyen.jpg (http://thuvienhoasen.org/images/file/mhzQS2FN0QgBADkI/12-nhanduyen.jpg)
Duyên khởi là giáo pháp tinh yếu, cốt tủy của đạo Phật. Đức Phật sau khi thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài đã để dành bảy ngày đầu tiên để chứng nghiệm hạnh phúc giải thoát. Trong đêm cuối cùng của bảy ngày ấy, Ngài quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều thuận, như sau:
- Tùy thuộc vô minh (avijjā), hành (saṅkhāra) phát sanh.
- Tùy thuộc hành (saṅkhāra), thức (viññāṇa) phát sanh.
- Tùy thuộc thức (viññāṇa), danh-sắc (nāmarūpa) phát sanh.
- Tùy thuộc danh-sắc (nāmarūpa), lục nhập (salāyatana) phát sanh.
- Tùy thuộc lục nhập (salāyatana), xúc (phassa) phát sanh.
- Tùy thuộc xúc (phassa), thọ (vedanā) phát sanh.
- Tùy thuộc thọ (vedanā), ái (taṅhā) phát sanh.
- Tùy thuộc ái (taṅhā), thủ (upādāna) phát sanh.
- Tùy thuộc thủ (upādāna), hữu (bhava) phát sanh.
- Tùy thuộc hữu (bhava), sanh (jāti) phát sanh.
- Tùy thuộc sanh (jāti), phát sanh lão, tử (jarāmaraṇa), sầu (soka), bi (parideva), khổ (dukkha), ưu (domanassa), não (upāyāsa).
Nghĩa là toàn bộ sự đau khổ cùng phát sanh.
Như thế: "Khi cái nầy (nhân) có thì cái kia (quả) có. Với sự phát sanh của cái nầy (nhân) thì cái kia (quả) sẽ phát sanh".Khoảng canh giữa đêm, đức Phật quán xét Thập Nhị Nhân Duyên theo chiều nghịch, như sau:
- Do vô minh diệt thì hành diệt.
- Do hành diệt thì thức diệt.
- Do thức diệt thì danh, sắc diệt.
- Do danh, sắc diệt thì lục nhập diệt.
- Do lục nhập diệt thì xúc diệt.
- Do xúc diệt thì thọ diệt.
- Do thọ diệt thì ái diệt.
- Do ái diệt thì thủ diệt.
- Do thủ diệt thì hữu diệt.
- Do hữu diệt thì sanh diệt.
- Do sanh diệt thì lão, tử sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Nghĩa là toàn bộ khối đau khổ đều chấm dứt.
Như thế: "Khi cái này (nhân) diệt thì cái kia (quả) sẽ không có. Với sự chấm dứt của cái này (nhân) thì cái kia (quả) sẽ chấm dứt".
Thập Nhị Nhân Duyên, do vậy, là tiến trình của sự tái sanh, luân hồi sinh tử. Tiến trình này nằm trong mắc xích nhân quả, tương quan: "Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không". Rõ ràng, tiến trình này có sanh thì có diệt. Muốn chấm dứt tất cả khổ, không phải là diệt quả khổ mà phải diệt nguyên nhân khổ.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) do tuệ quán của đức Phật, nhằm mục đích soi rọi tiến trình sinh tử luân hồi, khổ đau của chúng sanh trong 3 giới, 4 loài, đồng thời khai mở tuệ giác để chấm dứt tiến trình ấy.
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật, là chân lý, là thực tại rốt ráo, là chân đế đệ nhất nghĩa (paramattha), chỉ có thể thấy nó bằng tuệ quán, bằng bát-nhã chiếu soi, bằng trực giác như thị chứ không thể hiểu hay biết nó bằng suy luận, lý luận, bằng lý trí vọng thức. Do vậy, Thập Nhị Nhân Duyên không phải là triết học, không phải là tư tưởng, không phải là lý thuyết, quan niệm, quan điểm, lập trường do đầu óc, tư duy, khái niệm, ý niệm đẻ ra (paññatti).
Thập Nhị Nhân Duyên là sự thật duyên khởi, phải minh sát để thấy rõ sự vận hành ấy mới biết sầu bi khổ ưu não phát sanh từ đâu và do đâu. Rồi nó sinh và diệt như thế nào. Ở đây không hề bàn đến sự tiến hóa của vũ trụ, nguồn gốc của vũ trụ, sinh thành hay hoại diệt của vũ trụ, những bí mật hoặc hỗn mang của vũ trụ.
Thập Nhị Nhân Duyên lấy con người, chúng sanh làm trọng tâm, nhưng con người, chúng sanh ấy không có đàn ông, đàn bà, ngựa, heo, a-tu-la, ngạ quỷ mà tất cả chỉ có... hành, thức, danh, sắc...căn, trần, thức...; nó không bàn đến gia đình, xã hội, giáo dục hay an ninh, an toàn, môi sinh, văn hóa. Sự tương quan giữa chúng là tất yếu, nhưng giải quyết các vấn đề ấy, chỉ là cách giải quyết phần ngọn chứ không phải giải quyết phần gốc, giải quyết phần quả chứ không phải giải quyết phần nhân. Đức Phật là bậc Toàn Tri Diệu Giác, Ngài giải quyết tận căn nguyên đau khổ chứ không bao giờ giải quyết những kết quả của đau khổ.
Muốn thấy rõ, biết rõ (tuệ tri) Thập Nhị Nhân Duyên, chúng ta phải tu tập thiền tuệ, phải hiện quán, thực chứng tiến trình tâm đang sinh khởi, đang vận hành trong thế giới căn-trần-thức tương quan, chứ không phải qua mớ kiến thức chữ nghĩa. Kiến thức, chữ nghĩa, kinh điển chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng chứ không phải là mặt trăng. Đức Phật dạy: "Ai thấy Thập Nhị Nhân Duyên tức thấy pháp. Ai thấy pháp tức thấy Như Lai".Phải thấy, biết, hiện quán và thực chứng Thập Nhị Nhân Duyên nơi thực tại hiện tiền, nơi duyên sinh của căn-trần-thức ở đây và bây giờ.
I. Giải thích Thập Nhị Nhân Duyên theo vòng luân hồi tử sanh
1. Vô minh (avijjā)
Vô minh là trạng thái không sáng suốt, không tỉnh thức, thường bị si mê, bất giác và những triền cái che mờ, che phủ. Vô minh làm cho chúng sanh không thấy được thực tánh của các pháp.Ta có thể tìm thấy một số định nghĩa về vô minh ở trong kinh điển.- Không thấy rõ tứ đế là vô minh.- Không thấy rõ duyên sinh, vô ngã là vô minh.- Không thấy rõ khổ đế, tập đế, diệt đế, đạo đế là vô minh.- Không thấy rõ danh pháp, sắc pháp là vô minh.- Không thấy rõ ngũ uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên là vô minh...Như vậy, không thấy không biết sự khổ và nguyên nhân khổ, không thấy tiến trình sinh diệt của ngũ uẩn, Thập Nhị Nhân Duyên là căn bản của vô minh, là vô minh gốc; từ đó, chúng sanh bị chi phối, trôi lăn trong vòng tử sanh luân hồi vô định.Vì vô minh, chúng sanh sống trong sai lầm, sống trong ảo tưởng, ảo vọng, ảo giác. Lấy cái sai làm cái đúng, lấy cái giả làm cái thật. Người sống trong vô minh không thể biết là mình đang sống trong vô minh. Đang sống trong cái khổ mà tưởng là vui. Đang si mê, lầm lạc mà tưởng là mình thông minh, sáng suốt. Đang đi lạc đường mà tưởng là đi đúng hướng. Đang bị lửa cháy bốn bề mà vẫn nô đùa, cười vui, hò reo, hoan ca nhảy múa. Đang bị đắm giữa vũng lầy đen đúa, hôi hám mà tưởng là hạnh phúc thiên đường...Vô minh với nghĩa như vậy nên những người uyên thâm, uyên bác, bác học, đa tài, thần đồng, giáo sư, viện sử, tiến sĩ, tổng thống, thủ tướng, triệu phú, tỷ phú... khi không thực sự thấy biết Khổ đế, Tập đế, duyên sinh, vô ngã... đều bị vô minh chi phối, đều đang sống trong vô minh, si mê và lầm lạc.Duyên vô minh, hành sinh khởi (avijjāpaccayāsaṅkhāra).
2. Hành (saṅkhāra)
Do vô minh ở trên mà hành này sanh khởi. Hành có rất nhiều nghĩa, tùy theo mỗi trường hợp, nhưng ở đây hành xoay quanh nghĩa tư tác (cetanā), tức là những cố ý, chủ ý tạo tác các nghiệp thiện, bất thiện và bất động rồi tái sanh trong 3 giới, 4 loài.Nếu vô minh là nhân thì hành là quả. Quả của hành là những tư tác của những nghiệp bất thiện, thiện, bất động. Các nghiệp này được gọi là hành nên 3 nghiệp còn được gọi là bất thiện hành, thiện hành và bất động hành.Ngoài ra tư tưởng, lời nói, việc làm của chúng ta cũng được gọi là hành: thân hành, khẩu hành và ý hành. Những lời nói, việc làm, tư tưởng của chúng ta được dẫn dắt bởi tư tác, có tạo nghiệp; dầu thiện, ác hay bất động, thảy đều bị chi phối bởi hành, đưa đến tái sanh. Những hành động dù tốt, dù xấu, dù là thiền định đều bắt nguồn bởi vô minh, từ vô minh hoặc do vô minh tạo động cơ thúc đẩy, đưa chúng sanh vào cuộc hành trình xa xôi diệu vợi, lênh đênh vô định trong cuộc tử sinh chìm nổi không thấy bến bờ. Đôi khi càng đi càng xa cách “quê hương” như hai câu thơ của Trần Thái Tông:“Vĩnh vi lãng đãng phong trần khách, Nhật viễn gia hương vạn lý trình!”Nếu hành, tư tác, nghiệp do tham sân si thì đọa lạc vào 4 ác đạo và người bất hạnh.Nếu hành, tư tác, nghiệp do vô tham, vô sân, vô si thì tái sanh làm người hữu phúc và 6 cõi trời Dục giới. Nếu hành, tư tác, nghiệp quy tụ các thiền chi thì hóa sanh làm trời Phạm thiên Hữu sắc và Vô sắc.8 Siêu thế tâm của 4 đạo và 4 quả không còn bị hành chi phối vì các tâm này có khuynh hướng xa rời vô minh và tận diệt vô minh. Do vậy, lời nói, việc làm, tư tưởng của các bậc thánh giả không còn bị hành, tư tác và nghiệp chi phối nữa. Lúc ấy tư tác được thay thế bởi tuệ (paññā). Tuệ có công năng đoạn lìa các hành nghiệp, là thành phần chánh yếu trong các loại thánh đạo tâm.Duyên hành, thức sanh khởi (saṅkhārapaccayāviññānaṃ)
3. Thức(viññāṇa)
Do hành ở trên, thức sanh khởi. Tức là do thiện hành, bất thiện hành, bất động hành làm nhân nên có thức là quả. Đây là thức tái sanh (paṭisandhi) ở Tam giới.- Nếu khi ta làm việc ác, tạo nghiệp bất thiện, bất thiện hành là nhân thì nó sẽ đưa ta đầu thai vào 4 khổ cảnh và người bất hạnh- Nếu ta làm việc thiện, tạo nghiệp thiện, thiện hành là nhân thì tùy theo “kiết sanh thức” cùng phát sanh với xả hay hỷ quyết định. Một, nếu là “xả” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì ta sẽ tái sanh làm người bất hạnh hoặc chư thiên ít phước. Hai, nếu là “hỷ” làm nhiệm vụ kiết sanh thức thì được làm người hoặc chư thiên tốt hơn.- Nếu được “hữu trí” làm kiết sanh thức, đầy đủ 3 nhân “vô tham, vô sân, vô si” thì được tái sanh làm người hoặc làm trời hữu phúc, sang cả và ngũ quan toàn hảo.- Nếu là “vô trí” làm kiết sanh thức thì tái sanh làm người, làm trời chỉ có hai nhân “vô tham, vô sân” sẽ thua kém nhiều về phước báu.- Nếu ta tu tập thiền định, chứng 5 thiền ở Sắc giới, tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ sẽ hóa sanh vào cõi trời sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.- Và nếu chứng 4 thiền ở Vô sắc giới, tạo nghiệp bất động hành - là nhân, thì ta sẽ hóa sanh vào cõi trời vô sắc giới Phạm thiên với đầy đủ 3 nhân.Như vậy, thức tái sanh là do tư tác, do hành nghiệp chi phối, quy tụ năng lực ở chặp tư tưởng cuối cùng (cuti-tử tâm) để quyết định sanh thú, tái sanh, đầu thai hoặc hóa sanh vào cảnh giới tương ứng.Duyên thức, danh-sắc sinh khởi (viññāṇapaccayānāmarūpaṃ).
4. Danh-sắc (nāmarūpa)
Do duyên thức tái sanh mà có danh sắc.Khi một chúng sanh chết, tất cả cái gọi là thân và tâm (danh và sắc cũ) đều phải bỏ lại, không mang theo bất kỳ một cái gì, đoạn diệt hết. Nói như vậy, nhưng không phải là đoạn kiến, là hư vô. Chính tư tưởng cuối cùng, một niệm, một sát-na tâm tức là thức tái sanh, theo năng lực của hành nghiệp đưa tâm thức đến cảnh giới tương ứng.Một người làm việc thiện hay bất thiện, khi lâm tử đều có phát sanh 3 hiện tượng: nghiệp, nghiệp tướng và thú tướng. Thú tướng chính là cảnh giới mai hậu. Thức tái sanh chỉ như là một ý nghĩ tương ưng với cảnh giới, nó bắt gặp cảnh giới mới và tái sanh ngay tức khắc, nhưng không phải là thường kiến.Thức tái sanh (một ý nghĩ, một chặp tư tưởng) như vậy là một tâm (citta). Tâm không khởi một mình, ít nhất đi theo nó là 7 biến hành tâm sở và một số tâm sở trong 6 biệt cảnh tâm sở ([1] (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn1)) Ngoài ra nếu là bất thiện thì nó quy tụ thêm các tâm sở bất thiện.Có 4 hình thức của thức tái sanh:- Noãn sanh: Được sinh ra từ trứng - thức tái sanh nương gá vào trứng.- Thai sanh: Thức tái sanh nương gá vào thai bào.- Thấp sanh: Thức tái sanh nương gá vào chỗ ẩm thấp, tối tăm, ô uế, rác rưởi.- Hóa sanh: Đột ngột biến hóa ngay tức khắc bằng thân xác kẻ trưởng thành (như Chư thiên, Phạm thiên, ngạ quỷ).Khi thức tái sanh lìa danh sắc cũ, nó tức khắc xảy ra đồng lúc với nghiệp sanh sắc ([2] (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn2)) được gọi là sắc thụ thai (kalala) khởi đầu cho một kiếp sống. Sắc thụ thai này nhỏ xíu, mắt thường không thể thấy, chính nó làm nền tảng cho tinh cha và huyết mẹ để tạo nên cái phôi đầu tiên cho một chúng hữu tình.Như vậy, thức tái sanh, sở hữu tâm và những nghiệp sanh sắc chính là danh, sắc được hình thành trong bụng mẹ, nó mang trong tự thân đầy đủ tất cả nghiệp quá khứ của chúng sanh ấy.Nói cách khác, danh, sắc là quả có thức là nhân.Duyên danh sắc, lục nhập sanh khởi (nāmarūpapaccayāsalāyatanaṃ)
5. Lục nhập (salāyatana)
Do duyên danh sắc mà có lục nhập.Khi sắc thụ thai kết hợp với tinh cha, huyết mẹ (sắc do vật thực, tâm, nghiệp và thời tiết sanh) thì đã tượng hình một giống hữu tình, lần lần lớn lên để hoàn chỉnh lục căn (3) (http://thuvienhoasen.org/a19417/thap-nhi-nhan-duyen#_ftn3).Khi có lục căn thì có đối tượng của lục căn là lục trần. Lục căn được gọi là sáu nội xứ và lục trần được gọi là sáu ngoại xứ. Và từ đây, từ sáu cửa này mà phát sanh các lộ trình tâm. Cần lặp lại rằng, thức sẽ không khởi một mình, tối thiểu cũng có những tâm sở như xúc (giao tiếp), tác ý (khởi tâm đến đối tượng), thọ (cảm giác), tưởng (tri giác), tư (ý chí, cố ý) và đấy chính là duyên khởi sau lục nhập.Duyên lục nhập, xúc sanh khởi (salāyatanapaccayāphassaṃ)
.6. Xúc (phassa)
Do duyên lục nhập mà có xúc.Xúc là giao tiếp, va đụng. Ở đây là sáu nội xứ giao tiếp với sáu ngoại xứ nên có 6 xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.Xúc là một tâm sở, là tâm sở đầu tiên trong 7 biến hành tâm sở, mà từ đó, các lộ trình tâm được vận hành. Do vậy, có những trường hợp có xúc, có sự giao tiếp, va đụng nhưng lộ trình tâm không vận hành thì không được gọi là xúc. Như mắt người chết hoặc khi ta nhìn một vật, một cảnh sắc mà ta không “để tâm" ở đấy. Muốn xúc trở thành xúc tâm sở thì xúc ấy phải có thức hoặc tác ý ở bên sau:Tác ý, thức ® xúc.Vậy, hợp lý, hợp với sự thực hơn, ta có thể sắp xếp sự diễn tiến của các tâm sở đồng sanh:Tác ý ® xúc, thọ, tưởng, tư...Hoặc (thức) danh-sắc ® thọ, tưởng, hành, thức... (trong ngũ uẩn).Xúc tâm sở là quả chứ không phải nhân. Nếu vô minh và hành là nhân quá khứ thì quả hiện tại mà chúng hữu tình nào cũng có sẵn, đó là: Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.Duyên xúc, thọ sinh khởi (phassapaccayāvedanaṃ)
.7. Thọ (vedanā)
Do duyên xúc mà có các cảm thọĐây là 6 thọ căn bản: Thọ do nhãn xúc sinh gọi là nhãn thọ. Thọ do nhĩ xúc sinh gọi là nhĩ thọ. Thọ do tỷ xúc sinh gọi là tỷ thọ. Thọ do thiệt xúc sinh gọi là thiệt thọ... Tương tự thế là thân thọ và ý thọ.Thọ là cảm giác. Ví dụ: Đưa tay sờ nước đá ta có cảm giác lạnh. Sờ là xúc, lạnh là cảm thọ, cảm giác.Rải rác trong kinh điển, khi nói 3 thọ ở nơi thân thì có thọ khổ, thọ lạc và thọ xả (Chỉ có thân mới thọ khổ, lạc; còn mắt, tai, mũi, lưỡi luôn luôn là thọ xả). Ba thọ ở nơi tâm là hỷ, ưu và xả (xả là lúc không có hỷ hay ưu chứ không phải xả của đệ ngũ thiền hoặc xả của Tứ vô lượng tâm).Do duyên thọ, ái sinh khởi (vedanāpaccayātaṅhā)
.8. Ái (taṅhā)
Do duyên cảm thọ mà phát sanh ái.Ái hay ái dục có bản chất thèm muốn hay khao khát các đối tượng mà nó yêu thích, nhưng không bao giờ cảm thấy đủ, không bao giờ được thỏa mãn.Ái dục là một cơn khát lạ lùng, càng uống càng khát thêm. Các loại ngạ quỷ và các vị chư thiên đều có chung một cái khát do ái này. Ngạ quỷ thì khát ăn, khát uống, khát tất cả ngũ trần nhưng chúng không bao giờ có được. Các vị trời thì có đầy đủ dục lạc ngũ trần nhưng họ vẫn luôn luôn khát, mong được thụ hưởng thêm nữa, mong được thỏa mãn thêm nữa.Thọ khổ ® từ chối khổ, tìm lạcThọ lạc ® tìm lạc nữa...Loài người cũng tương tự thế. Người đói khổ thì mong ước có được chén cơm, manh áo. Người giàu có, mặc dầu đã sở hữu nhiều của cải, tài sản, địa vị, danh vọng... nhưng thường thì họ còn khao khát tìm kiếm, mong được giàu sang hơn nữa... Về mặt này, cường độ khát ái, khát dục của người giàu còn hơn cả người nghèo.Ngày nay, các nước thịnh cường về vật chất, bá chủ về quyền lực... vẫn muốn nước mình thịnh cường hơn nữa, có nhiều quyền lực hơn nữa - là đặc trưng bản chất của ái dục muôn đời của chúng sanh: không bao giờ toại nguyện, thỏa lòng.
8.1. Ái trong cõi Dục hay Dục ái (kāmataṅhā)Đây là các loại ái đi qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý mà đối tượng của nó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.Mắt không bao giờ chán xem cảnh sắc đẹp, phố thị lâu đài; tiện nghi vật chất xa hoa, hào nhoáng; người nam, người nữ mà nó thích ...Tai không bao giờ chán nghe những âm thanh ngọt ngào, quyến rũ, trầm bỗng, du dương; tiếng nhạc lời ca mùi mẩn hoan lạc và cả âm thanh giới tính...Mũi không bao giờ chán ngửi những mùi thơm, các loại nước hoa, các hương liệu, mùi các thức ăn kích thích khẩu vị, mùi đặc trưng lôi cuốn, hấp dẫn giới tính...Lưỡi không bao giờ chán các vị ngon, các loại thức uống thích khoái, các món ăn kiểu cách, xa hoa, cầu kỳ, đôi khi không từ nan một ác độc, tàn bạo nào - ví dụ thí ăn óc khỉ, lưỡi chim sẻ...Thân không bao giờ chán sự xúc chạm mềm mại, êm ái... từ giường nệm, ghế ngồi, chân đi, áo quần, vật dụng tiện nghi sinh hoạt..., cả bồn tắm, chỗ đi cầu..., và sự xúc chạm mê hoặc cho ái chính là giới tính.- Ý đối tượng của nó là pháp, tức là cảnh pháp; cảnh này ở trong tâm, được lưu giữ từ ngũ trần hoặc cảnh do ý tưởng tượng ra. Cảnh ở trong tâm có mặt ở cả 3 thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Ý này cũng không bao giờ chán săn tìm những cảnh giới từ sắc, thanh, hương, vị, xúc do nó nhào nặn, vẽ vời thêm, sáng tạo ra!Sáu ái vừa kể thuộc lục trần. Bên cạnh đó, còn có sáu ái thuộc lục căn nữa:- Mắt, ta thường muốn mắt ta trong, xanh, đẹp (phần phù trần căn), và muốn mắt ta phải trông rõ hơn, xa hơn (phần tịnh sắc căn).- Tai, ta thường muốn tai ta đẹp, thành quách đầy đủ, thùy châu to, dày... (phần phù trần căn), và muốn nghe xa hơn, rõ hơn, tinh hơn (phần tịnh sắc căn).- Mũi, cũng tương tự vậy, mũi phải thẳng, dọc dừa, chuẩn đầu dày, to... phải có tướng phú quý (phần phù trần căn), ngoài ra lại còn muốn thần kinh nhạy bén hơn (phần tịnh sắc căn) để tăng hiệu năng tỷ giác.- Lưỡi dài, rộng cũng là một phúc tướng. Nếm được tất cả những vị tinh tế cũng nhờ thần kinh lưỡi tốt. Cả hai phần: Phù trần căn và tịnh sắc căn của lưỡi cũng phát sanh một loại ái dục.- Thân phải nhẹ nhàng, da mịn và tươi sáng. Do ái dục ở thân nên ai cũng yêu thân mình; tẩm bổ cho thân, xức nước hoa, ăn mặc lụa là gấm vóc hoặc trang điểm cho cái thân. Biết bao nhiêu loại thuốc thời nay, tốn cả hằng tỷ đô la để giữ gìn thân, làm đẹp thân, nước da phải sáng phải mịn, để tăng thêm sự hấp dẫn cho hình vóc, diện mạo...- Ý, muốn mình thông minh, trí nhớ tốt, nhiều kiến văn... là ái dục thuộc về ý, về tinh thần. Nó còn nảy sinh tham vọng thay đổi gène di truyền, kết hợp những thành tựu vinh quang của khoa học hiện đại để biến mình thành thiên tài, thần đồng, thành những bộ óc khoa học kỳ vĩ... Ái dục ở ý căn rất vi tế, rất khó nhận biết.Nói tóm lại, ái trong cõi dục như vậy là có 12 (lục căn 6, lục trần 6), nếu nhân cho 3 thời thì có 36 ái dục.
8.2- Ái trong cõi Sắc hay Sắc ái (rūpataṅhā)Sắc ái là ái dục trong cõi Sắc, Sắc giới; tức là yêu thích, ham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần: đó là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định.Loại ái dục này còn được xem như là hữu ái (bhavataṅhā), tức là khao khát được trường xuân, trường tồn miên viễn.Hữu ái ở lục căn: Là mong muốn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý của mình... đẹp mãi, xuân mãi, trẻ mãi, sống mãi. Đấy cũng là những điều tốt đẹp được chư Tăng hay chúc mừng cho mọi người: sắc đẹp, sức khỏe, vô bệnh, sống lâu...Hữu ái ở lục trần: Khi đã yêu thích cái gì rồi thì mong muốn cái ấy mãi mãi thường còn. Đấy là tất cả cái gì thuộc sắc, đối tượng của nhãn căn: Lâu đài, vườn tược, vợ con, tiện nghi vật chất. Đấy là tất cả cái gì thuộc về âm thanh, đối tượng của nhĩ căn: tiếng nói của người mình yêu thương, tiếng hát, lời ca mình yêu thích...Có mấy câu thơ của vua Tự Đức khi khóc Bằng Phi - là minh chứng cho loại hữu ái này:“- Đập cổ kính ra tìm lấy bóngXếp tàn y lại để dành hơi!”Tương tự thế là vị, xúc và pháp. Tất cả thế giới căn trần nay, tạo thành 12 loại ái, được gọi là hữu ái (bhavataṅhā); nhân cho 3 thời, cả thảy có 36 hữu ái.
8.3- Ái trong cõi Vô sắc hay là Vô sắc ái (arūpataṅhā).Vô sắc ái là loại ái dục phát sanh do chán các sắc, sắc tướng, sắc pháp. Họ chán luôn cái thân sắc vật chất dù thô hay tế. Họ chỉ muốn sống bởi các ý niệm, khái niệm trừu tượng mà thôi. Tương ứng với loại ái dục này, là từ bỏ các thiền sắc giới để tu tập các thiền vô sắc giới. Họ không còn các cảm thọ thô tháo nữa mà chỉ còn trạng thái xả và định.Vô sắc ái còn được xem như là phi hữu ái (vibhavataṅhā), nghĩa là có quan niệm của đoạn kiến. Cái gì cũng sợ mất, sợ hết, sợ chết nên hối hả hưởng thụ, quay cuồng hưởng thụ.Nếu phân tích vi tế thì có cả thảy 36 ái dục thuộc loại phi hữu ái này.Nói tóm lại, tất cả ái đều không bao giờ chấm dứt; cả 108 loại ái đều được duy trì tiếp diễn, nuôi nấng bởi thọ. Và ái còn là nhân, cho quả là thủ, tiếp nối lộ trình duyên khởi.Do duyên ái, thủ phát sanh (taṅhāpaccayāupādānaṃ).
9. Thủ (upādāna)
Thủ có nghĩa nắm giữ, chấp chặt, cầm lấy.Khi ái yêu thích một đối tượng nào đấy thì thủ nắm giữ, đam mê, chấp chặt đối tượng ấy.Thủ có bốn loại: Dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã ngữ thủ.
9.1- Dục thủ: Đây là sự ham muốn ngũ trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc.Những cảnh sắc khả ái, nam hoặc nữ, áo quần, vàng ngọc, xe hơi, đồ tiêu dùng, tiện nghi sinh hoạt... phát sanh sự khao khát, ưa thích; và ai cũng muốn chiếm hữu chúng, giữ lấy làm của mình.Âm thanh biểu lộ qua giọng nói nam hay nữ, tiếng nhạc, lời ca... (thanh). Cũng tương tự thế là hương thơm, bột thơm, nước hoa hấp dẫn người khác phái (hương); những kích thích, khoái lạc trong các chất ngọt, béo, nồng, cay... hoặc các chất say (vị), giường nệm êm ái, y phục mịn màng và sự đụng chạm khác giới tính... đều phát sanh xúc dục (xúc).Sự bám víu, ôm ấp, chiếm giữ... cùng với sự khát khao mãnh liệt những đối tượng ngũ trần ấy mà phát sanh dục thủ.
9.2- Kiến thủ: Với nghĩa tổng quát của chấp thủ này là khư khư bám chấp vào ý kiến, quan niệm, quan điểm, chủ trương, chủ thuyết, lập trường... của mình. Và những người như vậy khó ngồi chung trên một "chiếu đối thoại" để cảm thông để tìm ra chân lý. Họ cũng khó mở rộng kiến văn để thấy nhìn, nghe, nghĩ cho xa, cho sâu được. Người có “kiến thủ”, mọi cánh cửa xung quanh đã bị bít chặt.Với nghĩa kinh điển, kiến thủ là bảo vệ, bám chấp, khư khư giữ lấy cái thấy biết sai lầm của mình, tà kiến của mình. Nói cách khác, mọi tà kiến trên thế gian đều được xem là kiến thủ. Có những kiến thủ sau đây:
- Tà kiến cho rằng bố thí chẳng có lợi ích gì mà chỉ phung phí tiền bạc vô ích. Tức là không tin quả của việc lành bố thí.
- Tà kiến cho rằng, những tình cảm qua lại giữa nhau được biểu hiện qua việc tặng kinh sách, quà lưu niệm, quà biếu hiếu hỷ, tiếp khách... hoàn toàn vô tích sự.
- Tà kiến cho rằng, chẳng có kết quả của thiện nghiệp, ác nghiệp trên đời này.
- Tà kiến cho rằng, cha mẹ vì thoả mãn tình dục nên con cái mới ra đời, vậy những cái gọi là ân, hiếu, nghĩa, tình gì gì đó đối với cha mẹ là việc làm vô ích.
- Tà kiến cho rằng, chỉ có muôn vật muôn loài ở thế giới này; chẳng có thế giới khác, chúng sanh khác. Họ bác bỏ luônlý nhân quả, luân hồi tái sanh. Với tà kiến này, chết là hết. Đây còn được gọi là đoạn diệt luận hay đoạn kiến.
- Tà kiến cho rằng, tất cả mọi sa-môn, bà-la-môn chẳng chứng đắc, chẳng thấy, chẳng giác ngộ gì hết. Tuyệt đối không có Thánh nhân trên đời này. A-la-hán và Phật cũng bị tà kiến này phủ nhận.Những tà kiến như vậy đã vấy độc thế gian; tung bóng tối cho thế gian; phỉ báng đạo đức, luân lý; chà đạp lẽ phải, điều thiện, cái đẹp, nhân văn, nhân tính và đóng bít những cánh cửa hướng về chân lý cũng như những ước mơ, hy vọng cao đẹp của con người muôn nơi muôn thuở.