gioidinhhue
10-14-2010, 11:10 AM
http://vnthuquan.net/diendan/upfiles/9566/FB4BA8BE041D41159B7ACAC5694087A4.jpg
Dịch và bình chú : Thu Giang Nguyễn Duy Cần
I. LƯỢC SỬ TRANG TỬ:
Trang Châu, thường gọi là Trang tử (sống trong khoảng 369- 298 trước Tây lịch kỷ nguyên) , có lẽ là một nhà Lão học cao nhất trong các nhà Lão học cổ nhất ở Trung- Hoa. Tư- Mã- Thiên trong Sử- Ký, chương Trang tử liệt- truyện nói: "Trang tử, người xứ Mông, tên là Châu ; nhưng không thấy nói là người nước nào.
Phi Nhân trong Tập- giả dẫn Địa- lý- Chí ra mà nói: Huyện Mông, thuộc về nước Lương. Còn Tư- Mã- Trinh trong Sách- ấn dẫn lời của Lưu- Hướng trong Biệt- Lục lại nói: "người xứ Mông, nước Tống".
Như vậy, Trang tử là người nước nào? Lương hay Tống?
Mã- tự- Luân trong Trang tử Tổng nhơn khảo nghiên cứu hai thuyết trên đây rất kỹ, quả quyết rằng Trang tử là người nước Tống.
Theo họ Mã thì Trang tử sống vào khoảng Lương Huệ- Vương nguyên- niên và Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên. Lương- Huệ- Văn nguyên- niên thì thuộc về khoảng năm thứ 6 đời Châu- Liệt- Vương, còn Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên thì ném vào khoảng Châu- Văn- Vương năm thứ 17. Như vậy, chiếu theo tây lịch kỷ- nguyên, Trang tử sống vào khoảng 370 và 298 trước Tây- lịch kỷ- nguyên, nghĩa là đồng thời với Mạnh- tử, Huệ- tử bên Á, và Aristole, Zénon, Epicure bên Âu.
***
Sự tích truyền lại về đời sống Trang tử thật là mơ- hồ, không có chi có thể tin là đích xác được. Nhưng, căn cứ vào sách Trang tử, những câu chuyện thuật lại, có một giá- trị đặc biệt về phương- diện học- thuật, tưởng cũng không nên không lưu ý.
***
Đời ông rất nghèo, gần như cơ hàn.
" Trang tử nghèo túng sang Giám- hà- Hầu vay lúa. Giám- hà- Hầu nói:" Tôi có cái ấp sắp nộp tiền lúa. Tôi sẽ giúp ông trăm lượng. Có được không?"
Trang tử giận:" Hôm qua, khi Châu đến đây, giữa đường nghe có tiếng kêu. Ngoảnh lại trông, thì thấy một con cá đang vùng vẫy trong cái vết bánh xe. Châu tôi hỏi:" Cá đến đây để làm gì?" Cá nói:" Tôi là Thủy- thần ở bể Đông, ông có thể giúp tôi một chén nước mà cứu tôi không?" Châu tôi nói:" Để tôi qua chơi bên phía Nam nước Ngô nước Việt, rồi khi về, tôi sẽ lấy nước Tây- giang về đón ngươi. Có được không?" Cá giận nói:" Tôi đang cần nước, ông chỉ cho tôi được một ít là đủ sống. Nay nói như ông, đợi đến lúc ông về thì đến hàng cá khô, sẽ thấy tôi nơi ấy!"
(Ngoại- Vật)
***
Ở thiên Sơn- Mộc cũng có nói:
" Trang tử bận áo vải mà vá, giày cột bằng dây gai
Gặp Ngụy- vương. Ngụy vương nói:
" Tiên- sinh khổ não thế ư?
Trang tử nói:" Nghèo, chứ không khổ- não. Kẻ sĩ có Đạo- Đức, Lão bao giờ khổ. áo rách, giày hư là nghèo, không phải khổ. Đó chẳng qua là vì không gặp thời mà thôi. Phàm con khỉ con vượn nhảy nhót đặng thong thả là nhờ gặp được rừng cây to cành dài, trơn tru dai dẻo. Dù cho bậc thiện xạ như Phùng- Mông cũng không sao hạ nó được. Nếu nó rủi gặp phải cây khô, gai góc, thì sự hoạt động ắt khó- khăn chậm chạp. Cũng thời một con thú, mà sự cử- động dễ khó khác nhau, chẳn qua vì gặp phải hoàn- cảnh không thuận làm cho nó không tự- do dùng tận sở- năng của nó. Nay, sanh không nhằm thời, trên thì hôn- má, dưới thì loạn- tặc lại muốn không cực nhọc vất vả, có được không?"
***
Tuy là nghèo, mà lòng vẫn luôn-luôn thanh- cao, không bao giờ chịu bó thân trong cảnh vinh hoa phú quý. Tài Trí ấy, nếu muốn lợi danh, ắt hẳn đã có lợi danh lập- tức. Nhưng, ông một mực chối từ
Sở Uy- Vương đã từng nghe danh tài của ông, đã từng vời ông ra làm khanh- tướng.
" Trang tử câu trên sông Bộc. Sở- Vương sai hai quan đại phu đem lễ vật mời ông ra làm quan. Trang tử cầm cần câu không nhúc nhích cũng không thèm nhìn lại, nói:" Tôi nghe vua Sở có con thần quy, chết đã ba nghìn năm. Vua Sở quý nó và cất trên miếu đường. Con quy ấy, chịu chết để lưu lại cái xương của mình cho người sau quý trọng hay lại chịu thà sống mà kéo lê cái đuôi của mình trong bùn?" Hai vị đại- phu nói:" Thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn còn hơn!"
Trang tử nói:" Thôi, về đi. Ta đây cũng chịu kéo lê cái đuôi của mình trong bùn" (Thu- Thủy)
***
Ở mục Lão Trang Thân Hàn Liệt Nguyên trong Sử Ký, Tư Mã Thiên đoạn bàn về nhân cách của ông:" Uy- vương nước Sở nghe nói Trang Châu là người hiền trong thiên hạ, sai sứ đem hậu lễ đón, muốn mời ra làm Tướng. Trang Châu cười, bảo với sứ giả:" Cái lợi của nghìn vàng quả trọng thật, cái địa vị khanh tướng quả cũng quý thật. Nhưng riêng ông chả thấy con bò tế hay sao? được người ta săn sóc, được mặc đồ trang sức văn- vẻ để đưa vào Thái- miếu. Lúc ấy dù có muốn được làm con lợn côi há còn được nữa hay không? ông hãy đi đi, chớ có đến làm nhục ta. Thà ta dong chơi ở chốn bùn lầy nhơ bẩn còn thấy sung sướng hơn là để cho kẻ làm chủ một nước kia trói buộc được ta"
***
" Nước Tống, có Tào- Thương, được vua sai đi sứ nước Tấn. Khi ra đi, số xe vừa đủ đi. Đi sứ nước Tần, đẹp lòng vua Tần, được ban thêm trăm cỗ xe.
Khi về Tống, gặp Trang tử, nói:" Phàm sống trong chốn cùng lư, ngõ hẹp, áo giày xốc xếch, thiếu hụt, khốn đốn cùng khổ như ông, Thương này không thể chịu được. Làm cho bực chủ muôn xe vừa ý, để hậu thưởng trăm xe, đó là chỗ sở trường của Thương này vậy".
Trang tử nói:" Tôi nghe nói Tần- vương có bệnh, triệu thầy thuốc vào chữa. Nếu mổ được mụt ung của ông ta, thì được thưởng một xe. Còn ai liếm mụt ung, thì được thưởng năm xe. Cách trụ càng hạ tiện bao nhiêu, thì số xe ban thưởng càng được tăng thêm bấy nhiêu. ông đã trị bệnh Tấn- vương cách nào mà được nhiều xe đến thế?" (Liệt- ngự- khẩu)
***
" Huệ- tử làm quan nước Lương, Trang tử tính qua nước Lương thăm. nhưng, có kẻ nói với Huệ- tử:" Trang tử mà qua đây, là để cùng ông tranh ngôi tướng quốc." Huệ- tử sợ, cho kẻ canh chừng suốt ba ngày ba đêm, đợi Trang tử đến thì bắt.
Trang tử hay chuyện, không đi.
Sau rồi lại đến. Gặp Huệ- tử, Trang tử bảo:" Phương Nam có con chim tên là Uyên- Sồ, ông có biết không? Uyên- sồ từ biển Nam bay qua biển Bắc, nếu không gặp cây ngô đồng thì không chịu đậu; nếu không gặp hột luyện thì không ăn; nếu không gặp nước suối trong thì không uống. Có con chim ụt đang rỉa xác chuột chết giữa cánh đồng thấy Uyên- sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn nên kêu to lên để dọa Uyên- sồ đừng đáp xuống. Nay, vì sợ cái ngôi tướng quốc của ông ở nước Lương nên ông kêu to lên để dọa tôi sao?"
(Thu- Thủy)
***
Theo truyền thuyết thì Trang tử giao du rất thân mật với Huệ- tử, tên là Thi, cũng là người Tống, và thường hay biện- nạn với nhau luôn. Trong sách Trang tử có rất nhiều sự tích về sự tranh luận của hai nhà, cho ta thấy nhân- sinh- quan, cũng như lập- trường tư- tưởng của đôi bên, khác nhau xa, mặc dù hai bên cùng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
" Huệ- tử nói với Trang tử: Ngụy- Vương thưởng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhấc được. Bổ nó ra làm bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó đi.
Trang tử nói: Thế là ông vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được món thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân tộc bàn rằng: Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng ấy, vậy xin để cho bán.
Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa Đông, thủy chiến với người nước Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng cho anh ta. Cũng thời một phương thuốc trị rạn nứt da tay, mà một người được phong, một người không ra khỏi cái nghề ươm tơ; đó là tại chỗ biết dùng hay không biết dùng mà khác nhau vậy.
Nay ông có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không biết dùng nó làm trái nổi mà thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ đắc dụng? Thì ra vì cái lòng của ông hẹp hòi chưa trực- đạt đó".
(Tiêu- Diêu- Du)
***
" Một khi khác, Huệ- tử nói với Trang tử:" Tôi có cột cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh gốc nó thì cong queo không đúng quy củ. Đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô- dụng, nên người người đều không thèm nghe."
Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Co mình đứng núp, nhìn vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng không thể bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm nghỉ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"
(Tiêu- Diêu- Du)
***
" Huệ- tử gọi Trang tử mà nói:" Lời của ông vô- dụng". Trang tử nói:" biết cái chi là vô dụgn, thì cũng đã biết nó sao là hữu dụng. Như đất rộng, người ta cho nó là hữu dụng, vì nhờ nó mà đi được. Nhưng, nếu trật chân té chìm tận suối vàng, người ta còn gọi nó là hữu dụng nữa không?
Huệ- tử nói: Vô- dụng.
Trang tử nói: Vậy thì rõ vô- dụng là hữu- dụng đó."
(Ngoại- vật)
***
Ở thiên Thu- Thủy, thuật rằng:
" Trang tử cùng Huệ- tử đứng chơi trên cầu hào thành. Trang tử nói:" Cá xanh, bơi lội thung dung. Cá vui đó." Huệ- tử nói:" Ông không phải là cá, sao biết cá vui?"
Trang tử nói:" Ông không phải tôi, sao biết tôi không biết!"
Huệ- tử nói:" tôi không phải ông, nên không thể biết được ông, còn ông không phải cá, ông cũng không sao biết được cái vui của cá."
Trang tử nói:" Xin xét lại câu hỏi đầu. Ông hỏi tôi làm sao biết được cá vui? Đã biết là tôi biết, ông mới có hỏi" làm sao mà biết" Thì đây, làm thế nầy: tôi đứng trên hào thành mà biết được".
(Thu- Thủy)
***
Về sau, Huệ- tử mất. Một khi Trang tử đi qua mộ ông, tỏ ý thương tiếc:" Từ khi phu- tử mất, tôi còn cùng ai chất vấn, bàn bạc được nữa!"
Gia- đình ông như thế nào, sử không thấy nói. Chỉ biết ông có vợ, và vợ ông chết.
" Vợ Trang tử chết, Huệ- tử đến điếu. Thấy Trang tử ngồi, duỗi xoác hai chân, vừa vỗ bồn, vừa ca.
Huệ- tử nói: Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng đã là quá rồi, còn vỗ bồn ca, không phải thái quá sao?
Trang tử nói: Không. Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng. Nhưng nghĩ lại hồi trước, đó vốn là không sinh. Chẳng những là không sinh, mà đó vốn là không hình, mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp- chất ở trong hư không mà biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Sinh, hình, khí, tử có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa hành- vận. Vả lại, người ta nay đã yên nghỉ nơi Nhà- Lớn mà tôi cứ than khóc chẳng là tự nói không thông Mạng ư? Nên tôi không khóc."
(Chí- Lạc)
***
Trang tử mất vào năm nào, thì không thấy có sách nào ghi chép. Chỉ biết rằng lúc" Trang tử gần chết, các đệ tử muốn hậu táng, nhưng Trang tử không cho. Trang tử nói:" Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh- tú làm ngọc châu, vạn- vật làm lễ tống. Đám táng của ta như vậy, không đủ sao? Mà còn thêm chi cho lắm việc!"
Đệ tử thưa:" Chúng con sợ diều quạ ăn xác Thầy!"
Trang tử nói:" Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây mà cho riêng đó, sao lại có thiên lệch thế!"
(Liệt- Ngự- Khẩu)
II. UYÊN- NGUYÊN CỦA HỌC- THUYẾT TRANG TỬ:
Cái học của Trang tử, tuy do Lão tử mà ra, nhưng biệt lập ra một phái riêng: phái Trang học.
Sử- Ký cho rằng" cái học của ông không đâu là bàn không đến, nhưng gốc ở lời dạy của Lão tử" (1)
Phê- bình học- thuyết Trang tử, thiên Thiên- Hạ trong sách Trang tử có nói:" Đạo vẫn thâm mật, vô hình mà biến hóa vô thường. Chết, Sống cùng Trời Đất ngang nhau, cùng thần minh qua lại và lui tới mà thấy không thiết- thực. Vạn- vật bao la mà lúc trở về, không thêm cho Đạo. Đó là chỗ nghiên cứu của người xưa. Chỗ đó Trang Châu nghe qua, đẹp ý. Muốn truyền- bá nó ra, Trang Châu mượn câu chuyện mậu- ngộ, tiếng nói hoang- đường, lời văn không bền, thường phóng- túng mung- lung mà không cao dị Trang Châu thấy đời chìm đắm trong ô- trọc, không hiểu được lời mình nên dùng" chi ngôn" mà gieo khắp, dùng" trùng ngôn" làm thực sự, dùng" ngu ngôn" cho rộng hiểu. Rồi riêng một mình lại qua cùng trời đất tinh- thần mà không ngạo- nghễ vạn- vật không hỏi tội thị phi, lại sống chung cùng thế- tục. Sách của Trang Châu thì khôi- vĩ mà dịu dàng, không hại. Lời tuy sâm- si, mà thầy đặng ý răn lòng khi trá. Chỗ sung- thực của đó không dừng đặng. Trên thì dạo cùng tạo vật, dưới bạn cùng" ngoại tử sanh, vô chung- thủy". Bản nguyên của đó thì hoằng- đại mà sáng sủa, sâu rộng và phóng túng. Tông chỉ của đó có thể thích- hợp với bậc thượng- trí. Tuy nhiên, tông- chỉ và bản- căn đó đều ứng theo tạo hóa mà đạt đến vạn- vật. Lý của đó thì không cùng."
(Thiên- hạ)
***
Như vậy, ta thấy rằng học thuật của Lão và Trang, có chỗ không đồng nhau.
Lão tử cho rằng" cứng rắn thì dễ bị bể nát, nhọn bén thì dễ bị mòn lụt"; và" Kiên cường giả, tử chi đồ" (chương 76) (cứng và mạnh hơn là bạn của cái chết) , cho nên ông chỉ cho con người con đường để mà tránh khỏi sự đổ nát mòn gẫy" Trì nhi doanh chi, bất như kỳ dĩ; suy nhi chuyết chi, bất khả trường bảo, kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu; công toại thân thối: thiên chi đạo". (Ôm giữ chậu đầy, chẳng bằng thôi đi. Dùng dao sắc bén, không bén được lâu; vàng ngọc đầy nhà, khó mà giữ lâu; giàu sang mà kiêu, tự vời họa ưu; nên việc lui thần, đó là đạo Trời) . (Đạo Đức Kinh chương 9) .
Trang tử thì chủ trương sự" vô chung- thủy, ngoại tử sinh", cho nên chỗ mà Lão tử thắc- mắc chăm- chú, thì Trang tử lại nhìn với cặp mắt thản nhiên, lạnh- lùng như không đáng kể.
***
Trong thời kỳ Tiền Hán (2) , tư- tưởng của Lão học được truyền bá, còn tư tưởng của Trang học thì mãi đến thời Hậu- Hán (3) mới được đề cập đến và phổ- biến.
Buổi đầu nhà Hán, danh từ Hoàng- Lão được xưng- tụng và phổ- thông, nhưng đến cuối nhà Hán (4) mới đổi ra thành danh- từ Lão Trang.
Các nhà chú giải Lão tử, sống vào khoảng đầu nhà Hán, không hề nói đến tên Trang tử, còn các nhà chú- giải Trang tử thì thuộc về khoảng nhà Tần (265- 420) sau Tây- lịch kỷ- nguyên, tức là triều- đại nối liền với nhà Hán (Tam- Quốc) . Cho nên, các học giả đời Hán, khi nói đến Lão học là chỉ nghĩ đến Lão tử mà thôi, nghĩa là chỉ quan tâm đến vấn đề đối phó với thời cuộc. Cho nên trong Nghệ- Văn- Chi sở dĩ cho rằng Lão học (tức là cái học của Lão tử) là" phương- pháp của các bậc vương- đạo tại- vị", là vì thế. Thật vậy, Lão tử soạn quyển Đạo- Đức Kinh là cho các nhà cầm quyền trị nước thời bấy giờ: ông đề- xướng giải- pháp" vô- vi nhi trị".
Tư- Mã- Thiên nói về cái học của Lão Trang có viết:" Triết- lý của Trang tử, khác với Lão tử, lại muốn siêu- thoát khỏi vấn- đề nhân- gian thế- sự. Khi ông nói đến các vì vua đầu tiên của nhà Hán, cho rằng các bậc ấy lấy" vô vi nhi- trị" là có ý muốn nói rằng các bậc trị nước ấy áp dụng triết lý của Lão tử. Chỉ đến cuối đời nhà Hán (220 sau T. L) thì người ta mới bắt đầu chú ý đến Huyền- học, bấy giờ sách của Lão tử cũng được người ta dùng cái học của Trang tử mà giải thích. Như vậy ta thấy rằng, tuy khởi thủy hầ như lập trường triết- lý của hai nhà đứng riêng nhau mà vẫn có sự liên hệ với nhau luôn."
Chỗ tương đồng của Lão tử và Trang tử là cả hai đều cùng một quan niệm về Đạo và Đức, và cả hai đều chống đối tư tưởng truyền thống và chế độ đương thời. Và, vì vậy mà Tư- Mã- Thiên đặt tên học- phái nầy là Đạo- Đức Gia, vì ông cho rằng hai quan niệm Đạo và Đức là nền tảng chung của Lão học.
***
Trang tử sống vào khoảng nửa thế kỷ thứ ba trước Tây lịch kỷ- nguyên (369- 298 trước T. L kỷ- nguyên) tức là thuộc về một thời- kỳ hỗn- loạn nhất của Trung- Hoa: thời Chiến- quốc. Bởi vậy, có người cho rằng" trước một hoàn- cảnh xã hội nhiễu nhương mà phải trái rối bời, thật giả không phân, chúng ta hẳn không lấy chi làm lạ mà thấy Trang tử chủ trương tư tưởng siêu nhiên, đem cặp mắt bình thản mà lạnh lùng mà nhìn xem xã hội sự vật". Nói thế, không hẳn là không có lý do, vì nếu xét chung tư tưởng của Trang tử, ta thấy ông cực lực phản đối hầu hết mọi học thuyết, chế độ của đương thời
ở thiên Tề- Vật- Luận, ông nói:" Cố hữu Nho, Mặc chi thị phi, dĩ thị kỳ sở phi, nhi phi kỳ sở thị". (bởi vậy mới có cái Phải Quấy của Nho Mặc. Nho Mặc thì lấy Phải làm Quấy, lấy Quấy làm Phải)
Đại diện cho Nho- học thời bấy giờ thì có Mạnh- tử; còn đại diện cho Mặc- học thì có Tống Hinh, Huệ- Thi và Công- tôn Long thì đại diện cho nhóm danh gia.
Ở thiên Tề- Vật- Luận ông nói:" Vị thành hổ tâm nhi hữu Thị Phi, thị kim nhật thích Việt nhi tích chi dã Cổ dĩ kiên bạch chi muội chung" (Lòng mình vì chưa thành mà có Phải Quấy. Nên chi ngày hôm nay đi sang nước Việt mà từ bữa hôm qua đã tới đó rồi vậy Cho nên, suốt đời cam chịu tối tăm vì thuyết" Kiên Bạch") .
Câu" kim nhật thích Việt nhi tích chí dã" là ám chỉ biện- thuyết của Huệ Thi; còn câu" dĩ kiên- bạch chi muội chung" là nói về thuyết Liên bạch của Công- tôn Long.
đó là những chỗ mà Trang tử phê bình học thuyết của người đồng thời, đem cái thuyết" tề thị phi, đồng dị, tiểu đại" của ông ra mà châm đối các nhà thích dùng bịên luận. Theo ông thì" đại diện bất ngôn", còn những biện giả trên đâu chỏ là những bọn người biện đặt. (tiểu biện) .
Thời ấy có Tử- Hoa- tử chủ trương sự" toàn sinh vi thượng" và Đảm- Hà chủ trương" vị- thân, bất vị quốc", đều là những kẻ thừa hưởng cái học của Dương- Chu. Trang tử đem cái thuyết Tề- Vật để đánh đổ lòng tư- kỷ, chia phân Nhĩ- Ngã của người đồng thời còn sống thiên trong giới Nhị- nguyên. Là vì, theo Trang tử, hễ còn nói" vì mình" tức là còn thấy chỉ có mình mà không thấy có người, trong khi sự thật thì" Vật Ngã vi Nhất".
Ở thiên Đại- Tông- Sư ông viết: Cố chi chân- nhân, bất tri duyệt sanh, bất tri ố- tử Bất tri sở dĩ sanh, bất tri sở dĩ tử, bất tri tựu tiên, bất tri tựu hậu" (Bậc chân nhân đời xưa, không tham sống, không ghét chết Không biết chỗ sở dĩ sống, không biết chỗ sở dĩ chết, không biết chỗ đến trước, không biết chỗ đến sau) Nghĩa là người đạt Đạo phải là kẻ đứng trên vấn đề Sanh, Tử, không vị kỷ, không quá chú trọng đến bản thân mà suy tính lợi hại quá đáng như các chủ trương nói trên.
Phản đối những tư tưởng vị kỷ, tức là phản đối lòng tham lam ích kỷ, ông lại cũng phản đối cả sự" Xá- ký thích- nhơn", nghĩa là bỏ cái chân- tanh của mình mà chạy theo kẻ khác. ở thiên Đại- Tông- Sư ông nói:" Hành danh thất kỳ, phi sĩ dã. Vong thân bất chân, phi dịch nhân dã. (Làm theo danh, mà bỏ mất mình, không phải là kẻ sĩ. Làm mất thân mình, không rõ cái lẽ chân thật nơi mình, cũng chẳng phải là kẻ sai được người vậy) . Ông cho rằng" như Hồ- Bất- Giai, Vụ- Quang, Bá- Di, Thúc- Tề, Cơ- Tử, Tử- Dư, Kỷ- Tha, Thân Đồ- Địch, thị dịch nhân chi dịch, thích nhân chi thích nhi bất tự thích kỳ thích giả dã. (Đại- Tông- Sư)
Và, như Lão tử, ông cũng cực lực phản đối Nhân, Nghĩa của phái hữu- vi thời ấy. Cái học" trục- vật" và sự" cầu- tri" cũng bị ông đả phá:" Ngô sinh đã hữu nhai, nhi tri đã vô nhai. Dĩ hữu nhai, tùy vô nhai, đãi hĩ!" (Dưỡng-Sinh- Chủ) .
***
Tóm lại, đối với thời đại, ông phản đối hầu hết các học thuyết cùng chế độ thời đó: phản đối Nho, Mặc, phản đối nhóm danh gia biện thuyết như Huệ- Thi, Công- Tôn- Long, phản đối lòng vị- kỷ, trọng tử- sinh, sát lợi- hại, phản đối cả Nhân, Nghĩa và cái thói" cầu- tri", " trục- học", " xá- kỷ thích nhơn", nhất là những hành động hứu- vi của nhóm pháp- gia thời bấy giờ.
Tuy nhiên sự phản đối ấy của Trang tử không phải là lối phản đối công kích của người phản thế (ghét đời là vì bất mãn đối với đời) mà thực ra là lối lập- ngôn đặc biệt của người đã" vượt qua bến bên kia" " đáo bỉ ngạn", theo danh từ nhà Phật, con người giải thoát" để trở về nguồn cội" của cái" Sống Một" mà ta sẽ thấy trình bày sau đây.
Xem day du tai day :
http://khongtu.com/forum/showthread.php?t=165
Dịch và bình chú : Thu Giang Nguyễn Duy Cần
I. LƯỢC SỬ TRANG TỬ:
Trang Châu, thường gọi là Trang tử (sống trong khoảng 369- 298 trước Tây lịch kỷ nguyên) , có lẽ là một nhà Lão học cao nhất trong các nhà Lão học cổ nhất ở Trung- Hoa. Tư- Mã- Thiên trong Sử- Ký, chương Trang tử liệt- truyện nói: "Trang tử, người xứ Mông, tên là Châu ; nhưng không thấy nói là người nước nào.
Phi Nhân trong Tập- giả dẫn Địa- lý- Chí ra mà nói: Huyện Mông, thuộc về nước Lương. Còn Tư- Mã- Trinh trong Sách- ấn dẫn lời của Lưu- Hướng trong Biệt- Lục lại nói: "người xứ Mông, nước Tống".
Như vậy, Trang tử là người nước nào? Lương hay Tống?
Mã- tự- Luân trong Trang tử Tổng nhơn khảo nghiên cứu hai thuyết trên đây rất kỹ, quả quyết rằng Trang tử là người nước Tống.
Theo họ Mã thì Trang tử sống vào khoảng Lương Huệ- Vương nguyên- niên và Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên. Lương- Huệ- Văn nguyên- niên thì thuộc về khoảng năm thứ 6 đời Châu- Liệt- Vương, còn Triệu- Huệ- Văn nguyên- niên thì ném vào khoảng Châu- Văn- Vương năm thứ 17. Như vậy, chiếu theo tây lịch kỷ- nguyên, Trang tử sống vào khoảng 370 và 298 trước Tây- lịch kỷ- nguyên, nghĩa là đồng thời với Mạnh- tử, Huệ- tử bên Á, và Aristole, Zénon, Epicure bên Âu.
***
Sự tích truyền lại về đời sống Trang tử thật là mơ- hồ, không có chi có thể tin là đích xác được. Nhưng, căn cứ vào sách Trang tử, những câu chuyện thuật lại, có một giá- trị đặc biệt về phương- diện học- thuật, tưởng cũng không nên không lưu ý.
***
Đời ông rất nghèo, gần như cơ hàn.
" Trang tử nghèo túng sang Giám- hà- Hầu vay lúa. Giám- hà- Hầu nói:" Tôi có cái ấp sắp nộp tiền lúa. Tôi sẽ giúp ông trăm lượng. Có được không?"
Trang tử giận:" Hôm qua, khi Châu đến đây, giữa đường nghe có tiếng kêu. Ngoảnh lại trông, thì thấy một con cá đang vùng vẫy trong cái vết bánh xe. Châu tôi hỏi:" Cá đến đây để làm gì?" Cá nói:" Tôi là Thủy- thần ở bể Đông, ông có thể giúp tôi một chén nước mà cứu tôi không?" Châu tôi nói:" Để tôi qua chơi bên phía Nam nước Ngô nước Việt, rồi khi về, tôi sẽ lấy nước Tây- giang về đón ngươi. Có được không?" Cá giận nói:" Tôi đang cần nước, ông chỉ cho tôi được một ít là đủ sống. Nay nói như ông, đợi đến lúc ông về thì đến hàng cá khô, sẽ thấy tôi nơi ấy!"
(Ngoại- Vật)
***
Ở thiên Sơn- Mộc cũng có nói:
" Trang tử bận áo vải mà vá, giày cột bằng dây gai
Gặp Ngụy- vương. Ngụy vương nói:
" Tiên- sinh khổ não thế ư?
Trang tử nói:" Nghèo, chứ không khổ- não. Kẻ sĩ có Đạo- Đức, Lão bao giờ khổ. áo rách, giày hư là nghèo, không phải khổ. Đó chẳng qua là vì không gặp thời mà thôi. Phàm con khỉ con vượn nhảy nhót đặng thong thả là nhờ gặp được rừng cây to cành dài, trơn tru dai dẻo. Dù cho bậc thiện xạ như Phùng- Mông cũng không sao hạ nó được. Nếu nó rủi gặp phải cây khô, gai góc, thì sự hoạt động ắt khó- khăn chậm chạp. Cũng thời một con thú, mà sự cử- động dễ khó khác nhau, chẳn qua vì gặp phải hoàn- cảnh không thuận làm cho nó không tự- do dùng tận sở- năng của nó. Nay, sanh không nhằm thời, trên thì hôn- má, dưới thì loạn- tặc lại muốn không cực nhọc vất vả, có được không?"
***
Tuy là nghèo, mà lòng vẫn luôn-luôn thanh- cao, không bao giờ chịu bó thân trong cảnh vinh hoa phú quý. Tài Trí ấy, nếu muốn lợi danh, ắt hẳn đã có lợi danh lập- tức. Nhưng, ông một mực chối từ
Sở Uy- Vương đã từng nghe danh tài của ông, đã từng vời ông ra làm khanh- tướng.
" Trang tử câu trên sông Bộc. Sở- Vương sai hai quan đại phu đem lễ vật mời ông ra làm quan. Trang tử cầm cần câu không nhúc nhích cũng không thèm nhìn lại, nói:" Tôi nghe vua Sở có con thần quy, chết đã ba nghìn năm. Vua Sở quý nó và cất trên miếu đường. Con quy ấy, chịu chết để lưu lại cái xương của mình cho người sau quý trọng hay lại chịu thà sống mà kéo lê cái đuôi của mình trong bùn?" Hai vị đại- phu nói:" Thà sống mà kéo lê cái đuôi trong bùn còn hơn!"
Trang tử nói:" Thôi, về đi. Ta đây cũng chịu kéo lê cái đuôi của mình trong bùn" (Thu- Thủy)
***
Ở mục Lão Trang Thân Hàn Liệt Nguyên trong Sử Ký, Tư Mã Thiên đoạn bàn về nhân cách của ông:" Uy- vương nước Sở nghe nói Trang Châu là người hiền trong thiên hạ, sai sứ đem hậu lễ đón, muốn mời ra làm Tướng. Trang Châu cười, bảo với sứ giả:" Cái lợi của nghìn vàng quả trọng thật, cái địa vị khanh tướng quả cũng quý thật. Nhưng riêng ông chả thấy con bò tế hay sao? được người ta săn sóc, được mặc đồ trang sức văn- vẻ để đưa vào Thái- miếu. Lúc ấy dù có muốn được làm con lợn côi há còn được nữa hay không? ông hãy đi đi, chớ có đến làm nhục ta. Thà ta dong chơi ở chốn bùn lầy nhơ bẩn còn thấy sung sướng hơn là để cho kẻ làm chủ một nước kia trói buộc được ta"
***
" Nước Tống, có Tào- Thương, được vua sai đi sứ nước Tấn. Khi ra đi, số xe vừa đủ đi. Đi sứ nước Tần, đẹp lòng vua Tần, được ban thêm trăm cỗ xe.
Khi về Tống, gặp Trang tử, nói:" Phàm sống trong chốn cùng lư, ngõ hẹp, áo giày xốc xếch, thiếu hụt, khốn đốn cùng khổ như ông, Thương này không thể chịu được. Làm cho bực chủ muôn xe vừa ý, để hậu thưởng trăm xe, đó là chỗ sở trường của Thương này vậy".
Trang tử nói:" Tôi nghe nói Tần- vương có bệnh, triệu thầy thuốc vào chữa. Nếu mổ được mụt ung của ông ta, thì được thưởng một xe. Còn ai liếm mụt ung, thì được thưởng năm xe. Cách trụ càng hạ tiện bao nhiêu, thì số xe ban thưởng càng được tăng thêm bấy nhiêu. ông đã trị bệnh Tấn- vương cách nào mà được nhiều xe đến thế?" (Liệt- ngự- khẩu)
***
" Huệ- tử làm quan nước Lương, Trang tử tính qua nước Lương thăm. nhưng, có kẻ nói với Huệ- tử:" Trang tử mà qua đây, là để cùng ông tranh ngôi tướng quốc." Huệ- tử sợ, cho kẻ canh chừng suốt ba ngày ba đêm, đợi Trang tử đến thì bắt.
Trang tử hay chuyện, không đi.
Sau rồi lại đến. Gặp Huệ- tử, Trang tử bảo:" Phương Nam có con chim tên là Uyên- Sồ, ông có biết không? Uyên- sồ từ biển Nam bay qua biển Bắc, nếu không gặp cây ngô đồng thì không chịu đậu; nếu không gặp hột luyện thì không ăn; nếu không gặp nước suối trong thì không uống. Có con chim ụt đang rỉa xác chuột chết giữa cánh đồng thấy Uyên- sồ bay ngang, sợ nó giành miếng ăn nên kêu to lên để dọa Uyên- sồ đừng đáp xuống. Nay, vì sợ cái ngôi tướng quốc của ông ở nước Lương nên ông kêu to lên để dọa tôi sao?"
(Thu- Thủy)
***
Theo truyền thuyết thì Trang tử giao du rất thân mật với Huệ- tử, tên là Thi, cũng là người Tống, và thường hay biện- nạn với nhau luôn. Trong sách Trang tử có rất nhiều sự tích về sự tranh luận của hai nhà, cho ta thấy nhân- sinh- quan, cũng như lập- trường tư- tưởng của đôi bên, khác nhau xa, mặc dù hai bên cùng chịu ảnh hưởng lẫn nhau.
" Huệ- tử nói với Trang tử: Ngụy- Vương thưởng tôi một giống dưa to. Tôi trồng nó có trái nặng đến năm thạch. Dùng nó đựng nước, nó nặng, không cất nhấc được. Bổ nó ra làm bầu, thì lại không còn dùng được chỗ nào. Đâu phải nó không to lớn, nhưng vì cho nó là vô dụng nên tôi đập bỏ nó đi.
Trang tử nói: Thế là ông vụng về chỗ đại dụng nó. Nước Tống có người khéo chế được món thuốc chữa răn nứt da tay, đời đời chuyên làm nghề ươm tơ. Có người hay biết, đến xin mua phương thuốc đó một trăm lượng vàng. Anh ta bèn nhóm thân tộc bàn rằng: Nhà ta đời đời làm nghề ươm tơ, lợi không hơn số vàng ấy, vậy xin để cho bán.
Người khách được phương thuốc, đem thuyết vua Ngô. Nước Việt có nạn, vua Ngô sai anh làm tướng. Nhằm mùa Đông, thủy chiến với người nước Việt, người Việt đại bại. Vua Ngô bèn cắt đất mà phong thưởng cho anh ta. Cũng thời một phương thuốc trị rạn nứt da tay, mà một người được phong, một người không ra khỏi cái nghề ươm tơ; đó là tại chỗ biết dùng hay không biết dùng mà khác nhau vậy.
Nay ông có trái dưa nặng đến năm thạch, sao không biết dùng nó làm trái nổi mà thả qua sông qua hồ, mà lo chi hồ vỡ bầu tan, không có chỗ đắc dụng? Thì ra vì cái lòng của ông hẹp hòi chưa trực- đạt đó".
(Tiêu- Diêu- Du)
***
" Một khi khác, Huệ- tử nói với Trang tử:" Tôi có cột cây to, người ta gọi nó là cây Vu. Gốc nó lồi lõm không đúng dây mực. Nhánh gốc nó thì cong queo không đúng quy củ. Đem trồng nó ở đường cái, người thợ mộc cũng không thèm nhìn. Nay lời nói của ông to lớn mà vô- dụng, nên người người đều không thèm nghe."
Trang tử nói:" Ông riêng chẳng thấy con mèo rừng đó sao? Co mình đứng núp, nhìn vật đi rong, nhảy tây nhảy đông, không hiềm cao thấp, kẹt trong dò bẫy, chết nơi lưới rập. Đến như con thai ngưu, lớn như vầng mây che một phương trời, kể ra cũng là to thật, nhưng không thể bắt được chuột. Nay ông có cây to, lại sợ nó vô dụng. Sao không đem nó trồng nơi tịch mịch, giữa cánh đồng rộng bao la. Khách ngao du không làm gì, ngồi nghỉ dưới gốc nó, khách tiêu diêu nằm nghỉ dưới bóng nó. Nó sẽ không chết yểu vì búa rìu, cũng không sợ vật nào làm hại. Không có chỗ nào có thể dùng được, thì khốn khổ từ đâu mà đến được?"
(Tiêu- Diêu- Du)
***
" Huệ- tử gọi Trang tử mà nói:" Lời của ông vô- dụng". Trang tử nói:" biết cái chi là vô dụgn, thì cũng đã biết nó sao là hữu dụng. Như đất rộng, người ta cho nó là hữu dụng, vì nhờ nó mà đi được. Nhưng, nếu trật chân té chìm tận suối vàng, người ta còn gọi nó là hữu dụng nữa không?
Huệ- tử nói: Vô- dụng.
Trang tử nói: Vậy thì rõ vô- dụng là hữu- dụng đó."
(Ngoại- vật)
***
Ở thiên Thu- Thủy, thuật rằng:
" Trang tử cùng Huệ- tử đứng chơi trên cầu hào thành. Trang tử nói:" Cá xanh, bơi lội thung dung. Cá vui đó." Huệ- tử nói:" Ông không phải là cá, sao biết cá vui?"
Trang tử nói:" Ông không phải tôi, sao biết tôi không biết!"
Huệ- tử nói:" tôi không phải ông, nên không thể biết được ông, còn ông không phải cá, ông cũng không sao biết được cái vui của cá."
Trang tử nói:" Xin xét lại câu hỏi đầu. Ông hỏi tôi làm sao biết được cá vui? Đã biết là tôi biết, ông mới có hỏi" làm sao mà biết" Thì đây, làm thế nầy: tôi đứng trên hào thành mà biết được".
(Thu- Thủy)
***
Về sau, Huệ- tử mất. Một khi Trang tử đi qua mộ ông, tỏ ý thương tiếc:" Từ khi phu- tử mất, tôi còn cùng ai chất vấn, bàn bạc được nữa!"
Gia- đình ông như thế nào, sử không thấy nói. Chỉ biết ông có vợ, và vợ ông chết.
" Vợ Trang tử chết, Huệ- tử đến điếu. Thấy Trang tử ngồi, duỗi xoác hai chân, vừa vỗ bồn, vừa ca.
Huệ- tử nói: Cùng người ở tới già, có con lớn mà người chết lại không khóc, cũng đã là quá rồi, còn vỗ bồn ca, không phải thái quá sao?
Trang tử nói: Không. Lúc nàng mới chết, tôi sao chẳng động lòng. Nhưng nghĩ lại hồi trước, đó vốn là không sinh. Chẳng những là không sinh, mà đó vốn là không hình, mà đó vốn là không khí. Đó chẳng qua là tạp- chất ở trong hư không mà biến ra mà có khí, khí biến ra mà có hình, hình biến ra mà có sinh, rồi lại biến ra nữa mà có tử. Sinh, hình, khí, tử có khác nào xuân, hạ, thu, đông, bốn mùa hành- vận. Vả lại, người ta nay đã yên nghỉ nơi Nhà- Lớn mà tôi cứ than khóc chẳng là tự nói không thông Mạng ư? Nên tôi không khóc."
(Chí- Lạc)
***
Trang tử mất vào năm nào, thì không thấy có sách nào ghi chép. Chỉ biết rằng lúc" Trang tử gần chết, các đệ tử muốn hậu táng, nhưng Trang tử không cho. Trang tử nói:" Ta có trời đất làm quan quách, nhật nguyệt làm ngọc bích, tinh- tú làm ngọc châu, vạn- vật làm lễ tống. Đám táng của ta như vậy, không đủ sao? Mà còn thêm chi cho lắm việc!"
Đệ tử thưa:" Chúng con sợ diều quạ ăn xác Thầy!"
Trang tử nói:" Trên thì diều quạ ăn, dưới thì giòi kiến ăn. Cướp đây mà cho riêng đó, sao lại có thiên lệch thế!"
(Liệt- Ngự- Khẩu)
II. UYÊN- NGUYÊN CỦA HỌC- THUYẾT TRANG TỬ:
Cái học của Trang tử, tuy do Lão tử mà ra, nhưng biệt lập ra một phái riêng: phái Trang học.
Sử- Ký cho rằng" cái học của ông không đâu là bàn không đến, nhưng gốc ở lời dạy của Lão tử" (1)
Phê- bình học- thuyết Trang tử, thiên Thiên- Hạ trong sách Trang tử có nói:" Đạo vẫn thâm mật, vô hình mà biến hóa vô thường. Chết, Sống cùng Trời Đất ngang nhau, cùng thần minh qua lại và lui tới mà thấy không thiết- thực. Vạn- vật bao la mà lúc trở về, không thêm cho Đạo. Đó là chỗ nghiên cứu của người xưa. Chỗ đó Trang Châu nghe qua, đẹp ý. Muốn truyền- bá nó ra, Trang Châu mượn câu chuyện mậu- ngộ, tiếng nói hoang- đường, lời văn không bền, thường phóng- túng mung- lung mà không cao dị Trang Châu thấy đời chìm đắm trong ô- trọc, không hiểu được lời mình nên dùng" chi ngôn" mà gieo khắp, dùng" trùng ngôn" làm thực sự, dùng" ngu ngôn" cho rộng hiểu. Rồi riêng một mình lại qua cùng trời đất tinh- thần mà không ngạo- nghễ vạn- vật không hỏi tội thị phi, lại sống chung cùng thế- tục. Sách của Trang Châu thì khôi- vĩ mà dịu dàng, không hại. Lời tuy sâm- si, mà thầy đặng ý răn lòng khi trá. Chỗ sung- thực của đó không dừng đặng. Trên thì dạo cùng tạo vật, dưới bạn cùng" ngoại tử sanh, vô chung- thủy". Bản nguyên của đó thì hoằng- đại mà sáng sủa, sâu rộng và phóng túng. Tông chỉ của đó có thể thích- hợp với bậc thượng- trí. Tuy nhiên, tông- chỉ và bản- căn đó đều ứng theo tạo hóa mà đạt đến vạn- vật. Lý của đó thì không cùng."
(Thiên- hạ)
***
Như vậy, ta thấy rằng học thuật của Lão và Trang, có chỗ không đồng nhau.
Lão tử cho rằng" cứng rắn thì dễ bị bể nát, nhọn bén thì dễ bị mòn lụt"; và" Kiên cường giả, tử chi đồ" (chương 76) (cứng và mạnh hơn là bạn của cái chết) , cho nên ông chỉ cho con người con đường để mà tránh khỏi sự đổ nát mòn gẫy" Trì nhi doanh chi, bất như kỳ dĩ; suy nhi chuyết chi, bất khả trường bảo, kim ngọc mãn đường, mạc chi năng thủ; phú quí nhi kiêu, tự di kỳ cữu; công toại thân thối: thiên chi đạo". (Ôm giữ chậu đầy, chẳng bằng thôi đi. Dùng dao sắc bén, không bén được lâu; vàng ngọc đầy nhà, khó mà giữ lâu; giàu sang mà kiêu, tự vời họa ưu; nên việc lui thần, đó là đạo Trời) . (Đạo Đức Kinh chương 9) .
Trang tử thì chủ trương sự" vô chung- thủy, ngoại tử sinh", cho nên chỗ mà Lão tử thắc- mắc chăm- chú, thì Trang tử lại nhìn với cặp mắt thản nhiên, lạnh- lùng như không đáng kể.
***
Trong thời kỳ Tiền Hán (2) , tư- tưởng của Lão học được truyền bá, còn tư tưởng của Trang học thì mãi đến thời Hậu- Hán (3) mới được đề cập đến và phổ- biến.
Buổi đầu nhà Hán, danh từ Hoàng- Lão được xưng- tụng và phổ- thông, nhưng đến cuối nhà Hán (4) mới đổi ra thành danh- từ Lão Trang.
Các nhà chú giải Lão tử, sống vào khoảng đầu nhà Hán, không hề nói đến tên Trang tử, còn các nhà chú- giải Trang tử thì thuộc về khoảng nhà Tần (265- 420) sau Tây- lịch kỷ- nguyên, tức là triều- đại nối liền với nhà Hán (Tam- Quốc) . Cho nên, các học giả đời Hán, khi nói đến Lão học là chỉ nghĩ đến Lão tử mà thôi, nghĩa là chỉ quan tâm đến vấn đề đối phó với thời cuộc. Cho nên trong Nghệ- Văn- Chi sở dĩ cho rằng Lão học (tức là cái học của Lão tử) là" phương- pháp của các bậc vương- đạo tại- vị", là vì thế. Thật vậy, Lão tử soạn quyển Đạo- Đức Kinh là cho các nhà cầm quyền trị nước thời bấy giờ: ông đề- xướng giải- pháp" vô- vi nhi trị".
Tư- Mã- Thiên nói về cái học của Lão Trang có viết:" Triết- lý của Trang tử, khác với Lão tử, lại muốn siêu- thoát khỏi vấn- đề nhân- gian thế- sự. Khi ông nói đến các vì vua đầu tiên của nhà Hán, cho rằng các bậc ấy lấy" vô vi nhi- trị" là có ý muốn nói rằng các bậc trị nước ấy áp dụng triết lý của Lão tử. Chỉ đến cuối đời nhà Hán (220 sau T. L) thì người ta mới bắt đầu chú ý đến Huyền- học, bấy giờ sách của Lão tử cũng được người ta dùng cái học của Trang tử mà giải thích. Như vậy ta thấy rằng, tuy khởi thủy hầ như lập trường triết- lý của hai nhà đứng riêng nhau mà vẫn có sự liên hệ với nhau luôn."
Chỗ tương đồng của Lão tử và Trang tử là cả hai đều cùng một quan niệm về Đạo và Đức, và cả hai đều chống đối tư tưởng truyền thống và chế độ đương thời. Và, vì vậy mà Tư- Mã- Thiên đặt tên học- phái nầy là Đạo- Đức Gia, vì ông cho rằng hai quan niệm Đạo và Đức là nền tảng chung của Lão học.
***
Trang tử sống vào khoảng nửa thế kỷ thứ ba trước Tây lịch kỷ- nguyên (369- 298 trước T. L kỷ- nguyên) tức là thuộc về một thời- kỳ hỗn- loạn nhất của Trung- Hoa: thời Chiến- quốc. Bởi vậy, có người cho rằng" trước một hoàn- cảnh xã hội nhiễu nhương mà phải trái rối bời, thật giả không phân, chúng ta hẳn không lấy chi làm lạ mà thấy Trang tử chủ trương tư tưởng siêu nhiên, đem cặp mắt bình thản mà lạnh lùng mà nhìn xem xã hội sự vật". Nói thế, không hẳn là không có lý do, vì nếu xét chung tư tưởng của Trang tử, ta thấy ông cực lực phản đối hầu hết mọi học thuyết, chế độ của đương thời
ở thiên Tề- Vật- Luận, ông nói:" Cố hữu Nho, Mặc chi thị phi, dĩ thị kỳ sở phi, nhi phi kỳ sở thị". (bởi vậy mới có cái Phải Quấy của Nho Mặc. Nho Mặc thì lấy Phải làm Quấy, lấy Quấy làm Phải)
Đại diện cho Nho- học thời bấy giờ thì có Mạnh- tử; còn đại diện cho Mặc- học thì có Tống Hinh, Huệ- Thi và Công- tôn Long thì đại diện cho nhóm danh gia.
Ở thiên Tề- Vật- Luận ông nói:" Vị thành hổ tâm nhi hữu Thị Phi, thị kim nhật thích Việt nhi tích chi dã Cổ dĩ kiên bạch chi muội chung" (Lòng mình vì chưa thành mà có Phải Quấy. Nên chi ngày hôm nay đi sang nước Việt mà từ bữa hôm qua đã tới đó rồi vậy Cho nên, suốt đời cam chịu tối tăm vì thuyết" Kiên Bạch") .
Câu" kim nhật thích Việt nhi tích chí dã" là ám chỉ biện- thuyết của Huệ Thi; còn câu" dĩ kiên- bạch chi muội chung" là nói về thuyết Liên bạch của Công- tôn Long.
đó là những chỗ mà Trang tử phê bình học thuyết của người đồng thời, đem cái thuyết" tề thị phi, đồng dị, tiểu đại" của ông ra mà châm đối các nhà thích dùng bịên luận. Theo ông thì" đại diện bất ngôn", còn những biện giả trên đâu chỏ là những bọn người biện đặt. (tiểu biện) .
Thời ấy có Tử- Hoa- tử chủ trương sự" toàn sinh vi thượng" và Đảm- Hà chủ trương" vị- thân, bất vị quốc", đều là những kẻ thừa hưởng cái học của Dương- Chu. Trang tử đem cái thuyết Tề- Vật để đánh đổ lòng tư- kỷ, chia phân Nhĩ- Ngã của người đồng thời còn sống thiên trong giới Nhị- nguyên. Là vì, theo Trang tử, hễ còn nói" vì mình" tức là còn thấy chỉ có mình mà không thấy có người, trong khi sự thật thì" Vật Ngã vi Nhất".
Ở thiên Đại- Tông- Sư ông viết: Cố chi chân- nhân, bất tri duyệt sanh, bất tri ố- tử Bất tri sở dĩ sanh, bất tri sở dĩ tử, bất tri tựu tiên, bất tri tựu hậu" (Bậc chân nhân đời xưa, không tham sống, không ghét chết Không biết chỗ sở dĩ sống, không biết chỗ sở dĩ chết, không biết chỗ đến trước, không biết chỗ đến sau) Nghĩa là người đạt Đạo phải là kẻ đứng trên vấn đề Sanh, Tử, không vị kỷ, không quá chú trọng đến bản thân mà suy tính lợi hại quá đáng như các chủ trương nói trên.
Phản đối những tư tưởng vị kỷ, tức là phản đối lòng tham lam ích kỷ, ông lại cũng phản đối cả sự" Xá- ký thích- nhơn", nghĩa là bỏ cái chân- tanh của mình mà chạy theo kẻ khác. ở thiên Đại- Tông- Sư ông nói:" Hành danh thất kỳ, phi sĩ dã. Vong thân bất chân, phi dịch nhân dã. (Làm theo danh, mà bỏ mất mình, không phải là kẻ sĩ. Làm mất thân mình, không rõ cái lẽ chân thật nơi mình, cũng chẳng phải là kẻ sai được người vậy) . Ông cho rằng" như Hồ- Bất- Giai, Vụ- Quang, Bá- Di, Thúc- Tề, Cơ- Tử, Tử- Dư, Kỷ- Tha, Thân Đồ- Địch, thị dịch nhân chi dịch, thích nhân chi thích nhi bất tự thích kỳ thích giả dã. (Đại- Tông- Sư)
Và, như Lão tử, ông cũng cực lực phản đối Nhân, Nghĩa của phái hữu- vi thời ấy. Cái học" trục- vật" và sự" cầu- tri" cũng bị ông đả phá:" Ngô sinh đã hữu nhai, nhi tri đã vô nhai. Dĩ hữu nhai, tùy vô nhai, đãi hĩ!" (Dưỡng-Sinh- Chủ) .
***
Tóm lại, đối với thời đại, ông phản đối hầu hết các học thuyết cùng chế độ thời đó: phản đối Nho, Mặc, phản đối nhóm danh gia biện thuyết như Huệ- Thi, Công- Tôn- Long, phản đối lòng vị- kỷ, trọng tử- sinh, sát lợi- hại, phản đối cả Nhân, Nghĩa và cái thói" cầu- tri", " trục- học", " xá- kỷ thích nhơn", nhất là những hành động hứu- vi của nhóm pháp- gia thời bấy giờ.
Tuy nhiên sự phản đối ấy của Trang tử không phải là lối phản đối công kích của người phản thế (ghét đời là vì bất mãn đối với đời) mà thực ra là lối lập- ngôn đặc biệt của người đã" vượt qua bến bên kia" " đáo bỉ ngạn", theo danh từ nhà Phật, con người giải thoát" để trở về nguồn cội" của cái" Sống Một" mà ta sẽ thấy trình bày sau đây.
Xem day du tai day :
http://khongtu.com/forum/showthread.php?t=165