giavui
10-12-2014, 02:32 AM
Những Dòng Sông Chảy Qua Vùng Đá Sạn
Phan Nhật Nam
http://www.vietfreefun.com/extras/upload/images/1413081113_1741a7aeab3bff49253f76aa613c0858.jpg
Khi cô phụ tài Xe Đò Hoàng tuyến đường San José-Westminster (Bắc-Nam Cali) mở băng DVD ca nhạc trình diễn màn hát Quan Họ thì hai người khách đàn bà bắt đầu câu chuyện với cách bí ẩn riêng tư, diễn tả qua từng nét mặt, âm tiếng thay đổi theo cảm xúc..
..Bà biết hát Quan Họ nầy hay như thế nào không?
- Làm sao biết được, giỏi lắm là ngâm nga theo điệu “Người ơi người ở đừng về..” Mà bà có hơn gì tôi để ra câu đố nầy nọ?
- Biết là vậy, tôi với bà di cư vào Nam năm 1954 còn “oắt tì xà lai”, làm sao biết “ngoài Bắc ta”có cái gì, may ra còn giữ được giọng Hà Nội khác với mấy cậu, mợ 75, “iem ở hà lội.. suốt”.. Theo ông bố vào ở chỗ Hỏa Xa Đà Nẵng, đi học trường Bà Xơ dưới Nhà Thờ Con Gà bị tụi bạn trêu “Bắc Kỳ ăn cá rô cây nên hô răng..“, thế nhưng, biết được cái hay của Quan Họ là do đứa chị kể lại sau nầy..
- Chị nào, chẳng lẻ mợ Nguyệt nhà bà lại biết được những điều mà tôi với bà không biết ra..
- Không, đây là nhỏ chị họ ngoài Bắc, gặp sau nầy ở Mỹ, nó qua đây làm đại diện thương mại gì đó cho bên Việt Nam, gọi là chị (tuy nhỏ tuổi hơn) vì là cháu ngoại lớn của bà cả, nó đẹp lắm, giống như Romy Schneidder trong phim Sisi Impéatrice... 1 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n1)
- Bà có nói quá không, người ngoài Bắc đẹp đến cỡ Brigitte Bardot mà chụp cái nón cối lên đầu như em Jane Fonda thì trông cũng chẳng giống ai.. Mà bà ngoại cả là sao? 1 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n1)
- Thì ông ngoại tao (khi “tôi” trở thành “tao”, hoặc “bà” hạ xuống “mầy” tức là câu chuyện đã đi vào đoạn gay cấn, cấp thiết) là người Tàu, Tàu chính gốc, có đến chín bà vợ, đại gia đình sống như trong chuyện Hồng Lâu Mộng. Bà tao thứ Tám, ông lấy từ bên Miên đem về Sài Gòn, xong đưa ra Bắc nên mợ tao có tên ấy mầy không thấy sao.. Nhỏ chị ấy sinh đúng một năm sau di cư, 1955 tại Phố Hàng Đường, Hà Nội. Nó tuổi Mùi thua mầy và tao đúng mười tuổi. Nhỏ hơn mười tuổi như nỗi đau, cảnh khổ của nó so với của mầy và tao cứ như núi, dẫu rằng mầy với tao chịu nạn sau 30 tháng Tư cũng đã nát người.. Chồng đi tù cải tạo, một thân nuôi con, vượt biên đến Mỹ với thứ tiếng Anh Anglais Vivant nói đến gãy lưỡi, mỏi tay.. Nhưng dù sao bọn mình còn có an ủi với hai-mươi mốt năm nơi Miền Nam, và cuối cùng cũng đến được đất Mỹ. So với nhiều người, mầy và tao còn “hạnh phúc” hơn bao nhiêu kẻ khác.. Cứ như cảnh chị nhỏ ấy tao sợ chịu không thấu..
- Mầy nói thì tao nghe, nhưng với cảnh khổ ai có thể so sánh với ai, mấy ai nói mình khổ hơn hay khổ kém bao giờ.. Người bạn trầm giọng bùi ngùi, thương cảm.. Đời mầy cũng quá sức rồi, từ “sáu-mươi, bảy-mươi..”, tiểu thư lái Mazda 1500, Mustang Capri đưa con đi học.. Qua “bảy-lăm” đẩy xe trâu làm ruộng dưới Suối Nghệ, Bà Rịa; rồi với hai con nhỏ chưa đầy mười tuổi vượt biên qua Thái bằng đường bộ Campuchia giữa bầy lính Polpot thôi cũng đủ đáng sợ như chuyện kể trong Papillion, lại thêm mấy năm ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan coi như ở tù không án..
- Chuyện tao kể ra cũng thường so với vạn, triệu người Nam, đời chị nhỏ ấy diễn ra theo cách khác, điển hình cảnh khổ của người Miền Bắc, lại là đàn bà có học, tài sắc, gia thế.. Tao không nói điều tưởng tượng, nghe ra chuyện mầy sẽ thấy lời tao chưa đủ. Nó lại luôn chịu cảnh khổ một thân, một mình..
- Sao lại một mình, chồng, con nó đâu..
..Đấy lại là một đầu mối của đau thương đời nó.. Đầu mối lớn nhất.
Một Bé Giang Thanh sáng đẹp như khối ngọc toàn hảo. Sinh ra trong một chiếc túi đỏ rực - Đẻ bọc điều năm tuổi Mùi “không chùi cũng sáng”. Và cô bé đã nhận ngay ân huệ lớn: Đau đậu mùa lúc lên ba nhưng dù chửa chạy qua loa bằng thuốc ngoại khoa cũng hết bệnh, chỉ để lại những chấm sẹo nhỏ trên cánh mũi như là nét duyên. Sống mũi cao chạy thẳng lên trán biểu lộ trí sáng và sự cương nghị. Nghe kể lại, ông ngoại thường bế đặt lên đùi, nhìn vào mắt cháu nói lời thương yêu thắm thiết: “Tội nghiệp cháu tôi phải phận con gái.. Gía như là con trai thì dễ đương cự hơn với tử vi “Mệnh vô chính diệu, Địa Không, Hỏa Tinh độc thủ..”, bởi ông là người thâm cứu tử vi, thấy ra phận người đau thương qua lá số. Ông đặt tên nó là Giang Thanh như bà Nguyệt nhà tao được gọi là Minh Nguyệt theo ý thơ của Lý Bạch. Bà ngoại, vợ cả của một gia đình gồm tám phụ nữ tứ xứ, thuộc nhiều chủng tộc, sắc dân khác nhau, ông lấy về trên đường làm ăn phiêu bạc khắp Đông-Nam Á.. Nơi khởi đầu từ Vân Nam, đầu nguồn sông Thanh Thủy, dừng chân, dựng sở tại Hà Nội-Hải Phòng sau khi liên kết với viên chánh sở mật thám Pháp, Đại Úy Favani xây dựng nên đường giây nha phiến qua ba trục Côn Minh-Hà Nội-Sàigòn. Cũng bởi viên đại úy người Corse 2 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n2) nầy cùng chung sở thích-Đàn bà và thuốc phiện-Những thú vui tuyệt vời (lại sinh lợi tối đa) ông ta tiếp nhận, áp dụng, và khai triển bài học kinh nghiệm từ viên chỉ huy, Thiếu Tướng Tư Lệnh De Linarès. Phần gia chủ Uông Đại Dụng, dẫu xuất thân Đại Học Côn Minh, học viện cổ kính có từ Thế Kỷ 15 với tòa đại sảnh cao 99 bậc thềm nổi tiếng là một di tích lịch sử của thủ phủ Tỉnh Vân Nam, nhưng ông đã thấy rõ sự vô ích, vô dụng của học vấn, lại là thứ chữ nghĩa của Khổng, Mạnh, nên ông quyết chí làm giàu.. Có tiền tức có tất cả - Tiền vi tiên. Ứng vạn biến. Ông gieo trồng, chế biến, sản xuất ra thứ đem lại nhiều tiền nhất: Thuốc phiện. Và tùy theo tình hình chính trị, thời cuộc quân sự, ông cũng là đầu mối chuyển một thứ hàng nguy hiểm không kém thứ thuốc kia: Thuốc súng, đạn, bom.. Ông bán súng, đạn cho những phe phái cần thiết đến chúng không phân biệt họ là ai: Thổ phỉ, cộng sản, đảng phái tư sản, kể cả kẻ tống tiền, giết mướn.. Bán cho ai ông báo cho viên đại úy biết, nếu cần, người nầy cung cấp thêm hàng cho ông tìm nơi tiêu thụ. Quanh bàn đèn, Đại Úy Favani nói lời khen ngợi: Ông là người khôn ngoan nhất Đông Dương. Uông Tiên Sinh không trả lời, ông đứng dậy châm hương lên bàn thờ - Bàn thờ do bà cả thiết lập với những mẫu tượng thánh thần sơn son thiếp vàng rực rỡ.. Đại úy nói quá lời, tôi chỉ làm theo cố vấn của nhà tôi. Ông nói thật vì bà cả đã từng vào Sàigòn với một cây roi mây.. Bà đến ngôi nhà (Đường Trần Nhật Duật, Tân Định, sau nầy gia đình tao ở trước 1975, mầy đã tới chơi mấy lần – Người kể chuyện nhắc nhở) ông mua riêng cho bà ngoại tao, nói lời đỉnh đạc, kẻ cả: Cô đừng sợ, đàn bà với nhau, tôi phải giữ cho cô, tội là do lão ghê gớm nầy.. Bà ghìm ông tao xuống, bà xử dụng những thế võ như thế nào đó (ông tao cũng thuộc loại cao thủ nhưng không chống lại).. Ông nằm im nghe vợ kể tội: Cô ấy còn trẻ, mới mười sáu tuổi, ông phải biết làm thế là thất đức, tôi sẽ chuộc phần lỗi của ông bằng cưới hỏi đúng lễ để chính thức xin cô ấy về.. Nhưng nay phải trừng trị để ông biết thế nào là nghĩa vợ chồng mà ông đã nhiều lần gây nên điều xúc phạm xấu hổ (Đối với tôi và cũng đối với cô ấy) - Lần nầy là lần thứ tám, lần cuối cùng. Ông nằm im nhận mấy chục roi phạt, xong đứng lên cầm tay bà cả: Tôi xin lỗi mình. Anh xin lỗi em. Ông quay qua nói với bà tao. Khi trở ra Bắc, ông đưa bà tao lên chiếc xe đua mui trần màu đỏ chạy từ Hà Nội về Hải Phòng, mặt căng kiêu hãnh với điếu xì gà ngậm ngược chỉa lên trời.. Bà cả ngồi băng sau cười cười coi như không có gì.
- Mầy vẫn chưa nói gì về nhỏ chị tuổi Mùi kia..
- Tao phải nói rõ ra như thế để mầy thấy ông tao, bà cả, bà bác (mẹ chị nhỏ ấy) ra sao để hiểu nó ảnh hưởng những gien như thế nào từ mẹ, bà, và ông ngoại. Nó là tổng hợp của những người kia với mức độ cao nhất – Cao nhất về sắc sảo tính khí, hạnh phúc, khổ đau kể cả dáng vẻ rất lạ của nó.. Cổ không chỉ cao ba ngấn mà đến những năm ngấn.
- Thế mẹ nó như thế nào? Bà bác của mầy..
.. Bà ấy là một trong những người đầu tiên (lại là phụ nữ) đi Pháp học về âm nhạc qua bảo trợ bởi lão mật thám người Pháp kia (đã trở nên là một người thân trong gia đình ông tao).. Trong nhà gọi là ông Pha và chỉ dùng tiếng Việt để nói chuyện. Bác tao kể: Ông ấy đã có nhận xét trong một bữa ăn: “Tôi ăn đủ năm trăm thứ phô-ma của Tây (“Tây”chứ không là “Pháp”), tôi cũng nếm hết các thứ mắm của “ta”.. Biết phân biệt nước mắm nhỉ khác nước mắm pha như thế nào. Nghĩa là tôi ăn tất không bỏ sót một thứ gì!” Lão ấy bảo trợ bà bác tao đi Pháp học không phải không có mục đích, lão muốn gia tài của ông tao lọt vào tay người nhà của lão. Lão tính trước bà bác tao cho ông con trai ngoại hôn (mà lão bảo là con nuôi để tránh trách nhiệm với bà người Việt sinh ra ông con nầy, lấy cớ mắc chứng “tráng dương sậu tinh”, thêm nghiện nặng thuốc phiện nên không thể có con, lại là con trai). Ông nầy lúc ấy là thiếu úy Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù là đơn vị năm 1954 nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên..
- Làm sao mày mầy rành chuyện lính tráng, nhà binh đến như thế..
- Thì ông Nhân nhà tao năm “tám-chín” sau khi đi tù về có theo mợ tao đến gặp ông nầy ở nhà Đường Nguyễn Trải Sàigòn.. Lính gặp lính nói ra biết ngay, lại là lính nhảy dù không có bao nhiêu đơn vị. Dịp ấy, mợ tao mới biết vụ việc của bà bác tao, bà cả, ông ngoại ngoài Bắc sau “năm-tư”.. Thực tế xẩy ra đáng sợ, kinh hoàng hơn bất cứ câu chuyện nào người trong Nam nghe được, tưởng tượng ra..
.. Mới nghe mầy giáo đầu đã thấy bày ra như một đống bùi nhùi, đến chuyện thật nữa không biết lường tới đâu, nhưng mầy cũng chưa nói gì đến nhỏ chị kia..
Thủng thẳng, chuyện phải có đầu đuôi, xe chưa ra Đường 152, nếu kể chưa hết tao bảo ông Nhân kể tiếp, viết lại cho mầy xem, ông ấy còn có dự định đưa người, việc thật nầy vào một cuốn chuyện dài nữa.. Cũng bởi, có ông Đỗ chủ báo Thời Luận, bạn ông ấy đã viết về cảnh khổ, nỗi đau của người đàn bà Miền Nam rồi, nay ông ấy phải viết về Miền Bắc cho cân phân, cũng để trả ơn quê vợ. Để tao kể tiếp.. Trước khi vào Nam, ông tao cho tập họp đủ tám bà vợ và chia phần dưới sự quyết định của bà cả.. Những chậu trồng ngãi dưới chân bàn thờ đền được mang vào phòng riêng, đào vàng lên, chia thành tám phần khác nhau tùy theo nhận định của bà về khả năng giữ gìn, sinh lợi của mỗi người.. Phần những bà kia như thế nào tao không rõ, phần của bà tao được quyết định như sau: Cô Tám, cô là người nhỏ tuổi nhất, nhưng cô đã chứng tỏ đủ sức thay thế tôi, cô giữ phần lớn nhất, cô mang năm trăm lạng vào Nam theo chuyến máy bay sớm nhất với con, cháu nhà cô..
Chuyện của gia đình mầy bao nhiêu lâu quen thân tao biết rõ, kể về gia đình ông mầy ở lại ngoài Bắc với chị nhỏ kia thôi. Người nghe chuyện nôn nóng.. Và tao cũng thắc mắc, ông mầy, bà cả khôn ngoan, tinh tế như vậy, lại thêm bà bác mầy nữa, mới nghe qua chuyện cũng đã thấy ra là hạng người không thường.. Thế sao lại không tính đường đi vô Nam, chẳng lẻ tin lời tuyên truyền của cộng sản nên ở lại?
- Về lý do chính trị tao không rõ, nhưng theo lời mẹ tao hỏi lại ông bố con Giang Thanh hôm gặp ở nhà đường Nguyễn Trải thì sự thể là thế nầy.. Ông tao nói với bà cả và bà bác: Tộc họ Uông vốn chủng người Bạch, người Bố thuộc nhóm Di ở Vân Nam, từ ngày xưa Đời Đường, Tống.. đã không thuận với người Hán ở phương Bắc, bên Quảng Đông, Quảng Tây; dẫu có lúc Tưởng Giới Thạch phải rút về Trùng Khánh để chống cộng sản, cần mượn đường Côn Minh để nhận tiếp tế, quân viện Mỹ từ Miến Điện đưa lên. Vụ công ty tàu đường sông của chú Sáu bị bang hội Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến chèn ép đến nỗi phải phá sản là một bài học phải nhớ cho dù chú ấy đã vào trong Huế gặp Vua Bảo Đại để xin bảo trợ, cạnh tranh với người Hoa qua danh nghĩa người Việt. Tôi đã tới Nam Vang, Chợ Lớn.. những nơi nầy mình không tranh lại với họ (Người Hoa, gốc Hán tộc), vậy nên tôi quyết định ở lại Hà Nội.
- Nhưng đó là phần của ông ngoại, bà cả, chẳng lẻ bà bác mầy với ông chồng lai Pháp, sĩ quan nhẩy dù lại chịu ở lại với cộng sản hay sao..
.. Vụ việc nầy có những lý do khác tao không được rõ lắm, nhưng quyết định cuối cùng là do bà bác tao. Bà nói: Bố đã quyết, vậy con không thể để bố mẹ ở lại một mình, nhà con tuy là sĩ quan, nhưng anh ấy (theo cách của ông Pha, nhân sự, cơ quan mật hoạt động tình báo của nhiều phía) cũng đã có những liên hệ với người bên Việt Minh.. Nhưng nếu xẩy ra khó khăn đến đâu con cũng xoay xở được. Mẹ sinh ra con - Một mẹ. Một con - Con là con cửa đền, cửa phủ, chỉ Thần, Thánh mới đem con về với các Ngài, người phàm không thể nào chạm đến con. Bà bác tao là tổng hợp sự quyết liệt của bà cả, mưu thuật của ông tao cộng thêm phần thâu nhận của những năm học ở đất Pháp.. Rau tập tàng thì ngon. Bà có đến ba nguồn văn minh, văn hóa trong người hòa hợp trong Đức Tin Đạo Giáo. Nhưng sự thể dù chuẩn bị giỏi đến thế nào, tai họa vẫn xẩy đến như một điều tất nhiên. Giọng người kể chuyện trùng xuống.
.. Yên được hai năm, đến năm 1957, Hà Nội bày ra mặt thật của họ với trận đánh tư sản, những kẻ quen biết với ông, bà tao trong chính quyền đồng cố ý lánh mặt khi chiến dịch truy lùng, đấu tố bắt đầu. Căn nhà ba tầng Phố Hàng Đường một sớm mai ngủ dậy bị vây bởi một đám đông trang bị gậy gộc, la ó, chưởi bới ầm ỉ do công an khu phố hướng dẫn. Chúng đòi ông tao ra trình diện để nghe đấu tố. Ông đóng cửa phòng bảo người nhà ra nói với chúng: Muốn nói chuyện với ông phải cỡ ông Đồng, ông Giáp.. Nhưng cũng không cần, ông sẵn có cách giải quyết. Ông thay áo quần mới, áo dài hai lớp lót gấm, cúc vàng gài bên hông phải, lấy bàn đèn, dọc tẩu mạ vàng xuống (chỉ khi nào có khách quý mới đem dùng). Ông làm thuốc bình thản, kiểu cách phong lưu.. Xong lần dưới gối lấy khẩu súng nhỏ do ông Pha tặng trước đây với lời dặn: Đây là khẩu súng khởi nghiệp của tôi. Bao nhiêu người gây khó khăn, trở ngại cho công việc, tôi giải quyết với khẩu súng nầy.. Nó đã thành tinh, đêm ngủ tôi gối lên, nghe tiếng khóc của những người chết. Tôi giao nó cho ông vì (dẫu còn sống) ông đáng mặt thủ lãnh của những hồn ma nầy. Với nó, không ai hại ông được, chỉ khi ông quyết định chính ông thôi. Hôm nay, ông thực hiện lời ông Pha - Hút xong tám điếu thuốc, số lượng những người vợ ông yêu thương. Ông nói lớn: Tôi đi đây mình. Tôi chết đừng chôn. Đốt thành tro ném theo sông. Nhớ, ném xuống Sông Thanh Thủy ở biên giới, chảy về Vân Nam. Chúng nó không xứng để làm nhục tôi. Ông đặt nòng súng vào miệng xem như hút thêm một điếu. Điếu cuối cùng. Điếu số 9, tượng trưng cho Bà Cả.
.. Phần bà cả, bà đứng giữa điện thờ, trước tượng Đức Thánh Trần nến thắp sáng, tay cầm bó nhang cháy đỏ, tay cầm cái (xiên) lình.. Bà xiên chiếc lình qua má. Mũi nhọn chiếc xiên đi ngọt ló ra qua gò gò má thứ hai. Bà hét lên lanh lảnh như kêu gọi tất cả âm binh cùng dậy lên.. Qua ánh lửa, sau màn khói, mặt bà hiện vẻ uy nghi thần bí. Bọn người dần rút lui. Sau bàn thờ, bà bác tao được dặn chuẩn bị sẵn chất đốt để nếu bọn người làm tới sẽ phóng hỏa đốt rụi căn nhà. Cả gia đình sẽ hoá thân trong lửa.
Người nghe kể rúng động.. Hèn gì mợ mầy và mầy đều có tính “không sợ ai” qua cái trán dồ nầy (người bạn chỉ vào trán kẻ kể chuyện).. Hóa ra đấy là cách của cả nhà bên ngoại mầy.
- Tao cũng không rõ điều ấy nếu không gặp chị nhỏ Giang Thanh, trán nó cũng thẳng đứng, dồ ra thế nầy. Người kể gỏ gỏ vào cái trán.. Yên, để tao kể tiếp, mà tới chỗ nào rồi.. Chỗ bà cả lên đồng đuổi tụi định cướp nhà ông mầy.
..Lo tang ma cho ông xong, đến lượt bác tao nhập trận. Bà nói với bà cả: Bố chết, mẹ phải sống để giữ giềng mối nhà nầy, nhưng nay đến lượt con gánh vác. Con không phải chỉ lo cho mẹ, nhưng còn phần chồng, con con nữa – Gánh nặng nầy là của riêng con. Con không bỏ được. Bà thay áo nhung màu bordeau, tóc vấn cao, cổ đeo chuỗi ngọc, mang giấy tờ địa bạ sở hữu căn nhà.. Bà lên xe xích lô (do người nhà đạp) đi giữa hai hàng phố người lố nhố nhìn ra. Bà đến gặp lão chủ tịch nhân dân thành phố Hà Nội nói lời thẳng thắng.. Căn nhà tôi là điện thờ Đức Thánh Trần, Ngài là vị anh hùng hiễn thánh của người Việt, Bác Hồ cũng đã làm thơ ca tụng Ngài. Vì chế độ mới có nhiều quy định nên chúng tôi biết mình không thể tiếp tục ở đấy. Chúng tôi muốn giao lại cho người xứng đáng, biết giá trị của căn nhà.. Vậy xin ông nhận lấy do đã bao lâu quen biết gia đình chúng tôi..
Lão chủ tịch rúng động, bỗng dưng được một tài sản quá đỗi lớn lao, vì đấy là một trong những căn nhà tư nhân lớn nhất Hà Nội.. Chị quyết định như vậy hay là do “Bà Cả”.. Viên chủ tịch nhấn mạnh chữ “Bà Cả” với ý tôn trọng, và tôi sẽ phải làm những gì? Ông ta băn khoăn..
- Mẹ tôi để tôi toàn quyền, nhà chúng tôi chỉ xin giữ căn điện thờ Đức Thành Trần (bà cố ý dùng đủ chữ), cũng để mẹ tôi ở lại lo hương khói. Phần gia đình chúng tôi, xin ông cho một căn hộ ở La Khê, Hà Đông và ít vàng làm vốn.
.. Chị có gì bảo đảm cho vụ việc nầy. Viên chủ tịch ngại ngần trước diễn tiến quá mau chóng, dễ dàng..
- Tôi mang theo đây tất cả giấy tờ, ông làm tờ giấy tay mua lại (mua ngày trước khi bộ đội vào Hà Nội - Tháng 10/1954) với giá tùy ông định. Nhà chúng tôi đã có nhiều và nay mất thì cũng là chuyện tất nhiên. Ông đừng ngại, chúng tôi “quyết định ở lại với cách mạng” chứ không phải bị bắt buộc, các chị kia bà tôi đã cho đi Nam. Gia đình chúng tôi ở lại để chuẩn bị cơ sở cho ngày thống nhất như nhà nước đã thông cáo! Bà bác biết kết hợp tất cả yếu tố (chính trị, xã hội, riêng tư..) với giọng chân thực, lịch lãm nhưng quyết liệt, chặt chẽ, hợp lý..
.. Rồi sau đó thế nào? Người nghe chuyện thấy khó khăn hình dung ra sự kiện.. Trước khi về La Khê bác tao nói với bà cả: Chúng nó (kẻ cầm quyền mới) nói cứng nhưng đứa nào cũng tham và cũng nhát bởi chúng làm điều ác độc, vô lại.. Mình nhường cho chúng một phần căn nhà, mẹ ở lại giữ đền (sau nầy có dịp mình đòi lại). Con về bên La Khê để dễ qua lại thăm mẹ và theo dõi tình hình. Bà xin vào tổ hợp đan len xuất khẩu và xoay qua đường buôn chuyến lên mạn ngược, ngã Lào Cai-Vân Nam-Con đường ngày trước ông tao chuyển thuốc phiện.
.. Đã buôn bán như thế thì ghi tên vào tổ hợp đan kia làm gì?
- Để có hộ khẩu theo ngành nghề, bà ấy đâu có thể ngồi yên một chỗ mà cầm que đan.. Năm “sáu-mươi” Hà Nội bắt đầu đánh Miền Nam, nhỏ chị tao vừa được mấy tuổi đã thay mẹ tập đan những phần đơn giản, đến mười tuổi nó đã đan nhà nghề, biết ráp cổ, vai và đan lồng những hình hoa văn phức tạp. Năm Miền Bắc bắt đầu bị dội bom (1964), nó đã là tay đan chuyên nghiệp vượt chỉ tiêu, một tháng xong ba áo gởi sang Nga Sô.. Mười tuổi, mầy với tao ở Miền Nam chỉ biết đánh thẻ, đòi búp-bê, nó phải đi chăn trâu cho hợp tác xã nơi sơ tán (để tránh bom Mỹ), đan áo giúp mẹ. Nhưng nó khôn ngoan, biết lợi dụng nhân dáng đẹp đẻ của mình để dụ bọn con nít nhà quê.. Tao hát cho chúng mầy nghe, chúng mầy cắt cỏ cho trâu tao.. Nó đứng giữa bãi ruộng, mặt sáng đẹp, tóc bay dài theo gió.. Dẫu áo quần lam lủ, chân đất, Giang Thanh hiện thân toàn hảo nét đẹp thuần nhã của văn minh, văn hóa đất Bắc. Nó diễn cảnh Thị Mầu lên chùa phải lòng Thị Kính; nó hát Lý Tình Tang, Lý Thiên Thai.. của hoạt cảnh “Liền Anh, Liền Chị” trong hát Quan Họ..
.. Làm sao bé tí như thế mà biết những điệu hát ấy?
- Bà cả tao họ Đặng, Bắc Ninh, tức vùng Kinh Bắc dọc Sông Đuống; đời Vua Lê, Chúa Trịnh sinh ra bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ. Bà cả bày cho mẹ nó, mẹ nó hát ru cho nó nghe từ còn nằm nôi.. Mầy nghe nó hát mới biết Quan Họ phong nhã, trữ tình như thế nào.. Chưa kể hoạt cảnh cảm động khi “liền anh, liền chị” gặp nhau mỗi năm sau Tết âm lịch vào ngày Hội Lim sau một năm xa cách..
Năm 1968, Mỹ tăng cường dội bom Miền Bắc để ép Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị, bộ đội dồn đưa vào Nam, vùng biên giới Hoa-Việt giao cho lính Trung Cộng trông giữ, bọn phỉ người Tàu nhân cơ hội lén qua Việt Nam kiếm ăn. Bác tao trong một chuyến buôn hàng bị bọn cướp chận lại khoảng rừng Phố Lu, Lào Cai. Bà không chịu mất của cho chúng, dùng chiếc quanh gánh (với những thế võ bí truyền của người Hoa, võ Việt cỗ do ông, bà tao dạy) đánh lại bọn cướp không nao núng.. Cuối cùng chúng giản ra, một tên dùng súng tiểu liên AK47 chỉa vào ngực bà đòi vàng và tiền mà chúng biết bà quấn quanh người. Bà quắt mắt nhìn thằng cầm súng khinh miệt.. Muốn bắn mầy nhìn thẳng mắt tao, còn nếu sợ hãy cút đi.. Bà nói bằng tiếng Hoa. Thằng phỉ nhắm mắt, bóp cò, đạn phá toang lồng ngực. Bà chết ngồi dựa sườn đồi, hai tay bám vào lườn đất không chịu ngã xuống, giương mắt đứng tròng, khối tóc dài xanh đen bung xỏa.. Đứa bắn súng tiến tới, bỗng chấp tay, sụp lạy.. Xin nương nương tha tội, quả tình tôi không có ý định.. khi nó nhận ra chiếc trâm của giòng họ Uông trên đầu tóc bà. Bác tao ứa ra giòng máu uất hận. Bà chết bất đắc oan nghiệt nên rất linh, dân chúng vùng biên giới lập miếu thờ. Miếu ấy hiện nay vẫn còn, cũng phù hợp với sự việc bố con Thanh kể lại cho mợ tao nghe sau nầy. Không ai dám bày chuyện nếu thật sự không có. Thế là, nhỏ chị mười-bốn tuổi phải thay mẹ gánh hết khối nặng của gia đình gồm bà ngoại, cha già, và hai đứa em. Khi nghe tin con bị nạn, bà tao chỉ thét lên tiếng oán hờn.. Súng! Bắn.. bắn súng! Bà vẫn tiếp tục sống nhưng như gốc cây khô, suốt ngày không nói, đêm đứng sững trước điện thờ, mất trí nhớ hoàn toàn. Bà không hề khóc.
Hai người đàn bà cùng lần im lặng như thể gánh nặng đau thương của Giang Thanh đè lên họ.. Rồi nó xoay xở làm sao? Làm sao sống được! Câu hỏi vô ích, thừa thải. Người kể tiếp tục với cách gắng gượng: Bị dồn vào cảnh khổ, nó trở nên khôn ngoan, đáo để.. Từ Hà Đông nó về căn nhà ở Hàng Đường lấy cớ thăm bà.. Đến khuya, nó vào phòng viên chủ tịch thành phố, nói với cách đòi nợ.. Ông cho cháu số vàng mà ông đã thiếu của mẹ cháu? Viên chủ tịch không phải là người dễ bị dọa.. Vàng gì, tao đã giả cho mẹ mầy đủ, giấy tờ tao còn giữ đây.. Tao chỉ có con buồi cho mầy! Ông nhìn nó với cặp mặt diễu cợt dâm đảng.. (Cũng bởi hỗn hợp ba giòng máu, nó cao hơn đứa mười-bốn tuổi bình thường, ngực nẩy nỡ vun phồng khiêu gợi) Cháu biết cái giấy ấy, nhưng mấy lạng vàng kia không xứng với giá của nhà nầy.. Ông hẳn biết! Cháu không đòi quá, chỉ xin ông trả thêm cho đủ.. Tao không có! Mầy làm gì nào? Ranh con đừng giở trò khốn nạn.. Mầy tự động vác xác vào đây, ông hiếp có chửa bây giờ! Ông không hiếp cháu được đâu, thằng bạn cháu đứng dưới kia chỉ đợi cháu la lên là nó chạy tới báo trụ sở công an khu phố! Ông chủ tịch đến cửa sổ, mở hé những lá sách nhìn xuống đường.. Trời đất! Bây giờ mầy muốn gì? Cháu chỉ xin ông số vàng còn thiếu.. Gì nữa? Ông chủ tịch mệt nhọc, buông xuôi. Ông viết cho cháu cái giấy gởi nơi tổ hợp đan len giúp cháu tiếp tục việc của mẹ cháu. Mầy xin gì hãy nói cho xong một lần.. Ông bảo hộ cho cháu vào Trường Sân Khấu bởi lý lịch bố cháu không tốt! Ông chủ tịch nói như than: Mầy bao nhiêu tuổi mà đã gớm ghê đến thế.. Lớn lên chút nữa mầy còn ra sao hỡ?! Khi vén vạt áo, buộc những khoen vàng vào thắt lưng quần, Giang Thanh nhìn gã đàn ông thông cảm đồng lõa.. Cháu sẽ không nói việc nầy với ai. Bà nhà không phải đi Hà Nam đâu.. mà qua bên La Khê gặp bố cháu chiều mai mới về! Cháu khai trong đơn xin vào học trường ca múa là ông có họ với bà cháu. Ông thuộc nhà Đặng Xuân của ông Trường Chinh phải không ạ..
Khi ngồi với đứa bạn trong vòng rào sân vận động Hàng Đẩy, Giang Thanh khóc như chưa bao giờ được khóc.. Mẹ ơi! Ông ơi! Nhỏ gào như kẻ điên. Gã bạn cuống quýt ôm lưng tỏ vẻ an ủi.. Nó ngưng khóc, tát thằng bé một tát cực mạnh, đạp gã bạn ngã ra đất.
.. Tại sao nó muốn vào học trường sân khấu kia?
- Bởi đấy là một trong những cơ quan cho học viên nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vào đoàn đó, nó được tiêu chuẩn đường, sữa, thịt để có sức khoẻ tốt, ngoại hình đẹp. Lớp của nó chỉ nhận hơn ba mươi học viên của cả ngàn người dự tranh, đấy là chưa kể phải thành phần lý lịch tốt. Nó lại là con của sĩ quan nhảy dù Pháp, không có cái chước với lão chủ tịch kia thì làm sao mà vào được. Nhưng nó cố ý là nhắm vào món bồi dưỡng đường, sữa, thịt hằng tháng cùng với tiêu chuẩn mười-sáu ký gạo cho mỗi học viên - Tiêu chuẩn cao nhất của Miền Bắc. Thì từ đó mới biết hạt gạo quý, hiếm đến thế nào đối với người Miền Bắc. Ông thi sĩ Phùng Cung phải kêu lên: Tôi cúi đầu.. Bạc tóc, dập đầu.. Lạy hạt gạo rơi.. Với tiêu chuẩn gạo đó, nhỏ chị nuôi được cả nhà bốn người.. Mầy nói gì tao không hiểu? Thì nhỏ Giang Thanh ấy dùng một nửa tiêu chuẩn (gạo) để nuôi bà, bố và hai em.. Trong suốt bảy năm liền từ 1968 đến 1974, nó chỉ ăn một ngày một lần vào buổi trưa, để dành tám ký gạo (nửa tiêu chuẩn) đem về nuôi gia đình. Suốt một thời con gái lớn lên, nó không có một chút đường, chút sữa nào hết!
Người kể trầm giọng tiếp tục: Không phải chỉ mình nó mà cả miền Bắc vậy mà mấy ai trong Nam biết đến, phải sau 1975, khi chịu chung đòn cộng sản mới vỡ lẻ ra.. Như vậy đời nó cũng phải được lúc dễ chịu chứ, từ bé đến lớn cứ khổ như vậy chịu sao nỗi! Người bạn ngao ngán, cố ý chờ nghe một điều vui.
- Những điều tao vừa kể vắn tắt cho mầy nghe ra chưa diễn tả đủ cảnh đời và cách sống của nó.. Cơ cực như thế, nhưng vào dịp Tết Trung Thu, nó vẫn cố dành dụm để nấu được một nồi cháo ám cho cả nhà.. Tại sao phải có nồi cháo ấy? Thì thuở trước khi bà bác còn sống, lúc bà tao còn trẻ, dịp lễ, tết là để cho cả nhà trổ tài nấu nướng, dọn cổ.. Ví như nồi cháo ám ấy là phải nấu với một con cá quả, thịt ba chỉ, hành phải búi lại từng củ, đủ rau thìa là, cần tây.. Trước ngày Tết âm lịch, mọi người phải tắm bằng nước rau ngò phơi khô, mặc áo quần mới để chúc tết nhau trong ngày Mồng Một. Bà tao mất trí, bác tao chết, bố nó bị khủng khoảng, hai em gái còn nhỏ trong một xã hội thiếu thốn, hạn chế của miền Bắc, nó phải một mình đóng vai chủ gia đình, người cha lẫn người mẹ từ năm chưa đến tuổi thành niên.. Đời em nó khốn nạn lắm chị ạ! Nó than thở với tao khi chị em gặp nhau năm 2005 vừa rồi. Năm nó năm-mươi tuổi.
..Năm mươi tuổi hẳn nó phải già lắm nếu như gặp phải cảnh đời như mầy vừa kể ra. Mà sao gọi là em, nhỏ ấy là vai chị mầy cơ mà.. Nó giữ lễ trăm phần trăm của người Bắc chứ không “xà bần” như mầy và tao (những người đã được “Nam Hóa” coi như toàn phần).. Ngay mợ tao, không phải là người dễ tính, nhưng buổi đầu gặp nó là chịu ngay. Nó khôn ngoan thiên bẩm thêm cảnh khó làm nên sắc sảo hơn. Nhưng cũng không hẳn là vậy, những tình thế tao vừa kể thật ra cũng không mấy khó khăn đối với nó, vì đấy là hoàn cảnh chung của cả miền Bắc trước 1975.. Dẫu rằng suốt bẩy năm từ 1968, coi như hằng ngày nó phải chạy trên trục tam giác: Khu Mai Dịch - Phố Hàng Đường - La Khê (Hà Đông) để trông bà, cha và hai em, cùng về trường học nếu không có những tai nạn nói ra đến nặng lòng, tội nghiệp..
..Sống như thế đã quá khổ, còn tai nạn nào thêm nữa đây? Người bạn nghe chuyện nói như than.
- Thì ví như lần mất chiếc xe đạp, dù chỉ có cái sườn và hai bánh xe.. Bọn cướp rình sẵn trước cổng nhà bà nó.. Như con hổ cái, một mình đánh hai thằng kẻ cắp, thằng thứ ba giật xe chạy mất, nó chạy theo thì bị một gậy đập ngang mặt, phải dùng hai ống tay để chận.. Hai tay nó giờ nầy còn sẹo và thương tật do trận đòn nầy, cũng may giữ được cái mặt đẹp, vũ công ba-lê mà mặt bị sẹo thì còn gì để múa với may. Mất xe đạp nên khi đi từ Mai Dịch về Hà Đông, nó phải nhảy tàu điện nhiều lần, tránh người soát vé để tiết kiệm vài hào bạc, chỉ khoảng một, hai cent Mỹ. Nhưng tất cả tình thế thiếu thốn vật chất ấy hình như nó coi nhẹ vì xem là điều tất nhiên, nếu không vướng phải tai nạn tình ái, hệ lụy thương yêu!
- Đã qua cảnh khổ như thế thì chuyện yêu đương trai gái có nghĩa là gì?! Người nghe chuyện lên tiếng phê bình, cũng thật sự thắc mắc về tình cảnh tâm lý của một con người đã kinh qua khốc liệt cùng cực, nhưng sao chưa đủ độ cứng cỏi, trưởng thành?
- Hỏi như thế thật ra mầy cũng chưa hiểu gì về nó - Đấy chỉ là một đứa nhỏ phải chịu cảnh đời khắc nghiệt của những người lớn (mà nó phải buộc phải thay thế).. Thế nên, khi nghe anh chàng cùng lớp (Thằng bạn thân năm trước theo nó đi đòi nợ lão chủ tịch thành phố - Nó vốn trung hậu, thẳng thắng, chơi với ai hết lòng với người ấy. Thằng nầy lại là con ông giám đốc trường sân khấu) ngõ lời yêu thương và nhất là quà cưới sẽ là chiếc xe đạp Phượng Hoàng do Trung Quốc sản xuất mà hiện nó đang mượn xử dụng. Thế là nó tin thật, chấp nhận ngay lời cầu hôn. Nó cũng nghĩ rằng: Với sắc vóc đẹp đẻ, tính tình chân thật ắt sẽ được mọi người coi trọng thương yêu. Một hôm, bất ngờ mang quà sáng đến cho thằng kia (xôi nấu từ sáng tinh mơ để chứng tỏ lòng thương yêu chăm sóc).. Tay ủ dĩa xôi, tay giữ ghi-đông xe, đạp chập choạng giữa trời đông đất Bắc.. Đi vào, bắt gặp thằng ấy đang ngủ với một đứa bạn gái cùng lớp! Nó ngất xỉu ngay trên ngưỡng cửa, lên cơn động kinh, nằm lăn ra đất, răng cắn chặt, thân thể cứng đơ như khối gỗ.. Thằng kia (hoảng sợ nếu nó chết sẽ chịu phần trách nhiệm) vạch quần đái lên mặt nó, cũng do người chung quanh thúc dục, chỉ bảo.. Tỉnh dậy, nó đi thẳng một mạch. Mặt tỉnh lạnh, mắt ráo
hoãnh. Bịnh sạch sẻ và ghê tởm liên hệ trai gái có triệu chứng từ đó, càng ngày càng rõ rệt - Nó thấy ra bộ phận sinh dục của thằng kia trước mặt trong cơn kích ngất.
Tóm lại, nó vẫn chỉ là một đứa bé gái với tâm chất trong sáng, cả tin trong một thân thể thiếu nữ đương độ phát triển, cũng vô cùng quyến rủ.
Hai Sau tai nạn tình ái, Giang Thanh trở nên lầm lì ít nói, nhưng khi cần phát biểu thì cứng cỏi giữ chắc ý kiến qua cách lớn tiếng cố chấp, không kìm giữ phản ứng quyết liệt, mạnh mẽ. Cuối năm, tháng 12, 1974 tốt nghiệp ưu hạng trường sân khấu, cũng đúng mười-chín tuổi, Giang Thanh tình nguyện đi B (chiến trường Miền Nam) với mục đích: Để gia đình “xóa thành phần” do có con là chiến sĩ văn công đi Nam. Người cha được phục hồi quyền công dân thay mặt bà ngoại coi ngôi đền nay được xếp hạng là tụ điểm sinh hoạt văn hóa nhân gian. Nhưng lý do chính, để cô em kế, Hương Thơ (sinh 1957) được ghi danh vào đại học tổng hợp và kết nộp đoàn (Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh), sau đó chắc chắn sẽ trở nên thành “đối tượng đảng”.
Đoàn văn công được điều động đi B vào đầu năm 1975 sau chiến dịch đánh chiếm Phuớc Long hoàn tất (12, 1974). Tuyến giao thông gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” nay đã là một xa lộ hai chiều chạy dọc theo sườn Đông Trường Sơn sâu nội địa Miền Nam, chứ không là đường giây “xã hội chủ nghĩa” nằm phía Tây trong lãnh thổ Lào và Campuchia của thập niên 60-70. Giang Thanh bừng bừng cảm xúc của người được tham dự vào giai đoạn quyết định lịch sử dân tộc. Thêm mối hân hoan cụ thể là hoàn cảnh gia đình được ổn định do nỗ lực của gần mười năm quên mình lo cho bà, cha và hai em. Cô để lại sổ lương, tem, phiếu gạo, thực phẩm cho cha với lời dặn.. “Con đi B chuyến nầy bình an thôi, chỉ chờ ngày giải phóng Miền Nam con sẽ về thăm bố và hai em. Hy vọng bà còn sống, và khoẻ mạnh cho đến ngày ấy. Khi nào lãnh lương con, bố đừng tiêu hết, nhớ để lại một tháng vài đồng để sau nầy nhà có cái vốn nhỏ cho hai em..” Cô không nghĩ rằng mình vừa mới hai mươi, và đời sống trước mặt có nhiều điều không thể lường trước, nghĩ ra, dự phòng tới. Buổi ra đi, người cha hiện nguyên đủ hình dạng một con người bị thời thế khuất phục, đánh vỡ mà nay dẫu cố gắng hồi phục nhưng bất lực. Ông nhìn con trong bộ quần áo vải kaki màu ô-liu, mũ tai bèo, cổ quấn khăn rằn với đôi mắt không phản ứng.. Ông nhớ ngày rất xa xưa trước kia, cũng đã có lần mặc quân phục - Quân phục của một quân đội khác - Đội ngũ đã một thời hùng mạnh vang danh thế giới, nhưng cuối cùng đã thất trận từ nơi đất nước nầy và mất hết khả năng lập lại lần vinh quang. Ông lạ với con. Ông lạ với đời sống mà ông đã sống cùng, chịu đựng, chia xẻ hằng mấy mươi năm qua. Ông hôn lên má con.. Động tác thắm thiết từ lâu không thực hiện, cũng không thấy ai lập lại, bày tỏ. Giang Thanh nhận ra (và cảm thấy rất hiện thực) phần u uẩn trong mắt người cha về một điều mơ hồ (cũng rất cụ thể) của lần đi B không hẳn là buổi vui mừng như mọi người chung quanh đang rộn rã hân hoan ca ngợi.
Phan Nhật Nam
http://www.vietfreefun.com/extras/upload/images/1413081113_1741a7aeab3bff49253f76aa613c0858.jpg
Khi cô phụ tài Xe Đò Hoàng tuyến đường San José-Westminster (Bắc-Nam Cali) mở băng DVD ca nhạc trình diễn màn hát Quan Họ thì hai người khách đàn bà bắt đầu câu chuyện với cách bí ẩn riêng tư, diễn tả qua từng nét mặt, âm tiếng thay đổi theo cảm xúc..
..Bà biết hát Quan Họ nầy hay như thế nào không?
- Làm sao biết được, giỏi lắm là ngâm nga theo điệu “Người ơi người ở đừng về..” Mà bà có hơn gì tôi để ra câu đố nầy nọ?
- Biết là vậy, tôi với bà di cư vào Nam năm 1954 còn “oắt tì xà lai”, làm sao biết “ngoài Bắc ta”có cái gì, may ra còn giữ được giọng Hà Nội khác với mấy cậu, mợ 75, “iem ở hà lội.. suốt”.. Theo ông bố vào ở chỗ Hỏa Xa Đà Nẵng, đi học trường Bà Xơ dưới Nhà Thờ Con Gà bị tụi bạn trêu “Bắc Kỳ ăn cá rô cây nên hô răng..“, thế nhưng, biết được cái hay của Quan Họ là do đứa chị kể lại sau nầy..
- Chị nào, chẳng lẻ mợ Nguyệt nhà bà lại biết được những điều mà tôi với bà không biết ra..
- Không, đây là nhỏ chị họ ngoài Bắc, gặp sau nầy ở Mỹ, nó qua đây làm đại diện thương mại gì đó cho bên Việt Nam, gọi là chị (tuy nhỏ tuổi hơn) vì là cháu ngoại lớn của bà cả, nó đẹp lắm, giống như Romy Schneidder trong phim Sisi Impéatrice... 1 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n1)
- Bà có nói quá không, người ngoài Bắc đẹp đến cỡ Brigitte Bardot mà chụp cái nón cối lên đầu như em Jane Fonda thì trông cũng chẳng giống ai.. Mà bà ngoại cả là sao? 1 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n1)
- Thì ông ngoại tao (khi “tôi” trở thành “tao”, hoặc “bà” hạ xuống “mầy” tức là câu chuyện đã đi vào đoạn gay cấn, cấp thiết) là người Tàu, Tàu chính gốc, có đến chín bà vợ, đại gia đình sống như trong chuyện Hồng Lâu Mộng. Bà tao thứ Tám, ông lấy từ bên Miên đem về Sài Gòn, xong đưa ra Bắc nên mợ tao có tên ấy mầy không thấy sao.. Nhỏ chị ấy sinh đúng một năm sau di cư, 1955 tại Phố Hàng Đường, Hà Nội. Nó tuổi Mùi thua mầy và tao đúng mười tuổi. Nhỏ hơn mười tuổi như nỗi đau, cảnh khổ của nó so với của mầy và tao cứ như núi, dẫu rằng mầy với tao chịu nạn sau 30 tháng Tư cũng đã nát người.. Chồng đi tù cải tạo, một thân nuôi con, vượt biên đến Mỹ với thứ tiếng Anh Anglais Vivant nói đến gãy lưỡi, mỏi tay.. Nhưng dù sao bọn mình còn có an ủi với hai-mươi mốt năm nơi Miền Nam, và cuối cùng cũng đến được đất Mỹ. So với nhiều người, mầy và tao còn “hạnh phúc” hơn bao nhiêu kẻ khác.. Cứ như cảnh chị nhỏ ấy tao sợ chịu không thấu..
- Mầy nói thì tao nghe, nhưng với cảnh khổ ai có thể so sánh với ai, mấy ai nói mình khổ hơn hay khổ kém bao giờ.. Người bạn trầm giọng bùi ngùi, thương cảm.. Đời mầy cũng quá sức rồi, từ “sáu-mươi, bảy-mươi..”, tiểu thư lái Mazda 1500, Mustang Capri đưa con đi học.. Qua “bảy-lăm” đẩy xe trâu làm ruộng dưới Suối Nghệ, Bà Rịa; rồi với hai con nhỏ chưa đầy mười tuổi vượt biên qua Thái bằng đường bộ Campuchia giữa bầy lính Polpot thôi cũng đủ đáng sợ như chuyện kể trong Papillion, lại thêm mấy năm ở Trại Cấm Sikiew, Thái Lan coi như ở tù không án..
- Chuyện tao kể ra cũng thường so với vạn, triệu người Nam, đời chị nhỏ ấy diễn ra theo cách khác, điển hình cảnh khổ của người Miền Bắc, lại là đàn bà có học, tài sắc, gia thế.. Tao không nói điều tưởng tượng, nghe ra chuyện mầy sẽ thấy lời tao chưa đủ. Nó lại luôn chịu cảnh khổ một thân, một mình..
- Sao lại một mình, chồng, con nó đâu..
..Đấy lại là một đầu mối của đau thương đời nó.. Đầu mối lớn nhất.
Một Bé Giang Thanh sáng đẹp như khối ngọc toàn hảo. Sinh ra trong một chiếc túi đỏ rực - Đẻ bọc điều năm tuổi Mùi “không chùi cũng sáng”. Và cô bé đã nhận ngay ân huệ lớn: Đau đậu mùa lúc lên ba nhưng dù chửa chạy qua loa bằng thuốc ngoại khoa cũng hết bệnh, chỉ để lại những chấm sẹo nhỏ trên cánh mũi như là nét duyên. Sống mũi cao chạy thẳng lên trán biểu lộ trí sáng và sự cương nghị. Nghe kể lại, ông ngoại thường bế đặt lên đùi, nhìn vào mắt cháu nói lời thương yêu thắm thiết: “Tội nghiệp cháu tôi phải phận con gái.. Gía như là con trai thì dễ đương cự hơn với tử vi “Mệnh vô chính diệu, Địa Không, Hỏa Tinh độc thủ..”, bởi ông là người thâm cứu tử vi, thấy ra phận người đau thương qua lá số. Ông đặt tên nó là Giang Thanh như bà Nguyệt nhà tao được gọi là Minh Nguyệt theo ý thơ của Lý Bạch. Bà ngoại, vợ cả của một gia đình gồm tám phụ nữ tứ xứ, thuộc nhiều chủng tộc, sắc dân khác nhau, ông lấy về trên đường làm ăn phiêu bạc khắp Đông-Nam Á.. Nơi khởi đầu từ Vân Nam, đầu nguồn sông Thanh Thủy, dừng chân, dựng sở tại Hà Nội-Hải Phòng sau khi liên kết với viên chánh sở mật thám Pháp, Đại Úy Favani xây dựng nên đường giây nha phiến qua ba trục Côn Minh-Hà Nội-Sàigòn. Cũng bởi viên đại úy người Corse 2 (http://vietmessenger.com/books/?title=nhungdongsongchayquavungdasan#n2) nầy cùng chung sở thích-Đàn bà và thuốc phiện-Những thú vui tuyệt vời (lại sinh lợi tối đa) ông ta tiếp nhận, áp dụng, và khai triển bài học kinh nghiệm từ viên chỉ huy, Thiếu Tướng Tư Lệnh De Linarès. Phần gia chủ Uông Đại Dụng, dẫu xuất thân Đại Học Côn Minh, học viện cổ kính có từ Thế Kỷ 15 với tòa đại sảnh cao 99 bậc thềm nổi tiếng là một di tích lịch sử của thủ phủ Tỉnh Vân Nam, nhưng ông đã thấy rõ sự vô ích, vô dụng của học vấn, lại là thứ chữ nghĩa của Khổng, Mạnh, nên ông quyết chí làm giàu.. Có tiền tức có tất cả - Tiền vi tiên. Ứng vạn biến. Ông gieo trồng, chế biến, sản xuất ra thứ đem lại nhiều tiền nhất: Thuốc phiện. Và tùy theo tình hình chính trị, thời cuộc quân sự, ông cũng là đầu mối chuyển một thứ hàng nguy hiểm không kém thứ thuốc kia: Thuốc súng, đạn, bom.. Ông bán súng, đạn cho những phe phái cần thiết đến chúng không phân biệt họ là ai: Thổ phỉ, cộng sản, đảng phái tư sản, kể cả kẻ tống tiền, giết mướn.. Bán cho ai ông báo cho viên đại úy biết, nếu cần, người nầy cung cấp thêm hàng cho ông tìm nơi tiêu thụ. Quanh bàn đèn, Đại Úy Favani nói lời khen ngợi: Ông là người khôn ngoan nhất Đông Dương. Uông Tiên Sinh không trả lời, ông đứng dậy châm hương lên bàn thờ - Bàn thờ do bà cả thiết lập với những mẫu tượng thánh thần sơn son thiếp vàng rực rỡ.. Đại úy nói quá lời, tôi chỉ làm theo cố vấn của nhà tôi. Ông nói thật vì bà cả đã từng vào Sàigòn với một cây roi mây.. Bà đến ngôi nhà (Đường Trần Nhật Duật, Tân Định, sau nầy gia đình tao ở trước 1975, mầy đã tới chơi mấy lần – Người kể chuyện nhắc nhở) ông mua riêng cho bà ngoại tao, nói lời đỉnh đạc, kẻ cả: Cô đừng sợ, đàn bà với nhau, tôi phải giữ cho cô, tội là do lão ghê gớm nầy.. Bà ghìm ông tao xuống, bà xử dụng những thế võ như thế nào đó (ông tao cũng thuộc loại cao thủ nhưng không chống lại).. Ông nằm im nghe vợ kể tội: Cô ấy còn trẻ, mới mười sáu tuổi, ông phải biết làm thế là thất đức, tôi sẽ chuộc phần lỗi của ông bằng cưới hỏi đúng lễ để chính thức xin cô ấy về.. Nhưng nay phải trừng trị để ông biết thế nào là nghĩa vợ chồng mà ông đã nhiều lần gây nên điều xúc phạm xấu hổ (Đối với tôi và cũng đối với cô ấy) - Lần nầy là lần thứ tám, lần cuối cùng. Ông nằm im nhận mấy chục roi phạt, xong đứng lên cầm tay bà cả: Tôi xin lỗi mình. Anh xin lỗi em. Ông quay qua nói với bà tao. Khi trở ra Bắc, ông đưa bà tao lên chiếc xe đua mui trần màu đỏ chạy từ Hà Nội về Hải Phòng, mặt căng kiêu hãnh với điếu xì gà ngậm ngược chỉa lên trời.. Bà cả ngồi băng sau cười cười coi như không có gì.
- Mầy vẫn chưa nói gì về nhỏ chị tuổi Mùi kia..
- Tao phải nói rõ ra như thế để mầy thấy ông tao, bà cả, bà bác (mẹ chị nhỏ ấy) ra sao để hiểu nó ảnh hưởng những gien như thế nào từ mẹ, bà, và ông ngoại. Nó là tổng hợp của những người kia với mức độ cao nhất – Cao nhất về sắc sảo tính khí, hạnh phúc, khổ đau kể cả dáng vẻ rất lạ của nó.. Cổ không chỉ cao ba ngấn mà đến những năm ngấn.
- Thế mẹ nó như thế nào? Bà bác của mầy..
.. Bà ấy là một trong những người đầu tiên (lại là phụ nữ) đi Pháp học về âm nhạc qua bảo trợ bởi lão mật thám người Pháp kia (đã trở nên là một người thân trong gia đình ông tao).. Trong nhà gọi là ông Pha và chỉ dùng tiếng Việt để nói chuyện. Bác tao kể: Ông ấy đã có nhận xét trong một bữa ăn: “Tôi ăn đủ năm trăm thứ phô-ma của Tây (“Tây”chứ không là “Pháp”), tôi cũng nếm hết các thứ mắm của “ta”.. Biết phân biệt nước mắm nhỉ khác nước mắm pha như thế nào. Nghĩa là tôi ăn tất không bỏ sót một thứ gì!” Lão ấy bảo trợ bà bác tao đi Pháp học không phải không có mục đích, lão muốn gia tài của ông tao lọt vào tay người nhà của lão. Lão tính trước bà bác tao cho ông con trai ngoại hôn (mà lão bảo là con nuôi để tránh trách nhiệm với bà người Việt sinh ra ông con nầy, lấy cớ mắc chứng “tráng dương sậu tinh”, thêm nghiện nặng thuốc phiện nên không thể có con, lại là con trai). Ông nầy lúc ấy là thiếu úy Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù là đơn vị năm 1954 nhảy xuống Điện Biên Phủ trước tiên..
- Làm sao mày mầy rành chuyện lính tráng, nhà binh đến như thế..
- Thì ông Nhân nhà tao năm “tám-chín” sau khi đi tù về có theo mợ tao đến gặp ông nầy ở nhà Đường Nguyễn Trải Sàigòn.. Lính gặp lính nói ra biết ngay, lại là lính nhảy dù không có bao nhiêu đơn vị. Dịp ấy, mợ tao mới biết vụ việc của bà bác tao, bà cả, ông ngoại ngoài Bắc sau “năm-tư”.. Thực tế xẩy ra đáng sợ, kinh hoàng hơn bất cứ câu chuyện nào người trong Nam nghe được, tưởng tượng ra..
.. Mới nghe mầy giáo đầu đã thấy bày ra như một đống bùi nhùi, đến chuyện thật nữa không biết lường tới đâu, nhưng mầy cũng chưa nói gì đến nhỏ chị kia..
Thủng thẳng, chuyện phải có đầu đuôi, xe chưa ra Đường 152, nếu kể chưa hết tao bảo ông Nhân kể tiếp, viết lại cho mầy xem, ông ấy còn có dự định đưa người, việc thật nầy vào một cuốn chuyện dài nữa.. Cũng bởi, có ông Đỗ chủ báo Thời Luận, bạn ông ấy đã viết về cảnh khổ, nỗi đau của người đàn bà Miền Nam rồi, nay ông ấy phải viết về Miền Bắc cho cân phân, cũng để trả ơn quê vợ. Để tao kể tiếp.. Trước khi vào Nam, ông tao cho tập họp đủ tám bà vợ và chia phần dưới sự quyết định của bà cả.. Những chậu trồng ngãi dưới chân bàn thờ đền được mang vào phòng riêng, đào vàng lên, chia thành tám phần khác nhau tùy theo nhận định của bà về khả năng giữ gìn, sinh lợi của mỗi người.. Phần những bà kia như thế nào tao không rõ, phần của bà tao được quyết định như sau: Cô Tám, cô là người nhỏ tuổi nhất, nhưng cô đã chứng tỏ đủ sức thay thế tôi, cô giữ phần lớn nhất, cô mang năm trăm lạng vào Nam theo chuyến máy bay sớm nhất với con, cháu nhà cô..
Chuyện của gia đình mầy bao nhiêu lâu quen thân tao biết rõ, kể về gia đình ông mầy ở lại ngoài Bắc với chị nhỏ kia thôi. Người nghe chuyện nôn nóng.. Và tao cũng thắc mắc, ông mầy, bà cả khôn ngoan, tinh tế như vậy, lại thêm bà bác mầy nữa, mới nghe qua chuyện cũng đã thấy ra là hạng người không thường.. Thế sao lại không tính đường đi vô Nam, chẳng lẻ tin lời tuyên truyền của cộng sản nên ở lại?
- Về lý do chính trị tao không rõ, nhưng theo lời mẹ tao hỏi lại ông bố con Giang Thanh hôm gặp ở nhà đường Nguyễn Trải thì sự thể là thế nầy.. Ông tao nói với bà cả và bà bác: Tộc họ Uông vốn chủng người Bạch, người Bố thuộc nhóm Di ở Vân Nam, từ ngày xưa Đời Đường, Tống.. đã không thuận với người Hán ở phương Bắc, bên Quảng Đông, Quảng Tây; dẫu có lúc Tưởng Giới Thạch phải rút về Trùng Khánh để chống cộng sản, cần mượn đường Côn Minh để nhận tiếp tế, quân viện Mỹ từ Miến Điện đưa lên. Vụ công ty tàu đường sông của chú Sáu bị bang hội Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến chèn ép đến nỗi phải phá sản là một bài học phải nhớ cho dù chú ấy đã vào trong Huế gặp Vua Bảo Đại để xin bảo trợ, cạnh tranh với người Hoa qua danh nghĩa người Việt. Tôi đã tới Nam Vang, Chợ Lớn.. những nơi nầy mình không tranh lại với họ (Người Hoa, gốc Hán tộc), vậy nên tôi quyết định ở lại Hà Nội.
- Nhưng đó là phần của ông ngoại, bà cả, chẳng lẻ bà bác mầy với ông chồng lai Pháp, sĩ quan nhẩy dù lại chịu ở lại với cộng sản hay sao..
.. Vụ việc nầy có những lý do khác tao không được rõ lắm, nhưng quyết định cuối cùng là do bà bác tao. Bà nói: Bố đã quyết, vậy con không thể để bố mẹ ở lại một mình, nhà con tuy là sĩ quan, nhưng anh ấy (theo cách của ông Pha, nhân sự, cơ quan mật hoạt động tình báo của nhiều phía) cũng đã có những liên hệ với người bên Việt Minh.. Nhưng nếu xẩy ra khó khăn đến đâu con cũng xoay xở được. Mẹ sinh ra con - Một mẹ. Một con - Con là con cửa đền, cửa phủ, chỉ Thần, Thánh mới đem con về với các Ngài, người phàm không thể nào chạm đến con. Bà bác tao là tổng hợp sự quyết liệt của bà cả, mưu thuật của ông tao cộng thêm phần thâu nhận của những năm học ở đất Pháp.. Rau tập tàng thì ngon. Bà có đến ba nguồn văn minh, văn hóa trong người hòa hợp trong Đức Tin Đạo Giáo. Nhưng sự thể dù chuẩn bị giỏi đến thế nào, tai họa vẫn xẩy đến như một điều tất nhiên. Giọng người kể chuyện trùng xuống.
.. Yên được hai năm, đến năm 1957, Hà Nội bày ra mặt thật của họ với trận đánh tư sản, những kẻ quen biết với ông, bà tao trong chính quyền đồng cố ý lánh mặt khi chiến dịch truy lùng, đấu tố bắt đầu. Căn nhà ba tầng Phố Hàng Đường một sớm mai ngủ dậy bị vây bởi một đám đông trang bị gậy gộc, la ó, chưởi bới ầm ỉ do công an khu phố hướng dẫn. Chúng đòi ông tao ra trình diện để nghe đấu tố. Ông đóng cửa phòng bảo người nhà ra nói với chúng: Muốn nói chuyện với ông phải cỡ ông Đồng, ông Giáp.. Nhưng cũng không cần, ông sẵn có cách giải quyết. Ông thay áo quần mới, áo dài hai lớp lót gấm, cúc vàng gài bên hông phải, lấy bàn đèn, dọc tẩu mạ vàng xuống (chỉ khi nào có khách quý mới đem dùng). Ông làm thuốc bình thản, kiểu cách phong lưu.. Xong lần dưới gối lấy khẩu súng nhỏ do ông Pha tặng trước đây với lời dặn: Đây là khẩu súng khởi nghiệp của tôi. Bao nhiêu người gây khó khăn, trở ngại cho công việc, tôi giải quyết với khẩu súng nầy.. Nó đã thành tinh, đêm ngủ tôi gối lên, nghe tiếng khóc của những người chết. Tôi giao nó cho ông vì (dẫu còn sống) ông đáng mặt thủ lãnh của những hồn ma nầy. Với nó, không ai hại ông được, chỉ khi ông quyết định chính ông thôi. Hôm nay, ông thực hiện lời ông Pha - Hút xong tám điếu thuốc, số lượng những người vợ ông yêu thương. Ông nói lớn: Tôi đi đây mình. Tôi chết đừng chôn. Đốt thành tro ném theo sông. Nhớ, ném xuống Sông Thanh Thủy ở biên giới, chảy về Vân Nam. Chúng nó không xứng để làm nhục tôi. Ông đặt nòng súng vào miệng xem như hút thêm một điếu. Điếu cuối cùng. Điếu số 9, tượng trưng cho Bà Cả.
.. Phần bà cả, bà đứng giữa điện thờ, trước tượng Đức Thánh Trần nến thắp sáng, tay cầm bó nhang cháy đỏ, tay cầm cái (xiên) lình.. Bà xiên chiếc lình qua má. Mũi nhọn chiếc xiên đi ngọt ló ra qua gò gò má thứ hai. Bà hét lên lanh lảnh như kêu gọi tất cả âm binh cùng dậy lên.. Qua ánh lửa, sau màn khói, mặt bà hiện vẻ uy nghi thần bí. Bọn người dần rút lui. Sau bàn thờ, bà bác tao được dặn chuẩn bị sẵn chất đốt để nếu bọn người làm tới sẽ phóng hỏa đốt rụi căn nhà. Cả gia đình sẽ hoá thân trong lửa.
Người nghe kể rúng động.. Hèn gì mợ mầy và mầy đều có tính “không sợ ai” qua cái trán dồ nầy (người bạn chỉ vào trán kẻ kể chuyện).. Hóa ra đấy là cách của cả nhà bên ngoại mầy.
- Tao cũng không rõ điều ấy nếu không gặp chị nhỏ Giang Thanh, trán nó cũng thẳng đứng, dồ ra thế nầy. Người kể gỏ gỏ vào cái trán.. Yên, để tao kể tiếp, mà tới chỗ nào rồi.. Chỗ bà cả lên đồng đuổi tụi định cướp nhà ông mầy.
..Lo tang ma cho ông xong, đến lượt bác tao nhập trận. Bà nói với bà cả: Bố chết, mẹ phải sống để giữ giềng mối nhà nầy, nhưng nay đến lượt con gánh vác. Con không phải chỉ lo cho mẹ, nhưng còn phần chồng, con con nữa – Gánh nặng nầy là của riêng con. Con không bỏ được. Bà thay áo nhung màu bordeau, tóc vấn cao, cổ đeo chuỗi ngọc, mang giấy tờ địa bạ sở hữu căn nhà.. Bà lên xe xích lô (do người nhà đạp) đi giữa hai hàng phố người lố nhố nhìn ra. Bà đến gặp lão chủ tịch nhân dân thành phố Hà Nội nói lời thẳng thắng.. Căn nhà tôi là điện thờ Đức Thánh Trần, Ngài là vị anh hùng hiễn thánh của người Việt, Bác Hồ cũng đã làm thơ ca tụng Ngài. Vì chế độ mới có nhiều quy định nên chúng tôi biết mình không thể tiếp tục ở đấy. Chúng tôi muốn giao lại cho người xứng đáng, biết giá trị của căn nhà.. Vậy xin ông nhận lấy do đã bao lâu quen biết gia đình chúng tôi..
Lão chủ tịch rúng động, bỗng dưng được một tài sản quá đỗi lớn lao, vì đấy là một trong những căn nhà tư nhân lớn nhất Hà Nội.. Chị quyết định như vậy hay là do “Bà Cả”.. Viên chủ tịch nhấn mạnh chữ “Bà Cả” với ý tôn trọng, và tôi sẽ phải làm những gì? Ông ta băn khoăn..
- Mẹ tôi để tôi toàn quyền, nhà chúng tôi chỉ xin giữ căn điện thờ Đức Thành Trần (bà cố ý dùng đủ chữ), cũng để mẹ tôi ở lại lo hương khói. Phần gia đình chúng tôi, xin ông cho một căn hộ ở La Khê, Hà Đông và ít vàng làm vốn.
.. Chị có gì bảo đảm cho vụ việc nầy. Viên chủ tịch ngại ngần trước diễn tiến quá mau chóng, dễ dàng..
- Tôi mang theo đây tất cả giấy tờ, ông làm tờ giấy tay mua lại (mua ngày trước khi bộ đội vào Hà Nội - Tháng 10/1954) với giá tùy ông định. Nhà chúng tôi đã có nhiều và nay mất thì cũng là chuyện tất nhiên. Ông đừng ngại, chúng tôi “quyết định ở lại với cách mạng” chứ không phải bị bắt buộc, các chị kia bà tôi đã cho đi Nam. Gia đình chúng tôi ở lại để chuẩn bị cơ sở cho ngày thống nhất như nhà nước đã thông cáo! Bà bác biết kết hợp tất cả yếu tố (chính trị, xã hội, riêng tư..) với giọng chân thực, lịch lãm nhưng quyết liệt, chặt chẽ, hợp lý..
.. Rồi sau đó thế nào? Người nghe chuyện thấy khó khăn hình dung ra sự kiện.. Trước khi về La Khê bác tao nói với bà cả: Chúng nó (kẻ cầm quyền mới) nói cứng nhưng đứa nào cũng tham và cũng nhát bởi chúng làm điều ác độc, vô lại.. Mình nhường cho chúng một phần căn nhà, mẹ ở lại giữ đền (sau nầy có dịp mình đòi lại). Con về bên La Khê để dễ qua lại thăm mẹ và theo dõi tình hình. Bà xin vào tổ hợp đan len xuất khẩu và xoay qua đường buôn chuyến lên mạn ngược, ngã Lào Cai-Vân Nam-Con đường ngày trước ông tao chuyển thuốc phiện.
.. Đã buôn bán như thế thì ghi tên vào tổ hợp đan kia làm gì?
- Để có hộ khẩu theo ngành nghề, bà ấy đâu có thể ngồi yên một chỗ mà cầm que đan.. Năm “sáu-mươi” Hà Nội bắt đầu đánh Miền Nam, nhỏ chị tao vừa được mấy tuổi đã thay mẹ tập đan những phần đơn giản, đến mười tuổi nó đã đan nhà nghề, biết ráp cổ, vai và đan lồng những hình hoa văn phức tạp. Năm Miền Bắc bắt đầu bị dội bom (1964), nó đã là tay đan chuyên nghiệp vượt chỉ tiêu, một tháng xong ba áo gởi sang Nga Sô.. Mười tuổi, mầy với tao ở Miền Nam chỉ biết đánh thẻ, đòi búp-bê, nó phải đi chăn trâu cho hợp tác xã nơi sơ tán (để tránh bom Mỹ), đan áo giúp mẹ. Nhưng nó khôn ngoan, biết lợi dụng nhân dáng đẹp đẻ của mình để dụ bọn con nít nhà quê.. Tao hát cho chúng mầy nghe, chúng mầy cắt cỏ cho trâu tao.. Nó đứng giữa bãi ruộng, mặt sáng đẹp, tóc bay dài theo gió.. Dẫu áo quần lam lủ, chân đất, Giang Thanh hiện thân toàn hảo nét đẹp thuần nhã của văn minh, văn hóa đất Bắc. Nó diễn cảnh Thị Mầu lên chùa phải lòng Thị Kính; nó hát Lý Tình Tang, Lý Thiên Thai.. của hoạt cảnh “Liền Anh, Liền Chị” trong hát Quan Họ..
.. Làm sao bé tí như thế mà biết những điệu hát ấy?
- Bà cả tao họ Đặng, Bắc Ninh, tức vùng Kinh Bắc dọc Sông Đuống; đời Vua Lê, Chúa Trịnh sinh ra bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ. Bà cả bày cho mẹ nó, mẹ nó hát ru cho nó nghe từ còn nằm nôi.. Mầy nghe nó hát mới biết Quan Họ phong nhã, trữ tình như thế nào.. Chưa kể hoạt cảnh cảm động khi “liền anh, liền chị” gặp nhau mỗi năm sau Tết âm lịch vào ngày Hội Lim sau một năm xa cách..
Năm 1968, Mỹ tăng cường dội bom Miền Bắc để ép Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị, bộ đội dồn đưa vào Nam, vùng biên giới Hoa-Việt giao cho lính Trung Cộng trông giữ, bọn phỉ người Tàu nhân cơ hội lén qua Việt Nam kiếm ăn. Bác tao trong một chuyến buôn hàng bị bọn cướp chận lại khoảng rừng Phố Lu, Lào Cai. Bà không chịu mất của cho chúng, dùng chiếc quanh gánh (với những thế võ bí truyền của người Hoa, võ Việt cỗ do ông, bà tao dạy) đánh lại bọn cướp không nao núng.. Cuối cùng chúng giản ra, một tên dùng súng tiểu liên AK47 chỉa vào ngực bà đòi vàng và tiền mà chúng biết bà quấn quanh người. Bà quắt mắt nhìn thằng cầm súng khinh miệt.. Muốn bắn mầy nhìn thẳng mắt tao, còn nếu sợ hãy cút đi.. Bà nói bằng tiếng Hoa. Thằng phỉ nhắm mắt, bóp cò, đạn phá toang lồng ngực. Bà chết ngồi dựa sườn đồi, hai tay bám vào lườn đất không chịu ngã xuống, giương mắt đứng tròng, khối tóc dài xanh đen bung xỏa.. Đứa bắn súng tiến tới, bỗng chấp tay, sụp lạy.. Xin nương nương tha tội, quả tình tôi không có ý định.. khi nó nhận ra chiếc trâm của giòng họ Uông trên đầu tóc bà. Bác tao ứa ra giòng máu uất hận. Bà chết bất đắc oan nghiệt nên rất linh, dân chúng vùng biên giới lập miếu thờ. Miếu ấy hiện nay vẫn còn, cũng phù hợp với sự việc bố con Thanh kể lại cho mợ tao nghe sau nầy. Không ai dám bày chuyện nếu thật sự không có. Thế là, nhỏ chị mười-bốn tuổi phải thay mẹ gánh hết khối nặng của gia đình gồm bà ngoại, cha già, và hai đứa em. Khi nghe tin con bị nạn, bà tao chỉ thét lên tiếng oán hờn.. Súng! Bắn.. bắn súng! Bà vẫn tiếp tục sống nhưng như gốc cây khô, suốt ngày không nói, đêm đứng sững trước điện thờ, mất trí nhớ hoàn toàn. Bà không hề khóc.
Hai người đàn bà cùng lần im lặng như thể gánh nặng đau thương của Giang Thanh đè lên họ.. Rồi nó xoay xở làm sao? Làm sao sống được! Câu hỏi vô ích, thừa thải. Người kể tiếp tục với cách gắng gượng: Bị dồn vào cảnh khổ, nó trở nên khôn ngoan, đáo để.. Từ Hà Đông nó về căn nhà ở Hàng Đường lấy cớ thăm bà.. Đến khuya, nó vào phòng viên chủ tịch thành phố, nói với cách đòi nợ.. Ông cho cháu số vàng mà ông đã thiếu của mẹ cháu? Viên chủ tịch không phải là người dễ bị dọa.. Vàng gì, tao đã giả cho mẹ mầy đủ, giấy tờ tao còn giữ đây.. Tao chỉ có con buồi cho mầy! Ông nhìn nó với cặp mặt diễu cợt dâm đảng.. (Cũng bởi hỗn hợp ba giòng máu, nó cao hơn đứa mười-bốn tuổi bình thường, ngực nẩy nỡ vun phồng khiêu gợi) Cháu biết cái giấy ấy, nhưng mấy lạng vàng kia không xứng với giá của nhà nầy.. Ông hẳn biết! Cháu không đòi quá, chỉ xin ông trả thêm cho đủ.. Tao không có! Mầy làm gì nào? Ranh con đừng giở trò khốn nạn.. Mầy tự động vác xác vào đây, ông hiếp có chửa bây giờ! Ông không hiếp cháu được đâu, thằng bạn cháu đứng dưới kia chỉ đợi cháu la lên là nó chạy tới báo trụ sở công an khu phố! Ông chủ tịch đến cửa sổ, mở hé những lá sách nhìn xuống đường.. Trời đất! Bây giờ mầy muốn gì? Cháu chỉ xin ông số vàng còn thiếu.. Gì nữa? Ông chủ tịch mệt nhọc, buông xuôi. Ông viết cho cháu cái giấy gởi nơi tổ hợp đan len giúp cháu tiếp tục việc của mẹ cháu. Mầy xin gì hãy nói cho xong một lần.. Ông bảo hộ cho cháu vào Trường Sân Khấu bởi lý lịch bố cháu không tốt! Ông chủ tịch nói như than: Mầy bao nhiêu tuổi mà đã gớm ghê đến thế.. Lớn lên chút nữa mầy còn ra sao hỡ?! Khi vén vạt áo, buộc những khoen vàng vào thắt lưng quần, Giang Thanh nhìn gã đàn ông thông cảm đồng lõa.. Cháu sẽ không nói việc nầy với ai. Bà nhà không phải đi Hà Nam đâu.. mà qua bên La Khê gặp bố cháu chiều mai mới về! Cháu khai trong đơn xin vào học trường ca múa là ông có họ với bà cháu. Ông thuộc nhà Đặng Xuân của ông Trường Chinh phải không ạ..
Khi ngồi với đứa bạn trong vòng rào sân vận động Hàng Đẩy, Giang Thanh khóc như chưa bao giờ được khóc.. Mẹ ơi! Ông ơi! Nhỏ gào như kẻ điên. Gã bạn cuống quýt ôm lưng tỏ vẻ an ủi.. Nó ngưng khóc, tát thằng bé một tát cực mạnh, đạp gã bạn ngã ra đất.
.. Tại sao nó muốn vào học trường sân khấu kia?
- Bởi đấy là một trong những cơ quan cho học viên nhiều đặc quyền, đặc lợi. Vào đoàn đó, nó được tiêu chuẩn đường, sữa, thịt để có sức khoẻ tốt, ngoại hình đẹp. Lớp của nó chỉ nhận hơn ba mươi học viên của cả ngàn người dự tranh, đấy là chưa kể phải thành phần lý lịch tốt. Nó lại là con của sĩ quan nhảy dù Pháp, không có cái chước với lão chủ tịch kia thì làm sao mà vào được. Nhưng nó cố ý là nhắm vào món bồi dưỡng đường, sữa, thịt hằng tháng cùng với tiêu chuẩn mười-sáu ký gạo cho mỗi học viên - Tiêu chuẩn cao nhất của Miền Bắc. Thì từ đó mới biết hạt gạo quý, hiếm đến thế nào đối với người Miền Bắc. Ông thi sĩ Phùng Cung phải kêu lên: Tôi cúi đầu.. Bạc tóc, dập đầu.. Lạy hạt gạo rơi.. Với tiêu chuẩn gạo đó, nhỏ chị nuôi được cả nhà bốn người.. Mầy nói gì tao không hiểu? Thì nhỏ Giang Thanh ấy dùng một nửa tiêu chuẩn (gạo) để nuôi bà, bố và hai em.. Trong suốt bảy năm liền từ 1968 đến 1974, nó chỉ ăn một ngày một lần vào buổi trưa, để dành tám ký gạo (nửa tiêu chuẩn) đem về nuôi gia đình. Suốt một thời con gái lớn lên, nó không có một chút đường, chút sữa nào hết!
Người kể trầm giọng tiếp tục: Không phải chỉ mình nó mà cả miền Bắc vậy mà mấy ai trong Nam biết đến, phải sau 1975, khi chịu chung đòn cộng sản mới vỡ lẻ ra.. Như vậy đời nó cũng phải được lúc dễ chịu chứ, từ bé đến lớn cứ khổ như vậy chịu sao nỗi! Người bạn ngao ngán, cố ý chờ nghe một điều vui.
- Những điều tao vừa kể vắn tắt cho mầy nghe ra chưa diễn tả đủ cảnh đời và cách sống của nó.. Cơ cực như thế, nhưng vào dịp Tết Trung Thu, nó vẫn cố dành dụm để nấu được một nồi cháo ám cho cả nhà.. Tại sao phải có nồi cháo ấy? Thì thuở trước khi bà bác còn sống, lúc bà tao còn trẻ, dịp lễ, tết là để cho cả nhà trổ tài nấu nướng, dọn cổ.. Ví như nồi cháo ám ấy là phải nấu với một con cá quả, thịt ba chỉ, hành phải búi lại từng củ, đủ rau thìa là, cần tây.. Trước ngày Tết âm lịch, mọi người phải tắm bằng nước rau ngò phơi khô, mặc áo quần mới để chúc tết nhau trong ngày Mồng Một. Bà tao mất trí, bác tao chết, bố nó bị khủng khoảng, hai em gái còn nhỏ trong một xã hội thiếu thốn, hạn chế của miền Bắc, nó phải một mình đóng vai chủ gia đình, người cha lẫn người mẹ từ năm chưa đến tuổi thành niên.. Đời em nó khốn nạn lắm chị ạ! Nó than thở với tao khi chị em gặp nhau năm 2005 vừa rồi. Năm nó năm-mươi tuổi.
..Năm mươi tuổi hẳn nó phải già lắm nếu như gặp phải cảnh đời như mầy vừa kể ra. Mà sao gọi là em, nhỏ ấy là vai chị mầy cơ mà.. Nó giữ lễ trăm phần trăm của người Bắc chứ không “xà bần” như mầy và tao (những người đã được “Nam Hóa” coi như toàn phần).. Ngay mợ tao, không phải là người dễ tính, nhưng buổi đầu gặp nó là chịu ngay. Nó khôn ngoan thiên bẩm thêm cảnh khó làm nên sắc sảo hơn. Nhưng cũng không hẳn là vậy, những tình thế tao vừa kể thật ra cũng không mấy khó khăn đối với nó, vì đấy là hoàn cảnh chung của cả miền Bắc trước 1975.. Dẫu rằng suốt bẩy năm từ 1968, coi như hằng ngày nó phải chạy trên trục tam giác: Khu Mai Dịch - Phố Hàng Đường - La Khê (Hà Đông) để trông bà, cha và hai em, cùng về trường học nếu không có những tai nạn nói ra đến nặng lòng, tội nghiệp..
..Sống như thế đã quá khổ, còn tai nạn nào thêm nữa đây? Người bạn nghe chuyện nói như than.
- Thì ví như lần mất chiếc xe đạp, dù chỉ có cái sườn và hai bánh xe.. Bọn cướp rình sẵn trước cổng nhà bà nó.. Như con hổ cái, một mình đánh hai thằng kẻ cắp, thằng thứ ba giật xe chạy mất, nó chạy theo thì bị một gậy đập ngang mặt, phải dùng hai ống tay để chận.. Hai tay nó giờ nầy còn sẹo và thương tật do trận đòn nầy, cũng may giữ được cái mặt đẹp, vũ công ba-lê mà mặt bị sẹo thì còn gì để múa với may. Mất xe đạp nên khi đi từ Mai Dịch về Hà Đông, nó phải nhảy tàu điện nhiều lần, tránh người soát vé để tiết kiệm vài hào bạc, chỉ khoảng một, hai cent Mỹ. Nhưng tất cả tình thế thiếu thốn vật chất ấy hình như nó coi nhẹ vì xem là điều tất nhiên, nếu không vướng phải tai nạn tình ái, hệ lụy thương yêu!
- Đã qua cảnh khổ như thế thì chuyện yêu đương trai gái có nghĩa là gì?! Người nghe chuyện lên tiếng phê bình, cũng thật sự thắc mắc về tình cảnh tâm lý của một con người đã kinh qua khốc liệt cùng cực, nhưng sao chưa đủ độ cứng cỏi, trưởng thành?
- Hỏi như thế thật ra mầy cũng chưa hiểu gì về nó - Đấy chỉ là một đứa nhỏ phải chịu cảnh đời khắc nghiệt của những người lớn (mà nó phải buộc phải thay thế).. Thế nên, khi nghe anh chàng cùng lớp (Thằng bạn thân năm trước theo nó đi đòi nợ lão chủ tịch thành phố - Nó vốn trung hậu, thẳng thắng, chơi với ai hết lòng với người ấy. Thằng nầy lại là con ông giám đốc trường sân khấu) ngõ lời yêu thương và nhất là quà cưới sẽ là chiếc xe đạp Phượng Hoàng do Trung Quốc sản xuất mà hiện nó đang mượn xử dụng. Thế là nó tin thật, chấp nhận ngay lời cầu hôn. Nó cũng nghĩ rằng: Với sắc vóc đẹp đẻ, tính tình chân thật ắt sẽ được mọi người coi trọng thương yêu. Một hôm, bất ngờ mang quà sáng đến cho thằng kia (xôi nấu từ sáng tinh mơ để chứng tỏ lòng thương yêu chăm sóc).. Tay ủ dĩa xôi, tay giữ ghi-đông xe, đạp chập choạng giữa trời đông đất Bắc.. Đi vào, bắt gặp thằng ấy đang ngủ với một đứa bạn gái cùng lớp! Nó ngất xỉu ngay trên ngưỡng cửa, lên cơn động kinh, nằm lăn ra đất, răng cắn chặt, thân thể cứng đơ như khối gỗ.. Thằng kia (hoảng sợ nếu nó chết sẽ chịu phần trách nhiệm) vạch quần đái lên mặt nó, cũng do người chung quanh thúc dục, chỉ bảo.. Tỉnh dậy, nó đi thẳng một mạch. Mặt tỉnh lạnh, mắt ráo
hoãnh. Bịnh sạch sẻ và ghê tởm liên hệ trai gái có triệu chứng từ đó, càng ngày càng rõ rệt - Nó thấy ra bộ phận sinh dục của thằng kia trước mặt trong cơn kích ngất.
Tóm lại, nó vẫn chỉ là một đứa bé gái với tâm chất trong sáng, cả tin trong một thân thể thiếu nữ đương độ phát triển, cũng vô cùng quyến rủ.
Hai Sau tai nạn tình ái, Giang Thanh trở nên lầm lì ít nói, nhưng khi cần phát biểu thì cứng cỏi giữ chắc ý kiến qua cách lớn tiếng cố chấp, không kìm giữ phản ứng quyết liệt, mạnh mẽ. Cuối năm, tháng 12, 1974 tốt nghiệp ưu hạng trường sân khấu, cũng đúng mười-chín tuổi, Giang Thanh tình nguyện đi B (chiến trường Miền Nam) với mục đích: Để gia đình “xóa thành phần” do có con là chiến sĩ văn công đi Nam. Người cha được phục hồi quyền công dân thay mặt bà ngoại coi ngôi đền nay được xếp hạng là tụ điểm sinh hoạt văn hóa nhân gian. Nhưng lý do chính, để cô em kế, Hương Thơ (sinh 1957) được ghi danh vào đại học tổng hợp và kết nộp đoàn (Đoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh), sau đó chắc chắn sẽ trở nên thành “đối tượng đảng”.
Đoàn văn công được điều động đi B vào đầu năm 1975 sau chiến dịch đánh chiếm Phuớc Long hoàn tất (12, 1974). Tuyến giao thông gọi là “đường mòn Hồ Chí Minh” nay đã là một xa lộ hai chiều chạy dọc theo sườn Đông Trường Sơn sâu nội địa Miền Nam, chứ không là đường giây “xã hội chủ nghĩa” nằm phía Tây trong lãnh thổ Lào và Campuchia của thập niên 60-70. Giang Thanh bừng bừng cảm xúc của người được tham dự vào giai đoạn quyết định lịch sử dân tộc. Thêm mối hân hoan cụ thể là hoàn cảnh gia đình được ổn định do nỗ lực của gần mười năm quên mình lo cho bà, cha và hai em. Cô để lại sổ lương, tem, phiếu gạo, thực phẩm cho cha với lời dặn.. “Con đi B chuyến nầy bình an thôi, chỉ chờ ngày giải phóng Miền Nam con sẽ về thăm bố và hai em. Hy vọng bà còn sống, và khoẻ mạnh cho đến ngày ấy. Khi nào lãnh lương con, bố đừng tiêu hết, nhớ để lại một tháng vài đồng để sau nầy nhà có cái vốn nhỏ cho hai em..” Cô không nghĩ rằng mình vừa mới hai mươi, và đời sống trước mặt có nhiều điều không thể lường trước, nghĩ ra, dự phòng tới. Buổi ra đi, người cha hiện nguyên đủ hình dạng một con người bị thời thế khuất phục, đánh vỡ mà nay dẫu cố gắng hồi phục nhưng bất lực. Ông nhìn con trong bộ quần áo vải kaki màu ô-liu, mũ tai bèo, cổ quấn khăn rằn với đôi mắt không phản ứng.. Ông nhớ ngày rất xa xưa trước kia, cũng đã có lần mặc quân phục - Quân phục của một quân đội khác - Đội ngũ đã một thời hùng mạnh vang danh thế giới, nhưng cuối cùng đã thất trận từ nơi đất nước nầy và mất hết khả năng lập lại lần vinh quang. Ông lạ với con. Ông lạ với đời sống mà ông đã sống cùng, chịu đựng, chia xẻ hằng mấy mươi năm qua. Ông hôn lên má con.. Động tác thắm thiết từ lâu không thực hiện, cũng không thấy ai lập lại, bày tỏ. Giang Thanh nhận ra (và cảm thấy rất hiện thực) phần u uẩn trong mắt người cha về một điều mơ hồ (cũng rất cụ thể) của lần đi B không hẳn là buổi vui mừng như mọi người chung quanh đang rộn rã hân hoan ca ngợi.