View Full Version : Nhỏ Thì Mới Đẹp Đẽ (Small is Beautiful).
Mặc Vũ
10-11-2010, 07:15 PM
Nhỏ Thì Mới Đẹp Đẽ
(Small is Beautiful)
Giới thiệu sách Small is Beautiful
Tác giả: E. F. Schumacher
(xuất bản lần đầu: Năm 1973)
Đoàn Thanh Liêm
Small is beautiful, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lý về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm thì đã lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dịch ra nhiều thứ tiếng khác nữa.
http://i53.tinypic.com/213fbs7.jpg
E.F. Schumacher
Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ mãi : Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too. Mãi đến năm 1979-80, thì cụ Nguyễn Hiến Lê mới được người cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : Small is beautiful. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt Nam vào thời gian đó. Không những tôi đã say mê đọc, mà còn chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đã gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của mình.
Đáng chú ý nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là Buddhist Economics (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nhìn rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.
Từ mấy tháng nay trước sự hoảng loạn cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hoảng kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đã tìm đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đã ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ý nghĩ là phải trình bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt Nam chúng ta.
Để cho vấn đề trình bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn trình trong 3 bài như sau:
Bài 1/ Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher
Bài 2/ Giới thiệu cuốn sách Small is beautiful
Bài 3/ Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương Buddhist Economics)
Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê, là một học giả đã góp phần rất lớn lao trong công trình xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt Nam hồi trước năm 1975. Cụ sinh năm 1912 (suýt soát với tuổi của E F Schumacher) ở Hà Nội, và đã từ trần vào năm 1984 ở Sài Gòn. Và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giã chúng ta.
Bài 1: Ernst Friedrich Schumacher (1911 1977)
Thân thế và Sự nghiệp
1. Sơ Lược Tiểu sử
E. F. Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911 (cùng năm xảy ra cuộc Cách Mạng năm Tân Hợi ở Trung quốc, lật đổ vương triều nhà Mãn Thanh). Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về toán học. Trong chỗ thân mật E. F. thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz còn được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v
Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz đã được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đã sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, vì là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào loại người bị cô lập trong một trại tập trung rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu, thì cũng được các bạn hữu giải thoát ra khỏi tình trạng quản chế này và được trao phó cho công việc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.
Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đã có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề bình định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lý của quân đội nước Anh tại Đức. Vì được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với mình, nên Fritz đã ngày đêm miệt mài tìm cách xây dựng lại hệ thống quản lý và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại toàn bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.
Về đời sống gia đình, Fritz đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đình và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đã trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đầy 50 tuổi. Sau đó, thì Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy Sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm ba người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận tình cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con riêng của Fritz còn rất nhỏ tuổi khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đã kiệt sức vì làm việc quá nhiều, và đã qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy Sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.
Chi tiết về cuộc đời và hoạt động của Fritz Schumacher đã được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đầy đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là: E. F. Schumacher, His Life and Thought. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lý thú.
Tiếp theo.
Diễn Đàn Thế Kỷ.
Mặc Vũ
10-16-2010, 04:40 AM
Nhỏ Thì Mới Đẹp Đẽ
(Small is Beautiful)
Giới thiệu sách “Small is Beautiful”
Tác giả: E. F. Schumacher
(xuất bản lần đầu: Năm 1973)
Đoàn Thanh Liêm
Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hội thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các loại ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.
Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.
Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” (“Xây dụng xã hội từng mảnh một”, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies”), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đoạn hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua.
Như đã có dịp trình bày nơi Bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai (the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi toàn cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân loại ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối thoát khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào loại “đang phát triển” (developing countries).
Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa: “Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.
Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương như sau:
Phần 1 : Thế giới hiện đại (Chương 1-5)
Phần 2 : Tài nguyên (Chương 6-10)
Phần 3 : Thế giới thứ ba (Chương 11-14)
Phần 4 : Tổ chức và Sở hữu (Chương 15-19).
Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay. Nhằm trình bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây:
Tiếp theo.
Diễn Đàn Thế Kỷ.
Mặc Vũ
11-02-2010, 10:58 PM
Nhỏ Thì Mới Đẹp Đẽ
(Small is Beautiful)
Giới thiệu sách “Small is Beautiful”
Tác giả: E. F. Schumacher
(xuất bản lần đầu: Năm 1973)
Đoàn Thanh Liêm
Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hội thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các loại ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.
Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.
Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” (“Xây dụng xã hội từng mảnh một”, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies”), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đoạn hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua.
1/ Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba: Làm sao mà phát triển?
Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. Tình trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn Độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.
Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thoát được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt được tâm lý và hoàn cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với hoàn cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là: “Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất. Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” (Helping the people to help themselves).
Muốn đẩy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh (donor/recipient countries); chứ không thể hoàn toàn do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì là: “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng toàn diện và điều hòa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).
Xin trích nguyên văn một đoạn cuối của “Chương 13: Two million villages” như sau : “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng… Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của toàn thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi” ( trang 171).
2/ Đi tìm loại kỹ thuật thích hợp nhất (Appropriate Technology AT)
Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển loại “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hoàn cảnh kinh tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau: “Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology” (Những Vấn Đề Xã Hội và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Loại Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lý do chính yếu sau đây: Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được loại “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa loại kỹ thuật lạc hậu cổ truyền (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại (mà rất là đắt tiền).
Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm loại kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” (ITDG). Cụ thể như: Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng loại kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.
Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đã khẳng định rằng “Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất”, thì “Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như tại nướcThụy Sĩ chỉ có chưa đầy 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống (Participatory Democracy).
Tiếp theo.
Diễn Đàn Thế Kỷ.
Mặc Vũ
11-02-2010, 10:59 PM
Nhỏ Th Mới Đẹp Đẽ
(Small is Beautiful)
Giới thiệu sch “Small is Beautiful”
Tc giả: E. F. Schumacher
(xuất bản lần đầu: Năm 1973)
Đon Thanh Lim
3/ Vấn đề Cạn kiệt Ti nguyn Thin nhin (Depletion of Natural Resources)
L người lm việc lu năm trong ngnh than đ, nn Schumacher rất ch trọng đến tnh trạng sử dụng bừa bi ph phạm về ti nguyn thin nhin, đặc biệt trong cc nước văn minh tiền tiến u Mỹ. Cụ thể l về dầu kh, than đ v nhất l rừng cy. Bằng những con số thống k chnh xc, tc giả đ nu ln cc sự thao tng, lạm dụng v ch kỷ của cc nước giu c trong việc xi hoang ph cc ti nguyn thin nhin. Schumacher phn biệt rất r rệt hai loại ti nguyn: loại ti tạo được v loại khng ti tạo được (renewable/non-renewable resources). ng cn chỉ r ra l: Thin nhin lun lun ho phng trong việc cung cấp cho con người những ti nguyn dồi do phong ph, để m khai thc đp ứng nhu cầu sinh hoạt của nhn loại. Nhưng thật đng buồn l con người trong mấy thế kỷ gần đy đ dng khoa học kỹ thuật để m khai ph qu mức đến độ tn ph thin nhin một cch v tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chng cc ti nguyn thin nhin (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất qun bnh giữa con người với thin nhin, cũng như giữa hiện tại với tương lai, v cả giữa con người với con người nữa. ng cn ni r l : Phải coi thin nhin như một “nguồn vốn” (Capital) v nhờ biết khai thc khn kho, chừng mực đối với thin nhin m con người kiếm ra được cc “lợi tức” (Income). V như vậy, th chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa cc nhu cầu chnh đng của mnh; chứ khng được tiu xi vo ci nguồn vốn chỉ c giới hạn nhất định no đ m thi. Schumacher đ rất nghim khắc ph phn ci sự kiu căng, tham lam qu độ v nhất l ci thi độ bạo hnh của con người đối với thin nhin, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. ng đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại” (Non-violence, Ahimsa) của thnh Gandhi cũng như của Đức Phật, m ng c dịp khảo st tại Ấn Độ v Miến Điện. Những suy ngẫm ny ng đ ghi r rng trong Chương 4 nhan đề l : “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật gio) m chng ti sẽ dịch nguyn văn ra Việt ngữ được trnh by với đầy đủ chi tiết trong một bi sau.
Cũng trong dng chảy suy nghĩ đ m Schumacher đ dnh hẳn một Chương 9 với nhan đề: “Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhn – Sự Cứu Rỗi hay l n Phạt?) để bn về ci lợi hay ci hại của năng lượng hạt nhn. Tc giả kin quyết chống lại việc sử dụng loại my pht điện nguyn tử v l do chất thải của loại my ny chứa nhiều chất phng xạ rất nguy hiểm lu di cho nhiều thế hệ sau ny. V may thay, do cc biến cố “r rỉ tại nh my điện hạt nhn Three Miles Island” ở Mỹ v nhất l tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Lin X, m việc xy dựng bừa bi cc nh my hạt nhn ny mới bị km hm lại. R rệt l Schumacher l một vị tiền phong đng gp rất lớn cho phong tro bảo vệ mi sinh trn khắp thế giới từ mấy chục năm gần đy.
4/ Phải Định Hướng lại cho Khoa Học v Kỹ Thuật (The Re - Orientation of Science and Technology).
Hơn ai hết, Schumacher l người lun lun cảnh gic về tnh kiu căng ngạo mạn v ngoan cố của giới khoa học ngy nay, nhất l trong ngnh kinh tế học l lnh vực hoạt động chuyn mn suốt cả cuộc đời của ng. Bng bạc trong cuốn sch ny, ta thấy tc giả lun đề cao sự khim tốn, tinh thần nhn i v nhn bản trong việc đề ra đường lối hoạt động cụ thể m thiết thực, nhằm vo việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta c thể thấy lời cảnh gic ny đ c từ mấy trăm năm trước qua nh hiền triết Rabelais ở Php m dịch ra tiếng Anh l: “Science without conscience is the ruin of the soul” (Khoa học m khng c lương tm th chỉ l sự suy đồi của tm hồn).
Tc giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, ha i của thnh Gandhi v nhất l của Phật Tổ, m ng rất say m nghin cứu học hỏi trong thời gian lm việc ở Ấn Độ v Miến Điện. Nếu ta ch đến mi trường tn gio m ng vẫn sinh hoạt tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất l khi về gi ng đ gia nhập đạo Cng gio nữa, th ta lại cng khm phục ci thi độ thnh tm cầu thị, khim nhu v qu trọng của ng đối với Phật gio v Thnh Gandhi ở chu. ng đặc biệt đem thm kha cạnh phẩm chất (qualitative aspects) v đạo đức (ethics) vo trong mn Kinh tế học l mn học m cc chuyn vin kinh tế thường chỉ ch trọng đến kha cạnh định lượng m thi (quantification). Tc giả lun nhắc nhủ cc nh khoa học l phải tm kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đ ăn rễ su trong truyền thống đạo đức văn ha trong cc x hội phương Đng, m thường bị người phương Ty v qu say m v kiu hnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vật chất nn đ xem thường. V thế ng mới gọi đ l mn “Siu kinh tế học” (Meta-Economics).
Ni vắn tắt lại, cc luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sch “Small is Beautiful” ny hiện vẫn cn được thảo luận, khai thc rộng ri trn ton thế giới. Loạt bi viết ngắn ngủi ny chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đo, can đảm, m lại rất to bạo dứt khot của Fritz Schumacher. Cuốn sch ny l đc kết kinh nghiệm hoạt động v suy nghĩ tm kiếm trong suốt cuộc đời của tc giả, với tấm lng tha thiết phục vụ cho nhn quần x hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chng km may mắn nhất trn thế giới ngy nay. Bạn đọc c thể tham khảo thm trn internet, để c số liệu cập nhật ha rất đầy đủ v phong ph về cc đề ti m Schumacher đ gợi ra trong cuốn sch thời danh ny.
Người viết mong ước giới trẻ Việt Nam, ở trong cũng như ở ngoi đất nước, để tm theo di sự pht triển của loại tư tưởng đầy tnh nhn bản v nhn i tương tự như thế ny, m hiện đang c sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao tro tranh đấu bảo vệ nhn phẩm, nhn quyền v cả bảo vệ mi sinh đang dng cao khắp thế giới ngy nay trong thế kỷ XXI. V cũng mong được sự tiếp tay trong việc đo su v phổ biến tro lưu tư tưởng tiến bộ ny từ nơi cc bậc thức giả trong những tổ chức chuyn về văn ha khoa học, cụ thể như: Viện Việt Học, L Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyn Gia Việt Nam, Cc Viện Nghin Cứu thuộc cc Tn Gio Việt Nam v.v…
California, Ma Phật Đản Kỷ Sửu 2009
Đon Thanh Lim
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.