PDA

View Full Version : Tiểu sử nhạc sĩ LÊ UYÊN PHƯƠNG



giavui
03-11-2014, 02:23 AM
Tiểu sử nhạc sĩ LÊ UYÊN PHƯƠNG

http://www.vietfreefun.com/extras/upload/images/1394504566_leuyenphuong.jpg

Lê Uyên Phương (1941 - 1999) là một trong những nhạc sĩ lớn của dòng nhạc tại Sài Gòn, miền Nam Việt Nam trước 1975.
Ông tên thật là Lê Minh Lập, sinh ngày 2 tháng 2 năm 1941 tại Đà Lạt. Trong thời kỳ chiến tranh, giấy tờ bị thất lạc, trong hai lần làm lại giấy khai sinh, tên của ông bị nhân viên giấy tờ nhầm thành Lê Minh Lộc rồi Lê Văn Lộc. Từ đó ông giữ cái tên Lê Văn Lộc.
Cha của Lê Uyên Phương vốn họ Phan, nhưng vì cuộc cách mạng của Phan Bội Châu nên phải đổi thành họ Lê. Mẹ của Lê Uyên Phương là Công Tôn Nữ Phương Nhi, ông lấy chữ Phương trong tên của mẹ làm tên cho mình. Cùng với chữ Uyên, tên người bạn gái đầu tiên, ông ghép thành nghệ danh Lê Uyên Phương.

Lê Uyên Phương gặp Lâm Phúc Anh ở Đà Lạt, năm 1968 hai người thành hôn. Họ trở thành đôi tình nhân song ca nổi tiếng. Vì Lâm Phúc Anh không muốn dùng tên thật nên lấy nghệ danh là Lê Uyên, cắt từ chữ Lê Uyên Phương. Hai người song ca được gọi Lê Uyên và Phương.

Lê Uyên Phương khởi sự viết nhạc từ 1960 với Buồn đến bao giờ viết tại Pleiku. Những năm đầu thập kỷ 1970, từ Đà Lạt vào Sài Gòn, Lê Uyên và Phương đã đem một luồng gió mới đến với tân nhạc. Trong những năm khốc liệt nhất của cuộc Chiến tranh Việt Nam, Lê Uyên và Phương, với những ca khúc nồng nàn, khắc khoải đôi khi bàng bạc, triết lý đã được giới trẻ đón nhận nồng nhiệt. Lê Uyên Phương đã viết nhiều nhạc phẩm nổi tiếng như: Bài ca hạnh ngộ, Còn nắng trên đồi, Dạ khúc cho tình nhân, Lời gọi chân mây, Vũng lầy của chúng ta...

Năm 1979, Lê Uyên và Phương rời khỏi Việt Nam và định cư tại nam California, Hoa Kỳ. Họ có hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My. Sau 15 năm chung sống, khoảng 1984, 1985 cuộc hôn nhân của hai người tan vỡ.

Lê Uyên Phương mất ngày 29 tháng 6 năm 1999 tại bệnh viện UCI (University of California, Irvine) vì bệnh ung thư phổi.
Bắt đầu viết nhạc từ năm 1960. Khi viết nhạc anh lấy tên là Lê Uyên Phương, và khi trình diễn cùng Lê Uyên, hai người lấy tên là cặp song ca Lê Uyên và Phương.

Từ Đà Lạt đến, nhạc sĩ Lê Uyên Phương đã đem một luồng gió mới đến cho âm nhạc miền Nam vào những năm mà cuộc chiến bước vào thời kỳ khốc liệc qua các bài hát song ca cùng người vợ trẻ Lê Uyên. Giới trẻ sinh viên, học sinh đã đón nhận cặp song ca này nồng nàn.

Vượt biên và định cư tại nam California. Sau 15 năm chung sống, hai người đi đến đổ vỡ vào khoảng 84, 85. Họ có với nhau hai con gái là Lê Uyên Uyên và Lê Uyên My.

Sau một thời gian điều trị ở bệnh viện UCI (University Of California in Irvine) Lê Uyên Phương đã về nhà người con gái lớn của anh là Lê Uyên Uyên để sống những ngày bi thảm với một tình trạng sức khỏe sa sút do căn bệnh ung thư phổi tàn phá. Và cuối cùng anh đã lại được đưa lại bệnh viện này để trút hơi thở cuối cùng vào chiều thứ Ba 29 tháng 06 năm 1999, hưởng dương 59 tuổi. Ông ra đi trong niềm luyến tiếc của mọi người yêu âm nhạc.

Lê Uyên là một nữ ca sĩ đã thành danh từ khi còn ở trong nước, với tiếng hát đã gắn liền với những ca khúc của Lê Uyên Phương kể từ cuối thập niên 60. Ra đến hải ngoại tên tuổi của Lê Uyên vẫn giữ được một chỗ đứng cao với một giọng hát mạnh cùng một sự diễn đạt đầy tình cảm. Sau trên 30 năm góp mặt trong làng ca nhạc, tuy rằng hiện nay những hoạt động của chị cũng như những ca sĩ cùng thời khác không còn được mạnh mẽ như xưa, nhưng đối với mọi người thì Lê Uyên vẫn là một khuôn mặt lớn.

Lâm Phúc Anh là tên thật của Lê Uyên, người đã hợp với Lê Văn Lộc, tức Phương thành một cặp song ca chuyên trình bày những nhạc phẩm do Lê Uyên Phương sáng tác, đã trở thành một biểu tượng cho tình yêu của tuổi trẻ, cho tư tương của một thế hệ trương thành trong chiến tranh ở những thập niên 60 và 70.

Lê Uyên sinh ngày 17 tháng 07 năm 1952 tại phố Hàng Bồ, Hà Nội. Một chi tiết rất ít người biết Lê Uyên là người Trung Hoa thuần chủng. Thân mẫu chị người gốc Hải Nàm và thân phụ chị là người Triều Châụ Thân mẫu Lê Uyên - hiện ở cùng với chị, vẫn khỏe mạnh và còn thường xoa "mà chược" với bạn bè - là người vợ thứ 5 của thân phụ chị, một thương gia đã có tất cả 9 đời vợ trước khi ông qua đời vào năm 1988. Gia đình Lê Uyên gồm bố mẹ, Lê Uyên và người em gái tên Lâm Phi Yến từ Hà Nội di cư vào Chợ Lớn năm 54 và cư ngụ trong một ngôi nhà rất khang trang, cũng là nơi đặt văn phòng của một công ty vận tải chạy đường Qui Nhơn, Huế và Đà Nẵng do thân phụ chị khái thác.

Trong những năm đầu cùng nhau đi hát, Lâm Phúc Anh và Lộc chỉ giới hạn phạm vi hoạt động của mình trong khuôn viên đại học trước khi chính thức lấy tên Lê Uyên và Phương vào năm 69, sau lần trình diễn tại quán Thằng Bờm của phong trào Du Ca Việt Nam. Ngay sau đó Lê Uyên và Phương (để phân biệt với Lê Uyên Phương là tên Lộc ký dưới những nhạc phẩm do anh sáng tác) đã được mời hát 19 buổi liên tiếp tại 19 địa điểm khác nhau tại Sài Gòn.

Sau khi Phương qua đời, Lê Uyên đã đứng ra thực hiện được 2 CD gồm một số ca khúc của anh, CD thứ nhất là " Yêu Nhau Khi Còn Thơ" gồm những nhạc phẩm đầu tay của Lê Uyên Phương sáng tác từ đầu thập niên 60, phần lớn được ra đời ở Pleiku là nơi anh đã từng dạy học một thời gian, trước khi trở về Đà Lạt. CD thứ hai mang tựa đề " Tình Như Mây Cõi Lạ ", gồm 9 nhạc phẩm trong tổng số trên 40 bài nhạc phổ từ những thi phẩm của thân hữụ Lê Uyên cho biết những ca khúc khác sẽ được đưa vào những bộ CD "Tình Như Mây Cõi Lạ" khác. Khi ra đến hải ngoại vào năm 79, Lê Uyên và Phương vẫn là một sự kết hợp tốt đẹp trên phương diện tình cảm cũng như trình diễn cho đến khi hai người chia tay vào khoảng giữa thập niên 80. Một thời gian sau, họ tái kết hợp về mặt nghệ thuật qua những lần xuất hiện trên những chương trình video của các trung tâm Làng Văn, Thúy Nga và nhất là Asia đã được khán thính giả đón nhận một cách nồng nhiệt.

Chuyện tình Lê Uyên & Phương

Năm ấy, nàng là cô học sinh trung học xinh đẹp và ngây thơ, được cha (một thương gia giàu có) cho lên Đà Lạt để theo học ở một trường Tây có tiếng. Tên khai sinh của nàng là Lâm Phi Anh.

Chị như con nai hiền và anh như một khu rừng già luôn xòe bóng mát chở che Chàng hơn nàng 11 tuổi. Năm ấy chàng đã là một ông thầy giáo dạy Triết và dạy Nhạc tại một vài trường ở Đà Lạt. Chàng được học violon từ bé và bắt đầu sáng tác nhạc từ năm 20 tuổi, nhưng không ký tên thật là Lê Minh Lộc mà dùng bút danh Lê Uyên Phương. Chàng là một người đa tài, nhưng cho đến 27 tuổi vẫn chưa có "mảnh tình vắt vai". Lý do? Trên thân thể chàng có những khối u lạ. Mặc dù bác sĩ chưa định ra chính xác là bệnh gì, nhưng ai cũng nghĩ chàng mắc bệnh ung thư xương - không biết sẽ ra đi vào lúc nào - vì thế chẳng nên yêu đương làm chi để khỏi gây khổ luỵ cho người khác.

Thế nhưng, họ đã gặp nhau và say đắm yêu nhau - như là định mệnh.

Bài viết sau đây của nhà văn Song Thao về cuộc đời và hoàn cảnh những tác phẩm do Lê Uyên Phương ra đời

"Hồi đó... Nàng quen em gái anh và thỉnh thoảng vẫn lui tới nhà. Lúc đầu nói chuyện thường thường rồi sau anh trở thành "cố vấn" của nàng. Nàng hỏi ý kiến anh đủ thứ chuyện kể cả chuyện yêu đương nhăng nhít". Họ yêu nhau lúc nào không biết. Tôi hỏi anh ngỏ tình yêu ở đâu. Trên đồi! Đà Lạt có những ngọn đồi mộng mơ cho những kẻ yêu nhau quấn quít..."

"Tiếng Lê Uyên và Phương từ chiếc máy cassette quấn lấy nhau vọng ra: " ...Lệ ngập ngừng bờ mi. Giọt nước mắt lăn nỗi buồn. Giọt nước mắt xa cách vời vợi trông. Giờ này còn nhìn nhau. Nhìn đắm đuối như suối bền. Nhìn suốt kiếp như chết mòn. Nhìn hấp hối thương đau. Ngày mai ta không còn thấy nhau" (Cho Lần Cuối). Anh khẽ bảo tôi chính vì bài này mà người ta đồn là anh sắp chết. Bệnh tật của anh đã trở thành huyền thoại. Người ta bảo là anh chỉ còn sống được một năm nữa. Người ta đồn là vào năm 1972 anh sẽ chết. Anh đưa bàn tay trái cho tôi coi. Trên lưng ngón tay trỏ nổi lên một cục bằng trái cà chua nhỏ đỏ au và mòng mọng. Những đường gân máu chạy nổi thấy rõ. "Bác sĩ cũng chưa thể định là bệnh gì. Bây giờ nó đã nổi thêm trên mấy ngón khác và một vài chỗ trong người. Muốn chữa bây giờ chỉ có thể cắt ngón tay này nhưng tôi chưa muốn cắt". Anh xác nhận là những bài ca viết về sự chia phôi không phải là do bị ám ảnh bởi cái chết nhìn thấy trước mà do sự rắc rối và xa cách của mối tình đẹp nhất đời anh và khi được hạnh phúc anh luôn luôn sợ ngày nó sẽ hết. Người nghệ sĩ không những sống cho mình mà còn thông cảm được với cuộc sống của những người khác. Anh đã nhìn thấy cái chết và đã nghĩ nhiều về cái chết..."

"Chuyện tình của họ đòi đoạn đớn đau. Gia đình nàng không chấp nhận. Họ mê say trong trốn chạy. Năm 1968, hai người sống ở Sài Gòn. Họ không có một chỗ gặp gỡ nhau. Suốt ngày hai người ngồi trong sân nhà ga Sài Gòn. Thỉnh thoảng họ phải làm bộ ngoắc tay những hành khách ngồi trên xe ca của hãng Hàng không Việt Nam cho ra vẻ ngồi chờ người nhà. Mỗi ngày chỉ có một mẩu bánh mì nhỏ trong bụng. Họ sống như vậy một tháng trời. Tình yêu của họ được kết hợp bằng những ngày không có nhau. Chính những ngày xa cách nhớ thương là thời gian anh sáng tác nhạc. Những bản nhạc đang dần dần quen thuộc với mọi người được kết tinh trong sự nhớ thương đó nên nặng mang sự chia phôi. Mười hai bài trong tập "Khi Loài Thú Xa Nhau" được viết trong thời kỳ này. Nó không còn mang tình yêu thơ mộng, tình yêu trong trí tưởng, thật xa và thật huyền diệu như mười bài trong tập "Yêu Nhau Khi Còn Thơ" được sáng tác trong thời kỳ trước đó khi chưa gặp Lê Uyên".

..."Đà Lạt hoang sơ quyến rũ đã đưa anh trở về những rung cảm nguyên thủy của buổi hồng hoang. Không có Đà Lạt chắc khó có một thứ nhạc độc đáo Lê Uyên Phương. Mỗi ngày anh thức dậy từ sớm đi lang thang khắp núi đồi Đà Lạt tới khoảng nắng lên thì trở về nhà nghỉ. Khi mặt trời đi ngủ anh lại đi cho tới tối trở về ngồi vào viết tới sáng".