PDA

View Full Version : Rình Rập



giavui
05-26-2020, 03:05 PM
Rình Rập

Tác giả :Mary Higgins Clark

Dịch giả: Lê Thành

https://vietmessenger.com/books/?cat=truyendich&imh=rinhrap.jpg


Lời mở đầu

Không khí lạnh giá len vào qua những khe hở của cửa sổ. Người đàn ông đứng dậy và nặng nề bước đến cầm lấy cái khăn tắm mà y luôn để gần tầm tay, bít lấy cái khung cửa đã xuống cấp.

Tiếng rít nho nhỏ của gió len qua chiếc khăn tắm làm y cảm thấy mơ hồ thích thú. Y lặng lẽ nhìn bầu trời ảm đạm rồi nhìn những con sóng đang xô nhau vào bờ. Từ phía này của ngôi nhà, thường khi người ta có thể trông thấy Princetown, ở bờ bên kia Cape Cod.

Y không ưa cái thị trấn Cape này. Y thù ghét cái u ám của nó vào những ngày tháng mười một như hôm nay; cái xám xịt của biển và những cư dân ở đây cứ nhìn ta bằng ánh mắt khó hiểu, không buồn nói năng. Y đã chán ngán cái thị trấn này ngay từ mùa hè đầu tiên, khi những đoàn khách du lịch đổ tràn ra biển, leo lên vùng đất bồi cho đến ngôi nhà, rồi một tay đưa cao để che nắng, họ liếc mắt nhìn vào những cửa sổ ở tầng trệt.

Y cũng ghét cái tấm panô ghi chữ "Nhà Bán" mà Ray Eldredge đã treo ở mặt tiền và phía sau ngôi nhà rộng lớn, ghét việc Ray và bà nhân viên của ông đã bắt đầu đưa khách vào xem ngôi nhà. Tháng trước, suýt nữa là họ đã đưa người vào xem căn hộ của y trong khi vắng nhà, nhưng may thay y đã kịp biết trước và che giấu cái ống viễn kính.

Giờ đây, y chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Ai đó sẽ mua ngôi nhà này và y không còn có thể thuê mướn nó nữa. Chính vì thế mà y đã gởi bài viết đến báo. Y không muốn ra đi trước khi được chứng kiến cảnh người đàn bà đó bị lột mặt nạ trước công chúng... giờ đây... khi nàng bắt đầu cảm thấy được yên ổn.

Y cũng còn phải thực hiện một việc khác nữa, nhưng cơ hội chưa đến. Người đàn bà ấy không hề rời xa hai đứa trẻ và y thì không còn có thể chờ đợi nữa. Thôi, hãy để chuyện đó cho ngày mai vậy.

Y bực dọc đi lui đi tới trong phòng. Căn phòng tầng trên này mênh mông vì nó chiếm cả bề rộng của ngôi nhà. Trước đây, chủ nhân ngôi nhà này là một thuyền trưởng biến chất. Ngôi nhà được xây vào thế kỷ XVIII trên một mũi đá nhô ra biển, bao quát cả vịnh và thích hợp cho những ai thường xuyên sống trong tình trạng cảnh giác.

Nhưng đời sống xem chừng là chuyện khác. Đời sống là khi này khi nọ, được tạo thành bởi những thứ tạp nham. Đời sống là những núi băng trôi mà ta chỉ trông thấy phần nổi. Y biết rõ điều đó. Y đưa tay xoa xoa mặt, cảm thấy bồn chồn, nóng ran mặc dầu căn phòng lạnh căm. Từ sáu năm nay y đã thuê mướn ngôi nhà này để sống trong những ngày cuối hè và suốt cả mùa thu. Ngôi nhà vẫn như thế, không gì thay đổi, kể từ ngày y bước chân đến đây. Và, nếu có chăng thì chỉ là một vài đóng góp nhỏ nhạt: ống viễn kính đặt trước cửa sổ mặt tiền, mớ quần áo mà y mang theo để mặc trong những dịp đặc biệt, và cái mũ lưỡi trai dùng để che khuất phần lớn khuôn mặt của y.

Nói tóm lại, chẳng có gì thay đổi ở đây. Vẫn là cái đi-văng cũ kỹ ngày ấy, những cái bàn bằng gỗ thông, tấm thảm trong phòng khách và những đồ đặc toàn bằng gỗ thích. Cho đến mùa thu này thì đây quả là nơi lý tưởng để thực hiện những ý đồ của y. Nhưng rồi mọi việc đã không ổn nữa. Khi Ray cho biết vợ chồng anh đang rao bán ngôi nhà cho những ai muốn mở nhà hàng và Ray chỉ gia hạn thời gian thuê mướn với điều kiện là người thuê phải cho khách đến xem nhà ngay khi được thông báo qua điện thoại.

Raynor Eldredge. Y mỉm cười khi nghĩ đến người đàn ông còn trai trẻ đó. Ngày mai, liệu anh ta sẽ phản ứng ra sao khi đọc bài báo? Liệu Nancy đã nói thật cho chồng biết nàng là người như thế nào? Rất có thể là không. Đàn bà thường khéo giả dối. Vả lại, tốt hơn là Ray chưa hay biết gì. À! Được trông thấy diện mạo của Ray khi anh ta mở tờ báo ra xem thì thích biết bao! Báo được phát vào mười giờ sáng. Vào giờ đó, Ruy còn ở văn phòng và hẳn anh ta sẽ chờ một lúc trước khi mở tờ báo ra xem.

Bằng một động tác cáu kỉnh, y quay lưng về phía cửa sổ. Hai cẳng chân to lớn của y xem chừng quá bó sát bởi chiếc quần đen bóng láng. Y nôn nóng từng ngày để được xuống cân và không còn to béo như thế này nữa, và y đang trả giá cho điều đó bằng những buổi nhịn ăn đến độ kiệt sức. Nhưng y biết y sẽ đạt được mục tiêu và y có đủ khả năng để làm điều đó. Trước đây, y đã từng nhịn ăn vào những lúc y thấy là cần thiết. Y cáu kỉnh đưa tay gãi lớp da đầu và thầm nghĩ rồi đây tóc y sẽ mọc trở lại và lúc đó hẳn lớp tóc ở hai bên thái dương sẽ là màu muối tiêu.

Y chậm rãi đặt tay lên ống quần rồi bồn chồn đi lui tới trong phòng, trước khi dừng lại bên ống viễn kính. Đây là ống viễn kính cực mạnh, thứ mà người ta không thể tìm thấy ngoài thị trường. Ngay cả cảnh sát cũng được trang bị rất ít. Nhưng y thì có phương cách để đạt được cái mà y muốn. Y khom người và nhìn vào ống ngắm, mắt kia nhắm lại.

Ở bên ngoài, trời quá âm u đến nỗi đèn trong căn bếp phải thắp sáng vì thế, qua ống viễn kính, hình ảnh Nancy hiện rõ. Nàng đang đứng ở cửa sổ, phía trên bồn rửa bát. Có thể nàng đang chuẩn bị cho bữa ăn tối. Nhưng cũng có thể là nàng sắp ra ngoài, nếu đoán qua chiếc áo veste mà nàng đang mặc. Nàng đứng bất động, mắt hướng về phía biển. Nàng đang nghĩ gì? Đang nhớ ai? Đến các con - đến Peter... đến Lisa...? Y muốn biết điều đó.

Y bỗng dưng cảm thấy miệng khô khốc và đưa lưỡi lên liếm môi. Hôm nay, nàng trông rất trẻ với mái tóc buộc ra sau - mái tóc được nhuộm màu nâu. Hẳn người ta sẽ nhận ra nàng ngay nếu nàng vẫn giữ cái mái tóc màu vàng óng tự nhiên của nàng. Ngày mai sẽ là sinh nhật lần thứ ba mươi hai của nàng. So với tuổi thì nàng còn rất trẻ - quá trẻ, quá dịu dàng, quá mượt mà và xinh tươi.

Y cáu kỉnh nuốt nước bọt. Môi y khô ran nóng sốt; hai bàn tay và nách y ướt đẫm mồ hôi. Họng y thắt lại và một lần nữa y phải đằng hắng một tiếng như tiếng cục cục của gà. Rồi toàn thân y run lên vì một tiếng cười không cưỡng nổi; y va vào ống viễn kính. Hình ảnh của Nancy nhòa đi, nhưng y chẳng buồn điều chỉnh ống ngắm. Hôm nay, y chẳng còn muốn nhìn nàng nữa.

Ngày mai vậy! Y mường tượng đến vẻ mặt của nàng ngày mai, cũng vào giờ này. Lúc đó, nàng sẽ bị phơi bày trước mọi người, sững sờ vì sợ hãi và khiếp đảm, cố tìm cách trả lời... những câu hỏi mà nàng đã bị cảnh sát tra vấn từ bảy năm trước.

Lúc đó, hẳn các nhân viên cảnh sát sẽ hỏi, "Nào Nancy, đừng có giở trò ma giáo với chúng tôi. Hãy thật tình khai báo. Cô không thể chối cãi gì nữa. Hãy cho chúng tôi biết, những đứa trẻ đâu rồi?"



Chương 1
17 tháng mười một.

Ray sửa lại cà vạt khi bước xuống cầu thang. Ngồi ở bàn, Nancy ngửng đầu nhìn chàng, mỉm cười. Nàng thật xinh đẹp và mặc dầu đôi mắt biếc đã bắt đầu có chút nhếp nhăn, chẳng ai có thể tin rằng nàng đã ba mươi hai tuổi. Chỉ hơn nàng ít tuổi, nhưng Ray thì trông chín chắn nhiều. Sự tươi trẻ đó phải chăng là do nàng quá mong manh và dễ bị thương tổn? Ray nhận thấy một vài vết màu hung ở chân tóc màu nâu đen của nàng.

Hơn chục lần trong năm, chàng suýt nữa đã yêu cầu nàng hãy giữ cái màu tóc tự nhiên và đừng có nhuộm nữa, nhưng rồi chàng đành im, không dám đòi hỏi.

- Chúc em một sinh nhật vui vẻ. - Chàng dịu dàng nói và thấy khuôn mặt nàng bỗng tái xanh.

Michael ngạc nhiên nhìn mẹ:

- Sinh nhật của mẹ hả mẹ? Vậy mà mẹ không nói.

Missy ngửng dậy. Bé thích thú hỏi:

- Sinh nhật mẹ à?

- Đúng vậy, các con - Ray gật đầu và trong khi Nancy vẫn nhìn chăm chăm vào bàn, chàng nói tiếp - chiều nay chúng ta sẽ mừng sinh nhật mẹ. Ba sẽ mua một ổ bánh lớn, mua quà và chúng ta sẽ mời dì Dorothy đến dự. Đồng ý nhé?

- Ray... đừng anh - Nancy nói, giọng năn nỉ.

- Nào em còn nhớ chứ? Năm ngoái em có hứa là năm nay chúng ta có thể...

Ăn mừng, đó không phải là cái từ thích hợp, nhưng là một cái từ mà ta không thể nói ra. Từ lâu, Ray biết rằng một ngày nào đó họ sẽ có thể ăn mừng sinh nhật. Trước đây, vào cái ngày này, nàng thường lánh chàng để đi dạo ở vùng quê hoặc lang thang trên bãi biển như cái bóng ma chìm đắm trong thế giới bí ẩn của mình.

Tuy vậy, vào năm ngoái, nàng bắt đầu nói đến chúng... đến hai đứa con trước đây của nàng. Nàng đã tâm sự: "Hẳn giờ đây chúng đã lớn rồi... mười, mười một tuổi. Em cố hình dung chúng nhưng không thể tưởng tượng nổi... Mọi việc liên quan đến cái giai đoạn đó sao quá rối rắm, mờ mịt. Tựa như một cơn mộng dữ, điều chỉ xảy ra trong khi mê ngủ".

Và Ray đã nói:

- Thì em hãy cố cho rằng nó là như vậy đi! Đừng thắc mắc về những gì đã xảy ra.

Cái kỷ niệm ấy càng củng cố thêm quyết định của nàng. Ray cúi xuống, vuốt nhẹ mái tóc Nancy bằng một cử chỉ dịu dàng, che chở.

Nancy nguớc nhìn chàng. Lời thỉnh cầu trên khuôn mặt nàng biến thành một vẻ ngần ngại:

- Em không tin rằng...

Michael cắt ngang lời Nancy bằng một câu hỏi biểu lộ cái tính thực tiễn của bé:

- Mẹ à, mẹ bao nhiêu tuổi rồi?

Nancy mỉm cười - nụ cười như phép mầu làm cho bầu không khí không còn căng thẳng. Nàng nói:

- Con hỏi mà làm gì chứ?

Ray hớp một ngụm cà phê rồi nói:

- Mike à, chiều nay ba sẽ đến đón con ở trường và cha con mình sẽ đi mua quà tặng mẹ. Bây giờ ba phải đi đây. Hôm nay có người đến xem nhà ông Hunt, ba cần phải tập hợp một số giấy tờ cần thiết.

- Nhưng ngôi nhà ấy đã cho mướn rồi mà? - Nancy hỏi.

- Đúng. Cái ông tên là Parrish, vốn thỉnh thoảng thuê căn hộ ở tầng trên, năm nay lại thuê tiếp. Nhưng ông ấy biết là ta có thể đưa người vào xem nhà bất cứ lúc nào. Ngôi nhà thật lý tưởng để mở một nhà hàng mà không cần phải sửa chữa lớn. Ta sẽ có được một số tiền huê hồng kha khá nếu giới thiệu bán được nó.

Đặt Missy xuống, Nancy đưa Ray ra cửa. Chàng dịu dàng hôn nàng và cảm nhận sự run rẩy của môi nàng, chàng thầm nghĩ, phải chăng chàng đã làm nàng lo lắng thái quá khi nhắc đến ngày sinh nhật của nàng? Một linh cảm nào đó khiến chàng suýt thốt lên: "Thôi, khỏi phải đợi đến chiều. Anh sẽ ở nhà để đưa em và các con đi Boston chơi".

Thay vì như thế, chàng lên xe, vẫy tay chào và lao xe vào con đường đất hẹp - một con đường ngoằn ngoèo qua nửa mẩu rừng trước khi đổ vào con đường lớn dẫn về Adam Port, trung tâm của thị trấn Cape.

Nancy chậm rãi trở lại bàn ăn và thầm nghĩ rằng Ray đã có lý. Đã đến lúc nàng phải cắt đứt với những ràng buộc của quá khứ - đến lúc phải đoạn tuyệt với những kỷ niệm để hướng nhìn tương lai. Nàng biết rằng một phần của bản thân nàng vẫn còn sững sờ, và tiềm thức của nàng vẫn cố lưu giữ những hình ảnh đau buồn thuở xưa. Và còn hơn thế nữa.

Có thể nói là toàn hộ cái quãng đời của nàng với Carl đã trở nên mờ mịt... Nàng chẳng thể nhớ nổi ngôi nhà của họ trong khu đại học, giọng nói ngân nga của Carl... rồi Peter và Lisa... chúng giống ai nhỉ? cả hai đều tóc đen, như cha chúng... và quá bình lặng... quá ngoan... cộng vào đó là sự thiếu tự tin của mẹ chúng... và sau đó là mất mát - cả hai.

- Sao mẹ buồn thế? - Michael nhìn chăm chăm Nancy và hỏi.

Nancy thầm nghĩ, thế là đã bảy năm rồi. Đời sống là một loạt những chu kỳ liên kết lại để tạo thành bảy năm. Carl thường nói với nàng rằng, với khoảng thời gian bảy năm, thì toàn bộ cơ thể đã hoàn toàn thay đổi, kể cả những tế bào. Đúng vậy, bây giờ là lúc để nàng quên đi... và nhìn về phía trước.

Nàng hướng mắt về căn bếp rộng lớn, đầm ấm, với lò sưởi cổ kính bằng gạch, những cửa sổ nhìn xuống cảng và nền nhà lót ván sàn bằng gỗ sồi. Rồi tầm mắt của nàng dừng lại trên Michael và Missy.

Nàng nói:

- Mẹ đâu có buồn. Mẹ chẳng buồn chút nào.

Nàng bế Missy lên, thích thú với cái dịu dàng ấm áp của tấm thân bé bỏng.

Missy nói:

- Mẹ biết không, con đang nghĩ đến quà sinh nhật của mẹ.

Mái tóc của bé thật đẹp, với những lọn xoăn quanh tai và trước trán. Chính mái tóc đó đôi khi đã khiến người ta thắc mắc chẳng hiểu bé giống ai mà có màu tóc đẹp như thế - ai trong gia đình có tóc hung?

- Được lắm. Nhưng bây giờ thì con hãy ra vườn để hít thở khí trời. Theo dự báo thì chiều nay sẽ có mưa và rét đậm.

Sau khi hai đứa bé đã thay quần áo, Nancy giúp chúng mặc áo ấm có mũ trùm đầu.

- Đồng đô-la của con đây rồi - Michael thích thú nói khi thọc tay vào túi áo - Con biết là đã để nó ở đây. Bây giờ, con có thể mua quà cho mẹ được rồi.

- Con cũng vậy, con cũng có tiền đây. - Missy hãnh diện chìa ra một nắm đồng xu.

Nancy nói:

- Ồ! Các con không nên mang tiền ra ngoài đó. Các con sẽ đánh rơi mất. Đưa cho mẹ giữ hộ nào!

Michael lắc đầu:

- Không, con sự sẽ quên khi đi mua quà với ba.

- Mẹ hứa sẽ không để con quên.

- Túi con có cái khóa kéo Eclair. Mẹ thấy chứ? Con sẽ bỏ tiền vào và giữ hộ luôn tiền của Missy.

- Được... - Nancy nhún vai và không muốn tranh luận thêm - Này Mike, bây giờ mẹ phải lau dọn nhà cửa. Con hãy đi chơi cạnh em nhé. Con hứa với mẹ chứ?

- Vâng! - Michael vui vẻ đáp và quay sang nói với Missy - Nào, hãy ra vườn chơi với anh. Trước tiên, anh sẽ cho em ngồi đu.

Cái đu này là do Ray đích thân làm cho các con. Chàng đã buộc nó vào một cành sồi cổ thụ, ở rìa rừng, phía sau nhà.

Nancy mang bao tay cho Missy. Bao tay thêu một con mèo cười toét miệng.

- Đừng cởi ra nghe con, nếu không tay con sẽ lạnh cóng. Trời bắt đầu lạnh rồi đó. Mẹ không hiểu có nên để các con ra chơi ngoài vườn...

- Không sao đâu mẹ! - Missy nói, miệng bắt đầu run rẩy.

Nancy nói ngay:

- Thôi được. Nhưng hai con chỉ được chơi khoảng nửa tiếng thôi nhé!

Nàng dẫn con ra vườn bằng cửa sau và cảm thấy làn gió lạnh như muốn nuốt chửng nàng. Ngôi nhà này có lối kiến trúc đặc trưng của vùng Cape, với cái cầu thang hầu như thẳng đứng. Ray thường nói là các cư dân đầu tiên của thị trấn này hẳn phải có máu lạnh khi xây những cầu thang như thế. Nhưng Nancy thì vẫn yêu thích mọi thứ ở đây.

Đến hôm nay nàng vẫn còn nhớ cái cảm giác bình yên và yên ổn đã bao phủ lấy nàng trong lần đầu tiên nàng trông thấy ngôi nhà này. Nàng đã đến sống tại đây sau khi tòa ra lệnh ngưng xử vì Rob Legler, nhân chứng duy nhất của vụ án đã mất tích.

Nàng đã đến đây với ý đồ là được sống thật xa California, xa những người mà nàng đã quen biết, xa ngôi nhà mà nàng đã sống, xa khu đại học và cộng đồng của nó. Nàng chẳng bao giờ muốn gặp lại họ, những bạn bè đột nhiên biến thành xa lạ thù nghịch, luôn nhắc đến "chàng Carl tội nghiệp", và xem nàng là người đã khiến cho Carl phải tự sát.

Sở dĩ nàng đã chọn Cape Cod là vì toàn bộ cư dân vùng New England và đặc biệt là Cape, vốn nổi tiếng là những người sống tế nhị, kín đáo và không thích soi mói đời người khác. Đó là điều mà nàng cần. Nàng cần một nơi để trú ẩn, để tìm lại chính mình, để đầu óc được tỉnh táo, để nhận thức về những gì đã xảy ra và có thể yêu đời trở lại.

Nàng đã cắt đi mái tóc và nhuộm nó thành màu nâu sậm. Điều này tạo cho nàng một diện mạo khác hẳn với những bức ảnh được đăng trên trang nhất các báo khắp nước trong suốt vụ án.

Hẳn bàn tay của định mệnh đã đẩy đưa nàng chọn văn phòng giao dịch bất động sản của Ray trong khi tìm mướn một căn nhà. Thật ra, ngày hôm ấy nàng có hẹn với một nhân viên môi giới địa ốc, nhưng trước đó nàng đã đến gặp Ray vì nàng cảm thấy ưa thích cái bảng hiệu được vẻ bằng tay thật khéo của văn phòng Ray cùng những chậu cúc vàng và hồng nhạt trồng trước các cửa sổ.

Vì lúc đó Ray đang bận tiếp một khách hàng - một cụ có làn da rám nắng và mái tóc xoăn, dày rậm - nên Nancy phải ngồi chờ. Nàng ngưỡng phục khi nghe Ray khuyên ông cụ hãy cố giữ ngôi nhà và hứa sẽ kiếm người để cho thuê những căn phòng có thể ở được để có thể giúp ông.

Sau khi ông cụ đã ra về, nàng nói với Ray: "Có lẽ tôi đến đúng lúc. Tôi đang cần mướn một căn nhà".

Nhưng Ray không muốn đưa nàng đi xem ngôi nhà của ông già Hunt, chàng đã giải thích:

- Người ta gọi đó là ngôi nhà Tháp Canh. Ngôi nhà quá lớn, quá hiu quạnh và nếu có phong ba bão táp thì đó là nơi phải hứng chịu nhiều nhất. Tôi có sẵn đây một ngôi nhà cũng tương tự như vậy để giới thiệu. Tình trạng toàn hảo, đầy đủ tiện nghi và có thể bán đứt cũng được. Thưa bà... à, thưa cô... cô cần nhà mấy phòng à?

- Thưa ông, tôi là cô Kierman, Nancy Kierman - Nancy vô tình khai ra tên thật của mình - Thật ra, tôi không cần nhiều phòng đâu. Tôi sống một mình và ít có bạn bè.

Ngay từ đầu, nàng đã ngưỡng phục cái tính kín đáo của chàng - chàng chẳng hỏi han gì thêm.

Chàng chỉ nói: "Cape là nơi lý tưởng nhất để sống đơn độc. Sự cô đơn sẽ không còn trĩu nặng khi ta đi dạo trên bãi biển, ngắm cảnh chiều tà hoặc chỉ đơn giản nhìn ra cửa sổ vào buổi sáng".

Ngay khi được Ray đưa đến xem nhà, Nancy biết rằng mình sẽ sống ở đó. Gian phòng ngày xưa được sử dụng làm kho chứa thực phẩm và rượu, giờ đã được sửa sang thành phòng khách - phòng ăn. Nancy yêu thích sự đầm ấm của cái ghế đặt trước lò sưởi, cái bàn ăn đặt gần cửa sổ khiến ta có thể ngắm nhìn cảng và vịnh.

Nàng ưng ý và dọn đến ở ngay. Tuy Ray ngạc nhiên khi thấy đồ đạc của nàng chỉ vỏn vẹn có hai va-li, chàng không hề tỏ lộ điều đó. Nancy cho chàng biết rằng sau khi mẹ mất nàng đã bán ngôi nhà ở Ohio và đến sống ở bờ biển Đông. Nhưng nàng không nói gì về khoảng thời gian sáu năm đã trôi qua, kể từ khi nàng bán nhà cho đến lúc nàng đến đây.

Đêm hôm ấy, lần đầu tiên sau nhiều tháng trời, nàng đã ngủ thật sâu - một giấc ngủ không bị xáo trộn bởi những tiếng gọi của Peter và Lisa trong mơ, không có tiếng Carl cáo buộc nàng trước tòa án.

Buổi sáng đầu tiên, nàng đã ngồi bên cửa sổ để uống cà phê. Hôm ấy trời xanh, trong. Một bầu trời xanh ngắt, không mây và ở đàng kia là biển, êm ả, lặng lẽ. Một vật hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có cánh chim hải âu đang lượn vòng phía trên những con tàu đánh cá.

Nàng giữ chặt tách cà phê, nhâm nhi từng ngụm, mắt không rời cảnh vật, cảm thấy hơi ấm của cà phê đang ngấm dần vào cơ thể trong khi nắng trời đang sưởi ấm mặt nàng. Sự êm ả của cảnh vật làm gia tăng cái cảm giác yên ổn mà nàng có được sau một đêm ngon giấc.

"Lạy Trời... xin cho con yên bình". Đó là lời cầu khẩn duy nhất của nàng trong suốt những buổi hầu tòa, trong nhà tù. "Xin Ngài hãy dạy con biết chấp nhận". Thế mà đã bảy năm rồi!

Nancy thở dài, bỗng nhận ra rằng mình đang đứng sững trên bực thang đầu của cầu thang. Thật quá dễ để lạc lối trong kỷ niệm, chính vì thế mà nàng phải cố sống theo từng ngày, từng ngày một... không ngoái nhìn dĩ vãng cũng chẳng hướng về tương lai.

Nàng chậm rãi bước lên cầu thang và thầm nghĩ, làm sao mình có thể tìm được yên bình khi biết rằng nếu Rob Legler xuất hiện trở lại thì mình sẽ bị kết tội sát nhân và như thế sẽ không còn được sống bên Ray, bên Missy và Michael. Trong phút chốc, nàng úp mặt vào lòng tay và thầm nhủ, "Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào có ích gì".

Đến cuối cầu thang, nàng lắc đầu với vẻ dứt khoát và bước nhanh vào phòng chính. Nàng mở cửa sổ và rùng mình khi gió xua màn cửa vào người nàng. Mây đã kéo về và những con sóng bạc đầu xô nhau vào vịnh. Nhiệt độ nhanh chóng hạ thấp. Sau một thời gian sống ở vùng này, Nancy biết rằng có gió lạnh thế này luôn là dấu hiệu báo trước cho một trận bão.

Tuy nhiên, trời cũng có khá tốt để cho hai đứa trẻ có thể chơi trong vườn. Nàng muốn chúng vui đùa và hít thở khí trời vào buổi sáng vì, sau khi ăn trưa, Missy sẽ đi ngủ và Michael đến trường mẫu giáo.

Nàng bắt đầu thay khăn trải giường của cái giường đôi. Rồi nàng bỗng dừng lại và thầm nghĩ. Missy đã sịt mũi từ hôm qua. Phải chăng nàng nên ra vườn để dặn bé không được cởi khuy cổ áo ấm? Bé Missy vẫn có cái thói quen kỳ cục đó. Bé luôn cho rằng cổ áo của bé quá chật.

Nancy tần ngần một lúc rồi tháo hết những tấm drap trải giường. Nàng biết Missy có mặc bên trong một áo thun cao cổ vì thế nếu bé có cởi khuy nút áo ấm thì cổ bé cũng vẫn được che kín. Vả lại, việc thay drap giường và bỏ chúng vào máy giặt chỉ làm nàng mất khoảng mười đến mười lăm phút là cùng.

Tối đa là mười phút, Nancy tự hứa như thế để làm vơi đi nỗi lo sợ đang trĩu nặng và thôi thúc nàng phải xuống, tìm các con ngay.

giavui
05-26-2020, 03:06 PM
Chương 2
Thỉnh thoảng, vào buổi sáng, Jonathan đi bộ ra tiệm tạp hóa để mua tờ báo. Nếu không đi bộ thì ông đi xe đạp. Dẫu bằng phương tiện nào thì ông cũng ngang qua ngôi nhà Nickerson. Đó là ngôi nhà cổ mà Ray Eldredge đã mua sau khi kết hôn với cô gái trẻ đẹp thuê phòng ở đó.

Vào thời cụ Sam Nickerson, ngôi nhà bắt đầu xuống cấp, nhưng giờ đây thì trông kiên cố và ấm cúng. Ray đã cho sơn sửa nhà và lợp lại mái. Và cô vợ của anh ta xem chừng là một người khéo trồng cây kiểng. Đám hoa cúc cam, vàng trong vườn mang lại vẻ tươi vui và đầm ấm, ngay cả trong những ngày âm u nhất.

Vào những hôm tốt trời, Nancy Eldredge làm vườn từ lúc tảng sáng. Nàng luôn thân thiện vẫy tay chào ông Jonathan rồi lại say sưa với công việc. Jonathan ngưỡng phục cái đức tính của người đàn bà ấy. Ông đã quen biết bố mẹ Ray vào cái thời mà hai ông bà thường đến nghỉ hè ở thị trấn này. Dĩ nhiên, gia đình Eldredge đã đổ nhiều công sức cho sự phát triển thị trấn Cape, ông thân của Ray đã cho Jonathan biết rằng gia đình ông là hậu duệ của những người đã đổ bộ lên châu Mỹ, bằng chiếc Mayflower.

Đối với ông Jonathan thì việc Ray đã chọn thị trấn Cape làm nơi định cư là một điển hình đáng noi theo. Thị trấn này có ao, có hồ, có vịnh và có biển. Nó cũng có những cánh rừng để ta đi dạo, những cánh đồng cỏ để ta đuổi người.

Và đây cũng là nơi lý tưởng cho một cặp vợ chồng trẻ với những đứa con nhỏ. Cũng lý tưởng cho những ai muốn chọn nơi này để dưỡng già và sống những năm sau cùng của kiếp đời. Trước đây, Jonathan và Emily luôn về thị trấn này để nghỉ hè trong khi nôn nóng chờ đến cái ngày mà họ sẽ về định cư ở đây. Đó là ước mơ mà họ dứt khoát phải đạt được, vậy mà Emily chẳng còn để mà chia sẻ thành quả.

Ông Jonathan thở dài. Jonathan là một luật sư hưu trí to lớn, khỏe mạnh với mái tóc trắng xóa, dày rậm. Những ngày tháng về hưu nhàn rỗi làm ông chán chường. Chuyện đi câu thì không thể thực hiện vào mùa đông; còn đi mua sắm đồ cổ hoặc tu sửa các bàn ghế cổ là điều ông chẳng còn ưa thích kể từ khi Emily qua đời. Thế rồi, bước sang năm thứ hai sau ngày định cư ở Cape, ông bắt đầu viết lách.

Thoạt đầu, đó chỉ là thú tiêu khiển cho qua giờ. Sau đó, viết lách trở thành một sinh hoạt hàng ngày của ông. Một người bạn xuất bản sách nhân kỳ nghỉ cuối tuần đã đọc vài chương của cuốn sách do Jonathan viết và sau đó đã ký hợp đồng với ông. Trong sách, Jonathan đã nghiên cứu về một số vụ trọng án. Ông làm việc năm tiếng mỗi ngày, tuần bảy ngày và buổi sáng, làm việc từ chín giờ rưỡi.

Jonathan đang đi ngược gió. Ông quay đầu nhìn vịnh, thích thú với ánh nắng trời dịu dàng đang mơn trớn khuôn mặt ông. Ở đây, người ta có thể trông thấy biển qua những hàng cây và tầm mắt chỉ duy nhất bị giới hạn bởi ngôi nhà cổ của lão Hunt - cái ngôi nhà to lớn điêu tàn mà cư dân ở đây gọi là Tháp Canh.

Trên đường đi mua báo, Jonathan luôn dừng lại đây trong chốc lát để ngắm cảnh vịnh. Nhưng, sáng nay cũng thế, lại một lần nữa, ông phải nheo mắt và quay mặt đi. Bực tức, ông hướng mắt về con đường, sau khi đã lơ đễnh nhìn những con sóng bạc đầu đang xô đẩy nhau vào bờ. Ông thầm nghĩ, hẳn cái gã mướn ngôi nhà Tháp Canh có đặt một vật gì đó bằng kim loại khí nơi cửa sổ. Khó chịu thật! Ông muốn nói chuyện này với Ray để chàng lưu ý gã thuê nhà, nhưng đành thôi vì nghĩ rằng gã ta có thể sẽ nhắn lại với ông rằng ông nên ngắm cảnh vịnh từ một nơi khác.

Jonathan hờ hững nhún vai. Giờ đây, ông đang ngang qua trước nhà gia đình Eldredge. Ngồi ăn sáng, nơi chiếc bàn gần cửa sổ, Nancy đang nói với đứa con trai. Đứa bé gái ngồi trên đùi nàng. Jonathan hướng mắt đi nơi khác, e ngại vì tính tò mò của mình và sợ gặp phải ánh mắt của người đàn bà đẹp. Vậy là giờ đây, ông chỉ còn việc đi mua tờ báo, nấu cho mình một bữa ăn đơn độc và ngồi vào bàn viết. Ngày hôm nay ông sẽ viết về vụ án Harmon - một chương theo ông nghĩ là hấp dẫn nhất của cuốn sách.

Chương 3
Đẩy cửa văn phòng giao dịch bất động sản, Ray cảm thấy mình không sao xua đuổi được cái bồn chồn lo sợ đang dằn vặt chàng tựa một cơn nhức răng không thể xác định. Tại sao thế này? Phải chăng đó chỉ đơn giản là vì chàng đã nhắc đến ngày sinh nhật của Nancy và có nguy cơ làm cho dĩ vãng bừng dậy. Thật ra, Nancy vẫn giữ một thái độ bình thản, chàng đã quá am hiểu nàng để có thể nhận ra những lúc căng thẳng ở nàng, khi nàng nhớ đến cái phần đời đó của nàng.

Chỉ cần trông thấy một bé trai và một bé gái tóc nâu cùng lớp tuổi với những đứa con mà nàng đã mất, hoặc một sự tranh luận về xác đứa bé gái tìm thấy ở Cohasset vào năm ngoái, và thế là nàng suy sụp ngay. Nhưng sáng nay Nancy trông vẫn khỏe khoắn và điều mà chàng cảm thấy đó là chuyện khác - một linh cảm không tốt.

- Nào, có chuyện gì thế anh?

Ray ngước mắt, sững sờ. Dorothy vẫn ngồi ở chỗ cũ và dĩ nhiên trên khuôn mặt duyên dáng đó là mái tóc muối tiêu của một phụ nữ đã đứng tuổi.

Dorothy là khách hàng đầu tiên của Ray khi chàng mở văn phòng dịch vụ này. Lúc đó, vì cô thư ký mà chàng tuyển dụng không đến làm việc nên Dorothy đã ngỏ ý giúp chàng ít hôm. Và kể từ ngày đó, bà Dorothy đã làm việc với Ray.

Dorothy nói:

- Anh có biết là anh đã lắc đầu trông rất bi đát không?

Ray mỉm cười tiu ngỉu. Dorothy nói tiếp:

- À, tôi đã tập hợp mọi thứ giấy tờ liên quan đến ngôi nhà Tháp Canh. Anh tính lúc nào sẽ đưa người khách ấy đến xem nhà?

- Khoảng hai giờ chiều - Ray nói rồi nghiêng mình về phía Dorothy - Chị kiếm đâu ra những bản vẽ này?

- Ở thư viện. Đừng quên rằng ngôi nhà đó được xây từ năm 1690. Nếu biết đầu tư, người ta có thể biến nó thành một nhà hàng khá lý tưởng. Hơn nữa, nó có cái nhìn bao quát vịnh, không đâu sánh được.

- Theo tôi biết thì ông bà Kragopoulos đã khai thác thành công nhiều nhà hàng và họ sẵn sàng trả giá cao cho những điểm lý tưởng.

- Ồ những người Hy Lạp thì luôn đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng. - Dorothy nói và xếp tập hồ sơ lại.

- Nếu như vậy thì mọi người dân Anh đều đồng tính luyến ái, những người Đức thì không biết khôi hài, và người Puerto Rico thì chẳng làm nên trò trống gì... Ôi, tôi rất sợ những cái mũ!

Ray lấy từ túi áo ra cái tẩu thuốc và vội vã đưa lên miệng.

Dorothy sững sờ nhìn Ray:

- Anh nói sao? Tôi không chụp mũ ai cả và sở dĩ tôi nói về người Hy Lạp là để chia sẻ quan điểm của anh.

Dorothy quay đi và xếp hồ sơ vào kệ. Ray bước vào văn phòng của anh, khép cửa lại.

Chàng đã mang lại sự ưu phiền cho bà Dorothy. Thật là ngu ngốc và vô lý. Chẳng hiểu điều gì đã xảy đến cho chàng thế này? Dorothy là người dễ mến, ít định kiến và công minh nhất mà chàng từng gặp. Thật là tệ khi đã nói với Dorothy những lời lẽ như thế. Ray thở dài và lấy thuốc lá nhồi vào tẩu. Chàng hút thuốc và suy nghĩ miên man trong khoảng mười lăm phút rồi gọi Dorothy qua hệ thống nội đàm.

- Vâng? - Dorothy nói bằng giọng không vui.

- Mấy cô nhân viên đã đến rồi chứ?

- Vâng, đến rồi.

- Đã có cà phê chưa?

- Vâng, có rồi.

- Chị làm ơn mang vào văn phòng tôi hai tách cà phê - một cho chị và một cho tôi. Bảo mấy cô nhân viên là hãy trực và trả lời điện thoại trong vòng mười lăm phút.

- Vâng. - Dorothy đáp và gác máy.

Ray đứng dậy, mở cửa cho bà Dorothy vào rồi khép cửa lại. Chàng nói:

- Thôi chúng ta hòa hoãn nhé. Tôi rất tiếc đã nói năng bừa bãi. Đầu óc tôi hơi rối.

- Vâng tôi hiểu. Nhưng chuyện gì đã xảy đến với anh?

- Chị hãy ngồi xuống đi. - Ray nói và chỉ cái ghế bọc da đặt gần bàn giấy của chàng.

Rồi cầm lấy tách cà phê, chàng bước đến bên cửa sổ, nhìn cảnh vật đang chìm trong màu xám xịt, buồn bã. Chàng nói:

- Tôi mời chị chiều nay đến nhà dùng cơm. Chị chấp nhận chứ? Hôm nay là sinh nhật của Nancy.

Không nghe Dorothy trả lời, chàng quay lại:

- Phải chăng đã có nhầm lẫn?

Dorothy là người duy nhất ở Cape biết về quá khứ của Nancy. Nancy đã tâm sự với Dorothy về dĩ vãng của nàng và cũng hỏi ý kiến của Dorothy trước khi nhận lời cầu hôn của Ray.

Bằng một giọng và ánh mắt nghĩ ngợi, Dorothy nói:

- Anh Ray à, tôi thật sự không hiểu. Anh có ý gì khi tổ chức sinh nhật?

- Nghĩa là tôi không thể tiếp tục sống mà cứ tảng lờ ngày sinh nhật của Nancy? Ngoài ra, tôi còn hướng đến một mục tiêu hơn thế nữa, đó là Nancy phải đoạn tuyệt với quá khứ của nàng, chấm dứt sự trốn tránh.

- Liệu Nancy có thể đoạn tuyệt với quá khứ? Liệu Nancy có thể thôi trốn tránh một khi đang có một bản án treo lơ lửng trên đầu?

- Đúng vậy! Nhà tôi đang bị đe dọa. Dorothy à, hẳn chị biết rằng nhân chứng trong vụ án của Nancy đã biệt tăm từ sáu năm nay. Chỉ có Trời mới biết hiện nay hắn đang ở đâu, nếu hắn còn sống. Rất có thể từ một nơi nào đó ngoài nước Mỹ, hắn âm thầm trở về dưới một hộ chiếu giả. Đừng quên rằng hắn là một kẻ đào tẩu và nếu bị bắt, hắn sẽ lãnh một bản án khá nặng.

Dorothy gật đầu:

- Rất có thể là như vậy.

- Đúng chứ. Bây giờ, chúng ta hãy nói tiếp. Chị hãy thành thật cho tôi biết người dân ở đây và cả những cô nhân viên ở văn phòng này, đã nghĩ gì về Nancy?

- Mọi người đều thấy Nancy rất xinh đẹp... rất dễ mến... Họ ngưỡng mộ cách ăn mặc của Nancy... nhưng thấy nàng có vẻ quá khép kín.

- Cám ơn chị đã cho tôi biết những điều đó. Tôi từng nghe thiên hạ có những lời lẽ không đúng về nhà tôi. Có người đã cho rằng nàng quá cao sang, đài các đối với người dân ở đây. Ở Câu Lạc Bộ, tôi thường xuyên phải bối rối khi bị hỏi tại sao tôi chỉ đăng ký có tên tôi thôi và không dẫn theo người vợ kiều diễm. Hồi tuần qua, cô hiệu trưởng của Michael đã gọi điện mời Nancy tham gia vào một ủy ban của trường. Dĩ nhiên là nhà tôi đã từ chối. Vào tháng trước, tôi đã thuyết phục được Nancy tham dự buổi tiệc chiêu đãi các nhà kinh doanh và môi giới địa ốc, và thế là khi chụp ảnh lưu niệm, Nancy đã đi vội vào toilet để tránh mặt.

- Nancy sợ bị phát hiện.

- Tôi hiểu. Nhưng theo tôi thì chuyện đó đã bị quên lãng theo thời gian. Và ngay cả nếu ai đó có nói với nàng: Cô trông giống như người phụ nữ đã bị cáo buộc tại một phiên tòa ở California... Đến đây, hẳn chị đã hiểu tôi muốn nói gì rồi chứ? Đối với hầu hết thì chuyện đó xem chừng chẳng quan trọng. Chỉ trông giống, thế thôi. Ở đời, việc người này trông giống người nọ là chuyện thường xảy ra. Và nếu một ngày nào đó Nancy có bị ra tòa trở lại, tôi mong nàng sẽ cảm thấy yên ổn giữa những người dân vùng này. Tôi mong họ sẽ xem nàng như một người đồng hương và nâng đỡ nàng, vì sau khi trắng án, nàng sẽ sống tại thị trấn này.

- Nhưng, nếu có xét xử và Nancy bị kết án thì sao?

Ray nói, giọng dứt khoát:

- Tôi không nghĩ đến trường hợp đó. Nào, chiều nay chị đến dùng cơm với chúng tôi chứ?

- Vâng, rất hân hạnh - Dorothy nói - Tôi đồng ý với hầu hết những điều anh vừa nói.

- Hầu hết thôi ư?

- Vâng - Dorothy thẳng thắn nhìn Ray - Anh nên tự hỏi từ đâu đã nảy sinh cái ước muốn được sống một cuộc đời bình thường hơn. Phải chăng đó là vì Nancy hay vì những nguyên nhân nào khác?

- Chị muốn nói sao?

- Anh Ray à, theo tôi biết thì ông Thống đốc bang Massachusetts có yêu cầu anh tham gia vào sinh hoạt chính trị vì vùng Cape cần được đại điện bởi những người trẻ như anh. Ông ấy cũng hứa sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ anh. Thật khó để từ chối lời đề nghị đó. Nhưng, trong tình trạng hiện nay thì anh không thể làm gì được và anh biết rõ điều đó.

Không chờ Ray trả lời, bà Dorothy rời khỏi văn phòng. Ray uống hết ly cà phê và ngồi vào bàn giấy. Sự cáu kỉnh, bồn chồn và căng thẳng đã biến mất và chàng cảm thấy xấu hổ cho chính mình. Dĩ nhiên, Dorothy đã có lý. Chàng cố nghĩ rằng chẳng có đe dọa nào rình rập gia đình chàng, và mọi sự đều ổn cả. Đồng thời, chàng cũng cảm thấy khiếp đảm. Chàng biết rõ điều gì sẽ chờ đợi chàng khi chàng kết hôn với Nancy.

Ray nhìn sững vào mớ thư tín trên bàn, nhớ lại những lần chàng đã cáu kỉnh với Nancy, không vì một lý do nào, tựa như chuyện vừa xảy ra với bà Dorothy. Có lần Nancy đã khoe chàng bức tranh màu nước vẽ ngôi nhà của họ mà nàng vừa hoàn tất và chàng đã tỏ vẻ bực mình. Hẳn trước đây Nancy có học hội họa và nàng có đủ tài năng để mở một phòng triển lãm tranh. Vậy mà chàng đã nói nàng, "Đẹp lắm, nhưng liệu em sẽ giấu bức tranh ở đâu?"

Nancy bối rối và buồn ra mặt. Chàng đã thầm nghĩ, tại sao mình không cân nhắc lời nói! Rồi chàng năn nỉ: "Em yêu, anh rất tiếc! Chỉ vì anh cảm thấy hãnh diện vì em và anh muốn mọi người chiêm ngưỡng những bức tranh của em".

Phải chăng đã có sự căng thẳng và cáu kỉnh đó là do chàng và Nancy quá mệt mỏi vì phải liên tục sống né tránh và giới hạn những sinh hoạt của họ?

Ray thở dài và cầm lấy những lá thư.

Đến mười giờ mười lăm, bà Dorothy đẩy mạnh cửa văn phòng và ào vào. Sắc diện của bà, vốn hồng hào, giờ bỗng tái xanh. Ray vội vã đứng dậy để bước về phía bà. Nhưng Dorothy lắc đầu, khép cửa lại và giơ cho chàng thấy tờ báo mà bà đang cầm trên tay.

Đó là tờ tuần báo Cape Cod Community News. Dorothy đã lật tờ báo ở trang có bản tin Từ Thành Đến Quận và để nó trên bàn giấy của Ray.

Họ cùng nhìn bức hình in khổ lớn trên báo và biết rằng nhân vật trong hình chính là Nancy. Ray chưa từng trông thấy bức ảnh này, trong đó Nancy nhuộm tóc đen và chải tóc ra phía sau. Dưới hình là lời chú thích: Liệu Nancy Harmon Có Được Một Sinh Nhật Tươi Vui? Một hình khác trên báo cho thấy Nancy đang rời khỏi tòa án, khuôn mặt sững sờ, tóc xõa xuống vai. Hình thứ ba chụp Nancy đang ôm hai đứa trẻ.

Bài báo bắt đầu với những hàng sau: "Hôm nay, ở một nơi nào đó, Nancy Harmon đang mừng sinh nhật thứ ba mươi hai của bà ta và kỷ niệm năm thứ bảy ngày mất của những đứa con mà bà ta bị cáo buộc đã sát hại chúng".

giavui
05-26-2020, 03:07 PM
Chương 4
Đó là chuyện từng phút, từng giây. Mọi sự như diễn ra ở mức độ cực nhanh và y đã có thể làm chủ từng giây, từng phút. Thật nhanh, y đưa xe ra khỏi nhà. Thời tiết quá xấu đến nỗi y chẳng thể trông thấy được gì qua ống viễn kính, nhưng y biết là Nancy đang mặc áo ấm cho hai đứa bé.

Y mân mê túi áo, các ống tiêm vẫn có đó, đầy thuốc, sẵn sàng để dùng đến, sẵn sàng để mang đến một giấc ngủ sâu, không mộng mị.

Toàn thân y toát mồ hôi, mồ hôi nhỏ xuống trên trán, dọc theo hai má, mồ hôi ướt đẫm nách, bẹn. Thật là khó chịu. Trời lạnh căm. Y cố trấn tĩnh, không để lộ vẻ lo lắng, bồn chồn.

Cầm lấy cái khăn mặt mà y luôn để ở băng trước xe, y vội vã thấm những giọt mồ hôi trên mặt, rồi liếc mắt nhìn ra sau. Cái áo mưa vẫn có đó, đây là loại áo đi mưa mà cư dân Cape luôn để sẵn trong xe, nhất là vào mùa câu cá, cùng với những cần câu, nhưng áo mưa của y thuộc loại khá lớn, đủ để trùm kín hai đứa trẻ con. Y bật cười nho nhỏ và hướng xe về quốc lộ 6A.

Đến ngã tư quốc lộ 6A là siêu thị Wiggins. Y vẫn thường mua sắm ở đây. Dĩ nhiên, trong những lần đến sống ở Cape, y luôn thủ sẵn một mớ thực phẩm để tránh phải thường xuyên xuất hiện nơi này nơi nọ, như vậy khỏi có nguy cơ chạm trán Nancy. Nàng có thể nhận ra y, dầu diện mạo y đã thay đổi và y đã cải trang. Cách đây bốn năm, điều đó suýt nữa đã xảy ra. Hôm đó, tại một siêu thị ở Hyannis Port, trong khi y đang chọn một hộp cà phê, thì nghe có giọng nói của Nancy ở sau lưng. Nancy đã đặt tay kề cận y và nói: "Mike à, chờ tí nhé. Phải mua món này mới được". Và rồi nàng nói nhỏ, "Ồ! Xin lỗi", trong khi y đứng đó, chết lặng.

Lúc đó, y đứng yên tại chỗ, chẳng dám lên tiếng. Rồi nàng đã bỏ đi. Y biết chắc nàng đã không buồn nhìn y nhưng kể từ ngày đó, y thận trọng hơn và không muốn để tái diễn một sự việc như thế. Tuy vậy, y cũng phải thường xuyên xuất hiện tại Adams Port nhằm sự có mặt của y sẽ trở nên quen thuộc để thiên hạ khỏi thắc mắc. Chính vì thế mà y luôn đến siêu thị Wiggins vào lúc mười giờ sáng để mua sữa, thịt và bánh mì. Nancy chỉ rời khỏi nhà sau mười một giờ sáng và hơn nữa, nàng có thói quen mua hàng ở siêu thị Lowery, cách Wiggins tám trăm thước. Gia đình Wiggins giờ đây đã xem y như một khách quen lâu ngày, và chỉ ít phút nữa thôi là y sẽ đến đó, thật đúng giờ.

Đường vắng tanh. Gió rét đã trói chân mọi người ở nhà. Y dừng lại ở một ngã tư trước khi đến quốc lộ 6a.

Cơ may vẫn mỉm cười với y. Không một bóng xe, trái cũng như phải. Y cho xe vọt lên, đi vào con đường sau nhà Eldredge. Chỉ cần can đảm, thế thôi. Bất cứ tên ngu xuẩn nào cũng có thể làm một cú táo bạo, nhưng biết ra tay theo một kế hoạch đã được cân nhắc với một thời biểu được hoạch định chính xác, đó mới là thần tình.

Mười giờ kém mười. Hai đứa trẻ hẳn đã ra chơi ngoài vườn được mười phút rồi. Ồ! Y đã khéo tiên liệu mọi tình huống. Một trong hai đứa bé có thể trở vào nhà để uống nước hoặc đi tiểu, nhưng chuyện đó hiếm khi xảy ra, rất hiếm khi xảy ra. Từ tháng nay, y đã hàng ngày theo dõi chúng. Trừ khi trời mưa, còn không thì hai đứa luôn ra vườn chơi. Rồi, chỉ mười hoặc mười lăm phút sau, nàng mới xuất hiện để trông coi chúng.

Mười giờ kém chín phút. Y lái xe vào con đường đất nện dẫn vào phía sau nhà Eldredge. Lát nữa thôi, báo sẽ được phát hành ở Cape. Bài viết về Nancy hẳn được đăng hôm nay và đó là tiếng nổ sẽ lôi Nancy vào cơn phẫn nộ... phá tan cái trò chơi của nàng... và thiên hạ sẽ đổ về ngôi nhà của nàng, soi mói, chỉ chỏ...

Y cho xe dừng lại, giữa cánh rừng. Từ con đường lót đá, chẳng ai có thể trông thấy xe y. Và từ nhà, Nancy cũng chẳng thể trông thấy xe. Y vội vã ra khỏi xe, chọn lối khuất sau những hàng cây và nhanh nhẹn đi về phía hai đứa trẻ đang chơi. Vào mùa này, lá đã rụng nhiều, nhưng ở đây cũng còn không ít bụi rậm đủ để che khuất y.

Trước khi trông thấy hai đứa trẻ thì y đã nghe tiếng nô đùa của chúng. Giọng thằng bé xem chừng hết hơi - hẳn nó đang đẩy cái đu... "Tụi mình sẽ hỏi ba xem nên mua cho mẹ món quà gì. Anh sẽ dùng tiền của hai đứa mình".

Đứa bé gái nói: "Đẩy nữa đi, anh Mike. Thêm nữa đi, cao hơn lên".

Y rón rén bước lại đàng sau đứa bé trai và nó chỉ kịp phát hiện ra y khi đã quá muộn. Y mơ hồ trông thấy đôi mắt xanh mở lớn kinh ngạc và cái miệng há to trước khi bị bàn tay y áp lên, và mũi kim loại tiêm đã cắm sâu qua lớp bao tay băng len. Đứa bé toan né tránh nhưng rồi sững người và mềm nhũn ngã xuống đất.

Cái đu lại trở về. Đứa bé gái nói lớn: "Đẩy đi anh Mike. Đẩy đi. Đừng có ngưng". Y giữ lấy cái đu bằng sợi thừng phía phải và ôm lấy cái hình hài nhỏ bé đang vặn mình, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Y thận trọng đưa tay ngăn chặn tiếng kêu yếu ớt, rồi cắm mũi tiêm xuyên qua lớp bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo tươi cười. Một giây sau đứa bé gái thở ra một hơi nhẹ và nhũn người bên cạnh y.

Y nhẹ nhàng cặp hai đứa trẻ lên và chạy ra xe, không để ý thấy chiếc bao tay đã vướng lại nơi cái đu.

Mười giờ kém năm, hai đứa trẻ đã nằm yên dưới chiếc áo mưa. Y cho xe rời khỏi con đường đất nện và khi ra đến con lộ lót đá, y rủa thầm khi trông thấy một chiếc Dodge đang hướng về phía y. Khi xe chậm lại để nhường đường, y đã quay mặt đi.

Quả là không may! Khi ngang qua chiếc Dodge, y đã liếc mắt nhìn người lái xe nhưng chỉ trông thấy cái mũi nhọn và chiếc cằm thon gầy dưới chiếc mũ. Người lái xe không buồn quay mặt nhìn y.

Y có cảm giác đã có lần gặp mặt ngườỉ đàn ông này, ở đâu đó, hẳn là một cư dân vùng Cape... nhưng có lẽ ông ta không ngờ rằng chiếc xe mà ông ta vừa nhường đường là chiếc xe vừa ra khỏi ngôi nhà Eldredge. Nói chung, cư dân ở đây không có tính tò mò. Và dĩ nhiên, chỉ trong chốc lát thôi là người đàn ông đó sẽ không còn nhớ đến chiếc xe của y.

Y nhìn vào kính chiếu hậu cho đến khi chiếc Dodge khuất dần. Y gừ lên một tiếng thích thú và đưa tay chỉnh lại kính chiếu hậu để có thể trông thấy cái áo mưa ở băng sau, cạnh các cần câu và đồ nghề. Hài lòng, y bẻ kính chiếu hậu về vị trí cũ và không buồn nhìn nữa. Nếu có nhìn, hẳn y sẽ trông thấy chiếc ô-tô lúc này đã chậm lại rồi đề lui.

Mười giờ bốn phút, y bước vào siêu thị Wiggins, làu bàu một tiếng chào hỏi trong khi bước lại quầy đông lạnh để lấy hộp sữa tươi.


Chương 5
Om mớ quần áo, ga trải giường và khăn tắm, Nancy cố giữ thăng bằng khi bước xuống cái cầu thang thẳng đứng. Nàng đã bất thần quyết định giặt rũ để có thể phơi đồ trước khi thời tiết trở nên tồi tệ. Mùa đông đã đến. Nó đang ở đó, phía sau nhà, bứt đi những chiếc lá cuối cùng trên hàng cây. Mùa đông trải dài trên con đường đất nện, giờ đã khô cứng như xi-măng. Mùa đông đã thay đổi màu sắc của vịnh để chỉ còn là màu xanh xám của khói.

Ở ngoài kia, cơn bão đang hình thành, nhưng Nancy vẫn muốn lợi dụng những tia nắng yếu ót sau cùng. Nàng yêu thích cái mùi tươi mát của những tấm drap được phơi ngoài trời. Nàng thích áp má vào những tấm drap đó, chìm dần vào giấc ngủ trong cái hương thơm của cây, của lá tùng trộn lẫn với mùi biển mặn - khác hẳn với cái mùi hăng hắc và ẩm của những tấm drap phơi trong nhà. Nàng cố xua đi kỷ niệm.

Xuống hết cầu thang, Nancy định đi về phía cửa sau, nhưng rồi dừng lại. Nàng nhủ thầm, mình quả thật ngốc nghếch. Hai đứa bé hẳn đang chơi ngoài vườn và bình an vô sự. Chúng vừa ra khỏi nhà được khoảng mười lăm phút và nàng phải đè nén nỗi lo sợ không kiềm chế nổi đang liên tục ám ảnh nàng. Đến bây giờ, nàng nhận thấy là là Missy đã biết điều đó và bắt đầu phản ứng trước sự lo lắng và che chở thái quá của nàng. Nàng quyết định sẽ đưa hai con vào sau khi đã bỏ đồ vào máy giặt và cho máy chạy. Rồi vào mười giờ rưỡi, khi chúng xem truyền hình, nàng sẽ uống một ly cà phê và đọc tờ Cape Cod Communtity News.

Nàng bỏ mớ khăn tắm và drap trải giường vào máy giặt, đổ bột giặt và nước javel vào và cho máy chạy.

Bây giờ, đã đến lúc đưa hai con vào nhà. Nhưng rồi, khi mở cửa và chực bước ra khỏi nhà, Nancy dừng lại. Báo vừa mới được phát. Người giao báo đang khuất bóng ở cuối con đường. Nancy nhặt tờ báo, run rẩy trong cơn gió lạnh và vội vã đi vào bếp. Nàng bấm nút điện ấm nấu cà phê rồi liếc nhanh qua các trang báo.

Nàng nhìn chăm chăm vào hàng tít khá hấp dẫn và những hình ảnh của bài báo; hình nàng chụp chung với Carl và Rob Legler, nàng với Peter và Lisa, kề bên nhau... vững tin. Nancy sững sờ; nàng nhớ rõ cái ngày mà họ chụp bức ảnh đó. Chính Carl là người đã bấm máy.

"Nào, hãy tự nhiên nào!" Carl đã nói thế trong khi nàng đưa tay xoa đầu hai đứa trẻ.

"Không... không... không... không!" Nàng chết điếng vì đau đớn. Nàng lảo đảo nghiêng người về phía trước, chạm phải ấm cà phê, làm đổ tung tóe. Nàng rút tay lại; những giọt cà phê nóng bỏng lăn dài trên tay nàng.

Trong đầu nàng lóe lên một ý nghĩ, cần phải đốt ngay tờ báo. Đốt ngay kẻo Michael và Missy trông thấy. Nàng phải đốt để không ai còn có thể đọc. Nàng chạy vào phòng ăn, đến bên lò sưởi.

Lò sưởi... bây giờ không còn là nơi vui tươi, đầm ấm, nơi người ta cảm thấy yên ổn. Và chẳng còn đâu là nơi trú ẩn... sẽ chẳng còn nơi nào cho Nancy ẩn náu... Nàng vò nát những trang báo, run rẩy cầm lấy cái hộp quẹt trên lò sưởi. Một làn khói, ngọn lửa và các trang báo chất dần giữa những khúc củi.

Cư dân ở Cape hẳn đang đọc tờ báo này. Và họ sẽ biết... mọi người rồi sẽ biết. Có một bức ảnh mà họ sẽ nhận ra... Nancy nhìn trang báo đang cháy, hình Peter và Lisa đang bị lửa nuốt dần, có thể cuốn lại, cháy đen. Đã chết rồi, cả hai. Sao nàng vẫn còn sống đây? Sao nàng không khuất bóng như chúng? Chẳng còn nơi nào để trú ẩn... quên lãng. Rồi Ray sẽ chăm sóc cho Michael và Missy. Ngày mai, đến trường, bọn trẻ sẽ nhìn Michael và chỉ chỏ, to nhỏ với nhau.

Nàng sực nhớ đến hai đứa con. Phải lo cho chúng. Đưa chúng vào nhà ngay, đó là điều, quan trọng nhất, nếu không chúng sẽ cảm lạnh.

Nàng lảo đảo đi về phía cửa sau, mở cửa và gọi, "Peter... Lisa". Ồ, không, nàng đã lầm. Michael và Missy! Chúng mới là con của nàng.

Nàng cất tiếng gọi, buồn bã, thảng thốt:

"Michael, Missy. Vào nhà ngay nào!"

Chúng đâu rồi? Nàng chạy ào ra, mặc cho cái rét đang len nhanh qua chiếc áo săng-đay mỏng.

Nàng chạy về phía cái đu trống trơn và thầm nghĩ hẳn hai đứa bé đã vào rừng. Nàng gọi, "Michael, Missy! Michael, Missy! Chớ có trốn mẹ! Về ngay đi các con!"

Cái đu vẫn còn đong đưa và gió làm nó lắc lư đôi chút. Nancy trông thấy cái bao tay nhỏ nhắn của Missy, bị giữ lại bởi cái khoen kim loại nơi thanh gỗ.

Nàng nghe có tiếng động ở phía xa và thầm nghĩ, hẳn hai con đang ở phía đó. Hay là chúng đã ra hồ! Có thể lắm, nhưng nàng đã cấm chúng ra đó rồi mà. Nàng đã cấm chúng không được bén mảng đến đó. Biết đâu chúng chẳng nghe lời nàng và người ta sẽ vớt xác chúng, như những đứa trẻ khác, trương phình, ướt sũng và vô hồn.

Vớ lấy cái bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo tươi cười, nàng lảo đảo đi về phía hồ. Nàng gọi lớn tên hai con, gọi mãi. Nàng len qua hàng cây và ra đến bờ hồ.

Không xa bờ, có một cái gì đó lấp lánh dưới nước. Một vật màu đỏ... cái bao tay... hay bàn tay của Missy? Nancy lao người xuống nước, ngập đến vai, và cúi nhìn. Nhưng chẳng thấy gì. Nàng cuống cuồng dùng hai tay vớt lên, nhưng chẳng có gì ngoài những dòng nước đang chảy xuống từ các kẽ tay nàng. Chẳng có gì ngoài cái rét căm căm của nước. Nàng chăm chú vào mặt hồ, cố nhìn thấy đáy. Rồi nàng cúi sát hơn và ngã nhào. Nước dâng vào mũi, vào miệng nàng, và cái giá buốt của nước như những ngọn lửa đốt cháy khuôn mặt và cổ nàng.

Nancy cố gượng dậy và men vào bờ trước khi quần áo ướt sũng làm nàng vấp ngã. Nàng té nhào trên lớp cát chai cứng vì giá rét. Tai lùng bùng, mắt bị che phủ bởi lớp sương mù, nàng cố nhìn về phía cánh rừng và trông thấy... khuôn mặt đó... khuôn mặt của ai nhỉ?

Sương mù phủ kín lấy nàng. Ở xa xa, có những âm thanh đang lịm dần: tiếng kêu thảm thiết của một chú hải âu... tiếng bì bõm của nước... thanh vắng.

Khi Ray và Dorothy tìm thấy Nancy thì nàng đang nằm dài trên cát, toàn thân run rẩy, co giật từng cơn trong bộ đồ ướt sũng. Nàng nằm đó, đôi mắt đã lạc thần, nắm trong bàn tay có những đốm rộp, cái bao tay nhỏ màu đỏ.

giavui
05-26-2020, 03:17 PM
Chương 6
An sáng xong, ông Jonathan cẩn thận rửa chén bát, cái chảo chiên trứng và quét dọn căn bếp. Bà Emily, vợ ông, vốn sống ngăn nắp vì thế, sau bao năm chung sống, ông Jonathan đã có thói quen ưa thích sự tươm tất, sạch sẽ. Giờ đây, tuy sống một mình, ông vẫn không bừa bãi. Ông ghi nhận những tắc trách của chị người làm và mỗi chiều thứ sáu, khi chị người làm đã về nghỉ cuối tuần, ông mang các lọ, keo, hũ ra lau chùi và đánh bóng lại mớ bàn ghế mà chị ta thường lưu lại mớ sáp đánh bóng.

Hồi còn ở New York, vợ chồng ông ngụ tại Sutton Place, góc Phố 55. Căn hộ của họ ở tầng thứ mười bảy, nhìn ra dòng sông East River. Dạo đó, hai ông bà vẫn thường ra bao lơn để ngắm ánh đèn trên những chiếc cầu bắt qua dòng sông và nói về cảnh quang của hồ Maushop, về Cape và cuộc sống của họ khi nghỉ hưu.

Hồi đó, ông đã trêu bà:

- Em sẽ không còn có Bertha để lau dọn nhà cửa nữa đâu.

- Dĩ nhiên - Bà Emily đáp - Bertha lúc ấy hẳn cũng đã nghỉ hưu. Dẫu sao chăng nữa thì chúng ta cũng cần có người đến giúp việc mỗi tuần một lần. Thôi, hãy nói chuyện của anh đi. Anh có hối tiếc khi không còn tài xế lái xe?

Lúc đó, ông Jonathan đã nói rằng ông sẽ mua một chiếc xe đạp. Và ông nói tiếp:

- Ngay bây giờ anh cũng có thể sắm một chiếc xe đạp vậy, nhưng ngại rằng một số thân chủ của anh sẽ phản ứng khi thấy một luật sư như anh mà mỗi ngày đạp xe đến văn phòng.

- Theo em thì anh nên bắt tay vào công việc viết lách. Em tiếc rằng anh đã bỏ qua chuyện đó từ nhiều năm rồi.

- Nếu anh mà viết văn nữa thì em làm sao xài tiền cho hết? Em là cái máy xài tiền của anh mà!

- Tất cả chỉ lỗi tại anh. Anh không ngừng thôi thúc em tiêu pha đồng tiền của anh.

- Anh muốn như vậy. Anh không than trách gì cả. Anh đã có quá nhiều may mắn.

Jonathan thầm nghĩ, phải chi vợ chồng ông có thể chung sống vài năm trong ngôi nhà này... Ông thở dài rồi móc cái khăn lau chén vào chỗ cũ. Sáng nay, ông chợt buồn khi trông thấy Nancy Eldredge và hai đứa con của nàng sau khung cửa sổ. Điều đó có thể là do thời tiết quá ảm đạm hoặc là vì những dấu hiệu đầu tiên của một mùa đông lê thê đã sớm đến. Chẳng hiểu sao nữa, nhưng ông cảm thấy bồn chồn, lo lắng. Có điều gì đó đang dằn vặt ông. Một thứ bứt rứt tương tự như cái cảm giác mà đôi khi ông đã gặp khi nghiên cứu một hồ sơ với những sự việc không ăn nhập nhau.

"Ta làm việc thôi", Jonathan nhủ thầm, ông nôn nóng muốn viết xong phần dẫn nhập của chương nói về vụ án Harmon.

"Theo lẽ ta nên nghỉ hưu sớm", ông thầm nghĩ khi từ tốn bước đến bàn giấy. Thật ra, hoàn cảnh đã cuối cùng đưa đẩy ông đến chỗ nghỉ hưu. Sau khi Emily qua đời, ông đã bán căn hộ ở New York, xin từ chức, cho bà Bertha một số tiền dưỡng già, và lui về ngôi nhà này, nơi trước đây vợ chồng ông đã chọn. Với thời gian, nỗi tuyệt vọng của ông vơi dần và nhớ thương cũng nguôi ngoai đôi chút.

Giờ đây, viết cuốn sách này là cả một đam mê đầy hấp dẫn đối với ông. Ngay khi đề tài vừa hình thành trong tâm trí, ông đã mời Kevin Parks, người bạn cố tri và đồng thời cũng là một trong những nhà điều tra độc lập làm việc nghiêm túc nhất, đến nghỉ cuối tuần tại Cape để ông có thể trình bày cái dự kiến của mình. Jonathan đã chọn mười vụ trọng án có vấn đề, khiến phải tranh luận. Ông đã nhờ Kevin tập hợp tất cả những tư liệu có liên quan đến các trọng án đó: biên bản, lời khai nhân chứng, các bài báo, hình ảnh, những câu chuyện bên lề pháp đình v.v... Jonathan chủ tâm nghiên cứu kỹ từng hồ sơ trước khi phân tích và đưa ra kết luận về vụ án - hoặc đồng ý với phán quyết của tòa, hoặc không đồng ý, căn cứ trên những lý lẽ mà ông nêu ra. Tác phẩm này của ông có tên: Phán quyết và Nghi vấn.

Jonathan đã hoàn tất ba chương của cuốn sách. Chương thứ nhất có tựa "Vụ Án Sam Sheppard" mà theo quan điểm của ông thì bị cáo hoàn toàn vô tội. Có quá nhiều thiếu sót trong điều tra và thiếu quá nhiều chứng cứ. Jonathan chia sẻ quan điểm của hội thẩm Dorothy Kilgallen khi phán rằng Sam Sheppard can tội ngoại tình chứ không sát nhân.

Chương thứ hai là "Vụ Án Cappolino". Ở chương này, ý kiến của Jonathan là Marge Farger cũng đáng bị kết án như người tình của cô ta.

Và chương thứ ba, mà Jonathan vừa kết thúc, đề cập đến "Vụ án Edgar Smith". Theo ông, Edgar Smith là kẻ phạm pháp, nhưng giờ đây y cũng đáng để được ân xá. Ở thời buổi này, mười bốn năm ngồi tù xem như đã là một án chung thân, hơn nữa, khi phải cải tạo trong một trại giam khủng khiếp như Death Row, hẳn Edgar Smith đã biết ăn năn hối cải.

Jonathan ngồi vào bàn giấy và cầm lấy chồng hồ sơ dày cộm với bìa cứng có ghi: Vụ Án Harmon. Ở tạp đầu tiên, Kevin có ghim một mẩu giấy:

"Gởi anh Jonathan. Theo tôi nghĩ thì anh sẽ vất vả và đồng thời cũng thú vị khi nghiên cứu vụ án này. Bị cáo tỏ ra là một mục tiêu khá tốt cho những lời buộc tội; ngay cả người chồng của bị cáo cũng không tiếc lời lên án cô ta trước tòa. Nếu một ngày nào đó người ta tìm ra nhân chứng chủ yếu của vụ này - hiện đã mất tích - và đưa ra xử lại, thì tốt nhất bị cáo nên có những chứng cứ vững chắc hơn là những gì mà cô đã nêu trong phiên tòa trước đây. Hiện nay, tôi không rõ bị cáo đang ở đâu. Văn phòng biện lý biết điều đó, nhưng tôi không thể cạy miệng họ. Có lẽ bị cáo hiện sống tại một nơi nào đó ở Miền Đông... đó là tất cả những gì mà tôi có thể biết".

Với đôi chút hồi hộp, Jonathan mở tạp hồ sơ. Ông biết rằng trong bước đầu, ông không thể nêu ra một ý kiến nào ngoài những giả thuyết, trước khi tập hợp đầy đủ các thông tin. Tuy vậy, ông còn nhớ, khoảng sáu, bảy năm về trước, vụ án này đã khơi dậy trong ông những thắc mắc, nghi vấn. Ông nhớ đã nêu ra những thắc mắc khi đọc lời khai của các nhân chứng... Đó cũng là những nghi vấn mà giờ đây ông muốn tìm hiểu. Trước đây, ông có cảm tưởng Nancy Harmon đã không nói hết những gì mà cô ấy biết về vụ mất tích của các con cô.

Cầm lấy mớ tài liệu trong tạp hồ sơ, Jonathan cẩn thận trải chúng lên mặt bàn rộng lớn. Có cả hình chụp Nancy Harmon khi ra trước tòa. Trông cô nàng thật nhí nhảnh với mái tóc dài chấm lưng. Theo hồ sơ lưu trữ thì năm ấy nàng hai mươi lăm tuổi. Nhưng, có một dáng vẻ tươi trẻ hơn nhiều. Cứ như là một thiếu nữ. Lối ăn mặc lại càng làm nàng trông giống trẻ con hơn; như muốn nhấn mạnh cái ấn tượng mà nàng gây ra nơi mọi người. Hẳn luật sư của nàng đã tư vấn điều đó - tạo một dáng vẻ càng non trẻ càng tốt.

Kỳ lạ thật, nhưng kể từ khi quyết định viết cuốn sách này, ông Jonathan có cái cảm tưởng là ông đã từng quen biết với người đàn bà đó. Ông chăm chú vào các bức ảnh trên bàn. Dĩ nhiên, cô này sao trông giống cô vợ trẻ của Ray Eldredge quá! Điều đó đã giải thích cái cảm giác quen biết làm ông bứt rứt. Tuy hai người trông không giống nhau, nhưng liệu thế giới này có quá nhỏ để họ có cùng quan hệ huyết thống?

Mắt ông dừng lại ở trang đánh máy đầu tiên: Lý lịch Nancy Harmon. Sanh tại California, lớn lên tại Ohio. Như vậy, chẳng thể có quan hệ họ hàng với Nancy Eldredge. Dorothy Prentiss vốn quen biết với bố mẹ Nancy ở Virginia.

Jonathan chợt nghĩ đến Dorothy Prentiss. Một thoáng vui thích lên vào tâm trí khi ông nghĩ đến bà cộng tác viên khá quyết rũ này của Ray. Ông thường ghé lại văn phòng địa ốc của Ray vào lúc 17 giờ, khi đi mua tờ Globe phát hành buổi chiều. Ray đã tư vấn để ông đầu tư chút đỉnh vào đất đai và công việc diễn ra rất thuận lợi. Phần ông, ông đã giúp Ray có một vai trò tích cực hơn trong cộng đồng và hai người đã nhanh chóng trở thành bạn thân.

Tuy vậy, Jonathan biết rằng mình đã nhiều lần ghé lại văn phòng Ray mà không vì một lý do cần thiết nào. Nói tóm lại, ông ghé lại đó chỉ để gặp nhau, để nói đủ chuyện trên đời. Ray thường nói: "Chà, bác đến kịp lúc để chúng ta lai rai vài ly khi chiều xuống". Và anh không quên mời Dorothy cùng tham gia.

Trước đây, bà Emily vốn chuộng rượu Daiquiris. Dorothy thì chọn thứ cốc tay hợp với sở thích của ông Jonathan - Rob Roy với một lát chanh tươi, cả ba cùng ngồi trong văn phòng Ray, uống rượu và trò chuyện.

Jonathan thích cái lối nói chuyện dí dỏm của Dorothy. Bà ta xuất thân từ một gia đình kịch nghệ, theo cha mẹ đi lưu diễn nhiều nơi nên có nhiều kỷ niệm tuyệt vời để kể lại. Bà đã một thời mơ ước trở thành nghệ sĩ sân khấu, nhưng sau ba lần giữ vai phụ trong những vở kịch không mấy thành công, bà đi lấy chồng và sống tại Virginia. Sau khi chồng qua đời, bà đến Cape với ý định mở một cửa hàng trang trí nội thất và cuối cùng, bà quyết định làm việc với Ray. Theo lời Ray, thì Dorothy rất có khiếu kinh doanh; bà có thể nhận ra những ưu điểm của một ngôi nhà, tuy trông điêu tàn dột nát, nhưng nếu biết sửa sang thì có thể kinh doanh rất tốt.

Dạo sau này, Jonathan thường ấp ủ cái ý định mời Dorothy đi ăn tối. Những ngày cuối tuần xem chừng quá dài đối với ông và hôm chủ nhật vừa qua, ông đã hai lần đưa tay với điện thoại, định gọi Dorothy. Nhưng rồi ông dằn lại, ngại kết thân quá vội với một phụ nữ mà ông hầu như ngày nào cũng gặp. Hơn nữa, ông cảm thấy không mấy tin tưởng ở chính mình. Phải chăng đối với ông thì người đàn bà ấy hơi có nhiều cá tính? Bao nhiêu năm chung sống với một người đầy nữ tính như Emily hẳn sẽ không làm ông dễ thích nghi với một phụ nữ có cá tính cực kỳ độc lạp.

"Lạy Chúa, tôi đang nghĩ ngợi cái gì kỳ cục vậy nè?" ông Jonathan nhủ thầm. Sao sáng nay đầu óc ông ở đâu đâu! Tại sao ông dễ dàng xao lãng vụ án Harmon đến thế?

Bằng một thái độ dứt khoát, ông nhồi thuốc vào tẩu, châm lửa và hít một hơi dài. Ông cầm lấy tập hồ sơ, ngả lưng ra ghế. Bây giờ là lúc ông nghiên cứu tập tài liệu đầu tiên của chồng hồ sơ.

Một giờ mười lăm phút trôi qua. Chỉ còn tiếng tíc tắc của cái đồng hồ, tiếng rít của những loạt gió càng lúc càng dữ dội qua những hàng thông phía sau cửa sổ và thỉnh thoảng là tiếng làu nhàu tỏ vẻ hoài nghi của Jonathan. Rồi, ông ta cau mày, đặt xấp tài liệu xuống và chậm rãi đi ra bếp để pha ly cà phê. Qua những tài liệu vừa đọc, ông tin rằng có một điều gì đó đáng ngờ trong vụ án này... một điều gì đó ngấm ngầm ngăn trở không để cho những sự việc được khớp nhau một cách hợp lý.

Jonathan bước vào căn bếp ngăn nắp, bóng loáng. Ông nghĩ ngợi trong khi đổ nước vào ấm. Rồi ông đi ra cổng chính trong khi chờ nước sôi. Tờ Cape Cod Community News vừa được phát đặt ở dưới cổng. Cặp nách tờ báo, ông Jonathan trở vào nhà bếp, đổ một thìa cà phê bột vào tách, cho thêm nước sôi, quậy đều và uống một hớp trong khi đọc qua các tít lớn của tờ báo.

Lướt sang phần hai của tờ báo thì ông đã uống gần hết tách cà phê. Cầm cái tách trên tay, ông chăm chú nhìn hình vợ Ray Eldredge đăng trên báo.

Ngay khi khám phá ra sự thật, Jonathan phải đắn đo để chấp nhận hai sự việc không thể bác được: Dorothy Prentiss đã cố tình lừa dối ông khi quả quyết rằng dạo trước bà đã quen Nancy tại Virginia. Mặt khác, tuy đã nghỉ hưu, nhưng ông hẳn phải tuân theo cái trực giác vốn có của một luật sư! Trong tiềm thức, ông vẫn biết rằng Nancy Harmon và Nancy Eldredge chỉ là một.


Chương 7
Trời rét căm căm. Nàng cảm thấy ở miệng có cái vị của cát. Cát? Sao lạ vậy? Nàng đang ở đâu đây? Nàng nghe có tiếng nói của Ray. Chàng đang gọi nàng, đang cúi xuống trên nàng, ôm lấy nàng. Chàng hỏi:

- Nancy, chuyện gì vậy em? Các con đâu rồi, Nancy?

Nàng nghe nỗi sợ hãi đang rung lên trong giọng nói của nàng. Nang cố đưa bàn tay lên, thấy nó rơi xuống cạnh nàng, mềm nhũn. Nàng muốn lên tiếng, nhưng không một âm thanh nào thoát ra khỏi đôi môi nàng. Ray đang ở đó, kề bên nàng, nhưng nàng không thể với tới.

Nàng nghe có tiếng Dorothy: "Này Ray, anh hãy đỡ cô ấy dậy. Hãy đưa cô ấy vào nhà. Chúng ta cần có sự trợ giúp để tìm hai đứa bé".

Hai đứa bé. Cần phải tìm chúng ngay. Nancy muốn bảo Ray đi kiếm chúng. Nàng cảm thấy đôi môi mình mấp máy, nhưng không thốt nên lời. Nàng nghe có giọng nói vụn vỡ của Ray, "Ồ! Chúa tôi!" Nàng muốn nói: "Anh đừng lo cho em. Hãy để mặc em. Anh đi tìm các con nhanh lên!" Nhưng nàng không nói được. Ray đỡ nàng dậy và giữ lấy nàng, chàng hỏi Dorothy:

- Chuyện gì đã xảy ra cho nhà tôi vậy nè?

- Anh Ray à, chúng ta phải báo cảnh sát thôi!

- Cảnh sát?

Nancy mơ hồ nghe thấy trong giọng nói của Ray một sự né tránh.

Và giọng Dorothy:

- Chúng ta cần được trợ giúp để tìm các cháu bé. Anh Ray à, phải nhanh lên thôi! Chúng ta không thể chần chờ được. Hẳn anh đã biết, giờ đây anh không còn có thể che chở Nancy nữa. Mọi người sẽ nhận ra Nancy khi xem bức ảnh.

Bức ảnh. Nancy có cảm giác mình đang bị ẵm đi. Nàng mơ hồ biết rằng mình đang run rẩy. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều làm nàng quan tâm là bức ảnh của nàng trong bộ quần áo bằng vải tweed mà nàng đã sắm sau phiên tòa phá án. Nàng còn nhớ là nàng đã được đưa ra khỏi trại giam để hầu tòa. Sau phiên tòa này, nàng đã được trả tự do vì Carl đã chết và tay sinh viên - nhân chứng cáo buộc nàng - đã mất tích.

Hôm đó, ngài biện lý đã nói: "Chớ tưởng rằng cô sẽ thắng cuộc. Bao lâu còn sống thì tôi sẽ tìm cho bằng được một chứng cứ không thể phản bác". Và ông rời khỏi tòa sau lời nói đanh thép đó, để lại Nancy.

Sau đó, khi được phép rời khỏi bang California, nàng đã cắt và nhuộm mái tóc, rồi đi mua sắm một ít đồ đạc. Nàng vốn không thích những thứ quần áo veste, quần tây bằng vải tweed và một áo thun cổ cuốn. Sau này, đôi khi nàng cũng còn mặc bộ đồ đó, kể cả tuần trước đây, nàng đã mặc chúng khi đi siêu thị. Vì thế, người ta dễ nhận ra sự giống nhau giữa nàng và bức hình... Bức hình... ai đó đã chụp khi nàng đang đứng ở bến xe, chờ ra đi.

Ai đó đã chụp mà nàng không hay biết. Chiều hôm đó, nàng đã đáp chuyến xe cuối cùng đi Boston. Bến xe hầu như vắng tanh và chẳng ai để ý đến nàng; nàng đã thực lòng tin tưởng rằng thế là nàng thoát, để bắt đầu lại từ số không. Nhưng ai đó đã chờ đúng lúc để khơi dậy mọi chuyện.

Nàng thầm nghĩ, "Tôi muốn chết. Tôi muốn chết cho xong".

Ray bước vội, cố dùng chiếc áo veste của anh để che chắn cho Nancy. Gió len qua lớp quần áo ướt sũng của nàng. Chàng chẳng thể che chắn cho nàng; ngay cả nàng mà chàng cũng chẳng thể che chở. Quá muộn rồi... có lẽ mọi sự luôn vẫn muộn màng. Peter và Lisa, rồi Michael và Missy - cả bốn đều mất tích... Đã quá muộn màng đối với chúng.

Không. Không. Không thể nào với Michael và Missy. Chỉ mới đây thôi, chúng vẫn còn đó. Chúng đang chơi đùa. Chúng đang chơi đu và cái bao tay bé nhỏ đã bị vướng ở đó. Michael không bao giờ bỏ rơi em Missy của nó. Nó luôn lo lắng cho con bé. Vậy mà mọi sự cứ như là lần sau cùng đó. Lần sau cùng... Và người ta sẽ tìm thấy hai đứa bé như đã tìm thấy Peter và Lisa, mặt mày tóc tai bám đầy rong biển và những mảnh bao plastic, xác trương phình.

Không. Hai đứa bé hẳn đang ở trong nhà. Dorothy mở cửa và nói:

- Anh Ray à, tôi báo cảnh sát đây.

Nancy cảm thấy bóng tối ập xuống, bao phủ lấy nàng. Nàng trượt ra phía sau, bị cuốn đi... không... không... không.

giavui
05-26-2020, 03:17 PM
Chương 8
O! Sao mà chộn rộn thế kia. Con người lúc nhúc như bầy kiến, lăng xăng quanh ngôi nhà, phía sau vườn. Gã đàn ông bồn chồn liếm môi. Miệng y khô khốc tuy mồ hôi vẫn nhễ nhại. Mồ hôi ướt đẫm tay, chân, nách và bẹn của y. Từng giọt mồ hôi lăn dài trên cổ, trên lưng.

Lúc nãy, khi về đến nhà, y đã mang ngay hai đứa bé vào trong, đi thẳng lên căn phòng có đặt cái ống viễn kính. Như thế, y có thể canh chừng chúng, trò chuyện với chúng khi chúng thức dậy... và vuốt ve chúng nữa chứ.

Có lẽ y sẽ tắm cho con bé, dùng cái khăn tắm thật mềm dễ lau khô mình mẩy nó, rồi rắc bột talc cho nó. Y còn cả một ngày trời trước mắt. Thủy triều chỉ lên sau bảy giờ chiều. Lúc đó, trời đã tối và chẳng ai còn có thể nghe thấy bất cứ điều gì.

Y cảm thấy thích thú khi rờ rẫm hai đứa bé và mường tượng về điều mà thiên hạ sẽ hỏi mẹ chúng. Hẳn người ta sẽ hỏi, "Cô đã làm gì các con của cô?"

Có thêm nhiều xe cảnh sát đang lao nhanh trên con đường đất nện hướng về phía sau nhà Nancy. Nhưng một số xe không dừng lại. Y thầm nghĩ, "Tại sao người ta lại đổ xô về phía hồ Manshop?" Dĩ nhiên, thiên hạ cho rằng nàng đã dẫn hai đứa bé đến đó.

Y cảm thấy rất hài lòng. Từ căn phòng này, y có thể tha hồ quan sát các sự việc đang diễn ra mà không sợ một bất trắc nào. Y hoàn toàn được yên ổn, thoải mái. Y thầm hỏi, chẳng hiểu lúc này Nancy có khóc? Trong suốt phiên tòa, nàng không hề nhỏ một giọt nước mắt. Chỉ đến khi quan tòa nêu lên án tử với phòng hơi ngạt, nàng mới gục mặt vào lòng tay để che giấu những tiếng nức nở. Cảnh sát bước đến, còng tay nàng; tóc nàng xõa tung ra phía trước, che đi khuôn mặt ướt đẫm nước mắt với cái nhìn tuyệt vọng hướng về những con người hằn học.

Y còn nhớ lần đầu tiên khi thấy nàng ngang qua khuôn viên trường đại học. Ngay lúc đó, y biết mình bị cuốn hút bởi nàng - bởi mái tóc thề vàng óng bay bay trong gió, bởi những nét thanh tú, hàm răng trắng đều với những chiếc răng nhỏ nhắn, và đôi mắt biếc với cái nhìn nghiêm trang dưới hàng mi đen nhánh.

Y nghe có tiếng nức nở. Nancy à? Dĩ nhiên, không phải. Đó là tiếng nức nở của đứa bé, con gái nàng. Y rời mắt khỏi ống viễn kính, tức tối. Nhưng rồi y mỉm cười khi nhìn đứa bé gái. Những lọn tóc đẫm mồ hôi trên vầng trán, sống mũi thẳng, nước da trắng... đúng là hình ảnh Nancy. Con bé bắt đầu thức dậy và rên rỉ. Tác dụng của thuốc gây ngủ đã vơi dần; như vậy là hai đứa bé đã hôn mê gần một tiếng đồng hồ, đúng như y tiên liệu.

Vẻ tiếc nuối, y rời khỏi ống viễn kính. Lúc này, y đã để hai đứa bé nằm trên cái đi-văng lót nệm nhung dày, có mùi ẩm mốc. Giờ đây, con bé đang khóc ngất. "Mẹ... Mẹ đâu rồi..." Mắt nó nhắm nghiền, miệng há to... thấy cả cái lưỡi bé tí màu hồng! Mắt nó đầm đìa nước mắt.

Y ngồi xuống đi-văng, cạnh con bé và cởi cái áo veste nhỏ nhắn của nó. Đứa bé ngã người ra sau. Y vỗ về, "Nào, im nào. Không sao đâu con".

Bây giờ, đến lượt đứa bé trai cựa mình và thức dậy. Nó nhìn gã đàn ông bằng ánh mắt kinh ngạc, tương tự như hồi nãy, khi nó trông thấy y ở trong vườn. Nó từ từ nhổm dậy và hỏi, "Ông là ai?" Nó đưa tay dụi mắt, lắc lắc cái đầu, nhìn quanh, rồi nói, "Tụi cháu đang ở đâu đây?"

Một đứa trẻ thức giấc... biết nói nũng... bằng một giọng trong trẻo, như vậy là tốt rồi. Bọn trẻ được cha mẹ dạy dỗ cẩn thận thì lại càng dễ bảo. Chúng sẽ không sanh chuyện. Được giáo dục tốt, chúng biết kính trọng người lớn và ngoan ngoãn. Tựa như hai đứa bé trước đây. Ngày ấy hai đứa đã ngoan ngoãn ngồi xổm trong chiếc rương đặt ở sau xe, không thắc mắc gì khi nghe y cho biết rằng chúng sẽ mang lại cho mẹ một ngạc nhiên.

Y nói với thằng bé:

- Chỉ là một trò đùa thôi. Chú là bạn của mẹ cháu và mẹ cháu muốn tổ chức một trò vui cho ngày sinh nhật của bà. Hẳn cháu biết hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ chứ?

Y đưa tay vuốt ve đứa bé gái. Con bé thật dịu dàng và hiền lành. Thằng bé - Michael - có vẻ ngần ngại. Nó dứt khoát:

- Cháu không thích cái trò chơi đó.

Nó lảo đảo đứng dậy, hất tay gã đàn ông, không để vuốt ve em nó. Rồi nó ôm lấy đứa em.

Nó vỗ về khi đứa em bám lấy nó:

- Thôi, nín đi Missy. Đây chỉ là một trò chơi ngu ngốc. Bây giờ, chúng ta sẽ về nhà.

Lúc này, gã đàn ông hiểu rằng không dễ lừa phỉnh thằng bé. Y thấy nó có cái vẻ cương trực của Ray Eldredge.

Nó nói:

- Tụi cháu không muốn chơi trò chơi của chú. Tụi cháu muốn về nhà.

Người đàn ông nghĩ ra một phương cách khác để buộc thằng bé phải nghe lời.

Y ra lệnh:

- Mày có chịu buông đứa em mày ra hay không?

Rồi một tay y giựt mạnh Missy ra, tay kia y chụp lấy cổ tay Michael và kéo thằng bé đến bên cửa sổ.

Y nói:

- Cháu biết cái ống viễn kính chứ?

Michael gật đầu, vẻ lưỡng lự:

- Vâng. Cũng tựa như cái ống nhòm của ba cháu. Nó làm lớn các vật ra đấy mà!

- Đúng, cháu rất thông minh. Bây giờ cháu hãy nhìn vào đó đi.

Thằng bé áp mắt vào ống ngắm. Gã đàn ông nói:

- Cho chú biết cháu thấy gì nào... Không được, hãy nhắm kín mắt kia lại.

- Cháu thấy ngôi nhà của cháu.

- Rồi gì nữa?

- Rất nhiều ô-tô... xe cảnh sát. Chuyện gì xảy ra vậy? - Giọng thằng bé run rẩy vì khiếp đảm.

Gã đàn ông cúi xuống trên khuôn mặt lo âu bé bỏng và mỉm cười hài lòng. Có tiếng lách tách thật nhẹ trên ô kính. Tuyết đang tan và những loạt gió quất tuyết vào ô kính. Chẳng mấy chốc, tầm nhìn bị giới hạn. Lát nữa đây, cảnh vật sẽ nhạt nhòa và người ta sẽ chẳng trông rõ, ngay cả với ống viễn kính. Nhưng y còn cả một buổi chiều để ở cạnh hai đứa bé. Và y đã có phương cách nhằm buộc thằng bé phải vâng lời y.

Y hỏi:

- Cháu có biết chết là sao không?

- Nghĩa là ta lên trời. - Michael đáp.

Gã đàn ông gật đầu:

- Đúng vậy. Và sáng nay mẹ cháu đã lên trời. Chính vì thế mà có nhiều xe cảnh sát đến nhà cháu. Bố cháu đã giao hai cháu cho chú trông coi. Ông dặn cháu phải ngoan ngoãn và giúp chú một tay để chăm lo cho em cháu.

Michael có vẻ như chực òa khóc. Đôi môi cậu bé run rẩy khi nói.

- Nếu mẹ đã lên trời thì cháu cũng muốn lên theo.

Bế bé Missy đang nức nở, gã đàn ông đưa tay xoa đầu thằng bé:

- Được rồi, chiều nay cháu sẽ lên trời. Chú hứa.

giavui
05-26-2020, 03:17 PM
Chương 9
Bản tin buổi trưa đã phát đi những bài tường thuật đầu tiên. Đói tin giựt gân, đại diện của các hãng truyền hình vồ ngay cơ hội và gởi các phóng viên đi khắp nơi để lùng sục những tài liệu liên quan đến vụ án Nancy Harmon.

Giới báo chí đưa ngay các ký giả chuyên về phóng sự điều tra ra sân bay để kịp thời đến Cape Cod.

Tại San Francisco, sau khi nghe bản tin buổi trưa, một trong hai trợ lý của ngài biện lý nói với người kia:

- Từ lâu, tôi đã báo rằng, thủ phạm chính là con điếm đó. Tôi tin chắc như vậy, chẳng khác nào tôi đã tận mắt trông thấy ả đó giết chết hai đứa bé. Tin tôi đi, lần này nếu mụ đó không lãnh án thì tôi sẽ xin nghỉ việc để đi tìm gã Legler và đưa hắn về đây để làm nhân chứng buộc tội mụ ta.

Tại Boston, bác sĩ Lendon Miles đang trong giờ nghỉ trưa. Bà Markley đã hiểu rõ hơn đôi chút về chính mình. Chỉ vài phút trước đây, bà đã nêu lên một ghi nhận khá lạ lùng. "Thưa bác sĩ, bác sĩ có biết rằng nhờ bác sĩ mà tôi đã thay đổi cuộc sống, bằng cách ôn lại thời kỳ niên thiếu của tôi? Điều đó quả thực rất hữu ích cho tôi về nhiều mặt!" Chỉ mấy tháng trước đây, bà ta bị kềm hãm trong chứng trầm uất, chẳng thể nói một câu đùa bỡn.

Bác sĩ Lendon là người say mê nghề nghiệp. Đối với ông, đời sống tâm thần là một tổng hợp của những hiện tượng tinh tế và phức tạp, một tiến trình bí ẩn chỉ tỏ rõ sau những tiết lộ nhỏ nhặt... và mỗi tiết lộ sẽ từ tốn dẫn dắt đến một tiết lộ khác. Bác sĩ Lendon thở dài. Con bệnh mà ông chữa trị lúc mười giờ đã tỏ ra cực kỳ hung hãn và ông đã bắt đầu bằng giai đoạn phân tích tâm lý.

Ông đưa tay bấm nút cái radio, đặt gần bàn giấy để nghe những bản tin cuối của buổi trưa. Đài đang phát đi bản tin đặc biệt.

Một kỷ niệm buồn xa xưa bỗng trở về, làm khuôn mặt ông tối xầm lại. Nancy Harmon... người con gái của Priscilla. Đã mười bốn năm trôi qua và giờ đây, hình ảnh Priscilla hiện rõ trong tâm trí ông, cứ như thể nàng đang đứng đó, dáng người thon thả, quý phái, nụ cười thoảng qua, như một ánh lửa.

Priscilla đã vào làm việc với ông sau khi chồng nàng qua đời. Dạo đó, nàng ba mươi tám tuổi, nhỏ hơn ông hai tuổi. Chẳng bao lâu sau, họ thường đi ăn tối sau những buổi làm việc muộn và, lần đầu tiên trong đời, bỗng chốc ông thấy chuyện hôn nhân là điều cần thiết và chủ yếu. Trước khi gặp Priscilla, ông không hề nghĩ đến chuyện hôn nhân, vì cho rằng đời mình như thế là quá đủ, với nghề nghiệp, bạn bè và tự do. Có lẽ hồi đó ông chưa gặp được người đàn bà nào đủ quyến rũ để làm ông rời bỏ cuộc sống độc thân.

Dần dà, Priscilla đã tâm sự với ông về đời nàng. Sau năm đầu đại học, nàng kết hôn với hoa tiêu của một hãng hàng không và sanh một bé gái. Theo lẽ thì nàng đã được hưởng hạnh phúc bên chồng. Nhưng rồi, trở về từ Ấn Độ sau một chuyến bay, chàng đã bị viêm phổi do nhiễm trùng và qua đời sau một ngày lâm bệnh.

Priscilla đã nói, "Em tưởng rằng mình không tài nào chịu đựng nổi. Dave có hàng ngàn giờ bay, từng đưa chiếc Boeing 707 vượt qua những trận bão tồi tệ nhất, vậy mà... thật là bất ngờ. Thật không thể tin rằng vào thời đại ngày nay mà có thể chết vì chứng viêm phổi..."

Lendon chưa hề gặp cô con gái của Priscilla. Cô ấy đã về San Francisco để theo học sau khi mẹ cô vào làm việc với Lendon. Priscilla đã giải thích về lý do khiến con nàng phải đi học xa nhà như sau: "Nancy quá khắng khít với em. Cái chết của Dave ảnh hưởng rất sâu đậm đến Nancy. Em muốn thấy con bé được hạnh phúc, vô tư và xa hẳn cái không khí u buồn đó. Bản thân em cũng một thời học ở Auberley, và cũng ở đó mà em đã gặp Dave. Nancy thường theo em về đó tham dự các buổi họp mặt cựu sinh viên vì thế con bé không xa lạ gì với trường đại học này".

Vào tháng mười một, Priscilla xin nghỉ hai ngày để về San Francisco thăm Nancy. Lendon đã lái xe đưa nàng ra sân bay, và họ đã đứng một lúc trong hành lang phi trường, chờ giờ bay.

Lendon đã nói:

- Sẽ bằng thừa để nói với em rằng anh sẽ nhớ em nhiều lắm.

Hôm ấy, Priscilla khoác một chiếc áo choàng màu nâu sẫm, rất hợp với mái tóc vàng và vẻ đẹp thanh tú của nàng.

- Em ước mong điều đó - Nàng đáp, ánh mắt bỗng chốc nhạt nhòa - Anh ạ, em cảm thấy rất lo sợ. Qua những lá thư gần đây, Nancy xem chừng không vui. Em bỗng dưng thấy sợ. Có khi nào anh linh cảm bị đe dọa bởi một điều gì đó?

Ông chăm chú nhìn nàng và cả hai cùng cười.

Rồi nàng nói:

- Chính vì thế mà trước đây em không dám nói với anh. Em biết rằng anh sẽ nghĩ em nực cười.

- Không đâu. Kinh nghiệm cho anh biết không nên xem thường những linh cảm. Có điều anh không gọi đó là linh cảm mà gọi là trực giác. Đã lo sợ thế đó mà sao không nói với anh? Có lẽ anh nên tháp tùng em thôi. Anh tiếc là chưa được gặp Nancy.

- Ồ! Không sao đâu anh. Có lẽ em đã quá lo lắng cho con gái của em. Dẫu sao, em sẽ rất cần sự dìu dắt của anh khi em trở về.

Những ngón tay của họ đan vào nhau.

Bác sĩ Lendon nói:

- Em không nên lo lắng thái quá. Bọn trẻ thường có khả năng để vượt qua khó khăn. Trong trường hợp có chuyện không ổn, vào cuối tuần anh sẽ đáp máy bay đến, nếu em cần có sự trợ giúp của anh.

- Thôi, em không muốn làm phiền anh...

Có giọng nói lạnh lùng cất lên từ loa phát thanh: "Yêu cầu các hành khách đáp chuyến bay số 569 đi San Francisco hãy nhanh chóng ra..."

Bác sĩ Lendon vội vã:

- Này Priscilla, bộ em không biết rằng anh yêu em hay sao?

- Vâng, em biết... Em tin... Em đang hạnh phúc. Và em cũng yêu anh.

Đó là khoảnh khắc sau cùng họ ở bên nhau. Bước khởi đầu... của những kẻ đang yêu.

Chiều hôm sau đó, Priscilla gọi cho Lendon để nói rằng nàng lo sợ. Không có Lendon ở đầu dây, nàng nhắn lại rằng nàng đi ăn tối với Nancy và sẽ gọi ngay khi nàng về khách sạn, vì nàng cần nói chuyện với ông.

Suốt đêm hôm đó, Lendon đã chờ nàng gọi. Biệt vô âm tín. Priscilla sẽ chẳng bao giờ trở về khách sạn nữa. Ngày hôm sau, ông được tin Priscilla lâm nạn. Chiếc ô-tô nàng thuê mướn bị gãy trục lái, lệch khỏi đường và rơi xuống hố.

Theo lẽ ông đã bay về San Francisco để gặp Nancy nhưng rồi khi gọi điện cho cô ta, ông đã gặp Carl Harmon ở đầu bên kia. Anh này cho biết sẽ tiến đến hôn nhân với Nancy. Qua câu chuyện, Carl tỏ ra là một người vững chãi và có trách nhiệm. Nancy không trở về Ohio. Trước đây, cô và Carl đã cho mẹ biết cái ý định này của họ, hơn nữa dòng họ của Nancy đã lập nghiệp từ ba đời nay tại California. Dạo đó, Lendon đã nghĩ rằng Nancy sẽ vượt qua khó khăn vì cô đã có Carl bên cạnh, vả lại, ông đâu thể làm gì hơn? Không lẽ nói cho Nancy biết rằng mẹ cô và ông đã có thời yêu nhau? Chẳng khác gì làm cho cô thêm tổn thương. Anh chàng giáo sư đại học Carl Harmon đó có vẻ là người chân thật. Nỗi lo sợ của Priscilla có lẽ đã xuất phát từ việc Nancy mới có mười tám tuổi mà đã sớm quyết định chuyện hôn nhân. Dẫu sao, Lendon cũng chẳng có quyền hạn gì để can thiệp vào quyết định đó.

Vì chẳng còn Priscilla nên Lendon đã vội vã nhận lời mời sang dạy ở trường đại học London. Và chính vì xa xứ nên ông chỉ nghe nói về vụ án Harmon khi nó đã kết thúc.

Tại trường đại học London, ông đã gặp Allison. Nàng là giảng viên của trường, chính vì đã yêu thương Priscilla và hiểu được sự dịu ngọt khi cùng nhau chia sẻ vui buồn, nên bác sĩ Lendon đã thấy khó khăn khi phải trở lại với cuộc sống độc thân nghiêm túc và ích kỷ. Ông đã quyết định kết hôn với Allison và kể cho nàng nghe về chuyện tình của ông với Priscilla. Thỉnh thoảng, ông thắc mác không hiểu Nancy Harmon bây giờ đi về đâu. Giờ đây, khi biết rằng cô ta đang ở Boston, cách ông một tiếng rưỡi giờ xe, thì ông mới thực sự không ngờ. Ông thầm nghĩ: có lẽ hôm nay ta sẽ tìm cách chuộc lại cái lỗi lầm là đã vội quên Priscilla.

Có tiếng chuông điện thoại. Ngay sau đó, đèn hiệu của máy nội đàm nhấp nháy. Lendon nhấc ống nghe.

- Thưa bác sĩ, có điện thoại của bà nhà. - Cô thư ký nói.

Và giọng Allison lo lắng:

- Chẳng hay anh có nghe tin về Nancy Harmon?

- Có.

- Anh có tính gì không?

Câu hỏi của Alison củng cố thêm cái quyết định mà Lendon đã hình thành trong vô thức, ông nói:

- Anh tính thực hiện điều mà theo lẽ anh đã làm từ nhiều năm qua. Anh sẽ giúp đỡ cô ấy. Anh sẽ gọi cho em sau.

- Cầu Trời phù hộ anh.

Lendon nhấc máy nội đàm và lệnh cho cô thư ký:

- Nhờ cô nói với bác sĩ Marcus thay tôi chữa trị cho số bệnh nhân có hẹn vào chiều nay. Báo với ông rằng tôi phải vắng mặt vì có chuyện khẩn. Sau đó, cô hãy gọi cho trường đại học để hoãn buổi lên lớp lúc 16 giờ của tôi. Tôi phải đi Cape Cod ngay bay giờ.

giavui
05-26-2020, 03:17 PM
Chương 10
Anh Ray à, chúng tôi đã bắt đầu cho người mò tìm lòng hồ. Chúng tôi đã thông báo trên các kênh truyền hình, radio và đã được tăng cường thêm người để tìm kiếm hai cháu.

Jed Coffin, thanh tra cảnh sát Adam Port nói, cố giữ giọng trầm tĩnh.

Tuy vậy, trước ánh mắt lo âu và khuôn mặt xám xịt của Ray thì không dễ để giữ một thái độ vững tin và ân cần. Ray đã lừa dối ông - trước đây chàng đã nói với ông rằng Nancy nguyên quán ở Virginia và đã quen Dorothy ở đó. Ray đã nói nhiều về Nancy, nhưng chỉ là những chuyện không có thật. Và Jed Coffin đã tin, không chút nghi ngờ. Chính vì thế mà giờ đây ông cảm thấy bực tức.

Giờ đây, đối với ông, sự việc đã trở nên sáng tỏ. Sau khi đọc bài báo viết về mình, vợ của Ray hiểu rằng chân tướng bà đã bị lộ và vì thế, bà hoảng loạn. Bà đã ra tay sát hại hai đứa bé như đã từng làm với hai đứa trước đây. Chăm chăm nhìn Ray, Jed Coffin nghĩ rằng chàng ta cũng đang có cái ý nghĩ như ông.

Mớ tro tàn của tờ báo vẫn còn đó, trong lò sưởi. Thanh tra Jed thấy Ray đang hướng mắt về phía đó. Với những mảnh còn sót lại, chưa cháy hết, người ta hiểu ngay rằng tờ báo đã bị xé nát trong một cơn điên loạn.

Jed Coffin hỏi:

- Bác sĩ Smathers còn ở trên đó với bả? - Giọng viên thanh tra có vẻ lạnh lùng, không còn gọi "Bà Eldredge" như trước đây.

- Vâng. Bác sĩ sẽ tiêm cho nhà tôi một mũi thuốc an thần. Ồ! Lạy Chúa tôi!

Ray ngồi ở bàn ăn, gục đầu vào lòng bàn tay. Chỉ mấy tiếng đồng hồ trước đây, Nancy cũng đã ngồi nơi đây, trên chiếc ghế này, bế Missy trong tay, trong khi Mike hỏi, "Hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ, phải không mẹ?" Phải chăng một điều gì đó từ tiềm thức đã thôi thúc Ray tổ chức sinh nhật nàng? Và rồi, bài báo đó... phải chăng Nancy đã...

"Không!" Ray ngửng đầu và quay mặt đi khi bắt gặp ánh mắt của viên thanh tra đang nhìn chàng từ cửa sau căn bếp.

Ông ta hỏi:

- Anh nghĩ sao?

- Nancy không thể nhẫn tâm với hai đứa bé. Dẫu thế nào chăng nữa thì nhà tôi cũng không thể làm điều đó.

- Dĩ nhiên, trong trạng thái bình thường thì không. Nhưng tôi đã từng thấy nhiều người đàn bà không còn chút tỉnh táo và chuyện rắc rối là thế...

Ray đứng dậy, bám tay vào cạnh bàn. Ánh mắt chàng lướt qua viên thanh tra, nhưng không dừng lại, như thể ông ta không có đó.

Chàng nói:

- Tôi cần được giúp đỡ. Tôi cần được thực sự trợ giúp.

Căn bếp trông chẳng khác một bãi chiến trường. Cảnh sát đã nhanh chóng lục xét toàn bộ ngôi nhà trước khi tập trung tìm kiếm bên ngoài. Một nhân viên nhiếp ảnh của cảnh sát vẫn còn tiếp tục bấm máy, nơi ấm nấu cà phê đã đổ, để lại những đốm đen trên bếp và sàn nhà. Chuông điện thoại không ngớt reo. Và câu trả lời vẫn là: "Vâng, lát nữa đây ông thanh tra sẽ có tuyên bố chính thức".

Viên cảnh sát được giao nhiệm vụ trả lời điện thoại bước đến bên bàn ăn và nói: "Hãng thông tấn. A. P. đấy. Các hãng thông tấn đang xôn xao. Chẳng bao lâu nữa thì họ sẽ ào đến đây".

Các hãng thông tấn. Ray bỗng nhớ đến cái nét day dứt trên mặt Nancy, nét day dứt phải mất bao thời gian mới có thể xua đi.

Chàng nhớ đến hình ảnh của nàng đăng trên báo sáng nay, với bàn tay giơ lên như tìm cách chống đỡ những ngọn đòn. Chàng đẩy thanh tra Jed một bên, chạy ào lên lầu và mở cửa phòng. Bác sĩ Smathers đang ngồi cạnh Nancy.

Ông nói bằng một giọng dịu dàng:

- Này Nancy, cô có nghe tôi nói không. Tôi biết cô đang nghe tôi mà. Ray đang ở đây nè. Anh ấy rất lo lắng cho cô. Hãy nói với anh ấy đi, Nancy.

Mắt Nancy vẫn nhắm. Lúc nãy, khi về đến nhà, Dorothy đã giúp Ray cởi bỏ bộ quần áo ướt đẫm của Nancy để thay cho nàng cái áo ngủ êm ấm. Giờ đây, trong chiếc áo này, trông nàng thật nhỏ nhắn và bất động - chẳng khác chi một bé gái.

Ray cúi người về phía Nancy:

- Nancy, anh van em. Em phải giúp anh tìm các con. Phải tìm chúng, chúng đang cần em. Cố lên nào, Nancy. Anh van em, hãy cố lên.

- Thôi anh Ray, đừng nữa - Bác sĩ Smarthers nói, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn xúc động - Nancy đã bị một cú sốc khủng khiếp, có lẽ do đã đọc bài báo, hoặc gặp phải một điều gì đó. Tâm trí cô ta đang tìm cách để đương đầu.

Ray thốt lên:

- Nhưng chúng ta cần biết chuyện gì đã xảy ra. Có thể nhà tôi đã trông thấy ai đó bắt đi các con.

Rồi chàng nói với Nancy:

- Này Nancy, anh hiểu. Anh biết chứ. Em không nên lo sợ vì cái bài báo đó. Chúng ta sẽ cùng nhau đối phó. Nhưng, này em yêu, các con đâu rồi? Em phải giúp anh tìm chúng. Phải chăng chúng đã đi ra hồ?

Nancy rùng mình. Từ họng nàng thốt lên một tiếng hét tắt nghẹn. Đôi môi nàng mấp máy: "Hãy đi tìm các con... hãy tìm..."

- Anh sẽ đi tìm chúng. Nhưng anh cần có sự giúp sức của em. Nào, em yêu, để anh đỡ em dậy nhé. Em có thể giúp tìm các con. Nào em, đừng chậm trễ nữa.

Khi cúi xuống gần nàng, Ray thấy Nancy có vết trầy trụa ở má vì đã ngã trên cát. Những hạt cát ẩm vẫn còn bám trên tóc nàng. Chàng thầm nghĩ, "Tại sao nhỉ? Hay là..."

Bác sĩ Smarthers nói:

- Tôi sẽ tiêm cho Nancy một mũi thuốc để giúp bà bớt lo âu căng thẳng nhưng đồng thời không làm bà phải ngủ mê mệt.

Nàng cảm thấy rã rời, đờ đẫn. Đó là cái cảm giác mà nàng đã từng gặp trong bao năm dài - từ hôm mẹ nàng qua đời... hoặc có thể từ trước đó... cái cảm giác chịu trận, vô phương chống đỡ... không thể chọn lựa, cựa quậy hoặc ngay cả nói năng. Đến bây giờ, nàng vẫn không tài nào quên được những đêm dài đăng đẳng đó, những đêm trĩu nặng vì mệt mỏi. Carl đã tỏ ra rất nhẫn nại đối với nàng. Chàng đã làm tất cả những gì có thể để giúp nàng. Chàng đã không ngừng nhắc đi nhắc lại là cần phải nỗ lực hơn, nghị lực hơn để vượt qua chứng ngủ lịm kinh khiếp đó. Thế mà nàng đã không tài nào làm được.

Nhưng chuyện đó đã xảy ra từ lâu lắm rồi. Nàng không còn nhớ đến nữa. Nàng cũng đã quên Carl, quên hai đứa bé, quên Rob Legler chàng sinh viên điển trai đã tỏ ra thương mến nàng và biết pha trò để nàng cười ồ. Mỗi khi có chàng sinh viên đó, hai đứa bé đã rất vui và sung sướng. Nàng đã từng xem anh ta là một người bạn thực sự. Thế mà, khi ra trước tòa, chàng ta đã khai: "Bà ấy đã nói với tôi rằng hai đứa bé sẽ bị chết ngạt. Bà ta đã nói thế bốn ngày trước khi hai cháu bé mất tích".

Nàng nghe có tiếng của Ray:

- Nancy, anh van em. Nancy, tại sao em đã đi ra hồ?

Nàng nghe có tiếng than khô khốc thốt ra từ môi nàng. Hồ ư? Hai đứa con đã ra ngoài đó à? Nàng phải đi tìm chúng mới được. Nàng mơ hồ cảm thấy Ray đang đỡ nàng dậy. Nàng tựa người vào chàng rồi cố gượng dây. Quả thật là dễ dàng để trốn chạy, chìm vào giấc ngủ, như ban nãy.

- Giỏi lắm, Nancy! - Ray nói và quay sang bác sĩ Smarthers - Tôi có thể cho nhà tôi uống cà phê...?

Bác sĩ Smarthers gật đầu:

- Để tôi nhờ bà Dorothy pha cà phê.

Cà phê. Đúng, nàng đang nấu cà phê thì trông thấy bức ảnh trên báo. Nancy mở mắt ra. Nàng nói nho nhỏ:

- Anh à, họ sẽ biết chuyện. Mọi người rồi sẽ biết. Anh không thể che giấu... Anh không thể che giấu đâu.

Rối nàng chợt nghĩ đến một điều khác và níu lấy cánh tay Ray:

- Các con. Ray à, đi tìm các con đi anh.

- Bình tình đi em. Chính vì thế mà mọi người đang cần sự trợ giúp của em. Sự thể đã xảy ra như thế nào, em phải kể hết ra, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Em hãy dành ra ít phút để tỉnh trí và nhớ lại.

Dorothy vào phòng, bưng tách cà phê bốc khói:

- Tôi đã pha Nescafe đây. Bà ấy đã khỏe chưa?

- Bà đã tỉnh rồi.

- Thanh tra Coffin nôn nóng muốn thẩm vấn Nancy.

Nancy hoảng sợ. Nàng níu lấy cánh tay chồng. Ray trấn an:

- Em đừng sợ. Sở dĩ như thế là vì chúng ta cần có sự trợ giúp của ông ta để tìm các con.

Nancy uống một ngụm cà phê, thưởng thức cái hương vị nóng bỏng đó và thầm nghĩ, "Phải chi ta có thể nhớ lại... ta có thể tỉnh thức... thoát khỏi cái chứng ngủ lịm kinh khiếp này".

Giờ đây, nàng có thể nói được rồi. Nàng cảm thấy đôi môi trở nên dày rộp, sền sệt, tựa như cao su. Nhưng nàng cần phải nói... giúp mọi người tìm kiếm hai đứa bé. Nàng muốn xuống nhà. Nàng thấy nàng không nên ở trên này... chờ đợi trong căn phòng này... không thể xuống nhà... đương đầu với người ta... với cảnh sát... vợ của các giáo sư đại học...

Bám vào cánh tay Ray, Nancy lảo đảo đứng dậy. Ngày hôm nay, nàng còn có Ray để nương tựa.

- Ray à... Em không làm hại các con.

- Dĩ nhiên. Anh hiểu.

Giọng nói của chàng quá dịu dàng... nhưng có vẻ sửng sốt. Sao không sửng sốt được chứ? Chàng thầm nghĩ tại sao nàng cần phải biện minh như thế. Không một người mẹ nào có thể nghĩ đến chuyện làm hại con mình, vậy thì, tại sao nàng phải nói?

Cố hết sức, Nancy mò mẫm ra cửa. Ray dìu nàng từng bước. Nàng không còn cảm giác của đôi chân, cứ như thể chúng không có đó. Nàng không còn cảm giác về chính mình, cứ như thể nàng không còn hiện hữu. Đây là cơn ác mộng thường xảy đến với nàng. Trong ít phút nữa, nàng sẽ thức dậy, tựa như nàng đã thức giấc trong nhiều đêm, bước ra khỏi giường, đi sang phòng Missy và Michael để xem chúng đã đắp chăn đầy đủ chưa, trước khi quay trở về giường, rón rén, nhẹ nhàng kẻo sợ Ray thức giấc. Nhưng trong giấc ngủ, chàng đã giương tay ra, ôm lấy nàng, và nàng chìm vào giấc ngủ, cảm thấy yên ổn với tấm thân nóng ấm của chàng.

Họ bước xuống cầu thang. Các nhân viên cảnh sát ngước đầu nhìn nàng... hoàn toàn bất động... như chết sững trong khoảnh khắc.

Thanh tra Jed Coffin ngồi nơi bàn ăn. Nàng cảm nhận thái độ hằn học của ông... tựa như trong lần sau cùng, trước đây.

Ông nói:

- Sao bà Eldredge? Bà thấy thế nào?

Một câu hỏi chỉ để mà hỏi. Không chút tình cảm. Nếu không có Ray ở đây, hẳn ông ta sẽ không buồn hỏi han như thế.

- Vâng, cám ơn ông. - Nàng đáp, lòng không chút ưa thích người đàn ông đó.

- Chúng tôi đang tìm kiếm các con của bà. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ nhanh chóng tìm thấy hai cháu. Nhưng bà phải giúp đỡ chúng tôi. Bà hãy cho chúng tôi biết lần sau cùng mà bà gặp hai cháu là vào lúc nào?

- Ít phút trước mười giờ sáng. Tôi đã cho các con ra vườn chơi và tôi lên nhà, làm giường.

- Bà đã ở bao lâu trên đó?

- Mười phút... không quá mười lăm phút.

- Sau đó bà làm gì?

- Tôi xuống nhà, tính giặt quần áo xong rồi sẽ gọi các con. Nhưng sau khi chạy máy giặt, tôi lại nảy ý định nấu cà phê. Rồi tôi trông thấy người giao báo.

- Bà có nói chuyện với người ấy?

- Không. Thật ra, không thể nói là tôi đã gặp anh ta. Khi tôi ra cổng để nhặt tờ báo thì bóng anh ta đã khuất ở cuối đường.

- Tôi hiểu. Rồi sau đó bà làm gì?

- Tôi trở vào bếp, cắm điện ấm đun cà phê - lúc đó vẫn còn nóng. Và tôi bắt đầu lướt qua tờ báo.

- Vậy là bà đã xem bài báo đó?

Nhìn thẳng về phía trước, Nancy gật đầu.

Thanh tra Jed hỏi:

- Bà đã phản ứng ra sao?

- Có lẽ tôi đã hét lên... tôi không rõ nữa...

- Tại sao cà phê đã đổ tung tóe?

- Tôi đã chạm phải... cà phê đã đổ và làm bỏng tay tôi.

- Tại sao lại xảy ra cái chuyện đó?

- Tôi không hiểu nữa. Tôi đã vô tình chạm phải ấm cà phê. Lúc đó, tôi có cảm giác đầu óc tôi như muốn nổ tung. Tôi biết rằng rồi đây tôi sẽ bị thiên hạ soi mói, chỉ chỏ, nhỏ to với nhau. Người ta sẽ cho rằng tôi đã giết các đứa bé. Và, tôi không muốn để Michael trông thấy bức hình đăng trên báo. Vì thế, tôi đã cầm tờ báo trong tay và chạy. Tôi vứt nó vào lò sưởi, và đốt... tờ báo cháy. Lúc đó, tôi sực nhớ rằng tôi phải ra vườn để kiếm Michael và Missy. Tôi phải đưa chúng vào một nơi an toàn để che giấu. Nhưng, cũng tương tự như lần sau cùng trước đây, khi hai đứa bé bị mất tích. Tôi chạy ào ra vườn, quá lo sợ.

- Bây giờ, bà hãy nghe kỹ lời tôi nói, vì rất quan trọng. Lúc đó, bà có gặp hai cháu không?

- Không. Chúng đã đi rồi. Tôi đã gọi chúng và chạy ào ra hồ.

- Thưa bà Eldredge, lý do nào khiến bà chạy ra hồ? Ông nhà cho biết ông đã cấm các con ra hồ và chúng rất ngoan ngoãn, luôn nghe lời bố mẹ. Tại sao bà không tìm chúng trong các cánh rừng, dọc theo đường lộ hoặc ngoài phố, vì biết đau chúng đã ra phố để mua quà sinh nhật? Tại sao bà phải ra hồ chứ?

Giọng Nancy vỡ vụn:

- Tại vì tôi sợ. Tại vì trước đây Peter và Lisa đã chết đuối. Tại vì tôi muốn tìm Michael và Missy. Cái bao tay của Missy đã vướng lại trên cái đu. Con bé khi nào cũng có cái thói đó. Tôi đã chạy ra hồ để tìm các con. Mọi sự đã bắt đầu như vào lần cuối... Mặt mày chúng ướt đẫm, bất động... và chúng không còn nói năng gì nữa...

Thanh tra Jed đứng dậy. Ông nói bằng giọng trịnh trọng:

- Thưa bà Eldredge, tôi có nhiệm vụ thông báo cho bà biết rằng bà có quyền nhờ đến một luật sư trước khi phải trả lời những chất vấn khác, và đừng quên rằng những lời khai của bà có thể trói buộc bà đấy.

Không chờ Nancy trả lời, ông rời khỏi căn bếp và ra khỏi nhà bằng cửa sau. Ở sau nhà, xe đang chờ ông. Tuyết tan lã chã quất vào mặt ông. Ông chui vào xe; gió đẩy mạnh cánh cửa xe, đập vào giày ông. Ông cau mặt vì đau đớn và làu bàu: "Ra hồ".

Nếu thời tiết càng lúc càng tệ như thế này thì chẳng thể tiếp tục công việc tìm kiếm. Bây giờ đang giữa trưa mà trời đã âm u như xế chiều. Ngay cả khi thời tiết tốt đẹp thì việc lặn tìm ở hồ Maushop đã là vấn đề vì đây là một hồ lớn, sâu và nguy hiểm nhất vùng Cape, chính vì thế mà ở đây thường xảy ra những vụ chết đuối. Bạn có thể êm ả ngâm mình trong nước đến ngang hông và rồi chỉ bước thêm một bước là hụt chân, sa xuống độ sâu mười thước. Nếu hai đứa bé đã bị chết đuối thì hẳn xác chúng sẽ nổi lên vào mùa xuân tới. Không thể sớm hơn. Với cái rét đang nhanh chóng tăng lên, chẳng mấy chốc mặt hồ sẽ trở thành sân trượt băng.

Thông thường vào mùa này và nhất là với thời tiết như hôm nay, thì hồ Maushop vắng tanh, tuy vậy, giờ đây, nó đen kịt người. Đứng sát bên nhau, thành từng nhóm nhỏ, những người hiếu kỳ nhìn vào khoảng không gian được phân định bởi một sợi thừng, nơi những người thợ lặn đang đứng cạnh các thiết bị của họ, và một hàng rào cảnh sát.

Thanh tra Jed vội vã bước ra khỏi xe và bước nhanh về phía hồ. Ông đi về phía trung úy Pete Regan, người đang chỉ huy công việc mò tìm. Cái khoát tay thất vọng của Pete đủ để cho viên thanh tra hiểu và không lên tiếng hỏi han.

Co ro trong chiếc áo khoác, thanh tra Jed thầm hỏi phải chăng đây là nơi Nancy Eldredge đã lôi các con của bà ta xuống nước. Vào lúc này đây, có những người thợ lặn đang có nguy cơ mất mạng vì cái hành vi điên loạn đó của bà ta. Chỉ có Trời mới biết hai đứa trẻ hiện đang ở đâu và bao giờ người ta mới tìm thấy chúng.

Bực tức, ông gọi Pete, giọng khô khốc.

Pete vội vã bước đến bên ông:

- Thưa sếp, chuyện gì ạ?

- Mấy gã đó còn mò tìm trong bao lâu nữa?

- Họ đã hai lần mò dưới đó. Sau lần này, họ lại tiếp tục thêm một lần nữa, rồi nghỉ một lúc trước khi sang khu khác.

Trung úy Pete chỉ tay về cái caméra của hãng truyền hình và nói tiếp:

- Chiều nay, các hãng truyền hình sẽ loan tin vụ này. Tốt hơn, sếp nên soạn sẵn một lời tuyên bố.

Bằng những ngón tay tê cóng, thanh tra Jed lục tìm trong túi chiếc áo khoác.

- Tôi đã viết sẵn vài hàng đây - Ông nói và từ tốn đọc - Chúng tôi đã triển khai toàn bộ lực lượng để tìm kiếm hai đứa con của bà Nancy Eldredge. Những toán tình nguyện đã lùng sục khu vực quanh ngôi nhà và những cánh rừng lân cận. Ngoài ra, các trực thăng cũng đang quần khắp vùng để tìm kiếm những dấu vết khả nghi. Vì hồ Maushop không xa ngôi nhà của gia đình Eldredge nên việc mò tìm dưới lòng hồ là điều cần thiết, không thể bỏ qua.

Nhưng rồi một lúc sau đó, khi thanh tra Jed đọc lời tuyên bố này trước đám phóng viên và ký giả càng lúc càng đông, thì một người trong số họ đã hỏi, "Sáng nay, sau khi các cháu bé mất tích, phải chăng người ta đã tìm thấy Nancy Eldredge ở bên hồ, ướt đẫm và đang lên cơn tâm thần?"

- Đúng vậy.

Một gã dong dỏng cao, mà thanh tra Jed nhận ra đó là một phóng viên của kênh 5 đài truyền hình Boston, hỏi "Căn cứ vào điều vừa kể và vào quá khứ của bà Eldredge, phải chăng việc tìm kiếm ở Maushop mang một ý nghĩa đặc biệt?"

- Chúng tôi không loại trừ một khả năng nào.

Và, những câu hỏi được các phóng viên nêu lên tới tấp:

- Căn cứ trên thảm kịch đã xảy ra trước đây, việc các đứa bé của gia đình Eldredge mất tích có thể cho phép ta nghi ngờ?

- Tôi không thể trả lời câu hỏi này vì như thế là xâm phạm đến quyền công dân của bà Eldredge.

- Bao giờ thì ông sẽ xét hỏi bà ấy?

- Ngay khi có thể.

- Phải chăng sáng nay bà Eldredge đã đọc bài báo viết về bà ta?

- Theo tôi nghĩ thì bà ấy đã đọc.

- Bà ấy đã phản ứng ra sao?

- Xin lỗi, tôi không thể tiết lộ.

- Có phải hầu hết cư dân thành phố này đều không biết về quá khứ của bà Eldredge?

- Đúng.

- Vậy, ông có biết lý lịch thực sự của bà ấy?

- Không, tôi không biết - Thanh tra Jed lắc đầu và nói nho nhỏ - Phần trả lời phỏng vấn hôm nay đến đấy là hết.

Nhưng trước khi ông kịp rút lui, một phóng viên của tờ Boston Herald đã chắn ngang lối đi và lớn tiếng hỏi:

- Thưa ông thanh tra, trong sáu năm qua, tại Cape đây và những vùng lân cận, có đứa trẻ nào bị chết một cách bí ẩn hay không?

- Có.

- Vậy, bà Nancy Harmon Eldredge đã sống tại Cape từ bao lâu rồi?

- Sáu năm, nếu tôi không lầm.

- Xin cám ơn ông.

giavui
05-26-2020, 03:18 PM
Chương 11
Mải mê với công việc, Jonathan Knowles không hay biết thời gian trôi qua. Ông cũng chẳng hay biết về sự chộn rộn quanh hồ Maushop. Ông chỉ ghi nhận rằng hôm nay xem chừng xe cộ qua lại trước nhà ông nhiều hơn. Nhưng, vì làm việc trong một căn phòng ở cuối nhà nên tiếng động chỉ lọt rất ít đến tai ông.

Qua cú sốc đầu tiên phát hiện ra rằng người vợ của Ray Eldredge chính là bà Nancy Harmon lừng danh, Jonathan đã uống một ly cà phê và tiếp tục ngồi vào bàn giấy. Ông quyết định duy trì kế hoạch của ông, nghĩa là nghiên cứu vụ án Harmon đúng như đã định. Ông nghĩ rằng, nếu sau này thấy việc nghiên cứu về trường hợp phạm tội của một thiếu phụ mà ông quen biết sẽ là điều không mấy tế nhị, thì ông sẽ đơn giản hủy bỏ toàn bộ cái chương này của cuốn sách.

Nghĩ đến đó, ông bắt đầu chăm chú đọc một bài được đăng trên một nhật báo ở Cape. Sau khi nêu ra một loạt những chi tiết thiếu trung thực nhằm làm cho người đọc phải rùng mình khiếp sợ, bài báo đề cập đến quá khứ của Nancy Harmon, người vợ trẻ của một giáo sư đại học... hai con... một ngôi nhà trong khuôn viên đại học. Một đời sống đáng mơ ước cho đến cái ngày mà giáo sư Harmon đã nhờ một sinh viên đến nhà ông để sửa cái nồi hơi đun bằng dầu mazut. Chàng sinh viên này vốn điển trai, ăn nói có duyên và giỏi tán tỉnh phụ nữ. Vì thế Nancy, mới hai mươi lăm tuổi, đã phải lòng chàng.

Jonathan đọc những đoạn trích dẫn các lời khai nhân chứng đăng trên báo. Chàng sinh viên - Rob Legler - đã giải thích về sự gặp gỡ giữa chàng ta và Nancy như sau: "Lúc đó, tôi đang ở trong văn phòng của giáo sư Harmon thì vợ ông gọi điện cho biết cái nồi hơi bị hỏng. Vì chuyên trị các thứ máy móc hỏng hóc nên tôi đã tình nguyện giúp ông. Ông ấy không mấy nhiệt tình khi chấp nhận sự giúp đỡ của tôi, nhưng vì không liên lạc được với cơ sở thường đến bảo trì cho ngôi nhà của ông và vì phải sửa chữa ngay hệ thống sưởi, nên ông không còn một lựa chọn nào khác".

Ông biện lý hỏi:

- Giáo sư Harmon có căn dặn anh điều gì trước khi đến nhà ông?

- Vâng, ông ấy cho biết vợ ông không được khỏe vì thế tôi không nên làm phiền bà. Ông dặn tôi, nếu cần một cái gì đó hoặc thắc mắc gì thì hãy gọi điện cho ông.

- Anh có tuân theo lời dặn của giáo sư Harmon?

- Thưa ngài biện lý, tôi đã tuân theo nhưng có điều là bà vợ của ông cứ lẽo đẽo theo tôi như một con chó con.

Và, lời khai sau đây của gã sinh viên đã gây nhiều tổn hại cho thanh danh của Nancy. Trước câu hỏi: "Giữa anh và bà Nancy đã có quan hệ về mặt thể lý?" thì gã ta trả lời ngay:

- Thưa ngài, có ạ.

- Chuyện đó xảy ra thế nào?

- Lúc đó, tôi đang chỉ cho bà Nancy xem nơi lắp đặt ổ ngắt điện của nồi hơi và giải thích rằng hỏng hóc đã xảy ra tại đây.

- Nhưng giáo sư Harmon đã dặn là anh không được quấy rầy bà Nancy với những câu hỏi hoặc giải thích này nọ?

- Bà ấy cứ nàng nặc đòi tôi phải chỉ dẫn, bảo rằng bà muốn biết để có thể tự xoay trở. Tôi đã giải thích cho bà về nguyên tắc vận hành của nồi hơi. Bà đã nghiên người về phía tôi để mở cầu dao điện... và lúc đó tôi thầm nghĩ, sao ta bỏ phí cơ hội?... Thế là tôi ra tay.

- Bà Harmon đã phản ứng ra sao?

- Có thể nói là bà ta không có vẻ gì là phiền lòng.

- Yêu cầu anh giải thích rõ về điều đã xảy ra.

- Thật ra, chẳng có gì là quá đáng. Tôi đã kéo bà ấy về phía tôi và ôm hôn bà. Một phút sau, bà miễn cưỡng né người sang một bên.

- Chuyện gì đã xảy ra sau đó?

- Tôi đã nói, thật là thú vị.

- Bà Harmon đã trả lời sao?

- Bà đã nhìn tôi và nói... như thể không phải nói với tôi... bà đã nói, "Tôi phải rời khỏi chốn này". Lúc đó, tôi nghĩ rằng tốt hơn tôi nên tránh những chuyện rắc rối. Nghĩa là, tôi cần phải nghiêm túc, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi đại học và phải nhập ngũ. Chính vì lý đó đó mà tôi phải đeo đuổi chuyện học hành. Tôi đã nói: "Thưa bà Harmon..." Rồi ngay sau đó, tôi quyết định chỉ đơn giản gọi là Nancy, thế thôi... "Này Nancy, chớ nên quan trọng hóa vấn đề. Chúng ta sẽ tìm cách để gặp nhau. Cô không thể bỏ nhà mà đi... còn có các con của cô nữa".

- Nghe như thế, bà Harmon đã phản ứng ra sao?

- Quả là lạ lùng. Ngay lúc đó, đứa bé trai... Peter... đã xuống nhà để tìm mẹ. Peter là một đứa bé ít nói - không hề hé môi. Bà Harmon hoảng sợ, nói nhanh: "Tụi nhỏ". Rồi. thật kỳ lạ, bà ta đã bật cười và nói tiếp: "Rồi chúng sẽ chết ngạt thôi".

- Này anh Legler, anh vừa nói ra một câu rất quan trọng. Anh có chắc là đã lặp lại đúng những gì bà Harmon nói?

- Hoàn toàn đúng, thưa ngài biện lý. Lúc đó, tôi bỗng rợn người. Chính vì vậy mà tôi không thể quên.

- Hôm đó là ngày nào, anh còn nhớ?

- Đó là ngày 13 tháng mười một. Sở dĩ tôi không quên là vì giáo sư Harmon đã dứt khoát trả tiền thù lao cho tôi. Ông đã trao tôi một ngân phiếu.

- Ngày 13 tháng mười một... bốn ngày sau đó, hai đứa bé đã mất tích khi ngồi trong xe của mẹ chúng và cuối cùng, người ta tìm thấy xác chúng dạt vào vịnh San Francisco, đầu bị trùm trong những bao plastic - chết ngạt.

- Đúng vậy.

Trong nỗ lực nhằm làm giảm đi tác dụng của lời khai của Rob Legler, luật sư biện hộ cho Nancy đã hỏi:

- Sau đó, bà Harmon có còn ở bên anh?

- Không. Bà ấy đã lên lầu trên với các con.

- Như vậy, chỉ có anh là người duy nhất để khẳng định rằng bà ấy đã thích thú khi được anh hôn?

- Tôi không phải là người dễ lầm lẫn trước phụ nữ.

Tiếp đến là lời khai của Nancy, sau khi đã tuyên thệ nói đúng sự thật.. Khi bị chất vấn về giai đoạn này, nàng đã nói:

- Vâng, anh ấy đã ôm hôn tôi. Vâng, tôi biết anh ta sẽ làm điều đó và tôi không phản đối.

- Có phải bà đã nói rằng các con của bà sẽ bị chết ngạt? Có đúng như thế?

- Thưa đúng.

- Bà đã nghĩ sao khi nói câu đó?

Theo bài báo thì lúc đó Nancy đăm đăm nhìn về phía trước, bằng một ánh mắt mất hồn. Rồi, nàng nói bằng giọng xa vắng: "Tôi không biết".

Jonathan gật gù, làu hàu. Lời khai của Nancy càng làm nàng thêm nặng tội. Ông đọc tiếp bài báo và cau mày khi đến đoạn tìm thấy xác của các đứa trẻ. Xác chúng trôi dạt vào bờ cách đó tám mươi cây số, trương phình, vướng đầy rong biển. Khuôn mặt của đứa bé gái hầu như chẳng còn gì - có lẽ bị cắn nát bởi cá mập, những chiếc áo len đan tay màu đỏ với những mô típ trắng như những đốm tương phản trên hai thi thể bé bỏng, nhợt nhạt.

Đọc xong bài báo, Jonathan quay sang chồng hồ sơ dày cộm mà Kevin đã gởi cho ông. Ông bắt đầu xem những tài liệu được cắt trong báo có liên quan đến vụ mất tích của hai đứa con gia đình Harmon. Lúc đó chúng đang ngồi trong xe, khi mẹ chúng vào siêu thị. Có những bức ảnh được phóng lớn của hai đứa bé với hàng chú thích mô tả chi tiết về chiều cao, trọng lượng và quần áo chúng mặc, kèm với lời yêu cầu bất cứ ai biết tin gì về hai cháu, thì hãy gọi ngay về số đã nêu. Với đôi mắt và đầu óc từng trải, Jonathan lướt qua các tài liệu, sắp xếp và so sánh lời khai của các nhân chứng, dùng bút gạch nhẹ dưới những sự việc có tính thuyết phục, những sự việc mà ông có ý định sẽ quay trở lại đó nghiên cứu kỹ hơn. Khi đọc sang phần biên bản của phiên tòa, Jonathan hiểu ra vì sao Kevin đã gọi Nancy Harmon là mục tiêu lý tưởng để buộc tội. Thái độ của nàng chẳng mang một ý nghĩa nào. Nàng hoàn toàn bị bẫy bởi viên biện lý khi hờ hững nói lên sự vô tội của nàng, không tìm cách để tự biện hộ, không chút xúc cảm.

Jonathan thầm hỏi, "Điều gì đã trói buộc Nancy?" Người ta có cảm tưởng rằng nàng không muốn thoát khỏi tù tội. Ngay cả khi đứng trước vành móng ngựa, nàng đã quay nhìn chồng một lúc, và nói: "Ồ! Carl, anh có thể tha thứ cho em?"

Những nếp nhăn hằn sâu hơn trên vầng trán Jonathan khi ông nhớ lại, chỉ vài giờ trước đây, ông đã ngang qua nhà gia đình Eldredge, và đã liếc mắt nhìn đôi vợ chồng trẻ và các con họ đang đầm ấm trong bữa ăn sáng. Với nỗi cô đơn của ông, ông thầm mơ ước được như họ. Vậy mà giờ đây, đời họ đã tan vỡ. Họ không còn có thể sống trong một cộng đồng cư dân có đầu óc hẹp hòi như Cape, vì đi bất cứ đâu, họ sẽ bị người ta dòm ngó, chỉ chỏ. Mọi người sẽ nhận ra ngay Nancy qua bức ảnh. Jonathan còn nhớ đã từng trông thấy Nancy mặc bộ đồ vải tweed bằng hàng len chứ không phải bằng loại sợi hóa học rẻ tiền. Nancy trông thật xinh đẹp. Chiếc khăn quàng màu nâu sẫm hờ hững quấn quanh cổ nàng như muốn làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Nancy mỉm cười với ông - một nụ cười nồng ấm, thân thiện. Nàng đang dẫn theo hai đứa con. Cả hai đều xinh xắn và lễ phép. Lúc đó, đứa bé trai đã nói: "Mẹ à, con lấy hộp ngũ cốc nhé". Và, khi với tay lấy cái hộp, thằng bé đã làm đổ chồng đồ hộp.

Tiếng rổn rảng làm cả siêu thị phải một phen hết hồn, kể cả ông Lowery, một người vốn khó tính, nóng nảy. Thông thường, gặp phải lúc như thế, các bà mẹ hẳn la mắng con mình. Nhưng Nancy đã bình tĩnh nói: "Thưa ông Lowery, chúng tôi rất lấy làm tiếc. Con tôi đã vô ý làm đổ. Chúng tôi sẽ sắp xếp lại". Thái độ đó của Nancy làm Jonathan ngưỡng phục.

Rồi nàng quay sang nói với đứa con trai đang lấm lét, sợ sệt: "Đừng sợ, Mike. Chẳng phải lỗi của con. Thôi, chúng ta hãy sắp các đồ hộp vào chỗ cũ".

Trước vẻ bực tức của Lowery, Jonathan đã liếc mắt nhìn ông ta như một lời cảnh cáo, rồi giúp Nancy một tay sắp xếp lại. Giờ đây, ông thầm nghĩ, thật không ngờ một thiếu phụ hiền lành và chăm chút như thế mà trước đó bảy năm đã ra tay sát hại hai đứa bé - con ruột của nàng.

Nhưng tình yêu vụng trộm là một động cơ mãnh liệt và dạo đó Nancy còn rất trẻ. Thái độ hờ hững khi ra trước tòa có lẽ đã phần nào phản ánh sự thú nhận tội lỗi của nàng, vì nàng không thể công khai nhìn nhận nó. Qua kinh nghiệm của một luật sư, Jonathan đã từng hiểu cái thái độ đó.

Có tiếng chuông cổng. Giật mình, Jonathan đứng dậy. Ở thành phố này, ít khi xảy ra chuyện thăm viếng đột xuất, mỗi khi đến nhà ai, người ta luôn hẹn trước và chuyện tiếp thị tại nhà là hoàn toàn nghiêm cấm.

Khi bước ra cổng, Jonathan có cảm tưởng người ông cứng nhắc như một khúc củi, vì đã ngồi quá lâu ở bàn giấy. Ông ngạc nhiên khi thấy người khách đang nhấn chuông là một nhân viên cảnh sát khá trẻ mà ông mơ hồ nhớ rằng, đã có lần gặp anh ta đi bán xổ số tombola để gây quỹ, nhưng rồi ông loại bỏ ngay cái giả thuyết đó. Dáng vẻ anh ta trông cứng nhắc, nghiêm trọng và dứt khoát. Anh nói:

- Thưa ông, tôi rất tiếc phải làm phiền ông. Chúng tôi điều tra về vụ mất tích của các cháu bé, con ông bà Eldredge.

Rồi, trước ánh mắt sửng sốt của Jonathan, anh ta lấy ra một cuốn sổ tay. Đảo mắt nhìn ngôi nhà, anh hỏi!

- Thưa, ông sống ở đây có một mình?

Không nói năng gì, Jonathan bước lên phía trước và mở cánh cửa bề thế của phòng khách, chính lúc đó ông mới hiểu ra vì sao sáng nay có sự chộn rộn, có nhiều xe cộ chạy về phía hồ và những người đang lùng sục những vùng kề cận với dáng vẻ khẩn trương.

giavui
05-26-2020, 03:18 PM
Chương 12
Uống đi nào, Nancy. Tay em còn lạnh cóng nè. Uống đi rồi em sẽ thấy khỏe. Em phải cần có sức.

Giọng nói của Dorothy thật thuyết phục. Bà đặt cái tô xuống bàn, hy vọng rằng lát nữa đây Nancy sẽ uống chút đỉnh lô súp rau củ.

Nancy nói, giọng lờ đờ:

- Thứ súp này em đã nấu hôm qua, cho hai đứa con. Các con bây giờ chắc đang đói.

Ray ngồi cạnh Nancy, gác tay lên lưng ghế của nàng, với một thái độ che chở. Trước mặt chàng là cái gạt tàn đầy ắp mẩu thuốc lá.

Chàng nói:

- Em không nên nghĩ quẩn.

Ở bên ngoài, át hẳn tiếng gió đang khua các ô kính là tiếng phành phạch của các trực thăng đang bay ở độ thấp. Trông thấy ánh mắt dò hỏi của Nancy, Ray giải thích:

- Ba chiếc trực thăng đã được gởi đến giám sát vùng này. Người ta hy vọng sẽ tìm thấy hai đứa bé nếu chúng lạc trong rừng. Ngoài ra, còn có nhiều người đã tình nguyện tham gia tìm kiếm và hai chiếc máy bay đang quần trên vùng vịnh và eo biển. Mọi người đang đổ xô tìm kiếm.

- Và cả những người đang lặn mò dưới hồ, để tìm kiếm xác của các con. - Nancy nói, giọng đều đều, xa vắng.

Sau khi đã trả lời phỏng vấn của báo chí, Jed Coffin ghé lại sở cảnh sát rồi quay về nhà Eldredge. Ông vào nhà khi Nancy đang nói. Ông để ý ngay đến giọng nói dịu dàng của nàng và đôi mắt tinh tường của ông đã ghi nhận ánh mắt hầu như bất động, đôi tay như chết cứng và cái dáng vẻ cam chịu của người thiếu phụ. Đó là dấu hiệu cho thấy nàng sắp rơi vào con khủng hoảng thần kinh.

Rời mắt khỏi Nancy, thanh tra Jed tìm Bernie Mills, người được giao nhiệm vụ ứng trực tại nhà Eldredge. Anh ta đang đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp, cạnh máy điện thoại và ra hiệu cho ông. Hiểu anh ta muốn nói gì, thanh tra Jed lại hướng mắt về phía ba người đang ngồi ở bàn. Lúc này, Ray đứng dậy, bước lại gần Nancy và đặt đôi tay lên vai nàng.

Dĩ vãng, tưởng chừng đã vùi quên trong hai mươi năm, bỗng dưng trở về. Jed Coffin nhớ lại cái hôm nhận được cú điện từ sở cảnh sát Boston cho biết bố mẹ Delia vừa bị tai nạn và khó hy vọng qua khỏi. Lúc đó, ông đã vội vã về nhà và thấy Delia, vợ ông, đang trong bếp, vừa nhâm nhi ly sô-cô-la vừa đọc báo. Nàng đã quay lại mỉm cười nhìn ông mặc dầu ngạc nhiên thấy ông về sớm hơn thường lệ, và trước khi nàng kịp lên tiếng hỏi han, ông đã có cái hành động tương tự như Ray Eldredge vào lúc này - ấn nhẹ hai bàn tay lên đôi vai Delia.

Jed Coffin nói, giọng cộc lốc:

- Này Ray, tôi có thể nói chuyện riêng với anh?

Hai bàn tay Ray vẫn không rời đôi vai Nancy, cố làm dịu những cơn run rẩy của nàng.

Nancy thều thào hỏi:

- Ông đã tìm thấy các con tôi?

- Em yêu, nếu tìm thấy các con thì ông ấy hẳn đã nói rồi. Em ngồi yên đây nhé. Anh trở lại ngay.

Ray cúi xuống, áp má mình vào má Nancy rồi theo viên thanh tra qua phòng khách.

Giờ đây, đối diện với Ray đang đứng gần lò sưởi, thanh tra Jed thầm ngưỡng phục người đàn ông trẻ, dong dỏng cao này. Ray là một người đàn ông vững chãi, thành đạt, đó là điều không thể phủ nhận. Từ lối ăn mặc cho đến cách đi đứng trò chuyện của anh toát ra một vẻ phong nhã, lịch lãm.

Jed Coffin đảo mắt nhìn phòng khách. Ván sàn bằng gỗ sồi bóng loáng, tranh treo kín các bức tường màu trắng ngà. Jed nhận thấy chủ đề của các bức tranh khá quen thuộc. Tấm tranh lớn treo trên lò sưởi vẽ khu vườn của Nancy Eldredge. Phía trên chiếc dương cầm là bức tranh vẽ một nghĩa trang làng quê và đây là một nghĩa trang tư tọa lạc trên con đường Notre Dame du Cape. Bức tranh có khung gỗ bằng thông treo phía trên cái trường kỷ vẽ cảng Sesuit vào buổi chiều, khi tàu thuyền đã về bến. Trên bức màu nước vẽ cảnh đầm lầy với lau lách gió đùa, người ta thấy xa xa có ngôi nhà Hunt - ngôi nhà Tháp Canh.

Thỉnh thoảng Jed có trông thấy Nancy ngồi lấy phác thảo ở những con đường làng, nhưng ông không ngờ nàng có tài đến thế.

Ray nói, giọng lạnh lùng và thù nghịch:

- Này ông thanh tra, ông có điều gì cần nói với tôi?

Thanh tra Jed hiểu rằng giờ đây, đối với Ray, ông là kẻ thù nghịch.

Với sự từng trải, Jed Coffin cân nhắc về điểm yếu của Ray và hỏi bằng một giọng khô khốc.

- Ray à, ai là luật sư của vợ anh?

Thay cho câu trả lời là một thoáng bất định, một chút sững sờ của Ray. Đúng như Jed đã tiên liệu, Ray đã không có một quyết định dứt khoát. Anh ta vẫn tìm cách tạo cho Nancy cái hình ảnh của người mẹ đau khổ vì mất con. Ông thầm nghĩ, hẳn anh ta muốn cho khán giả truyền hình thấy một Nancy với đôi mắt sưng húp, nức nở: "Hãy trả con lại cho tôi!".

Nếu là như thế, Jed sẽ dành cho Ray một thông tin. Ông sẽ cho Ray biết rằng đây không phải là lần đầu tiên Nancy giở cái trò đó. Jed sẽ dễ dàng có được bản sao của cuộn phim quay cách đây bảy năm, cuộn phim đã được báo chí ngày đó gọi là: "Một biện hộ đầy xúc động". Nói đúng ra, mười phút trước đây, qua điện thoại, phụ tá của biện lý thành phố San Francisco có hứa sẽ gởi cho Jed cuộn phim này, và theo lời anh thì cuộn phim sẽ "ngăn không cho con điếm đó tái diễn cái trò cũ".

Giọng nói của Ray trở nên trầm tĩnh và ôn tồn hơn:

- Chúng tôi chưa tìm luật sư. Tôi hy vọng rằng có thể... với bao nỗ lực tìm kiếm các đứa bé...

Jed nói thẳng thừng:

- Hầu hết những cuộc tìm kiếm đó sẽ nhanh chóng phải tạm ngưng. Với thời tiết chó chết này, chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ chẳng trông thấy gì. Dầu gì chăng nữa thì tôi cũng phải đưa vợ anh về sở cảnh sát để thẩm vấn. Trong trường hợp bà nhà chưa có luật sư, tôi sẽ yêu cầu bên tòa án gởi đến một người.

- Ông không thể làm như thế! - Ray lớn tiếng thốt lên, rồi cố dằn cơn nóng, chàng tiếp - Ông phải hiểu rằng ông sẽ hủy hoại tinh thần của Nuncy khi đưa nàng vào trong một sở cảnh sát. Từ nhiều năm nay, Nancy thường gặp ác mộng qua đó nàng thấy mình bị thẩm vấn trong một sở cành sát trước khi được dẫn vào một hành lang dài hun hút đưa đến nhà xác để nhận diện thi thể của các con. Này ông Jed ông phải biết rằng nhà tôi đang bị sốc. Phải chăng ông muốn ngăn trở không cho chúng tôi được nghe Nancy nói về những gì có thể nàng đã trông thấy?

- Nhiệm vụ của tôi là tìm lại các đứa con của anh.

- Tôi hiểu, nhưng hẳn ông đã thấy ảnh hưởng kinh khiếp mà bài báo đã gây ra cho nhà tôi. Vậy ông tính sao với cái tên khốn kiếp đã viết bài báo đó? Có đủ đê tiện để bới móc cái chuyện đó và đăng lên báo thì hắn tên này cũng thừa sức để bắt cóc các con của tôi.

- Dĩ nhiên, chúng tôi không bỏ qua chuyện đó. Những bài báo loại đó luôn được ký dưới một cái tên giả và nếu được đăng thì người viết được hai mươi lăm đô-la tiền nhuận bút.

- Vậy thì ai là tác giả?

Jed cáu kỉnh đáp:

- Đó là điều mà chúng tôi đang tìm hiểu. Bài báo này được gởi kèm với một lá thư trong đó nêu ra điều kiện là chỉ được đăng tải mà không thay đổi bất cứ một chữ nào của bài viết, phải đăng cùng với các bức hình đính kèm và công bố vào ngày 17 tháng mười một - nghĩa là hôm nay. Trưởng ban biên tập cho tôi biết đó là một câu chuyện hấp dẫn và được viết khá hay đến nỗi ông không ngờ tác giả của nó chỉ muốn nhận một số tiền khác khiêm nhường là hai mươi lăm đô-la. Nhưng dĩ nhiên ông ta không nói ra cái cảm nghĩ đó với tác giả của nó. Ông chỉ gởi thư cho biết bài viết đã được chấp nhận và kèm theo là một ngân phiếu.

Nói đến đây, Jed lấy từ túi áo ra cuốn sổ tay và đọc:

- Lá thư được gởi đi hôm 28 tháng mười. Ngày 29, thư ký của trưởng ban biên tạp có nhớ là đã có người gọi điện hỏi bài viết về Harmon đã được chấp nhận chưa. Đường dây lúc đó bị nhiễu và giọng nói của người gọi nghèn nghẹn, rất khó nghe. Tuy vậy, cô thư ký đã trả lời rằng tòa soạn có gởi một ngân phiếu mang tên J. R. Penrose tới hòm thư lưu trữ tại Hyannis Port. Ngày hôm sau, ngân phiếu đã được lấy khỏi hòm thư.

- Bởi một người đàn ông hay đàn bà? - Ray vội vàng hỏi.

- Chúng tôi không rõ. Như anh đã biết, ngay cả trong mùa này, Hyannis Port vẫn không vắng du khách. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng hòm thư lưu trữ. Không một nhân viên bưu điện nào còn nhớ người đã đến lấy bức thư và tờ ngân phiếu đó và cho đến bây giờ, người nhận vẫn chưa dùng tờ ngân phiếu đó để rút tiền. Nếu chuyện này xảy ra, chúng tôi sẽ lần theo dấu vết của ông hoặc bà J. R. Penrose này. Thú thật, tôi sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng tác giả của bài báo là một trong những mụ già ưa ngồi lê đôi mách của thành phố này. Đó là những mụ chỉ ưa bới móc chuyện đời tư người khác.

Nhìn chăm vào lò sưởi, Ray nói:

- Ở đây khá lạnh. Hẳn ta nên nhóm lửa...

Jed bình thản nói:

- Tôi thấy không cần thiết anh Ray à. Sở dĩ tôi yêu cầu anh sang đây là vì tôi muốn anh thuyết phục Nancy nên thay đồ và theo chúng tôi về sở cảnh sát.

- Không... không... ông hãy thương tình.

Cùng lúc, Jed Coffin và Ray đều quay người về phía cánh cửa vòm của phòng khách. Nancy đang đứng đó, tựa tay vào thành cửa gỗ bóng loáng, căng thẳng mà nàng phải chịu đựng làm cho khuôn mặt nàng trở nên nhợt nhạt. Nàng nhìn chăm chú về phía trước với ánh mắt của người mất hồn.

Đứng phía sau Nancy, Dorothy phân trần:

- Bà ấy muốn vào đây.

Rồi, trông thấy ánh mắt trách móc của Ray khi anh ta bước vội đến bên Nancy, Dorothy nói tiếp: "Ray à, tôi rất tiếc, nhưng tôi không tài nào ngăn được Nancy".

Ray kéo Nancy về phía mình và quay sang nói với Dorothy: "Đủ rồi, Dorothy". Rồi giọng nói của chàng trở nên dịu dàng: "Nancy à, hãy bình tĩnh. Không ai muốn làm hại em cả".

Dorothy có cảm tưởng như mình vừa bị Ray cho thôi việc. Ray đã tin tưởng ở bà trong việc giữ Nancy lại trong khi chàng bận nói chuyện với thanh tra Jed, vậy mà bà không chu toàn nhiệm vụ được giao. Bà quả là người vô tích sự... vô tích sự.

Bà bối rối nói:

- Anh Ray à, quả là vô lý khi làm rộn anh vào lúc này, nhưng ở văn phòng địa ốc người ta vừa gọi cho tôi để nhắc rằng ông Kragopoulos, người dã viết thư cho biết có ý định mua ngôi nhà của ông Hunt, muốn xem ngôi nhà này vào lúc hai giờ chiều. Thưa anh, liệu tôi có phải cử người thay tôi để đưa ông ấy đến xem ngôi nhà?

Vẫn ôm Nancy, Ray ngước mắt qua đầu nàng và nói:

- Chị biết khá rõ về ngôi nhà Tháp Canh vì vậy, tôi mong chị đích thân đưa người khách đến xem và rồi nếu được, chị hãy quyết định giá cả với người ta. Ông già Hunt đang cần tiền đấy.

- Tôi chưa báo cho ông Parrish là chúng ta sẽ đưa người đến xem nhà.

- Hợp đồng thuê nhà có ghi rõ là chúng ta có quyền đưa người đến xem nhà bất cứ lúc nào, miễn là có báo trước nửa tiếng, chính vì thế mà ông Pairish đã mướn ngôi nhà với giá khá dễ chịu. Chị hãy đến văn phòng và gọi điện báo trước cho ông ấy.

- Vâng. - Dorothy đáp nhưng vẫn tần ngần chưa muốn đi.

Nhìn Dorothy, Ray hiểu tình trạng của bà, nhưng không giữ bà lại:

- Chị Dorothy à, giờ đây chị chẳng thể làm gì để giúp chúng tôi! Hãy trở lại đây sau khi chị làm xong việc ở ngôi nhà Tháp Canh.

Bii Dorothy gật đầu, chực ra đi nhưng trong lòng không muốn rời họ. Bà muốn ở lại để chia sẻ nỗi lo âu của đôi vợ chồng trẻ. Bà không quên rằng ngay từ khi vào làm việc cho văn phòng địa ốc, Ray là điểm nương tựa của bà. Được làm việc với Ray, sử dụng kiến thức về trang trí nội thất để thuyết phục khách hàng mua nhà và sau đó dành ra một số tiền cần thiết để tu rạo nhà cho họ, tất cả điều đó làm cho đời Dorothy bớt trống rỗng. Ray là một người rất trung thực và tế nhị. Anh đồng ý cho bà tham gia vào những cuộc đầu tư và khá hào phóng khi chia lợi nhuận. Rồi khi Nancy kết hôn với Ray, bà Dorothy sung sướng thấy rằng Nancy đã tỏ ra tin tưởng ở bà. Tuy vậy, Nancy là người khá kín đáo nên họ không thể thực sự thân tình nhau. Giờ đây, bà Dorothy có cảm tưởng rằng mình chỉ là một khán giả thừa thải. Bà cầm lấy chiếc áo choàng, khăn quàng và lặng lẽ ra khỏi nhà bằng cửa sau.

Ra khỏi cửa, bà Dorothy sững người trước cái giá rét của gió và tuyết tan. Xe của bà đậu trên con đường nhỏ phía sau nhà. Bà hài lòng khi không phải đi ra bằng cổng chính vì trông thấy ở ngoài đó có một chiếc xe tải của một hãng truyền hình.

Khi bước vội đến xe, bà Dorothy hướng mắt về phía cái đu treo nơi cành cây ở cuối vườn. Đó là nơi mà hai đứa bé đã chơi và Nancy đã tìm thấy cái bao tay. Dorothy thầm nhớ đã bao lần bà đã đẩy hai đứa bé trên cái đu này... "Lạy Thượng đế nhân từ, xin đừng..." bà lẩm nhẩm cầu nguyện, lo sợ về những điều không may mà Michael và Missy có thể gặp phải. Lòng bà quặn đau.

Miên man với những ý nghĩ, bà Dorothy lặng nhìn cái đu, không hay biết đến những nụ tuyết ẩm ướt đang quấn vào mặt bà. Bà còn nhớ cứ mỗi lần Nancy ghé lại văn phòng địa ốc, hai đứa bé chạy ngay vào phòng làm việc của bà và bà luôn có sẵn quà cho chúng. Mới hôm qua đây, khi Missy theo mẹ đến văn phòng, bà đã đành cho con bé những chiếc bánh lưỡi mèo mà bà đã đặc biệt làm riêng cho bé. Hôm qua, Nancy định ra phố để mua vai may màn, vì thế Dorothy đã ngỏ ý trông coi Missy và ghé lại trường mẩu giáo đón Michael giúp nàng. Bà đã nói:

- Việc chọn vải đòi hỏi phải có thời gian và sự tập trung. Tôi phải đến Tòa thị chính để lo một số việc về bằng khoán đất đai. Tôi có thể đưa cô ra phố và sau đó, trên đường về, chúng ta sẽ đi ăn kem, nếu cô không bận.

Chỉ mới ngày hôm qua...

- Dorothy!

Ngạc nhiên, Dorothy ngước mắt và trông thấy ông Jonathan. Hẳn ông ta đã đi tắt rừng để đến đây. Trông ông có vẻ già đi với những nếp nhăn lộ rõ.

Ông nói:

- Tôi vừa hay tin về chuyện không may đã xảy ra cho hai đứa bé của gia đình Eldredge. Tôi muốn nói chuyện với Ray. Có lẽ tôi có thể giúp đỡ họ.

Giọng nói của Jonathan toát ra một sự lo lắng và che chở. Dorothy đáp:

- Họ đang trong nhà. Xin cám ơn sự quan tâm của ông.

- Chị có được tin gì về hai cháu bé?

- Không.

- Tôi đã đọc bài báo.

Dorothy chợt nhận ra rằng ông Jonathan không còn trò chuyện với bà một cách thân mật như trước đây. Có một sự lạnh lùng, trách cứ trong âm giọng của ông và điều này làm bà nhớ rằng bà đã lừa dối ông khi cho rằng mình đã quen biết với Nancy tại Virginia.

Chán nản, bà mở cửa xe và nói, gọn lỏn:

- Tôi có hẹn cần phải đi.

Rồi, không chờ ông trả lời, bà nổ máy và phóng xe đi. Cảnh quang trước mắt bà bỗng dưng nhạt nhòa, bà nhận ra rằng mình đang khóc.

giavui
05-26-2020, 03:19 PM
Chương 13
Tiếng phành phạch từng hồi của trực thăng, đó là thứ âm thanh mà y rất khoái nghe. Thứ âm thanh đó làm y nhớ lại cái ngày ấy, khi mọi người đổ xô lùng sục quanh khu đại học để tìm kiếm hai đứa bé. Đứng bên cửa sổ, y nhìn xuống vịnh. Tuyết đã đóng băng trên mặt nước xám xịt, gần con đê chắn sóng. Sáng sớm nay, đài đã thông báo khả năng có những đợt gió mạnh và tuyết tan. Một lần nữa, tin khí tượng đã tỏ ra chính xác. Gió làm sôi sục những con sóng bạc đầu trong vịnh. Y dõi mắt trông theo một cánh hải âu vụng về đương đầu với những loạt gió.

Y chăm chú nhìn nhiệt kế. Hai độ âm - như vậy là đã giảm mất tám độ kể từ sáng. Với thời tiết như thế này, trực thăng và máy bay trinh sát sẽ không thể hoạt động lâu. Những nhóm người tìm kiếm rồi cũng sẽ rút lui.

Con nước sẽ lên vào bảy giờ chiều. Lúc đó y sẽ dẫn hai đứa bé lên tầng trên cùng của ngôi nhà, đưa chúng ra cái ban công nhỏ mà cư dân ở đây gọi là cây cầu nhỏ của góa phụ. Khi thủy triều lên, nước phủ kín bãi biển, ngay phía dưới ban công, đập vào bức tường chắn sóng, trước khi giật ngược ra biển, bị hút mạnh bởi giòng nước ngược. Đó là lúc thuận tiện để đẩy hai đứa bé... qua ban công... xuống dưới đó... Phải nhiều tuần sau, xác chúng mới dạt vào bờ... Nhưng, nếu chỉ trong vài ngày người ta tìm thấy xác chúng, thì y cũng chẳng có gì để lo sợ. Y đã tính toán kỹ rồi. Y chỉ cho hai đứa bé uống sữa và ăn bánh ngọt khô. Y không dại cho chúng ăn uống bất cứ một thứ gì khác để sau này khi giải phẫu tử thi, người ta sẽ nêu lên nghi vấn về một ai đó đã nuôi giữ chúng chứ không phải Nancy. Dẫu sao, nếu tìm thấy xác chúng thì giải phẫu tử thi sẽ chẳng cho biết điều gì.

Y bật cười nho nhỏ. Y biết rằng y còn năm tiếng đồng hồ nữa: năm tiếng để nhìn các đèn chiếu mà người ta đang lắp đặt ở gần nhà Nancy và bên hồ, năm tiếng để ở cạnh hai đứa bé. Y thầm nghĩ, chẳng kể đứa bé gái, nguy cả thằng bé trai cũng đẹp... với làn da mịn màng và một tấm thân toàn hảo.

Con bé gái thì khỏi nói. Nó giống Nancy như đúc... với mái tóc óng mượt, hai tai nhỏ nhắn, xinh xắn... Y bất thần rời mắt khỏi ô kính. Nằm dài trên đi-văng, hai đứa bé đang ngủ say dưới tác dụng của thuốc ngủ mà y đã cho vào sữa. Thằng bé trai đang ôm ngang đứa em nó bằng một cánh tay che chở, tuy vậy nó vẫn say ngủ khi y nhấc đứa bé gái lên. Con bé vẫn ngủ say như chết khi y ẵm nó vào phòng và đặt xuống giường. Rồi y vào phòng tắm, mở nước, kiểm tra độ ấm của nước trong bồn tắm, cho đến khi đạt được độ ấm thích hợp. Khi nước đã đầy bồn, y dùng cùi chỏ kiểm tra nước thêm một lần nữa. Y thấy nước có nóng đôi chút nhưng không hề gì vì nó sẽ chóng nguội thôi.

Y nín thở, nghĩ rằng đã mất nhiều thời gian. Y vội vã mở tủ thuốc, lấy hộp phấn talc mà sáng nay y đã nhanh tay nhét vào túi khi đi mua thực phẩm ở siêu thị Wiggins. Trước khi khép tủ thuốc lại, y trông thấy con vịt nhỏ bằng cao su giấu phía sau hũ kem cạo râu. Y thắc mắc, chẳng nhớ. À, phải rồi, y đã dùng nó trong lần trước đây... Đúng là thứ y cần. Với tiếng cười nghèn nghẹn, y cầm lấy con vịt, rửa nó dưới vòi nước lạnh rồi vứt vào bồn tắm. Y thầm nghĩ, thỉnh thoảng cũng nên cho bọn nhỏ giải trí.

Cầm lấy hộp phấn talc, y vội vã trở vào phòng ngủ. Y cởi áo veste của bé Missy, kéo chiếc áo thun cổ cuốn ra khỏi mình con bé, rồi chiếc sơ-mi bên trong. Y to tiếng thở dài và nhấc đứa bé lên, ôm chặt nó trong vòng tay. Ba tuổi. Cái tuổi dễ thương. Con bé cựa mình, mở mắt ra và thốt lên nho nhỏ "Mẹ.. mẹ ơi..." - một thứ tiếng mà y thấy rất quen thuộc, gần gũi và quý báu.

Chuông điện thoại reo.

Bực tức, y siết chặt hơn vòng tay ôm khiến con bé nức nở khóc, một thứ tiếng than vãn, ngái ngủ.

Y để mặc điện thoại reo. Y không nhận bất cứ một cú điện thoại nào. Không bao giờ. Y thầm nghĩ, ai mà gọi vào lúc này nhỉ? Đôi mắt y cau lại. Có lẽ người ta gọi y để yêu cầu tham gia vào việc tìm kiếm hai đứa bé; vậy thì tốt hơn y nên trả lời. Nếu không trả lời, y có thể làm ngươi ta nghi ngờ. Nghĩ đến đó, y bỏ Missy trên giường, cẩn thận khép cánh cửa phía sau lại, rồi ra phòng khách để nhấc điện thoại. "Vâng, tôi nghe đây". Y cố giữ một giọng lạnh và trịnh trọng.

Ở đầu bên kia là giọng nói:

"Thưa ông Parrish, xin lỗi đã làm phiền ông. Tôi là Dorothy Presntiss của văn phòng địa ốc Eldredge. Trong hai mươi phút nữa tôi sẽ đưa một người khách đến xem nhà. Tôi rất tiếc không thông báo cho ông sớm hơn.. Ông có đó không hay tôi phải sử dụng chìa khóa riêng để vào nhà?"


Chương 14
Rời khỏi quốc lộ 6A Lendon Miles hướng xe về Paddock Path. Từ khi rời Boston, ông không ngừng theo dõi tin tức qua radio. Phần lớn những bảng tin đều dành ra để tường thuật về vụ mất tích của hai đứa bé con của gia đình Eldredge và về Nancy Eldredge.

Theo bản tin thì người ta đã chia hồ Maushop thành nhiều khu vực, tuy vậy để thám sát toàn bộ hồ, các thơ lặn phải mất ít nữa là ba ngày. Hồ có quá nhiều mõm ngầm. Theo thanh tra Jed Coffin của Adam Port, thì có nhiều nơi người ta có thể tiến đến giữa hồ mà nước vẫn ở ngang lưng; nhưng ở một số nơi khác, chỉ cách bờ một thước rưỡi là đã sâu đến mười hai thước. Các mỏm ngầm của hồ giữ lại các đồ vật bị rơi xuống và làm cho những cuộc tìm kiếm trở nên khó khăn và nguy hiểm.

Những bản tin cũng cho biết các trực thăng, thủy phi cơ loại nhỏ và những toán điều tra đã được gởi tới, nhưng hiện nay những cơn gió đang càng lúc càng tăng trong vùng Cape và những cuộc tìm kiếm bằng máy bay có thể sẽ phải ngưng lại.

Lendon bất chợt phóng xe nhanh hơn khi nghe đến tin Nancy Eldredge sẽ được đưa về sở cảnh sát để thẩm vấn. Ông biết mình đã phần nào quá trễ tuy vậy, ông phải giảm bớt tốc độ. Tuyết tan nhanh chóng đóng băng trên kính che gió mà hệ thống làm tan giá phải khá chật vật để đẩy lùi.

Khi rẽ vào Paddock Path, Lendon nhận ra ngay đâu là ngôi nhà của gia đình Eldredge. Có một sự chộn rộn bất thường trên giường. Đậu trên lề đường, trước một ngôi nhà có hai xe cảnh sát đang chờ, là chiếc xe tải của hãng truyền hình và rất nhiều xe, đa số có gắn một tấm biển nhỏ ghi chữ báo chí.

Chắn ngang con đường bán nguyệt dẫn vào nhà là một xe cảnh sát. Lendon dừng xe. Một nhân viên cảnh sát bước đến, hỏi cộc lốc: "Vui lòng cho biết, lý do nào đưa ông đến đây?"

Lendon đã tiên liệu điều này. Ông trao tấm danh thiếp có ghi vội một dòng chữ phía sau và nói:

- Nhờ anh trao cái này cho bà Eldredge.

Viên cảnh sát tần ngần một lúc rồi nói:

- Bác sĩ cảm phiền chờ ở đây... để tôi xem sao.

Một lúc sau, anh ta trở ra, vẻ mặt xem chừng dịu dàng hơn:

- Để tôi để xe sang một bên một bên. Bác sĩ vui lòng đậu xe nơi lối đi trước khi vào nhà.

Từ bên kia đường, đám phóng viên đã trông thấy cảnh đó và ùa về phía Lendon. Một phóng viên chĩa ngay cái micro sát mặt Lendon khi ông vừa bước ra khỏi xe và nói nhanh:

- Thưa bác sĩ Lendon, xin bác sĩ cho tôi được phỏng vấn. Là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng của trường đại học Harvard, có phải bác sĩ đến đây là do yêu cầu của gia đình Eldredge?

Bác sĩ London đáp, giọng khô khốc:

- Chẳng ai yêu cầu tôi đến. Trước đây, tôi là bạn của mẹ bà Eldredge. Tôi đến đây vì có quan hệ với gia đình này, thế thôi.

Ông muốn đi vào nhà, nhưng chàng phóng viên chặn ông lại:

- Là bạn của mẹ bà Eldredge, vậy bác sĩ có từng chữa trị cho Nancy Harmon Eldredge?

- Không hề có chuyện đó!

Lendon gạt có phóng viên sang bên để đi về phía ngôi nhà. Một nhân viên cảnh sát giữ lấy cánh cửa mở và chỉ căn phòng bên phải:

- Lối này.

Nancy Eldredge đang đứng trước lò sưởi, cạnh một người đàn ông trẻ, dong dỏng cao, mà người ta có thể đoán là chồng nàng. Dẫu bất cứ nơi đâu thì Lendon cùng nhận ra ngay cái khuôn mặt đó, với sống mũi cao, đôi mắt biếc to tròn đang nhìn chăm chú dưới cặp mày rậm, và nét mặt nhìn nghiêng sao quá giống Priscilla...

Phớt lờ ánh mắt thù nghịch của viên sĩ quan cảnh sát và vẻ soi mói của người đàn ông có khuôn mặt đầy nếp nhăn, Lendon đi thẳng về phía Nancy.

Ông nói:

- Theo lẽ tôi phải đến sớm hơn.

Ông nhận thấy trong ánh mắt của người thiếu phụ có một sự sững sờ, bất động, nhưng nàng vẫn hiểu ông muốn nói gì. Nàng nói:

- Trong lần sau cùng đó, khi mẹ tôi qua đời, tôi đã hy vọng là bác sỉ sẽ đến. Tôi cứ đinh ninh là bác sĩ đến, vậy mà chẳng thấy.

Ngay tức khắc, bác sĩ Lendon nhận thấy Nancy có những triệu chứng của một người bị sốc: con ngươi nở lớn, có thể cứng nhắc, âm giọng the thé, đều đều.

Quay sang Ray, ông nói:

- Tôi muốn giúp đỡ anh.

Ray chăm chú nhìn ông ta và cảm thấy bị thu hút bởi thái độ và con người ông. Chàng nói ngay:

- Là một bác sĩ, xin ông hãy nói cho ông thanh tra cảnh sát đây hiểu rằng sẽ là điều tệ hại khi đưa Nancy về sở cảnh sát.

Nancy nhìn thẳng vào mắt bác sĩ Lendon. Nàng cảm thấy hờ hững, cứ như thể nàng đang trượt dần đi, càng lúc càng xa. Đồng thời nàng cũng thấy ở bác sĩ Lendon mộl điều gì đó cá biệt. Mẹ nàng rất yêu ông ta: trong những bức thư viết cho nàng, bà đã tỏ ra thực sự hạnh phúc, và nhiều lần nhắc đến tên ông.

Ngày đó, khi mẹ đến trường đại học để gặp Nancy, Nancy đã hỏi về ông bác sĩ này, muốn biết ông có thương yêu mẹ không. Nhưng vì có sự hiện diện củ Carl nên Priscilla xem chừng không muốn trả lời những thắc mắc của con. Bà chỉ mỉm cười và nói: "Nhiều lắm. Rồi mẹ sẽ cho con biết chi tiết sau".

Nàng bất chợt hỏi:

- Có phải bác sĩ có cảm tình với mẹ tôi?

- Đúng, tôi rất yêu bà. Tôi không hiểu mẹ cô có gì về tôi không. Tôi sợ rằng cô không ưa tôi. Theo lẽ tôi hắn phải tìm cách để giúp đỡ cô.

- Vậy thì bây giờ bác sĩ hãy giúp tôi đi!

Lendon nắn lấy đôi tay Nancy, đôi tay quá lạnh:

- Nancy à, tôi hứa sẽ giúp cô.

Nancy lảo đảo khiến Ray phải quàng tay ôm lấy nàng.

Lendon thầm ngưỡng phục Ray Eldredge. Tuy khuôn mặt xanh xao vì lo âu, nhưng chàng đã chứng tỏ là người bản lãnh. Chàng đã lo lắng nhiều cho Nancy và biết kiềm chế những cảm xúc của mình, Lendon hướng mắt về bức ảnh nhỏ đặt trên cái bàn gần trường kỷ. Hình chụp Ray đang đứng trong vườn, cạnh đứa bé trai và bé gái... những đứa bé đã mất tích. Một gia đình hạnh phúc! Điều làm Lendon thắc mắc là ông không thấy một bức ảnh nào của Nancy trong phòng này. Phải chăng nàng không muốn chụp ảnh?

Ray nói:

- Nancy à, em hãy nằm xuống đây để nghỉ, kẻo mệt.

Chàng dịu dàng dìu nàng nằm xuống trường kỷ và nhấc đôi chân lên. Nàng lặng lẽ ngả người trên các gối kê. London thấy nàng nhìn chăm chú vào bức ảnh của Ray và các con, rồi nhắm mắt lại, khổ đau. Nàng lùng mình.

Lendon nói với Ray:

- Tôi thấy cần phải nhóm thêm lửa.

Ông chọn một khúc củi trong giỏ và vứt vào đám than còn đỏ. Người Ray lấy tấm chân bông đắp lên mình Nancy:

- Em lạnh rồi đấy!

Chàng giữ khuôn mặt nàng trong hai tay. Những giọt nước mắt rơi xuống từ đôi mắt khép của nàng, ướt đẫm những ngón tay của chàng.

Ông Jonathan nói:

- Anh Ray à, anh cho phép tôi được làm luật sư tư vấn cho Nancy nhé? - Và trước ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, ông nói thêm, giọng khô khốc - Tôi cam đoan rằng tôi là một luật sư không đến nỗi tệ.

- "Luật sư tư vấn" Nancy lẩm nhẩm. Nàng bỗng nhớ khuôn mặt kinh hoàng của người luật sư biện hộ cho nàng trước đây. Tên ông ta là Domes, Joseph Domes. Ông đã liên tục nói với nàng: "Cô phải nói rõ sự thật cho tôi. Cô phải tin tưởng tôi hầu tôi có thể giúp cô". Ngay cả ông ta cũng không tin nàng.

Nhưng Jonathan không giống người luật sư đó. Nàng thích cái vẻ bệ vệ của ông, cái lối nhã nhặn của ông. Hôm ở siêu thị Lowery, ông đã tỏ ra rất thương mến hai đứa bé... khi dừng lại để trò chuyện... Đúng vậy. Hai tuần trước đây, ông đã giúp nàng xếp lại chồng đồ hộp mà Mike đã làm đổ. Trông ông có vẻ mến nàng. Nàng chắc vậy.

Nancy mở mắt, nhìn Ray và nói:

- Nhận lời đi anh.

Ray gật đầu:

- Bác Jonathan à, chúng tôi không biết nói sao để cám ơn bác.

Jonathan quay sang Lendon:

- Thưa bác sĩ, ở cương vị bác sĩ, ông có đồng ý để người ta đưa Nancy về sở cảnh sát?

Lendon đáp ngay:

- Điều đó hoàn toàn không phù hợp. Tôi dứt khoát chủ trương nên thẩm vấn Nancy tại đây.

- Nhưng tôi không còn nhớ gì nữa - Nancy nói bằng giọng rã rời, như thể nàng đã nhiều lần lặp đi lặp lại điều này - Các ông bảo rằng có thể tôi biết các con tôi đang ở đâu. Nhưng tôi chẳng nhớ gì hết kể từ lúc đọc tờ báo trong nhà bếp cho đến khi nghe Ray gọi.

Rồi, ngước nhìn bác sĩ Lendon bằng một ánh mắt âu lo và sờ sững, Nancy nói tiếp:

- Bác sĩ có thể giúp tôi nhớ lại? Có cách nào để giúp tôi nhớ được?

- Cô muốn nói gì? - Bác sĩ Lendon hỏi.

- Tôi muốn nói, bác sĩ có thứ thuốc nào để giúp tôi... nhớ... hoặc đã thấy... hoặc đã làm... Dẫu có làm một điều gì đó... tôi cần phải biết... Người ta không thể che giấu cái chuyện đó... Nếu có mặt xấu xa nào đó trong tôi có thể làm hại các con của tôi... thì chúng ta cũng cần phải biết. Nếu không như thế, nhưng bỗng một cách nào đó tôi có thể biết các con tôi đang ở đâu, thì chúng ta không mất thời gian như thế này.

- Này Nancy, anh sẽ không đồng ý - Ray thốt lên rồi im bật khi thấy vẻ lo sự in đậm trên nét một vợ chàng.

Jonathan hỏi:

- Thưa bác sĩ, liệu có thể giúp Nancy nhớ những gì đã xảy ra sáng nay?

- Có thể. Cô ấy đang bị một chứng quên khá phổ biến đối với những ai phải trải qua một thảm kịch như thế đó. Danh từ y học gọi là chứng quên ictêri. Một mũi penthotal sẽ giúp cô ta thư giãn và nói cho chúng ta biết điều gì đã xảy ra... về sự thật mà cô ta đã biết.

Thanh tra Jed lớn tiếng:

- Những lời khai dưới tác dụng của thuốc sẽ không được tòa chấp nhận.

Nancy thều thào:

- Trước đây, tôi có trí nhớ rất tốt. Một hôm ở trường, chúng tôi đã làm một cuộc trắc nghiệm để thử xem ai có thể nhớ tất cả những hành vi của mình tuần tự theo những ngày đã qua. Chúng tôi phải lùi dần về quá khứ cho đến khi không thể nhớ gì. Tôi đã có thể nhớ những việc xảy ra từ rất lâu khiến mọi người đều khâm phục. Hồi ấy, tôi có thể nhớ rõ từng sự việc...

Chuông điện thoại reo vang khiến mọi người trong phòng giật mình như nghe phải tiếng súng. Trông thấy Nancy giật lùi người, Ray vội vã giữ hai tay nàng. Mọi người đều lặng im chờ đợi cho đến khi viên cảnh sát giữ nhiệm vụ trực điện thoại bước vào.

Anh ta nói:

- Thưa ông thanh tra, có điện thoại đường dài của ông.

Nghe như thế, Jed quay sang Jonathan:

- Tôi chắc đây là cú điện thoại mà tôi đang chờ. ông Jonathan à, ông có thể theo tôi sang phòng bên chứ? Cả anh nữa, Ray.

- Em yêu, anh sẽ trở lại ngay. - Ray nói nhỏ với Nancy rồi nhìn thẳng vào mắt Lendon.

Biết Lendon đã hiểu ý mình, Ray vững tin bước theo Jed ra phỏi phòng.

Lại một lần nữa, Lendon trông thấy nỗi lo sợ tối sầm khuôn mặt Nancy.

Nàng thì thầm:

- Cứ mỗi lần chuông điện thoại reo, tôi nghĩ rằng người ta đã tìm thấy các con của tôi và chúng bình yên vô sự. Và rồi tôi nghĩ; hay là lại xảy ra như lần trước... khi người ta gọi điện...

Lendon nói:

- Nào Nancy, hãy bình tĩnh. Đây là điều rất quan trọng. Hãy cho tôi biết từ khi nào cô đã gặp khó khăn trong việc nhớ lại những sự cố?

- Kể từ cái chết của Peter và Lisa... cũng có thể là trước đó... Hầu như tôi không thể nhớ những năm tháng sống chung với Carl.

- Có thể vì cô đã liên kết những năm tháng đó với các con của cô và việc nhớ đến những kỷ niệm có liên quan đến chúng làm cô phải khổ sở.

- Nhưng trong suốt năm năm đó... tôi cảm thấy chán nản, rã rời... sau khi mẹ qua đời... tôi luôn cảm thấy mệt mỏi. Tội nghiệp Carl... anh ấy rất kiên trì. Ảnh đã làm mọi chuyện thay tôi. Ban đêm, anh thức dậy để lo cho các con - ngay ca khi chúng còn bé tí. Tôi cảm thấy quá mệt nên không thể làm gì... Sau khi hai đứa bé mất tích, tôi không thể nhớ được gì... như hôm nay... tôi không thể nhớ gì.

Ray trở vào phòng. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Lendon biết ngay khi trông thấy những nếp nhăn quanh khóe miệng và thoáng run rẩy ở đôi tay Ray. Ông bất chợt nhận ra rằng mình đang thầm cầu nguyện, "Lạy Trời, xin đừng có những tin chẳng lành".

ray cố giữ vẻ trầm tĩnh:

- Thưa bác sĩ, ông Jonathan có chuyện cần nói với bác sĩ ở phòng bên.

- Vậy à?

Lendon vội vã rời khỏi phòng, nghĩ rằng cú điện thoại đã làm Ray mất bình tĩnh.

Khi Lendon vào phòng ăn, thanh tra Jed vẫn còn nói chuyện qua điện thoại. Ông đang lớn tiếng ra lệnh cho viên sĩ quan trực ở sở cảnh sát: "Anh hãy cho người đến ngay cái bưu điện đó để tìm tất cả những người làm việc trong ngày 30 tháng mười và dò hỏi xem còn ai có thể nhớ người đến nhận bức thư do Community News gởi mang tên J. R. Penrose. Tôi cần biết chuyện đó gấp".

Jed gác mạnh ống nghe.

Jonathan cũng căng thẳng không kém. Ông nói ngay khi Lendon bước đến:

- Thưa bác sĩ, điều cần thiết là Nancy phải lấy lại trí nhớ ngay, cô ấy cần có khả năng hồi ức. Vì đang viết một cuốn sách về các vụ án nên tôi có đầy đủ hồ sơ về vụ Harmon. Trước khi đến đây, tôi đã ngồi suốt ba tiếng đồng hồ để đọc tập hồ sơ đó và tôi cũng có đọc bài báo đăng hôm nay. Một chi tiết trong bài báo khiến tôi quan tâm vì nghĩ rằng nó có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy tôi đã yêu cầu thanh tra Jed gọi cho biện lý thành phố San Francisco để kiểm chứng giả thuyết của tôi. Phụ tá biện lý vừa mới điện trả lời chúng tôi.

Rút từ túi ra cái ống điếu, Jonathan đưa lên miệng, cắn chặt giữa hai răng, nhưng không mồi lửa. Ông nói tiếp: "Thưa bác sĩ, hẳn ông cũng biết, trong trường hợp mất tích lạ lùng của các đứa bé, cảnh sát đôi khi đã cố tình che giấu một vài thông tin hầu ngăn chặn một số những suy diễn có thể đưa đến những tin đồn sai lạc".

Jonathan càng lúc càng nói nhanh hơn, như thể thời gian trở nên quý hiếm: "Tôi nhận thấy rằng, cách đây bảy năm, khi tường thuật về vụ mất tích của hai đứa bé con gia đình Harmon, các nhà báo đều mô tả rằng ngày ấy chúng mặc áo săng-đay đỏ có hoa văn trắng. Không một bài báo nào cho biết họa tiết đó như thế nào. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, người ta đã cố tình che giấu cái chi tiết này".

Jonathan nhìn thẳng vào mắt Lendon, như muốn Lendon quan tâm hơn đến những điểm quan trọng mà ông sẽ nêu ra: "Bài báo vừa đăng trên trên tờ Cape Cod Community News cho biết rõ là khi mất tích, hai đứa bé của gia đình Harmon mặc áo săng-đay đỏ có họa tiết hình thuyền buồm và đó là áo mà chúng mặc khi người ta phát hiện thi thể chúng dạt vào bờ biển, nhiều tuần sau đó. Dĩ nhiên, Nancy biết rõ họa tiết đó vì chính cô ta đã đan những cái áo đó. Nhưng còn có một người khác nữa, ngoài các nhân viên điều tra vụ án này ở San Francisco, cũng biết điều này. Giả thiết rằng Nancy vô tội thì người đó chính là kẻ đã bắt cóc hai đứa bé cách đây bảy năm và đồng thời cũng là kẻ viết bài báo hôm nay!"

- Ông muốn nói... - Lendon thắc mắc.

- Thưa bác sĩ, ở cương vị là luật sư và là bạn của Nancy, tôi có ý kiến là nếu bác sĩ có thể giúp Nancy hồi phục trí nhớ thì bác sĩ hãy nhanh tay lên! Điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải khám phá những gì mà Nancy đa biết nếu không, tính mạng của hai đứa bé sẽ lâm nguy.

Lendon hỏi:

- Tôi có thể gọi đến nhà thuốc để yêu cầu họ mang cho tôi những thứ cần thiết?

Thanh tra Jed nói ngay:

- Bác sĩ cần gì cứ gọi. Tôi sẽ phái một xe cảnh sát đến đó lấy thuốc ngay. Để tôi nhấn số điện thoại cho bác sĩ.

Lendon từ tốn đặt mua các thứ thuốc, rồi vào bếp rót một ly nước. Ông thầm nghĩ, "Lạy Trời, sao rối ren thế này. Quả thạt là rối rắm". Thảm kịch đã bắt đầu từ khi Priscilla gặp nạn... nguyên nhân và hậu quả... nhân và quả. Nếu Priscilla không chết hẳn nàng đã khuyên can Nancy không nên sớm lấy chồng. Như vậy, cô ta sẽ không có con với Carl Harmon. Bác sĩ Lendon không muốn suy nghĩ vẩn vơ nữa. Cảnh sát đã tiến hành công việc lấy dấu tay trong căn bếp, những vết bột còn sót lại trên các tủ kệ, bếp và bồn rửa chén. Những đốm cà phê tung tóe vẫn còn đó, chưa được lau chùi.

Ông trở vào phòng ăn khi thanh tra Jed đang nói:

- Ông Jonathan à, có thể tôi đang vượt quá những quyền hạn của mình, nhưng tôi muốn sử dụng máy ghi âm khi thẩm vấn Nancy. Nếu, với tác dụng của thuốc, cô ấy có khai ra một điều gì đó, thì chúng tôi không thể sử dụng những lời khai đó để buộc tội cô. Nhưng tôi biết phải hỏi Nancy những câu gì, phù hợp với những điều đã quy định.

Jonathan nôn nóng đáp:

- Nancy sẽ chẳng thú nhận điều gì. Nhưng, có một điều làm tôi lo ngại: nếu chúng ta giả thiết rằng Nancy vô tội - không những trong vụ mất tích Michael và Missy mà đồng thời kể cả trong cái chết của hai đứa bé trước đây - thì điều này đưa ta đến một giả thuyết khác. Nếu kẻ đã sát hại hai đứa bé con nhà Harmon là tác giả bài báo đăng trên Community News và đã đến bưu điện Hyannis Port đó nhận thư, thì đương nhiên hắn ta phải sống ở Cape trong một thời gian.

Thanh tra Jed nói ngay:

- Vậy thì theo ông, chính hắn ta sáng nay đã bắt cóc hai đứa bé.

- Đó là điều làm tôi lo ngại.

Qua giọng nói lạnh lùng của Jonathan, thanh tra Jed hiểu ông ta muốn nói lên điều gì. Nếu Michael và Missy bị bắt cóc bởi chính kẻ đã giết hại hai đứa bé con nhà Harmon thì hẳn chúng có thể đã bị giết rồi.

Thanh tra Jed nhận định:

- Mặt khác, nếu chúng ta không tình nghi Nancy Eldredge, thì có thể là một ai đó, không liên quan gì đến vụ Harmon nhưng vì đã nghe nói đến trọng án này, nên đã viết bài báo và sau đó bắt cóc hai đứa bé con nhà Eldredge. Giả thuyết thứ ba là cả hai trường hợp vừa kể không liên quan nhau và một ai đó đã đọc bài báo và vì biết Nancy Eldredge, nên người này đã bắt cóc Michael và Missy. Có thể đó là một người mẹ bị ức chế, cho rằng Nancy không xứng đáng làm mẹ hai đứa bé. Sau bao nhiêu năm trong nghề, tôi đã từng nghe những lý luận khùng điên như vậy.

Giọng khô khốc, Jonathan cắt ngang:

- Có điều chắc chắn là, cách đây bảy năm. Nancy đã biết nhiều điều hơn là những gì cô đã nói ra về vụ mất tích hai đứa bé.

Lendon nhướng mày. Jed cau trán. Trước thái độ của hai người đó, Jonathan vỗ tay lên bàn:

- Tôi không nói Nancy là thủ phạm. Tôi chỉ nói là cô ta không nói hết những gì cô đã biết. Cô đã biết nhiều hơn những gì cô nghĩ là mình biết. Quý vị hãy xem các bức ảnh chụp Nancy đứng trước tòa thì hiểu, khuôn mật cô ta như người vô cảm. Hãy đọc lời khai của cô. Quý vị hãy đọc đi. Người đàn bà đáng thương đó là kẻ vô tội. Vậy mà giờ đây ông đang tìm cách để dựng lại vụ đó.

Thanh tra Jed không còn kiên nhẫn:

- Tất cả những gì ông nêu ra chỉ là giả thuyết... chỉ là giả thuyết mà thôi... Nhiệm vụ của tôi là tìm thấy hai đứa bé, sống hoặc chết, và tìm ra thủ phạm. Thoạt đầu ông nói rằng tôi không thể thẩm vấn Nancy vì cô ấy đang bệnh nặng và rồi ông lại nói Nancy biết nhiều điều hơn những gì nàng đã khai. Này ông Jonathan, ông bảo rằng nghiên cứu về các vụ án và viết lách là thú tiêu khiển của ông. Nhưng mạng sống của các cháu bé đó không phải là thú tiêu khiển của tôi, và tôi không ở đây để giúp ông chơi trò cút bắt với pháp luật.

- Anh cho tôi nói - London vỗ nhẹ vào cánh tay của thanh tra Jed rồi quay sang Jonathan - Thưa ông Jonathan, có phải nếu Nancy nói rõ về những gì mà cô ta biết về cái chết của hai đứa con trước đây của cô thì như thế chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm hai đứa bé hiện mất tích?

- Đúng. Nhưng vấn đề là làm sao để cô ấy có thể nhớ lại và chúng ta không đẩy cô ta vào trạng thái mất ý thức do thuốc. Thưa bác sĩ, có phải ông được xem là chuyên gia trong vấn đề sử dụng penrhiolxirbital để chữa trị tâm thần?

- Quả vậy.

- Liệu ông có thể giúp Nancy nhớ lại, không những về những gì mà cô ta biết về sự cố sáng nay - điều mà tôi nghĩ rằng Nancy thực sự chẳng biết gì - mà còn có thể nhớ những gì đã xảy ra trong quá khứ?

- Có thể được.

- Vậy tôi mong bác sĩ giúp Nancy càng sớm càng tốt.

Một tiếng đồng hồ sau, khi Dorothy trở lại nhà Eldredge, bà thấy phòng ăn và nhà bếp hoàn toàn vắng lạng, không còn ai ngoại trừ Bernie Mills, viên cảnh sát trực điện thoại.

Hất hàm về phía phòng khách, anh ta nói:

- Mọi người đều ở trong đó. Họ đang làm những chuyện khá lạ lùng.

Dorothy vội vã ngang qua hành lang rồi khựng lại ở cửa phòng khách. Trước cảnh tượng trước mắt, những lời bà định nói bỗng dưng im bặt trên môi.

Nancy đang nằm dài trên trường kỷ, mình đắp chăn bông, đầu tựa trên gối kê. Cạnh nàng là một ông có vẻ là bác sĩ, đang nói nho nhỏ. Mắt Nancy nhắm nghiền. Đứng gần đó là Ray và Jonathan. Khuôn mặt Ray hằn vẻ lo âu trong khi Jonathan thì có vẻ nghiêm trọng. Ngồi trên cái bàn gần trường kỷ, Jed Coffin đang hướng cái micro về phía Nancy.

Hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, Dorothy ngồi xuống ghế bành, không buồn cởi áo choàng. Bà thọc hai tay lạnh cóng vào túi áo.

Giọng Lendon nghe dịu dàng:

- Nancy à, cô thấy thế nào? Có khỏe không?

- Tôi sợ...

- Tại sao...?

- Hai đứa bé... Hai đứa bé...

- Nào Nancy, hãy nói về chuyện sáng nay. Đêm qua cô ngủ có ngon giấc không? Buổi sáng khi thức dậy, cô có thấy khỏe không?

Giọng Nancy có vẻ tư lự:

- Tôi đã nằm mơ. Tôi mơ rất nhiều..

- Cô đã mơ thấy gì?

- Thấy Peter và Lisa... chúng sẽ khôn lớn... chúng đã chết cách đây bảy năm.

Nàng nức nở khóc. Rồi, trong khi Jonathan đưa tay giữ lấy Ray, Nancy gào lên: "Làm sao tôi có thể giết chúng chứ? Chúng là con tôi mà! Làm sao tôi có thể giết chúng...?"

giavui
05-26-2020, 03:19 PM
Chương 15
Trước khi gặp John Kragopoulos tại văn phòng địa ốc, Dorothy phải trang điểm lại đôi chút để đôi mắt ửng đỏ của mình không quá lộ rõ. Bà tự nhủ việc đưa người đi xem ngôi nhà tháp canh là dịp để hướng tâm trí vào một chuyện khác, không còn bị dày vò bởi sự vô vọng tìm kiếm những manh mối nhằm phát hiện hai đứa bé mất tích.

Thông thường, Dorothy có thói quen đưa khách đi một vòng quanh các vùng phụ cận của ngôi nhà mà họ định mua, chỉ cho họ xem những bãi biển, hồ, bến cảng của du thuyền và những dinh thự cổ nằm rải rác giữa xa lộ Cranberry và vịnh. Như thế họ sẽ có dịp ngắm tháp Mausliop và những kiến trúc cổ của thành phố.

Nhưng hôm nay, vì tuyết tan đang quất mạnh trên mui và kính xe, vì bầu trời đen kịt mây và làn không khí lạnh thấu xương, nên Dorothy quyết định đưa khách đi thẳng đến ngôi nhà Tháp Canh.

Dorothy thấy rất khó để tập trung vào công việc của mình. Đầu óc bà rối bời. Là người từ nhiều năm qua không hề khóc, vậy mà giờ đầy bà phải cắn môi để nén những giọt lệ. Bà thấy mình bị trĩu nặng bởi ưu phiền và lo sợ, một sự trĩu nặng xem chừng khó lòng gánh vác một mình.

Lái xe trên con đường trơn trượt hiểm nghèo, bà thỉnh thoảng liếc mắt về người đàn ông có nước da sạm nắng ngồi cạnh. John Kragopoulos trạc độ bốn mươi lăm tuổi. Tuy dáng người lực lưỡng như một vận động viên thể thao, nhưng dáng điệu của ông trông phong nhã.

Ông cho Dorothy biết rằng vợ chồng ông vừa bán cái nhà hàng ở New York và dự tính sẽ mở nhà hàng ở một vùng mà họ sẽ định cư lâu dài. Họ đang tìm một nơi có thể thu hút khách hàng gồm những người về hưu khá giả vào mùa đông và đồng thời cũng là điểm đông khách du lịch vào mùa hè.

Sau khi cân nhắc những điều kiện mà Kragopoulos vừa nêu, Dorothy nói:

- Nếu mở nhà hàng ở phía bên kia Cape thì đó là điều tôi khuyên ông không nên vì phía bên ấy đã có quá nhiều motels và pizzerias, nhưng phía bên này thì tuyệt vời. Ngôi nhà Tháp Canh sẽ là nơi lý tưởng để mở nhà hàng hoặc khách sạn. Vào những năm 30, nó đã được nâng cấp để trở thành câu lạc bộ thể thao, nhưng dạo đó không mấy ai đủ giàu có để làm hội viên nên vì thế câu lạc bộ không tồn tại được lâu. Cuối cùng, ông Hunt đã mua lại ngôi nhà này, kể cả khu đất gồm bốn hecta và ba trăm thước bờ biển, một trong những vùng có cảnh quang đẹp nhất của Cape.

- Có phải trước đây ngôi nhà Tháp Canh là của những người đánh cá?

Dorothy hiểu rằng trước khi đi xem ngôi nhà, John Kragopoulos đã có chuẩn bị và nghiên cứu kỹ - một bằng cớ cho thấy ông ta đã quan tâm đến nó.

Bà gật đầu:

- Đúng vậy. Vào năm 1690, một thuyền trưởng tàu đánh cá voi đã xây ngôi nhà này cho vợ ông. Trong lần nâng cấp sau cùng cách đây bốn mươi năm, người ta đã xây thêm hai tầng, nhưng cái mái nhà thì vẫn giữ như cũ cùng với những ban công gần đỉnh ống khói, những ban công mà cư dân ở đây gọi là "những chiếc cầu của góa phụ" để tưởng nhớ những bà vợ các thủy thủ thường ra đó đứng ngóng người chồng biền biệt.

- Biển quả là khó lường. Chẳng hay ngôi nhà đó có một bến để neo tàu? Nếu sống ở đó, tôi sẽ mua một chiếc thuyền.

- Vâng, có một bến rất tốt - Dorothy đáp, rồi thốt lên, "Ồ! Chúa tôi!" khi thấy xe lệch ra khỏi con đường hẹp, khúc khuỷu, dẫn đến ngôi nhà Tháp Canh.

Sau khi kềm được chiếc xe, Dorothy e ngại liếc nhìn người đàn ông ngồi cạnh, nhưng ông vẫn bình thản và cho biết ông ngưỡng phục sự can đảm của một phụ nữ dám cầm lái trên những con đường trơn trượt như thế này.

Lời nói đó phần nào xoa dịu nỗi tuyệt vọng của Dorothy. Quả là một phép lạ khi xe không lao ra khỏi đường. Với thời tiết như thế này thì bà đành bó tay với bao dự tính khi giới thiệu ngôi nhà. Ngoài ra, thời tiết cũng ngăn trở việc tìm kiếm hai đứa bé. Phải chi trời tốt thì, giờ đây hẳn có nhiều người đang đổ xô đi tìm kiếm trên các bãi biển, trong những cánh rừng và đường phố.

Dorothy nói:

- Tôi thích lái xe. Chỉ tiếc là không có ông Eldredge cùng đi với chúng ta. Hẳn anh đã hiểu lý đo.

- Vâng, tôi hiểu. Không gì bi thảm hơn là cha mẹ mất con. Tôi rất tiếc phải quấy rầy bà vào một ngày như hôm nay. Là bạn và đồng thời là cộng tác viên của gia đình Eldredge hẳn bà cũng rất lo lắng.

Trước giọng nói và thái độ thiện cảm của John Kragopoulo Dorothy né tránh trả lời, bà nói:

- Bây giờ, tôi xin được phép mô tả đôi chút về ngôi nhà. Mọi cửa sổ mặt tiền của nó đều hướng ra vịnh, cửa chính có một chân vòm rất sang trọng, phù hợp với lối kiến trúc hàng đầu vào thời ấy. Các căn phòng lớn ở tầng trệt đều có lò sưởi với những góc cạnh thật hài hòa. Vào những ngày như hôm nay, hẳn nhiều người sẽ thích thú được ngồi trong một nhà hàng, thưởng thức một bữa ăn ngon lành lò sưởi, trong khi ngắm cảnh mưa gió trên vịnh. Chúng ta đến rồi đây.

Ở ngã rẽ sau cùng, ngôi nhà Tháp Canh hiện ra trước mắt họ. Sừng sững trong cái âm u đang bao trùm, ngôi nhà tạo ra cho Dorothy một ấn tượng buồn bã và hoang vắng. Trải qua bao mưa nắng, lớp ngói gỗ của nó mang màu xám khô khan. Tuyết tan rơi lã chã trên các cửa sổ, cửa vòm và những bậc thang, như muốn rửa sạch màu thời gian. Dorothy ngạc nhiên khi thấy Parrish để cửa nhà xe mở toang hoác. Bà thầm nghĩ, hẳn ông ta đã vào nhà, hai tay ôm mớ thực phẩm vừa mua và quên trở ra để đóng cửa. Dẫu sao, đây cũng là dịp may cho Dorothy. Bà sẽ đưa thẳng chiếc xe vào đó, đậu cạnh xe của Parrish, rồi chạy nhanh vào nhà.

Dorothy nói với John Kragopoulos khi ra khỏi xe:

- Tôi có chìa khóa cửa sau nhà này. Tiếc rằng tôi quên mang theo cây dù. Hy vọng rằng anh sẽ không bị ướt đẫm.

- Không sao đâu. Chị khỏi lo cho tôi. Tôi không phải là công tử bột. Bộ chị không thấy sao?

Dorothy mỉm cười, gật đầu:

- Được, vậy thì chúng ta chạy nhanh vào.

Họ ào ra khỏi nhà xe, men sát theo năm mươi thước tường để chạy về cửa nhà bếp. Gió thổi mạnh, lồng vào áo choàng và quất mạnh tuyết tan vào mặt họ.

Dorothy thấy rằng cửa đã khóa bên trong và bực tức nghĩ, ông Parrish này theo lẽ phải biết điều hơn. Bà lục sắc tay và cuối cùng, tìm thấy cái chìa của ổ khóa bên trong. Bà nhấn chuông để báo cho ông Parrish biết họ đến. Tiếng chuông còn vang vọng trong cầu thang khi bà đẩy cửa vào.

Điềm tĩnh, John Kragopoulos phủi những giọt tuyết tan trên áo choàng rồi dùng khăn tay lau mặt. Dorothy thầm ngưỡng phục sự trầm tĩnh đó trong khi bà cố dằn sự nôn nóng. Bà muốn nhanh chóng đưa ông ta đi xem cho xong ngôi nhà. Càng nhanh càng tốt, để trở về với vợ chồng Eldredge; có thể giờ đây họ đã được tin về hai đứa bé.

Bà nhìn John Kragopoulos trong khi ông ta cẩn thận xem xét căn bếp và thầm nghĩ đến Jonathan Knowles. Bà thắc mắc tự hỏi, tại sao mọi chuyện lại đổi thay một cách nhanh chóng đến thế, bi thảm đến thế...?

- Thưa bà Prentiss?

- Vâng. Ồ, xin lỗi, hôm nay tôi hơi đãng trí. Vâng, căn bếp này cần phải được sửa sang cho hiện đại hơn, nhưng ưu điểm của nó là rộng rãi và bố trí tốt. Lò sưởi ở đây đủ lớn để có thể nướng một con bò - nhưng tôi nghĩ là anh sẽ trang bị những lò nướng hiện đại.

Tiếng gió gào rít quanh ngôi nhà nghe thê lương và khiến Dorothy phải nói lớn tiếng hơn. Bà tưởng chừng vừa nghe thấy có tiếng đóng cửa ở tầng trên và - thoáng trong một giây - tiếng rên rỉ. Bà thầm nghĩ, hẳn mình quá căng thẳng. Chiều nay, ngôi nhà này làm bà cảm thấy bất an. Và căn bếp sao lạnh lẽo thế này!

Dorothy vội vã đưa John Kragopoulos xem các căn phòng ở mặt tiền, cảnh quang của vịnh phía trước khiến ông càng quan tâm hơn đến ngôi nhà. Đứng bên nhau Dorothy và John Kragopoulos lặng lẽ nhìn những con sóng bạc đâu đang xô nhau về những mỏm đá, vỡ vụn rồi dạt ngược ra biển.

Dorothy nói:

- Khi thủy triều lên, những mỏm đá đó hoàn toàn bị che lấp. Ở phía trái, sau con đê chắn sóng, có bãi biển tuyệt đẹp với cát mịn, cạnh đó là bến neo tàu. Bãi biển và bến neo đó thuộc ngôi nhà này.

Dorothy đưa John Kragopoulos lần lượt xem qua các phòng, lưu ý ông đến lớp ván sàn bằng gỗ sồi khổ lớn, những lò sưởi bề thế, cửa sổ có kính ghép màu, xứng hợp với một nhà hàng hạng sang. Ở tầng một, ông xem xét những căn phòng lớn khả dĩ có thể làm phòng khách sạn.

Dorothy giải thích:

- Trong khi nâng cấp ngôi nhà, người ta đã cải tạo những phòng nhỏ thành phòng tắm, ăn thông với những phòng lớn. Như vậy, mọi phòng ở đây xem như hoàn bị, chỉ cần sơn quét và lót thảm nữa là ổn. Những chiếc giường bằng đồng ở đây không thôi cũng đã là cả gia sản rồi. Ngoài ra, bàn ghế đồ đạc ở đây cũng rất đẹp. Ông hãy xem cái cômốt này thì rõ.

John Kragopoulos tỏ vẻ quan tâm đến ngôi nhà. Chỉ cần nhìn ông mở những cánh cửa tủ, gõ gõ những ngón tay lên các bức tường, mở các vòi nước là đủ hiểu.

Dorothy nói:

- Ở tầng hai cũng có chừng này phòng và được bố trí tương tự như đây. Ông Parrish hiện sống trong một căn hộ ở tầng ba. Trước đây, căn hộ đó được dành cho giám đốc câu lạc bộ. Nó rất rộng. Từ đó ta có thể thấy được cảnh quang thành phố và vịnh.

John Kragopoulos lặng lẽ đi quanh phòng. Thấy mình hơi nhiều lời, Dorothy bước đến bên cửa sổ. Bà thầm nghĩ, hãy để ông ta thoải mái xem xét ngôi nhà và nêu lên những thắc mắc. Điều chủ yếu là mọi việc cần phải nhanh, thật nhanh. Bà muốn rời khỏi nơi đây để về với vợ chồng Eldredge, hỏi thăm tin tức hai đứa bé.

Không muốn nấn ná lâu ở đây, Dorothy đột ngột nói:

- Thôi, chúng ta hãy lên tầng ba. Hẳn anh sẽ thích thú khi trông thấy căn hộ đó.

Dorothy trở ra hành lang và hướng dẫn John Kragopoulos đến cầu thang chính:

- Hệ thống sưởi của ngôi nhà này được chia thành bốn khu vực khác nhau. Điều này giúp tiết kiệm dầu mazout.

Họ bước lên lầu ba. Dorothy giải thích:

- Tầng hai cũng tương tự như tầng một. Từ bảy năm nay ông Parrish đã mướn căn hộ ở tầng ba này để mỗi năm sống ở đây vài tháng. Vâng, chúng ta đến rồi đây. Ở cuối hành lang.

Dorothy gõ cửa căn hộ. Không nghe trả lời, bà gọi:

- Ông Parrish. Ông Parrish?

Rồi bà mở xắc tay và nói:

- Lạ thật. Chẳng hiểu ông ấy đi đâu mà xe vẫn còn đó. Tôi có mang theo chìa khóa căn hộ đây.

Cáu kỉnh, Dorothy lục lọi xắc tay. Hồi nãy, qua điện thoại, ông Parrish đã tỏ ra không hài lòng khi nghe bà sẽ đưa người đến xem nhà. Nếu vắng nhà thì ông ta phải báo cho bà chứ. Bà hy vọng căn hộ sẽ không đến nỗi bừa bãi khiến người khách mua nhà cảm thấy chán chê.

Dorothy không để ý thấy quả đấm cửa vừa xoay từ phía trong. Vì thế, khi cánh cửa đột ngột mở ra, bà ngửng đầu lên và giựt mình khi trông thấy ánh mắt dò hỏi và khuôn mặt ướt đẫm mồ hôi của Courtney Parrish.

- Sao quý vị lại chọn một ngày như thế này để đến xem nhà! - Parrish nói và lùi lại để Dorothy và John Kragopoulos bước vào.

Y tính rằng trong khi giữ cánh cửa mở và né sang một bên, y sẽ khỏi bắt tay họ. Đôi tay y ướt đẫm mồ hôi.

Y quan sát John Kragopoulos và Dorothy rồi tự hỏi, liệu họ có nghe tiếng kêu của đứa bé gái - chỉ một tiếng duy nhất? Y đã quá ngu ngốc... quá hấp tấp. Sau khi nhận cú điện thoại, y đã phải vội vã. Trong khi gom quần áo của hai đứa bé, suýt chút nữa là y đã quên chiếc áo lót của con bé. Rồi hộp phấn talc đã rơi xuống, đổ ra ngoài, khiến y phải lau chùi sàn nhà.

Lúc nãy, y đã giấu hai đứa bé trong một hốc nhà phía sau lò sưởi, sau khi đã buộc miệng và cột tay chân chúng.

Y biết rằng những ngôi cổ của vùng Cape thường có những hốc kín đáo như thế, nơi mà thuở xưa những cư dân đầu tiên của vùng này dùng để trú ẩn khi bị bọn da đỏ tấn công. Thế rồi, sau khi để hai đứa bé ở đó, y bỗng cảm thấy hoảng loạn, sợ rằng con mụ văn phòng địa ốc biết cái hốc đó bằng cách nhấn vào một nút giấu nơi tủ sách của phòng sinh hoạt.

Vì e ngại Dorothy biết cái nút đó, nên khi thấy chiếc Buick của bà ta chạy vào nhà xe, Parrish đã vội vã rời vị trí quan sát nơi cửa sổ để chạy vội xuống nhà dưới, đưa hai đứa bé lên giấu trong một tủ hốc tường trong phòng y. Theo y thì như vậy là tốt... tốt hơn hết. Y sẽ nói rằng y chứa thực phẩm trong cái tủ đó và không nhớ đã để chìa khóa ở đâu. Vì y đã thay ổ khóa tủ nên con mụ địa ốc sẽ không thể dùng chìa khóa mang theo để mở. Dẫu sao, con mụ cũng có thể cho khách xem qua cái tủ khác, nó cũng sâu và có kích thước như nhau. Y thầm nghĩ, sao mình rắc rối đến thế... để có thể phạm phải một sai lầm.

Dorothy và John Kragopoulos đã nấn ná khá lâu ở tầng dưới, đủ để cho y rà soát lại lần cuối căn hộ và biết chắc không quên sót điều gì. Bồn tắm vẫn đầy nước, nhưng đó là vì y cố tình để như thế. Lúc nãy y đã tỏ ra cáu kỉnh khi trả lời điện thoại vì vậy y muốn cho Dorothy hiểu rằng y đang chuẩn bị đi tắm. Điều đó cùng lý giải cho cái giọng thiếu trầm tĩnh của y.

Lòng nôn nóng muốn được ở bên đứa bé gái làm y xót xa. Từ nơi thẳm sâu trong y dâng lên cái ước muốn nóng bỏng đó. Vào lúc này đây, con bé chỉ ở cách y vài thước, sau cánh cửa tủ đó. Ồ, y thấy khó có thể chờ đợi lâu hơn.

Y thầm nhủ, "Hãy thận trọng... thận trọng". Y cố lắng nghe tiếng nói của lương tri, nhưng sao khó quá.

Có giọng nói:

- Tôi là John Kragopoulos.

Y thấy gã đàn ông đó chìa tay ra. Y vụng về lau bàn tay ướt đẫm mồ hôi vào quần trước khi bắt tay người khách.

Y nói bằng giọng cau có:

- Tôi là Courtney Parrish.

Khuôn mặt người khách lộ vẻ nhờm gớm khi bắt tay y.

Y thầm nghĩ, "Lại một thằng pêđê nữa... phân nửa số nhà hàng phía bên này Cape đều của những thằng pêđê. Bây giờ, bọn chúng cũng muốn nuốt cả ngôi nhà này nữa. Thật ra, sẽ chẳng sao cả, vì kể từ ngày mai, y sẽ không cần đến nó nữa".

Bỗng dưng, y nhận thức rằng, một khi ngôi nhà này được bán đi, sẽ chẳng ai thắc mắc khi không còn trông thấy Courtney Parrish xuất hiện trong vùng này nữa. Lúc đó, y có thể theo chế độ ăn kiêng để giảm cân, có thể để tóc mọc trở lại và thay đổi ngoại hình, vì y cần phải tham dự phiên tòa xử Nancy, một khi người ta đã tìm thấy xác hai đứa bé và kết tội nàng. Thật là đơn giản. Y quả là người tốt số.

Một sự sảng khoái dâng lên trong y, khiến y rùng mình. Bỗng dưng, y nói, thật tự tin:

- Ông Kragopoulos à, tôi rất hân hạnh được biết ông. Rất tiếc là ông đến xem ngôi nhà tuyệt đẹp này vào lúc thời tiết quá xấu.

Như một phép lạ, hai tay, nách và bẹn của y không còn ướt đẫm mồ hôi.

Không khí căng thẳng giảm dần giữa ba người. Thật ra, Parrish nhận thấy rằng sự căng thẳng này chủ yếu xuất phát từ Dorothy. Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Trong những năm gần đây, y đã hàng trăm lần trông thấy bà ta ra vào nhà Eldredge, đẩy hai đứa bé trên cái đu và lái xe đưa chúng đi chơi. Y đã liệt bà ta vào hạng: một bà góa ở tuổi ngũ tuần cố tỏ ra rằng mình là người hữu ích. Một kẻ sống bám, chết chồng, không con. Cái may của bà là bà không có mẹ già đau yếu để phụng dưỡng. Hầu hết những người như bà đều gặp trường hợp này. Điều đó giúp họ có được cái hình ảnh của một người phải xả thân hy sinh cho một ai đó, được trở thành một người cần thiết. Và nếu có con, họ sẽ dành mọi quan tâm cho con họ, tương tự như mẹ của Nancy.

Y quay sang nói với Dorothy:

- Tôi đã nghe tin tức qua đài, kinh khiếp thật, chẳng hay người ta đã tìm thấy hai đứa bé chưa?

- Chưa. - Dorothy đáp.

Bà không dằn được sự nôn nóng của mình. Cái đài vẫn còn mở trong căn phòng. Bà thoáng nghe câu "bản tin đặc biệt". Bà vội nói, "xin lỗi" và chạy ào đến bên cái đài, mở lớn tiếng, "... bão đang lớn dần. Xin quý vị hãy đề phòng những cơn gió giật với sức gió từ tám mươi đến một trăm cây số giờ. Nên tránh lái xe trong cơn bão. Việc lặn tìm trong hồ và những cuộc tìm kiếm bằng máy bay hai đưa bé con ông bà Eldredge đã bị đình lại, nhưng các xe cảnh sát vẫn tiếp tục tuần tra tại Adam Port và vùng phụ cận. Thanh tra Jed Coffin của Adam Port yêu cầu những ai biết bất cứ một thông tin nào về hai đứa bé cũng như phát hiện bất cứ một ô-tô lạ hoặc người lạ mặt nào trong vùng, hãy gọi ngay số: KC 53800. Danh tánh của người báo sẽ được giữ kín".

Bình luận viên của đài phát thanh nói tiếp: "Theo một nguồn tin có thẩm quyển thì bà Nancy Harmon Eldredge sẽ được đưa về sở cảnh sát để thẩm vấn".

Dorothy thầm nghĩ, bà cần phải trở về với Ray và Nancy. Bà quay sang John Kragopoulos:

- Như anh thấy đó, đây là một căn hộ tuyệt đẹp, rất xứng hợp cho một cặp vợ chồng, cảnh quang nhìn từ các cửa sổ mặt tiền cũng như các cửa sổ phía sau thật là ngoạn mục.

John Kragopoulos hỏi Courtney Parrish:

- Anh quan tâm đến thiên văn?

- Không hẳn. Tại sao?

- Chỉ vì tôi thấy ở đây có cái ống viễn kính rất hiện đại này.

Quả là muộn màng khi Parrish nhận thấy rằng cái ống viễn kính đang hướng về ngôi nhà Eldredge. Thấy John Kragopoulos bước đến gần, y nhanh tay đẩy ống viễn kính hướng lên trên.

Y ngắn gọn giải thích:

- Tôi thích quan sát các vì sao.

John Kragopoulos áp mắt vào ống ngắm rồi thốt lên:

- Tuyệt thật... quá tuyệt!

Ông nhẹ nhàng hướng ống viễn kính về vị trí trước đó của nó. Rồi, nhận thấy vẻ khó chịu của Parrish, ông rời ống ngắm và quan sát căn phòng.

Ông nói, chủ ý để Dorothy nghe:

- Căn hộ này được bố trí rất tốt.

- Tôi luôn cảm thấy thư thái khi sống ở đây. - Parrish nói.

Thật ra y đang nguyền rủa chính mình. Một lần nữa, y đã phản ứng một cách vội vã, đáng để nghi ngờ. Một lần nữa mình mẩy lại nhễ nhại mồ hôi. Y tự hỏi không biết mình có còn sơ sót một điều gì nữa? Liệu y có để sót một vết tích nào của hai đứa bé? Y đảo nhanh mắt quanh phòng. Không thấy gì khả nghi.

Dorothy nói:

- Nếu không gì bất tiện, xin ông cho phép chúng tôi được xem qua phòng ngủ và phòng tắm.

- Vâng, quý vị cứ việc.

Lúc nãy, y đã trải lại khăn phủ giường và nhét hộp phấn talc vào hộc tủ nhỏ đầu giường.

- Phòng tắm ở đây rộng tương đương với phòng ngủ của một ngôi nhà hiện đại - Dorothy nói với John Kragopoulos. Rồi trông thấy cái bồn tắm đầy nước, bà thốt lên - Ồ, tôi bậy thật! Chúng tôi quấy rầy ông khi ông đang chuẩn bị tắm.

- Tôi không có thời gian để chờ đợi! - Parrish đáp với thái độ cho thấy y đang bực mình.

John Kragopoulos đi lùi ra khỏi phòng tắm. Ông biết rằng ông đang làm Parrish khó chịu và việc để đầy nước bồn tắm là cách thức thô thiển nhất để buộc Dorothy và ông phải hiểu điều đó. Ông thắc mắc, nhưng sao lại có con vịt bằng cao su trong bồn tắm. Một món đồ chơi của trẻ nít. John Kragopoulos trề môi khinh tởm. Ông đưa tay vuốt nhẹ lên cánh cửa tủ hốc tường, tò mò trước vẻ trơn bóng của gỗ. Ông biết mình có trực giác bén nhạy trong kinh doanh và trực giác này cho biết ông nên đầu tư vào ngôi nhà này. Văn phòng địa ốc kêu giá ba trăm năm chục ngàn đô-la... ông sẽ trả hai trăm chín chục ngàn và nếu cần sẽ lên đến ba trăm hai chục. Với giá đó, ông chắc sẽ làm chủ ngôi nhà tuyệt đẹp này.

Sau khi đã âm thầm quyết định, John Kragopoulos quan sát căn hộ với sự quan tâm của một chủ nhân.

Ông nói:

- Tôi mở cái tủ hốc tường này được chứ?

Đó là câu hỏi chiếu lệ vì ông ta đã cầm lấy nắm cửa tủ.

Parrish lắc đầu:

- Rất tiếc, tôi đã thay ổ khóa và không nhớ để chìa khóa ở đâu. Ông có thể xem cái tủ hốc tường kia, nó cũng tương tự như cái này.

Dorothy xem xét cái nắm cửa tủ và ổ khóa mới; chỉ là thứ hàng ngũ kim loại, rẽ tiền.

Bà nói:

- Tôi hy vọng anh còn giữ cái nắm cửa trước đây. Mọi nắm cửa ở đây đều được đúc bằng đồng khối.

- Vâng, tôi còn giữ. Chỉ cần kêu thợ đến gắn là xong.

Y thầm nghĩ, liệu con mụ này có khăng khăng đòi mở tủ cho bằng được? Nếu cái ổ khóa mới không đủ sức chịu đựng? Nếu nó bung ra khỏi khung gỗ? Hoặc nếu nó tự động bung ra thì sao?

Dorothy không nằn nì thêm. Bà thấy chuyện đó chẳng có gì là quan trọng và chút bực tức của bà đã nhanh chóng biến mất.

Parrish phải cắn môi, cố đèn nén nỗi ao ước tống xuất con mụ địa ốc và thân chủ của mụ ra khỏi nhà. Y tự hỏi, không biết đã bịt miệng lũ nhóc kỹ chưa? Liệu chúng có nghe giọng nói quen thuộc và cố tìm cách gây ra tiếng động? Phải đưa hai người này ra khỏi đây nhanh mới được.

Nhưng Dorothy cũng muốn rời khỏi đây. Bà thấy trong căn hộ này phảng phất một cái mùi khá quen thuộc - một mùi thơm làm bà rất nhớ Missy.

Bà quay sang nói với John Kragopoulos:

- Nếu anh muốn, chúng ta có thể ra về.

- Vâng. Ta đi thôi.

Lần này, John Kragopoulos không bắt tay Parrish khi rời căn hộ. Bước ra theo John Kragopoulos, Dorothy quay đầu lại, nói vội:

- Xin cám ơn ông Parrish. Tôi sẽ cho ông biết tin sau.

Dorothy và John Kragopoulos lặng lẽ xuống cầu thang rồi ngang qua nhà bếp. Khi mở cánh cửa sau nhà, Dorothy mới thấy rõ sự chính xác của bản thông báo về thời tiết. Sức gió đã gia tăng nhiều trong khi họ tham quan ngôi nhà.

Dorothy nói:

- Chúng ta phải chạy nhanh về nhà xe.

Vẻ đăm chiêu, John Kragopoulos gật đầu và nắm lấy cánh tay Dorothy với những loạt gió đang quất mạnh tuyết tan vào mặt, họ chạy nhanh vì không thấy cần phải men theo tường nhà nữa.

Vào đến nhà xe, Dorothy đi vào giữa chiếc Buick và chiếc xe của Parrish để mở cửa xe. Trong khi khom người ngồi xuống trên băng ghế phía sau tay lái, bà liếc nhìn xuống và trông thấy một mẩu vải đỏ trên nền nhà xe. Bà ra khỏi xe, cúi lượm mẩu vải và ngả người xuống băng ghế xe, áp mẩu vải lên má.

Trông thấy thái độ lạ thường của Dorothy, John Kragopoulos lo lắng hỏi:

- Có chuyện gì thế, thưa bà Prentiss?

- Đúng là cái bao tay! - Dorothy thốt lên - Bao tay của Missy! Hôm qua, khi tôi đưa Missy đi ăn kem thì cháu mang cái bao tay này. Missy hẳn đã làm rơi nó trên xe và lúc nãy, có lẽ nó đã vướng vào giày tôi và rơi xuống đất khi tôi rời xe. Missy vẫn thường đánh rơi bao tay. Sáng nay người đã tìm thấy một cái cùng cặp với cái này ở nơi cái đu.

Dorothy nức nở khóc - những tiếng nấc khô khốc mà bà rán nén bằng cách áp cái bao tay lên miệng.

John Kragopoulos dịu dàng nói:

- Tôi không biết nói gì hơn. Tôi chỉ biết tin rằng có một Thượng đế đầy thương yêu và từ tâm, biết xót thương trước nỗi khổ của ta và trước nỗi tuyệt vọng của các bậc làm cha mẹ. Ngài sẽ không bỏ rơi ta. Tôi tin chắc như thế. Bây giờ, xin chị vui lòng để tôi cầm lái cho.

- Vâng. - Dorothy nói, giọng nghẹn ngào. Bà nhích người sang ghế bên.

Bà nhét cái bao tay vào túi áo, thầm nghĩ không nên để Ray và Nancy trông thấy nó. Bà tưởng chừng đang trông thấy Missy cởi cái bao tay để ăn kem. Mới hôm qua đây thôi! Tội nghiệp hai đứa bé!

John Kragopoulos cảm thấy thích thú khi được cầm lái. Lúc nãy khi ở trong căn hộ đó, ông cảm thấy bồn chồn khó chịu. Có cái gì đó nhầy nhụa, nhờm tởm, toát ra từ con người Parrish. Đã vậy, lại có cái mùi phấn talc dành cho con nít thoang thoảng trong phòng, và món đồ chơi lạ lùng thả trong bồn tắm. Ông thắc mắc chẳng hiểu tại sao một kẻ đã trưởng thành như Parrish lại cần những thứ đó?

Nép bên cửa sổ ở tầng ba, Parrish nhìn chiếc xe mất hút sau khúc quanh. Rồi, bằng bàn tay run rẩy y lấy chìa khóa ra khỏi túi và mở cái tủ hốc tường.

Thằng bé trai vẫn tỉnh. Nó nhìn y bằng đôi mắt mở lớn in đậm vẻ sợ hãi câm nín. Tay chân nó vẫn bị trói chặt và miệng bịt kín.

Parrish thô bạo đẩy nó sang một bên để nắm lấy con bé. Y nhấc tấm thân bé bỏng, mềm nhũn đó lên và đặt xuống giường. Rồi y gào lên một tiếng giận dữ, tuyệt vọng, khi trông thấy đôi mắt khép kín và khuôn mặt tái nhợt...

giavui
05-26-2020, 03:19 PM
Chương 16
Nancy bấu chặt tay vào tấm chăn bông. Trong trạng thái xúc cảm mãnh liệt, nhịp thở của nàng trở nên ngắn, dồn dập và khó khăn.

Giữ lấy các ngón tay của Nancy, bác sĩ Lendon nói:

- Nancy à, cô không nên lo sợ. Mọi người đều biết cô không làm hại các con của cô. Hẳn đó là điều cô muốn bày tỏ chứ gì?

- Vâng... vâng... người ta vẫn nghĩ rằng tôi làm hại chúng. Làm sao tôi có thể giết chúng chứ? Chúng là một phần của tôi mà. Tôi chết với chúng...

- Đúng vậy, Nancy. Chúng ta đã phần nào chết đi khi mất mát những người thân yêu. Nancy à, bây giờ chúng ta có thể gợi lại đôi chút về cái quãng đời của cô trước đây, khi những rắc rối chưa hề xảy ra? Cô hãy kể cho tôi về thời thơ ấu của cô ở Ohio.

- Thời thơ ấu của tôi ư? - Nancy thì thầm; những cơ bắp căng thẳng của nàng dần dần buông thả.

- Đúng. Hãy kể cho tôi về cha cô, người tôi không được biết.

Thanh tra Jed Coffin tỏ vẻ nôn nóng. Ông ngồi không yên khiến cái ghế gây ra những tiếng ken két trên sàn gỗ. Trước thái độ đó, bác sĩ Lendon nhìn ông và nói:

- Tôi có lý do để hỏi Nancy những câu đó. Mong ông nhẫn nại cho.

- Ba tôi ư? - Nancy thốt lên, giọng đột nhiên tươi vui - Sống với ba thì chẳng bao giờ có phiền muộn. Tôi và mẹ thường ra sân bay để đón ba sau mỗi chuyến bay. Trong những năm đó, ba luôn mang quà về cho mẹ và tôi. Chúng tôi đã du lịch nhiều nơi trên thế giới. Tôi nhớ có lần du lịch...

Ray nhìn chăm Nancy. Đây là lần đầu tiên chàng nghe nàng nói bằng một giọng như thế - một giọng tươi vui, rộn rã, lẫn với tiếng cười. Phải chăng đó là một điều gì khác ngoài cái rã rời khi phải sống trong lo sợ bị người phát hiện sự thật? Chàng mong là như thế.

Jonathan Knowles chăm chú nghe Nancy. Ông thầm ngưỡng phục bác sĩ Lendon khi thấy ông này đã gây được niềm tin nơi Nancy, buộc được nàng phải thư giãn trước khi nêu lên những câu hỏi có liên quan đến vụ mất tích của các đứa bé bảy năm về trước. Tiếng tíc tắc của đồng hồ treo tường vội vã nhắc nhở về thời gian đang trôi. Jonathan nhận thấy rằng mình không thể dằn được phải thỉnh thoảng liếc nhìn Dorothy, ông biết rằng, lúc nãy khi bà ta lên xe, ông đã nói chuyện với bà một cách khá lạnh lùng, sở dĩ như thế là vì ông cảm thấy thất vọng khi biết bà ta cố tình lừa dối ông, cho rằng bà đã từng quen biết Nancy trước đây.

Ông thầm nghĩ, tại sao Dorothy phải nói dối như thế? Phải chăng vì ông đã nhận xét rằng Nancy trông quen và làm ông nhớ đến một người nào đó từng gặp? Hay vì bà ta e ngại cái thái độ nghiêm túc của một luật sư đã có thời nổi tiếng là ông?

Dầu sao, ông thấy mình cần phải ngỏ lời xin lỗi Dorothy mới được. Khuôn mặt bà ta trông u buồn đến thảm hại với những căng thẳng hằn trên nét mặt.

Ánh đèn trong căn phòng yếu dần rồi tắt ngúm.

Đặt cái micrô lên bàn, Jed Coffin nói khi đứng dậy đi tìm cái hộp quẹt:

- Chúng tôi phải chờ thôi.

Ray vội vã thắp hai cây đèn dầu cổ treo ở hai bên lò sưởi. Một thứ ánh sáng vàng pha lẫn với ánh lửa hồng nơi lò sưởi hắt vào cái trường kỷ, nơi Nancy đang nằm, và tạo cảnh tranh tối tranh sáng ở những góc phòng.

Ray có cảm tưởng những giọt tuyết tan đang quất mạnh hơn trên những ô kính và gió càng gào rít dữ dội hơn qua những hàng thông. Chàng thầm nghĩ, "Lạy Trời, thời tiết thế này mà nếu các con tôi..." Chàng nhớ, chỉ mới đêm hôm qua, chàng đã thức dậy khi nghe tiếng ho của Missy. Nhưng khi chàng vào phòng con thì Missy vẫn ngủ say, áp má vào lòng tay. Chàng đã cúi xuống để kéo chăn đắp cho Missy và nó đã cựa quậy, thều thào: "Ba". Rồi nó lại chùi trong giấc ngủ khi Ray đặt tay lên lưng nó.

Chàng cũng nhớ rõ hình ảnh của Michael, chỉ mới hôm qua đây, chàng đã cùng Michael đến siêu thị Wiggins để mua sữa, vậy mà tưởng chừng như đã lâu lắm rồi! Họ đã đến vào lúc ông Parrish người thuê ngôi nhà Tháp Canh, vừa ra khỏi siêu thị, ông Parrish đã nhã nhặn gật đầu chào, tuy vậy, khi nhìn ông ta ngồi vào chiếc Ford cũ kỹ, Michael đã nhăn mặt, và nói với chàng, "Con không ưa ông ấy".

Ray cố nén cái mỉm cười khi nghĩ đến kỷ niệm đó. Mike là đứa bé có tính cục, và cũng tựa như Nancy, nó không ưa những cái xấu xí. Mà quả thật, Parrish là một người có dáng vẻ thô kệch, nặng nề.

Ngay cả ông bà Wiggins cũng có những cảm nghĩ không mấy tốt đẹp về Parrish. Sau khi Parrish rời khỏi siêu thị, Jack Wiggins đã nói với Ray: "Tôi chưa từng gặp người nào lề mề như ông ấy. Ông ta rề rà trong siêu thị cứ như là người thừa thãi thời gian".

Rồi, sau khi mua thực phẩm, Michael đã khiêng những túi hàng lên và nói: "Ba thấy con mạnh không? Con có thể khiêng nổi đấy. Con cũng có thể bế em con được một lúc lâu".

Ray nắm chặt hai tay. Chàng thấy mọi sự tưởng chừng không thật. Bỗng nhiên mọi sự đều thay đổi; bỗng nhiên hai đứa bé mất tích và Nancy nói thao thao dưới tác dụng của thuốc. Thật không thể tưởng tượng nổi.

Nancy vẫn nói bằng giọng tươi vui:

- Ba thường gọi mẹ và tôi là các cô con gái của ông... Các bé gái.

- Rồi sao nữa Nancy? Có phải điều đó làm cô rối trí? - Bác sĩ Lendon hỏi.

Nancy đột ngột cao giọng, phản đối:

- K... không... ba chỉ gọi đùa thế thôi...

Lendon vỗ về:

- Thôi, chúng ta không đề cập đến chuyện đó nữa. Bây giờ, cô hãy nói về chuyện ở trường đi. Cô có muốn theo đại học?

- Vâng... tôi thật sự mong muốn... nhưng tôi lo cho mẹ tôi.

- Tại sao phải lo?

- Tôi sợ mẹ cảm thấy cô đơn. Vì ba đã qua đời... và chúng tôi đã bán ngôi nhà. Lúc đó, mẹ đang chuẩn bị dọn sang một căn hộ. Đối với mẹ, mọi sự đều thay đổi. Mẹ có một công việc mới. Nhưng mẹ thích đi làm... Mẹ bảo tôi rằng tôi phải đi... mẹ muốn như thế... Mẹ nói rằng ngày hôm nay... ngày hôm nay...

- Ngày hôm nay là ngày khởi đầu của tương lai. -Lendon từ tốn đáp.

Đúng, Priscilla đã nói như thế với ông. Hôm đó, nàng vào phòng mạch của ông sau khi tiễn Nancy ra sân bay để theo học. Nàng đã kể với ông rằng, nàng đã đứng một lúc lâu để vẫy tay, khi máy bay lăn bánh trên đường băng. Với đôi mắt ướt đẫm, nàng cố mỉm cười như để xin lỗi và nói, "Em kỳ cục quá. Cứ như mụ gà mái chỉ thích che chở cho con".

- Em không nên lo thái quá, rồi mọi chuyện sẽ tốt đẹp thôi. - Lendon đã nói như thế.

- Ồ! Đúng vậy, khi người ta nghĩ rằng đời sống có thể thay đổi... rất tích cực. Trong thoáng chốc, toàn bộ một mảng đời, phần quan trọng nhất... đã chấm dứt. Tuy vậy, em nghĩ rằng, sau khi đã biết được một vài điều tuyệt vời... một hạnh phúc trọn vẹn... thì ta không nên ngoái cổ trông lui để tiếc nuối. Đó là điều hôm nay em đã nói với Nancy... Em không muốn Nancy phải bận tâm vì em. Em muốn nó được hạnh phúc khi vào đại học. Em nói rằng có một câu mà cả em và Nancy phải ghi nhớ: Hôm nay là ngày khởi đầu của tương lai.

Lendon còn nhớ là ngay lúc đó, có một bệnh nhân bước vào phòng mạch. Dạo đó, ông mừng thầm khi trông thấy sự xuất hiện đó bởi nếu không, ông đã ôm Priscilla vào lòng.

Nancy nói bằng một giọng ngập ngừng:

-... nhưng rồi mọi chuyện đều êm đẹp. Qua các lá thư, mẹ đã tỏ ra rất phấn khởi. Mẹ yêu thích công việc và đề cập nhiều đến bác sĩ Lendon Miles... Mẹ hài lòng...

Bác sĩ Lendon hỏi:

- Cô có thích môi trường đại học? Cô có nhiều bạn bè không?

- Vâng, lúc đầu thì có nhiều, chúng tôi chơi thân nhau và thường đi dạo phố.

- Ta hãy nói về chuyện học hành. Cô có thích các môn học?

- Có chứ. Tôi không gặp một khó khăn nào... ngoại trừ môn sinh học.

Nancy nói tiếp, nhưng giọng nàng đã thay đổi, không còn tươi vui: "Tôi đã khổ sở vì nó. Tôi vốn không ưa các môn khoa học tự nhiên... nhưng buộc phải học".

- Và cô đã gặp Carl Harmon.

- Vâng. Anh ấy... ngỏ ý kèm tôi môn sinh học. Anh ấy bảo tôi lên văn phòng và hướng dẫn tôi ôn tập. Anh bảo rằng tôi đi chơi quá nhiều và sẽ đổ bệnh nếu cứ tiếp tục cái đà đó. Anh rất lo lắng cho tôi... ngay đến chuyện uống thuốc bổ mà anh cũng quan tâm nhắc nhở tôi. Hẳn anh đã có lý... vì tôi cảm thấy mệt... rất mệt... và rồi tôi bắt đầu cảm thấy suy sút tinh thần... Tôi nhớ mẹ.

- Nhưng cô biết rằng cô sẽ về thăm mẹ vào dịp lễ Noel mà?

- Vâng... nhưng điều đó chẳng có nghĩa gì nữa... Bỗng chốc... mọi sự trở nên tồi tệ... Trong những lá thư gởi mẹ, tôi không nói ra điều này vì sợ mẹ lo... nhưng tôi biết là mẹ đã đoán được... Mẹ đã đến thăm tôi vào một dịp nghỉ cuối tuần... và mẹ đã chết... bị sát hại... vì mẹ đã đến thăm tôi... Đó là do lỗi của tôi... lỗi tại tôi.

Giọng nói Nancy cao vút, trở thành tiếng gào tuyệt vọng, rồi vỡ vụn trong tiếng nấc.

Ray bật dậy khỏi ghế, nhưng bị Jonathan giữ lại. Ánh đèn dầu run rẩy hắt lên khuôn mặt Nancy với những nét khổ đau.

Nàng gào lên:

- Mẹ! Mẹ ơi!... Con van mẹ đừng chết. Hãy sống với con! Con van mẹ... Hãy sống với con... con cần có mẹ... Mẹ ơi, mẹ đừng chết... Mẹ...

Dorothy quay mặt đi, cố giấu những giọt nước mắt. Một lúc sau, bà ngửng đầu lên, bắt gặp ánh mắt khó hiểu của Jonathan và biết rằng ông ta đã nhìn mình một lúc lâu.

Bác sĩ Lendon hỏi:

- Sau khi mẹ qua đời, Carl có giúp đỡ cô? Anh ấy có tử tế với cô?

Dorothy thắc mắc, chẳng hiểu tại sao bác sĩ Lendon lại khơi dậy những nỗi đau buồn đó? Ích gì khi buộc Nancy phải nhớ lại cái giai đoạn bi thảm đó chứ? Dorothy đứng dậy.

Nancy trầm tĩnh trả lời:

- Vâng, anh ấy rất tử tế. Anh đã lo cho tôi mọi chuyện.

- Và anh ta đã kết hôn với cô.

- Vâng. Anh bảo rằng anh sẽ lo cho tôi. Lúc đó, tôi cảm thấy quá mệt mỏi. Anh đối xử với tôi rất tốt.

- Nancy à, cô không nên nghĩ rằng cô có trách nhiệm trong tai nạn của mẹ cô. Cô không liên quan gì đến vụ đó.

Bỗng chốc, Nancy tỏ vẻ tư lự:

- Tai nạn ư? Đó không phải là tai nạn...

- Sao lại không phải? Đó là một tai nạn. - Lendon nói, tuy vẫn giữ giọng ôn tồn, nhưng ông cảm thấy cổ họng mình thắt lại.

- Tôi không biết... tôi không rõ...

- Được, chúng ta sẽ trở lại vấn đề này sau. Bây giờ hãy nói về Carl.

- Anh rất tử tế với tôi...

- Nancy à, cô cứ mãi lặp đi lặp lại cái điều đó. Cô hãy cho tôi biết anh ấy tử tế ra sao chứ?

- Anh lo lắng cho tôi, chăm sóc tôi. Tôi bị bệnh, anh đã lo cho tôi mọi chuyện...

- Lo như thế nào, Nancy?

- Tôi không muốn nói ra đây.

- Tại sao chứ?

- Tôi không muốn nói. Tôi không muốn...

- Được. Ta hãy nói về hai đứa bé, Peter và Lisa.

- Chúng rất tử tế... quá tử tế...

- Nào Nancy, đừng nói mãi cái chữ tử tế. Carl rất tử tế với cô, cả hai đứa bé cũng thế. Như vậy, hẳn cô rất hạnh phúc.

- Hạnh phúc ư? Tôi quá mệt mỏi...

- Tại sao?

- Carl bảo rằng tôi bệnh. Anh rất tử tế với tôi.

- Nancy à, cô hãy nói rõ ra. Carl tử tế như thế nào?

- Anh chăm sóc cho tôi lành bệnh. Ảnh muốn tôi khỏe mạnh. Anh bảo rằng tôi phải là một đứa bé gái ngoan hiền, tử tế.

- Nancy à, cô bị bệnh gì? Cô đau ở đâu?

- Tôi cảm thấy rất mệt... thường xuyên rất mệt mỏi... Carl đã giúp tôi...

- Giúp như thế nào?

- Tôi không muốn nói ra.

- Nhưng, cô phải nói ra, Nancy à. Carl đã làm gì?

- Tôi mệt... Giờ đây, tôi cảm thấy mệt...

- Thôi được. Cô hãy nghỉ ngơi trong ít phút, rồi chúng ta sẽ tiếp tục trò chuyện đôi chút. Cô hãy ngơi nghỉ đi... Hãy ngơi nghỉ.

Lendon đứng dậy. Thanh tra Jed nắm ngay lấy cánh tay ông và hất hàm về phía căn bếp.

Khi hai người vừa ra khỏi phòng khách, thanh tra Jed nói, khô khốc:

- Tất cả những điều đó không đưa chúng ta đến đâu cả. Chúng ta sẽ mất hàng giờ mà không đạt được kết quả gì. Nancy cảm thấy có lỗi trong tai nạn của mẹ vì bà đã gặp nạn khi đến thăm cô. Đó là chuyện quá đơn giản, ai ai cũng hiểu. Bây giờ, nếu bác sĩ tin rằng có thể phát hiện một điều gì đó về cái chết của hai đứa bé con nhà Harmon, thì bác sĩ cứ việc tiếp tục. Nếu không, tôi sẽ đưa Nancy về sở cảnh sát để thẩm vấn.

- Chúng ta không thể thúc ép Nancy. Cô ấy đã bắt đầu chịu nói ra. Có quá nhiều điều mà ngay cả vô thức của cô ta cũng không chịu nhìn thẳng vào sự thật.

Thanh tra Jed thốt lên:

- Phần tôi, sẽ không dám nhìn thẳng vào chính mình nếu giờ đây hai đứa bé vẫn còn sống mà tôi đã phí phạm thời gian quý báu.

- Được, tôi hiểu. Tôi sẽ hỏi Nancy về những gì đã xảy ra sáng nay. Nhưng trước tiên tôi mong ông hãy để cho tôi được hỏi cô ta về cái ngày hai đứa bé con nhà Harmon mất tích. Nếu có liên quan nào giữa hai vụ mất tích, thì có lẽ Nancy sẽ tiết lộ nó.

Thanh tra Jed nhìn đồng hồ:

- Gần bốn giờ chiều rồi! Khoảng nửa tiếng nữa thôi là trời sẽ tối hẳn. Không biết cái đài để đâu nhỉ? Tôi muốn nghe tin tức.

Đứng ở ngưỡng cửa, Bernie Mills, nhân viên cảnh sát trực điện thoại, nói ngay:

- Thưa sếp, có một cái đài ở trong bếp.

Trong bếp, Dorothy đang pha cà phê. Bernie bước đến, mở đài và giọng nói của Dan Phillips, bình luận viên của đài phát thanh Hyannis Port vang vang: "Cuộc điều tra về vụ mất tích của hai đứa bé con ông bà Eldredge đã bước sang một ngã rẽ mới. Otto Linden, nhân viên trạm xăng trên quốc lộ 28 thuộc Hyannis Polt vừa gọi điện báo cho chúng tôi rằng vào chín giờ sáng nay, anh đã đổ xăng cho xe của Rob Legler, nhân chứng đã biến mất trong vụ án Harmon cách đây bảy năm. Linden cho biết thêm, Legler có vẻ bồn chồn và y bỗng dưng nói rằng y đến Adam Port để gặp một người mà sự xuất hiện của y sẽ làm người đó rất phiền toái. Legler lái chiếc Dodge Dart đỏ, đời cũ".

Thanh tra Jed chửi thề nho nhỏ và nói thầm, "Vậy mà tôi mất thì giờ ngồi đây nghe chuyện linh tinh". Ông đến bên điện thoại, định nhấc ống nói thì chuông điện thoại reo. Jed nôn nóng nói ngay:

- Tôi đã biết tin. Tốt lắm. Tôi muốn dựng rào cản trên các cây cầu dẫn ra khỏi vùng này. Hãy gọi cho phòng lưu trữ F.B.I để biết thêm thông tin về Legier. Hãy báo cho mọi nơi biết về chiếc Dodge đỏ.

Jed vội vã gác máy và quay sang Lendon:

- Bây giờ, tôi muốn bác sĩ hỏi Nancy một câu đơn giản này: Sáng nay Rob Legler có đến gặp cô ta hay không... và hắn ta đã nói gì?

Lendon giật mình:

- Bộ ông cho rằng...

- Tôi tin rằng Rob Legler là người có thể đẩy Nancy ra tòa trở lại vì một trọng án. Vụ án Harmon vẫn chưa kết thúc. Vậy thì, hãy giả dụ rằng Legler đã trốn tại Canada trong gần sáu năm qua và hắn đang cần tiền. Qua vụ án Harmon, người ta biết rằng Nancy đã thừa hưởng của cha mẹ một số tiền khá bộn. Khoảng một trăm năm mươi ngàn đô-la. Giả thiết rằng Rob Legler biết về số tiền đó và đồng thời y cũng biết nơi Nancy đang sống. Rồi, hãy giả thiết rằng, Rob Legler vì chán sống ở Canada, nên đã lẻn về Hoa Kỳ và đang cần tiền. Và hắn đi tìm Nancy Eldredge, cho biết nếu hắn bị bắt giữ và người ta đem vụ án Harmon ra xử lại, thì hắn sẽ khai tiếp những gì mà hắn đã khai trước đây. Điều đó buộc Nancy chìa tiền cho hắn. Như vậy là Rob Legler đã đến đây và đã gặp Nancy. Nhưng sự việc đã không ổn thỏa. Có thể Nancy không nhượng bộ hắn... hoặc Legler đã thay đổi ý kiến. Nancy biết rằng sớm muộn gì hắn cũng bị tóm cổ hoặc ra đầu thú, và nàng có nguy cơ phải trở về San Francisco để lãnh án. Và nàng đã hoảng loạn...

- Vì thế sáng nay nàng đã giết hai đứa bé? - Lendon nói với vẻ xem thường - Ông Jed à, ông có nghĩ rằng qua hai vụ mất tích các cháu bé, Rob Legler đều có mặt gần hiện trường? Tôi mong được ông dành cho một cơ may. Hãy cho tôi đủ thời gian để hỏi Nancy về cái ngày mà hai đứa con của cô ta đã mất tích, cách đây bảy năm. Tôi muốn biết về những sự cố đã xảy ra trong ngày hôm đó.

Thanh tra Jed lạnh lùng đáp:

- Tôi chỉ dành cho ông ba mươi phút thôi, không hơn.

Dorothy rót cà phê vào những cái tách mà bà đã sắp sẵn trên khay. Rồi bà vội vã cắt vài lát bánh môka mà Nancy đã làm hôm qua.

Bà bưng khay cà phê lên phòng khách. Ngồi ở chiếc ghế bành mà Lendon đã kéo đến gần trường kỷ, Ray đang xoa bóp đôi tay của Nancy. Trông nàng có vẻ trầm tĩnh, với nhịp thở đều, nhưng rồi nàng cựa quậy và rên rỉ khi có người bước đến gần.

Đứng bên lò sưởi, Jonathan chăm chú nhìn các thanh củi đang cháy. Ông đang ngậm tẩu và cái mùi thuốc lá quen thuộc và dễ chịu đó tỏa khắp phòng. Dorothy hít lấy cái mùi đó trong khi đặt khay cà phê xuống cái bàn tròn bằng gỗ thông gần lò sưởi. Cái mùi thuốc lá gợi nhớ những kỷ niệm. Kenneth, chồng Dorothy, trước đây cũng hút ống tẩu và chọn loại thuốc như Jonathan. Dorothy và Kenneth vốn thích những buổi chiều mùa đông âm u như hôm nay. Vào những chiều ngày ấy, họ nhóm lò sưởi và ngồi bên nhau, với một chai rượu, phô-mát và sách. Hạnh phúc. Đột nhiên Dorothy thấy hối tiếc. Hối tiếc vì đã không làm chủ được số phận mình.

Bà hỏi Jonathan:

- Ông dùng cà phê và một lát bánh nhé.

Jonathan nhìn Dorothy, vẻ nghĩ ngợi:

- Vâng, cám ơn.

Vốn biết ông có thói quen uống ít đường, bà bỏ một thỏi đường vào và trao cho ông tách cà phê.

Bác sĩ Lendon và thanh tra Jed bước đến, lặng lẽ cầm lấy tách cà phê.

Dorothy rót thêm cà phê vào một tách và mang đến bên trường kỷ:

- Uống chút cà phê đi anh Ray.

Ray ngước mắt:

- Cám ơn chị.

Rồi cầm lấy tách cà phê, chàng nói nhỏ với Nancy: "Mọi chuyện sẽ ổn thôi, cô bé".

Nancy giạt nẩy người. Nàng đột ngột mở mắt và đưa tay lên, chạm phải cái tách trên tay Ray, làm nó rơi xuống, vỡ tan. Cà phê nóng tung tóe trên chiếc áo ngủ của Nancy, trên cái chăn bông, trên Nancy và Ray. Cả hai cùng giật mình trong khi Nancy gào lên như một con thú tuyệt vọng: "Tôi không phải là bé gái của anh! Đừng gọi tôi là cô bé!"

giavui
05-26-2020, 03:20 PM
Chương 17
Rời mắt khỏi tấm thân bé bỏng bất động, Courtney Parrish lớn tiếng thở dài. Y đã gỡ lớp băng keo dán miệng và tháo dây trói cho Missy, rồi vứt bừa rất cả những thứ đó trên giường. Mái tóc óng mượt của con bé giờ rối bù. Y đã tự nhủ sẽ chải tóc cho con bé khi tắm cho nó, nhưng giờ đây thì hỏng cả. Con bé vẫn bất động và y mong nó tỉnh lại.

Co quắp trên sàn tủ hốc tường, thằng bé Michael cũng không cựa quậy. Đôi mắt xanh của nó mở lớn khiếp đảm khi Parrish bế nó lên và ôm vào lòng.

Y đặt thằng bé lên giường, cởi trói tay chân và giựt mạnh lớp băng keo dán miệng. Michael rú lên một tiếng đau đớn rồi im bặt. Thằng bé xem chừng chẳng bị khuất phục, nó đang trong tư thế phòng thủ, tựa một con thú bị mắc bẫy.

Nó nói:

- Ông đã làm gì em gái tôi?

Cái giọng gây hấn của nó cho Parrish biết rằng nó không uống hết ly sữa có chứa thuốc ngủ mà y đã trao cho nó trước khi hai người khách chết tiệt đó đến xem nhà.

- Nó đang ngủ.

- Ông hãy cho chúng tôi về nhà/ Chúng tôi muốn về nhà. Chúng tôi không ưa ông. Tôi đã nói với ba tôi là tôi không ưa ông. Lúc nãy, dì Dorothy đã đến đây và ông đã giấu anh em tôi.

Parrish đưa bàn tay phải lên và giáng cho thằng bé một bộp tai Michael ngã người ra sau vì đau đớn rồi né sang một bên, thoát khỏi bàn tay của gã đàn ông đang chụp xuống. Cố bắt lấy thằng bé, Parrish mất thăng bằng ngã nhào lên giường. Đôi môi y ập xuống trên mái tóc vàng rối tung của Missy. Trong thoáng chốc, y đã hoảng hốt. Cố lấy lại bình tĩnh, y nhổm dậy, quay lại và thu người chực nhảy bổ về phía Michael. Nhưng lúc này thằng bé đã lùi về phía cửa phòng ngủ. Nó nhanh nhẹn mở cửa và chạy ngay sang phòng khách của căn hộ.

Parrish lao theo, bỗng chốc nhớ rằng lúc nãy mình đã không khóa cửa căn hộ vì sợ rằng Dorothy nghe tiếng ổ khóa sanh nghi.

Michael mở tiếp cửa phòng khách và lao xuống cầu thang. Tiếng chân thằng bé vang vang trên những bậc thang trần trụi. Nó chạy thật nhanh và lúc này chỉ còn là bóng nhỏ bé đang lao vào vùng tối an toàn của lầu hai. Parrish đuổi theo nhưng vì quá vội nên y ngã nhào. Y trượt dài xuống sáu bực thang trước khi kịp chụp lấy cái lan can bằng gỗ. Y lắc đầu để trấn tĩnh, rồi từ từ nhổm dậy, cảm thấy đau buốt ở mắt cá chân phải. Y thấy cần phải kiểm tra xem cửa nhà bếp đã khóa kỹ chưa.

Tiếng chân đã im bặt. Y biết thằng bé đang trốn trong một căn phòng ở lầu hai, nhưng y không lo ngại; y có thừa thời gian để tìm nó. Trước tiên là phải khóa cửa nhà bếp. Các cửa sổ thì không lo bởi tất cả đã được khóa kỹ hơn nữa, sức thằng bé không thể đẩy nổi những cánh cửa quá nặng đó, ổ khóa an toàn của cửa chính của ngôi nhà thì thằng bé không thể với tới, vì quá cao. Như vậy, y chỉ cần khóa chặt cửa nhà bếp rồi đi tìm thằng bé - từng phòng một. Y quyết định sẽ lớn tiếng gọi nó, đe dọa nó. Hẳn Michael sẽ chết giấc vì sợ. Lúc nãy, y đã trừng mắt và làm nó sợ điếng người. Sao thằng bé giống Nancy đến thế! Ồ! Y thấy mọi việc diễn ra hấp dẫn hơn dự liệu. Nhưng y phải gấp rút mới được, không thể để thằng bé thoát ra khỏi nhà.

Y lớn tiếng gọi:

- Michael, mày có đến đây không? Tao sẽ tìm thấy mày. Mày là một đứa bé xấu xa. Mày đáng bị trừng trị. Mày có nghe tao nói không, Michael?

Parrish tưởng chừng nghe có tiếng động trong căn phòng phía tay phải và y chạy ào vào trong đó, cố chịu đựng cơn đau ở mắt cá chân. Căn phòng trống trơn. Y lo sợ, không hiểu thằng bé có chạy vào hành lang để xuống nhà bằng cầu thang chính?

Đột nhiên hoảng loạn, y nặng nhọc bước xuống tầng trệt, ở bên ngoài là tiếng ì ầm của những con sóng đập vào các mỏm đá. Parrish ầm ầm chạy vào nhà bếp, ào đến cửa. Đây là cửa mà y vẫn dùng để ra vào nhà. Cửa không những có một khóa hai nấc mà còn được trang bị một then cài với ổ khóa. Y thở hổn hển, gần đứt hơi. Rằng những ngón tay to lớn, run rẩy, y đẩy then cài, khóa cửa rồi kéo cái ghế bằng gỗ nặng nề của nhà bếp, chèn dưới nắm cửa. Thằng bé hẳn không đủ sức xê địch cái ghế. Như vậy, nó chẳng còn cách nào để ra khỏi nhà.

Những tia nắng cuối của một ngày nhanh chóng bị cơn bão xua đi. Parrish thắp ngọn đèn trần nhưng chỉ một lúc sau, ánh đèn yếu dần rồi tắt ngúm. Hẳn gió bão đã làm hỏng đường dây điện. Giờ đây, việc tìm kiếm thằng bé trở nên khó khăn hơn. Những căn phòng ở cả hai tầng lầu đều bề bộn bàn ghế và đồ đạc. Ngoài ra còn có những tủ hốc tường rất sâu và những tủ đứng, mà thằng bé có thể trốn trong đó. Cắn chặt môi, Parrish cầm lấy cây đèn bão trên bàn, bật diêm quẹt và thắp sáng. Qua lớp kính màu, ngọn đèn hắt ra một thứ ánh sáng màu đỏ ối trên thành lò sưởi trên sàn nhà bằng gỗ sáng và trên trần với những xà ngang bề thế. Gió rít bên ngoài cửa sổ khi Parrish lớn tiếng gọi: "Michael à... không sao đâu. Bác không giận cháu đâu. Hãy ra đi Michael. Rồi bác sẽ dẫn cháu về với mẹ".


Chương 18
Kể từ ngày trốn sang Canada, sau khi xé thẻ quân nhân và lệnh điều động sang Việt Nam. Như vậy là đã sáu năm trời Rob Legler chờ dịp tống tiền Nancy Harmon. Trong những năm đó, hắn đi làm mướn cho các nông trại gần Halifax. Đó là cái nghề duy nhất mà hắn kiếm được, và hắn đã quá chán ngán.

Sở dĩ phải làm việc trong các nông trại ở Canada là vì hắn không còn một chọn lựa nào khác. Hắn đã rời San Francisco với một ít tiền và nếu quay trở lại, hắn sẽ bị đi tù ngay. Chẳng những đi tù vì tội đào ngũ mà còn bị truy tố vì vụ Harmon. Vì vậy, hắn cần tiền để sang định cư tại một nơi nào đó an toàn hơn, như Argentina chẳng hạn.

Rob Legler không muốn bị lôi ra tòa một lần nữa vì cái vụ án Harmon. Hắn còn nhớ, lần cuối ngài biện lý đã tuyên bố rằng cần phải nhìn thấy trong vụ trọng án này những nguyên nhân nào đó khác hơn sự ao ước đơn thuần của Nancy thoát khỏi hoàn cảnh gia đình. Và ông nói thêm: "Có thể là Nancy đã đắm đuối si mê. Cô là một phụ nữ trẻ đẹp, lấy chồng sớm vào năm mười tám tuổi. Tuy người chồng khá lớn tuổi nhưng cô ta có một cuộc sống đáng để cho nhiều người đàn bà khác thèm muốn. Sự thương yêu lo lắng của giáo sư Harmon dành cho vợ con là một điển hình dưới mắt mọi người. Nhưng Nany Harmon có hài lòng với điều đó? Không. Khi một sinh viên được chồng Nancy nhờ đến nhà sửa chữa một cái máy bị hỏng, thì cô ta đã làm gì? Cô ta đã lẽo đẽo theo chàng sinh viên, mời mọc uống một ly cà phê, cho biết rằng thích được nói chuyện với những người trẻ... kể rằng cô muốn rời bỏ gia đình... đắm đuối chấp thuận những đề nghị của gã sinh viên... Và sau đó, khi nghe gã ta nói rằng, 'không thích nuôi nấng đám trẻ', Nancy đã lạnh lùng cho biết các con của cô ta sẽ bị chết ngạt".

"Thưa quý vị, trước những điều vừa kể, tôi cảm thấy rất khinh tởm Rob Legler. Tôi tin rằng người phụ nữ trẻ đẹp nhưng thiếu đầu óc này là một món đồ chơi trong tay Rob Legler. Tôi không tin rằng sự vụng trộm của hai người này chỉ đơn giản kết thúc bằng vài nụ hôn..."

Mặc xác! Rob Legler cảm thấy có một cơn sợ hãi đang thắt chặt ruột gan hắn. Tên biện lý chết tiệt dứt khoát tìm cách để buộc y vào tội đồng lõa trong vụ sát hại hai đứa bé gia đình Harmon, sở dĩ hắn đã dính dáng đến cái chuyện không may này là vì hôm đó hắn có mặt trong văn phòng lão Harmon khi vợ lão gọi điện cho biết hệ thống sưởi bị hỏng. Thông thường Rob ít chịu giúp đỡ ai. Nhưng vì y chuyên trị mọi thứ máy móc hỏng hóc và hơn nữa đã biết tiếng về nhan sắc của vợ lão Harmon.

Chính vì lẽ đó mà Rob đã ngỏ ý đến nhà để sửa cái máy. Lúc đầu, Harmon khước từ đề nghị của hắn, nhưng rồi vì không liên hệ được với người thợ chuyên bảo trì nhà cửa của ông, nên ông đành nhờ Rob. Ông không muốn để vợ con phải sống tạm vài hôm ở một motel, điều mà Nancy đã gợi ý.

Rob đã đến nhà Harmon trong trường hợp như thế. Tất cả những gì mà bạn bè hắn nói về Nancy đều đúng cả... nàng quá đẹp. Nhưng có lẽ nàng không nhận thức về điều đó. Nàng có vẻ nhút nhát... thiếu tự tin.

Rob đến nhà Harmon vào buổi trưa, trong khi Nancy đang bận cho các con ăn... một trai, một gái. Cả hai đứa đều ngoan hiền. Nancy không mấy quan tâm đến Rob, chỉ ngắn gọn cám ơn sự giúp đỡ của hắn rồi trở lại bên hai đứa con.

Lúc đó, Rob tự nhủ rằng cách thức duy nhất để làm cho Nancy để ý đến hắn, đó là hắn phải tỏ ra quan tâm đến hai đứa bé. Và thế là hắn thực hành ngay.

Chỉ cần hai phút trò chuyện là hắn đã làm các đứa bé và Nancy cười ồ. Rồi hắn đề nghị đứa bé trai theo xem hắn sửa chữa cái nồi hơi. Đúng như tiên liệu, đứa bé gái cũng đòi theo. Và Nancy đã theo hai con để giữ không cho chung quấy rầy Rob. Nồi hơi không hư hỏng gì, đơn giản chỉ nghẽn lưới lọc dầu, nhưng Rob cho biết bị hỏng một bộ phận và hắn có thể cho máy chạy tạm rồi sẽ trở lại để sửa chữa nốt.

Trong ngày đầu, hắn không nấn ná ở nhà Harmon, sợ lão già sanh nghi. Hắn vội vã trở về văn phòng của giáo sư Harmon. Lúc đó, Harmon tỏ vẻ bực tức và cáu kỉnh khi mở cửa, nhưng rồi trông thấy Rob, ông ta mỉm cười thoải mái và nói ngay:

- Nhanh thế ư? Cứ như là ảo thuật vậy! Hay là anh không sửa nổi cái máy?

Rob đã nói:

- Thưa giáo sư, tôi đã cho nó chạy được rồi, nhưng cần phải thay một bộ phận. Nếu ông đồng ý thì tôi sẽ thay cho ông. Đó chỉ là một bộ phận nhỏ. Nếu ông gọi một cơ sở chuyên môn đến thì hẳn phải tốn kém. Tôi có thể mua cái bộ phận đó với giá hai đô-la và thay cho ông nếu ông đồng ý.

Harmon dĩ nhiên rơi ngay vào cái bẫy, hài lòng vì đã tiết kiệm được một số tiền. Và Rob đã trở lại nhà ông trong hai ngày sau đó. Harmon có dặn Rob rằng hắn không được làm rộn vợ ông vì tinh thần bà ta không được yên ổn và bà cần nghỉ ngơi. Nhưng Rob thấy tình trạng Nancy không đến nỗi như Harmon mô tả. Và hắn đã bắt chuyện được với Nancy. Nàng đã bị suy sút tinh thần sau khi mẹ mất. Nàng tâm sự: "Lúc đó, tinh thần tôi cực kỳ suy sụp, nhưng bây giờ thì đỡ rồi. Tôi đã cắt giảm hầu hết những thứ thuốc trị bệnh. Chồng tôi không biết chuyện này. Nếu biết chắc ông không hài lòng. Nhưng tôi cảm thấy khỏe hơn mỗi khi không uống thuốc".

Để thăm dò xem Nancy có dễ bị quyến rũ, Rob bảo rằng hắn thấy nàng rất xinh đẹp. Qua câu chuyện, hắn hiểu rằng Nancy cảm thấy buồn bã khi phải sống với lão Harmon vì thế, hắn ngỏ ý mời nàng đi chơi.

Nàng đã nói:

- Chồng tôi không thích lối sống thời thượng, se sua. Ông không thích đi chơi hoặc tiếp xúc với bạn bè sau một ngày làm việc - nhất là sau khi phải dành ra bao nhiêu thời gian với các sinh viên của ông.

Chính vào lúc đó, Rob Legler đã quyết định ôm hôn nàng.

Rob đã có chứng cứ vắng mặt vững chắc vào buổi sáng khi hai đứa bé con nhà Harmon mất tích. Sáng đó, hắn đã ngồi trong giảng đường với sáu sinh viên. Nhưng ông biện lý đã dọa rằng chỉ cần tìm được một chứng cứ cho thấy hắn có dính dáng đến cái chết của hai đứa bé, thì ông sẽ tống giam hắn ngay. Rob đã nhờ đến một luật sư tư vấn vì sợ rằng ông biện lý sẽ sưu tra lý lịch hắn và phát hiện trước đây hắn đã bị tai tiếng trong một vụ ngoại tình ở Cooperstown. Luật sư tư vấn khuyên Rob nên làm ra vẻ là một sinh viên kính trọng thầy, đã tìm cách sửa chữa hệ thống sưởi cho nhà thầy, tôn trọng vợ của thầy mặc dầu bà này tìm cách ve vãn hắn. Luật sư tư vấn cũng khuyên hắn nên cho tòa biết hắn không mấy quan tâm khi nghe Nancy bảo rằng hai đứa bé sẽ bị chết ngộp, vì hắn biết nàng là người có tâm thần bất ổn và bệnh hoạn, như giáo sư Harmon đã bảo.

Nhưng khi ra trước tòa thì sự việc đã diễn ra khác hẳn.

Khi nghe ngài biện lý dịu dàng hỏi, "Anh có bị quyến rũ bởi người đàn bà trẻ đẹp này?" Rob đã nhìn về phía Nancy, đang ngồi trên hàng ghế bị cáo, với luật sư bào chữa ở cạnh.

Và Rob đã nói:

- Thưa ngài biện lý, tôi không hề có cái ý tưởng đó. Đối với tôi, bà Harmon là vợ của một giáo sư mà tôi rất kính trọng. Hôm đó, tôi chỉ muốn sửa cho xong cái nồi hơi rồi quay về nhà. Tôi cần phải hoàn tất một luận văn. Hơn nữa, một người đàn bà bệnh hoạn có hai con dại không phải là loại mà tôi chuộng.

Chính câu nói vô tình sau cùng này đã làm ngài biện lý nhảy nhổm. Ông nắm lấy câu nói ấy và liên tục tra hỏi Rob khiến hắn toát mồ hôi hột.

Hắn thú nhận đã nghe đồn giáo sư Harmon có một cô vợ rất đẹp... rằng hắn ít khi đề nghị giúp đỡ ai... và hắn muốn đến nhà Harmon để xem vợ ông ta đẹp như thế nào... Đúng, hắn đã tán tỉnh bà ta.

Trước tòa, Rob đã lớn tiếng biện minh:

- Nhưng, không có gì là quá đáng! Tôi đâu dại chuốc lấy rắc rối khi mà trường đại học có đến hai trăm nữ sinh viên chứ?

Rồi hắn thú nhận đã nói với Nancy rằng hắn say mê nàng và muốn chinh phục nàng.

Ngài biện lý khinh bỉ lên án hắn rồi sau đó mở tập hồ sơ và đọc phần trích dẫn về vụ Rob đã bị một người chồng ghen tuông nện cho một trận vì ve vãn vợ ông ta tại Cooperstown.

Rồi ngài biện lý tuyên bố: "Là một kẻ chỉ thích lơn gái nên tên Rob Legler này không không hề có ý định giúp đỡ Harmon. Mục đích của hắn là vào được nhà vị giáo sư để tán tỉnh vợ ông ta. Và sự đáp ứng của bà Nancy Harmon đã vượt hẳn những ước vọng cuồng điên nhất của hắn. Thưa quý vị, về mặt pháp lý, tôi không nói rằng Rob Legler đã nhúng tay vào việc sát hại hai đứa bé gia đình Harmon. Nhưng về mặt tinh thần, trước Thượng đế, tôi nghĩ rằng Rob Legler là kẻ có tội. Hắn đã phỉnh gạt Nancy, làm cho cô tin rằng hắn yêu cô say đắm và sẽ lo lắng cho cô nếu cô được tự do. Và cô ta đã tìm cái tự do đó bằng một con đường trái ngược với lương tri của con người. Để được tự do, cô đã giết chết hai đứa con của cô".

Sau khi tòa tuyên án tử hình đối với Nancy, giáo sư Harmon đã tự vẫn. Ông ta lái xe ra nơi bãi biển mà trước đây người ta đã tìm thấy xác hai đứa bé, rồi bỏ xe đó và lao ra biển. Trên một mảnh giấy dán trên vô lăng xe, ông cho biết theo lẽ ông phải hiểu rằng vợ ông là người thực sự bệnh hoạn, và ông không nên giao các con cho nàng. Ông có trách nhiệm trong cái chết của hai con và trong hành vi điên rồ của vợ. Ông viết, "Tôi ngỡ mình có đủ quyền năng như nàng. Tôi tưởng việc có con sẽ giúp nàng quên đi nỗi ưu phiền do cái chết của mẹ nàng gây ra. Tôi cho rằng sự chăm sóc và chìu chuộng sẽ giúp nàng lành mạnh, nhưng tôi đã lầm. Mọi việc đã vượt khỏi tầm tay tôi. Hãy tha thứ cho anh, Nancy".

Chẳng ai tán đồng khi tòa hủy án tử hình cho Nancy. Một số người đòi đưa vụ án ra xét lại nhưng trong thời gian này, Rob Legler bị gọi nhập ngũ và sau đó đã đào ngũ khi được gởi sang chiến đấu tại Việt Nam. Thiếu Rob Legler, tòa thiếu hẳn một nhân chứng cần thiết để buộc tội Nancy. Vì thế, Nancy được trả tự do. Nhưng ngài biện lý đã thề sẽ đưa vụ án ra xét xử lại ngay khi ông tóm được Rob Legler.

Trong những năm sống tại Canada, Rob vẫn thường nghĩ đến vụ án Harmon. Có một điều gì đó trong vụ này làm hắn cứ mãi thắc mắc. Hắn tin chắc Nancy không phải là kẻ sát nhân. Nàng chỉ là một mục tiêu dễ dàng để các quan tòa kết án. Carl Harmon đã không tìm cách cứu nàng trong khi ông ta mô tả nàng như một người mẹ đáng ngưỡng phục.

Ở Canada, khi nghe Rob kể về vụ án Harmon, hắn đã trở thành một thứ thần tượng đối với những loại đàn ông đểu cáng như hắn. Khi bọn họ hỏi về Nancy, hắn nói rằng nàng đã bị lừa phỉnh. Rồi hắn cho xem các bức ảnh của Nancy và những bài báo viết về vụ án Harmon.

Hắn đã kể cho bọn họ rằng Nancy có bộn tiền - theo những nguồn tin xuất phát từ vụ án thì nàng được thừa hưởng của cha mẹ một trăm năm mươi ngàn đô-la - và nếu tìm gặp được nàng thì hắn sẽ buộc nàng cho hắn ít tiền để chuồn sang Argentina.

Thế rồi, vận may đã mỉm cười với Rob. Jim Ellis, một bạn thân của Rob, tìm cách lẻn về nhà Rob để thăm mẹ Rob, đang bị ung thư ở giai đoạn cuối. Mẹ Rob sống tại Boston, nhưng vì FBI đang theo dõi ngôi nhà, nên bà đã hẹn gặp Jim trong một nhà trọ ở bờ hồ Maushop. Trở về Canada, Jim báo cho Rob một tin vui: y biết rõ Nancy Harmon hiện sống ở đâu.

Rob chỉ thực sự tin sau khi xem bức ảnh Nancy mà Jim đã lén chụp trên bãi biển. Đồng thời Jim cho hắn biết là vợ chồng Nancy hiện đang có một cuộc sống khá sung túc. Chính vì thế Rob quyết định đến gặp Nancy để cho nàng biết hắn sẽ trốn sang Argentina và nàng sẽ không còn nhân chứng trong vụ án Harmon, nếu nàng cho hắn năm mươi ngàn đô. Hắn tin là nàng sẽ đồng ý, bởi giờ đây nàng đang sống hạnh phúc bên chồng con, và cái giá để trả cho hạnh phúc đó không cao lắm đâu.

Jim đòi Rob hai mươi phần trăm tiền hoa hồng và trong khi Rob đi gặp Nancy, Jim sẽ lo liệu cho hắn những thứ cần thiết như passport giấy thông hành, cùng mọi thủ tục cần thiết để vào Argentina, cả hai đều nhất trí tiến hành công việc.

Rob mượn được chiếc xe của một sinh viên Mỹ sang Canada du học, rồi hắn hớt tóc, cạo râu và lên đường. Hắn quyết định chạy tốc hành từ Halifax đến Cape, không nấn ná lâu tại Hoa Kỳ để tránh nguy cơ bị tóm cổ. Hắn dự tính sẽ đến Cape vào sáng sớm. Jim có cho biết chồng Nancy đến văn phòng vào chín giờ rưỡi. Như vậy, Rob sẽ đến nhà Nancy lúc mười giờ. Ngoài ra, Jim cũng đã vẽ sẵn một bản đồ, chỉ rõ nơi ở của Nancy, với cả con đường chính và con đường tắt ngang rừng để vào ngõ sau. Rob có thể giấu xe ở nơi đây.

Khi đến Cape, xe Rob gần cạn xăng. Chính vì vậy mà hắn phải ghé lại Hyannis để đỗ. Như Jim đã cho biết thì thành phố này đầy khách du lịch, ngay cả trong mùa lạnh: vì thế Rob không sợ bị dòm ngó. Nhân viên trạm xăng tỏ ra rất lịch sự và chu đáo. Sau khi đổ đầy xăng, ông ta đã kiểm tra bánh xe, dầu nhót và lau chùi kính. Chính vì thế mà Rob đã thiếu cẩn trọng. Khi Rob trả tiền, người nhân viên hỏi hắn phải chăng đến vùng này để đi câu. Rob ấp úng bảo rằng đi săn thì đúng hơn. Rồi hắn cho biết hắn đến Adam Port để tìm một cô bạn gái mà sự xuất hiện của hắn sẽ làm cô không vui. Sau đó, hắn lao xe đi, ân hận vì đã lắm mồm.

Rob đến Adam Port lúc mười giờ kém mười lăm. Chạy chậm theo con đường mà Jim đã vẽ, Rob nhanh chóng xác định được vị trí. Tuy vậy, suýt nữa là hắn không tìm thấy con đường đất tắt ngang rừng dẫn vào sau nhà Nancy. Hắn nhận ra con đường này khi phải chậm xe lại để nhường một chiếc Ford đời cũ đang từ đó chạy ra. Rồi hắn đề lui, rẽ vào con đường đất, đậu xe và đi về phía cửa sau của nhà Nancy. Chính lúc đó hắn trông thấy Nancy chạy ào ra như người mất trí, gào lớn những cái tên Peter, Lisa, tên những đứa con đã chết của nàng. Rob men theo Nancy qua cánh rừng, đến bên hồ và trông thấy nàng nhảy bổ xuống nước. Khi hắn định chạy đến thì nàng đã lê thân ra khỏi hồ và ngã gục trên bãi cát trắng. Hắn thấy Nancy nhìn về phía hắn. Hắn không chắc là nàng có thấy hắn hay không, nhưng hắn biết rằng hắn phải chuồn ngay. Hắn chẳng biết chuyện gì xảy ra, nhưng hắn không muốn bị dính líu vào.

Khi vào xe, hắn đã lấy lại bình tĩnh. Hắn nghĩ, có lẽ Nancy đổ đốn, uống rượu say khướt để quên đi cái chết của hai đứa con? Nếu nàng vẫn bị ám ảnh bởi vụ án đó thì hắn còn hy vọng moi được tiền nàng. Hắn quyết định thuê phòng tại một motel ở Adam Port để sáng mai tìm cách gặp Nancy.

Ngay sau khi vào phòng, Rob đã ngủ vùi vì mệt. Hắn thức dậy vào buổi chiều và mở truyền hình để xem tin tức. Hình ảnh trở nên rõ nét vào lúc bức ảnh của Rob xuất hiện trên màn hình, đồng thời với giọng nói cho biết Rob là nhân chứng đã biến mất trong vụ án Harmon. Khiếp đảm, Rob lắng nghe bản tin nói về những sự việc có liên quan đến vụ mất tích hai đứa bé con gia đình Eldredge. Lần đầu tiên trong đời, Rob Legler thấy mình bị mắc bẫy. Với mái tóc hớt cao và mày râu nhẵn nhụi, hắn giống đúc như bức ảnh được đài truyền hình công bố.

Hắn biết rằng nếu Nancy quả thực đã giết hai đứa con sau này của nàng, thì mọi người sẽ tin rằng hắn có can dự đến vụ này. Chuyện này có lẽ vừa xảy ra sáng nay, ngay trước khi hắn đến Cape. Hán nhớ đến chiếc Ford đời cũ chạy ra khỏi con đường đất khi xe hắn vừa đến. Chiếc Ford mang biển số Massachusetts: 8-6..., cầm lái bởi một người đàn ông to con!

Nhưng Rob hiểu rằng nếu bị bắt giữ thì hắn chẳng biết phải nói sao. Hắn không thể thú nhận rằng sáng nay hắn đã đến nhà Nancy. Liệu người ta có tin khi hắn khai ra sự thật? Trực giác thôi thúc hắn phải rời khỏi Cape Cod càng sớm càng tốt, và phải bỏ ngay chiếc Dodge màu đỏ tươi mà hắn đang đi vì chiếc xe này đang bị truy lùng.

Hắn cho ngay mọi thứ đồ dùng vào túi hành lý và chuồn ra bằng ngỏ sau. Đậu cạnh chiếc Dodge đỏ của hắn là chiếc Volkswagen. Lúc nãy, từ cửa sổ phòng, hắn trông thấy một cặp tình nhân bước ra xe và vào motel. Theo hắn đoán thì họ sẽ ở trong đó ít nữa là hai tiếng đồng hồ, bởi dại gì mà đi trong mưa gió như thế này?

Rob mở capô chiếc Volkswagen, nối hai dây điện rồi ngồi vào xe và rời khỏi bãi đậu. Hắn rẽ vào quốc lộ 6A, hướng ra cầu. Hắn biết, chỉ cần chút cơ may, trong nửa tiếng nữa, hắn sẽ rời khỏi Cape.

Sáu phút sau đó, hắn vượt một ngã tư đèn đỏ. Ba mươi giây sau, hắn liếc nhìn kính chiếu hậu và thấy ánh đèn hiệu màu đỏ nhấp nháy của xe cảnh sát. Hắn biết đang bị xe cảnh sát đuổi theo. Trong thoáng chốc, hắn nghĩ đến chuyện đầu thú, nhưng rồi khát vọng chạy trốn mãnh liệt thôi thúc hắn. Đến một ngã rẽ, hắn mở cửa xe, dùng chiếc va-li chèn chân ga và nhảy ra. Hắn lủi nhanh vào rừng, mất hút sau những ngôi nhà đồ sộ xây theo kiểu thuộc địa, khi xe cảnh sát hú còi và lao theo chiếc Volkwagen đang ngoằn ngoèo trên đường.

giavui
05-26-2020, 03:20 PM
Chương 19
Khi chạy xuống cầu thang, Michael chắc rằng nó sẽ bị ông Parrish tóm cổ. Nhưng rồi nó nghe có tiếng rổn rản thật lớn cho thấy ông Parrish đã bị trượt ngã và nó biết nếu muốn thoát thân, nó không được gây tiếng động. Ở nhà, nó đã nhiều lần trượt trốn lan can cầu thang và thành thạo đến nỗi nó có thể xuống tầng dưới mà không một tiếng động. Giờ đây, nó cũng áp dụng cách thức này để xuống đến tầng trệt. Nó nghe tiếng Parrish gọi nó, cho hay ông sẽ tìm thấy nó.

Nó biết rằng nó phải ra khỏi ngôi nhà này. Nó phải chạy dọc theo con đường ngoằn ngoèo dẫn đến siêu thị Wiggins. Nó lưỡng lự không hiểu nó sẽ vào siêu thị hay chạy thẳng, vượt qua quốc lộ 6A, để về nhà. Nó phải tìm ba để đưa ông đến đây cứu Missy.

Hôm qua, tại siêu thị Wiggins, nó đã nói với ba rằng nó không ưa ông Parrish. Giờ thì nó sợ ông ta. Nó thấy nỗi khiếp đảm đang thắt chặt cổ họng nó trong khi nó phải ở trong ngôi nhà âm u này. Parrish là một người ác độc; ông ta đã trói anh em nó và giấu trong cái tủ hốc tường, chính vì thế mà Missy đã quá khiếp đảm và không thể thức dậy nữa. Khi ở trong tủ, Michael đã muốn đưa tay sờ em gái nó, nhưng nó không thể tự cởi trói. Nó biết Missy quá sợ. Từ trong tủ, nó nghe giọng nói của bà Dorothy, nhưng bà không hề hỏi han về anh em nó. Bà ở gần đó, nhưng không đoán được rằng anh em nó đang cần đến bà. Theo lẽ bà phải biết điều đó chứ!

Trời càng lúc càng tối. Hầu như chẳng còn có thể trông thấy gì. Xuống đến chân cầu thang, Michael nhìn quanh, ngập ngừng rồi lao nhanh về phía nhà sau. Nó vào trong căn bếp và thấy phía trước nó, cánh cửa ra ngoài. Nó chạy đến, đưa tay... khi chực cấm lấy nắm cửa, nó nghe có tiếng bước chân ở đàng sau. Đúng là ông Parrish. Nó thấy cẳng chân nó run lên bần bật. Nó biết nếu cánh cửa đã khóa thì sớm muộn gì ông Parrish cũng tóm được nó. Cố không gây tiếng động, nó nhanh nhẹn chạy vào một cửa khác của căn bếp, vào hành lang rồi lẻn vào một phòng khách nhỏ ở cuối nhà. Nó nghe thấy tiếng ông Parrish khóa cửa căn bếp, rồi tiếng kéo ghế. Đèn được thắp sáng trong bếp. Lúc này, Michael núp sau một cái trường kỷ và bức tường rồi núp ở đó. Cái trường kỷ bụi bám làm nó mấy ngứa mũi và muốn hắt hơi. Đèn đột ngột tắt ngúm trong bếp và hành lang. Ngôi nhà chìm trong bóng tối. Michael nghe có tiếng bước chân của ông Parrish rồi tiếng quẹt diêm.

Một lúc sau, từ căn bếp hắt ra một thứ ánh sáng đỏ ối và tiếng ông Parrish gọi: "Michael à, mọi việc ổn cả. Bác không giận cháu đâu. Hãy ra đi, Michael. Rồi bác sẽ đưa cháu về với mẹ".


Chương 20
Sau khi từ giã Dorothy, John Kragopoulos dự tính sẽ đi thẳng về New Yolk, nhưng rồi ông cảm thấy mệt và vì chứng đau nửa đầu đang hành hạ ông, nên ông thấy không thể cầm lái suốt năm tiếng đồng hồ liền. Ông nghĩ có lẽ do cái thời tiết tệ hại này cùng sự tuyệt vọng của Dorothy đã khiến ông có một tâm trạng buồn bã. Bà Dorothy đã cho ông xem bức ảnh mà bà giữ trong xắc tay, và hình dung đến hai đứa bé dễ thương đó đang ở trong tay một kẻ điên rồ khiến lòng ông cảm thấy không yên. Ông thầm nghĩ, phải chăng sự hình dung đó chỉ là chuyện vô lý? Hay hai đứa bé chỉ đơn giản đi lạc thế thôi?

Ông sử dụng quốc lộ 6A để hướng về đất liền, bỏ lại vùng biển phía sau. Trước mặt ông, phía tay phải là một nhà hàng với vẻ tươi vui. John Kragopoulos bỗng nhiên cảm thấy thích ghé lại đó để ngơi nghỉ chốc lát trong buổi chiều ảm đạm này. Ông cho xe rời quốc lộ và rẽ vào bãi đậu. Ông giật mình khi biết đã gần ba giờ chiều và từ sáng tới giờ, ông chưa ăn uống gì ngoài một tách cà phê và một lát bánh mì nướng. Thời tiết xấu buộc ông không thể phóng nhanh khi rời New York và vì thế ông phải bỏ bữa ăn trưa.

Giờ đây, ông thấy cần ăn một bữa ngon miệng trước khi tiếp tục lên đường. Ngoài ra, ông cũng muốn ghé lại đây để nói chuyện với nhân viên của một nhà hàng trong cái vùng mà ông dự tính sẽ đến kinh doanh. Ông nghĩ rằng mình sẽ có một số chỉ dẫn hữu ích. Bước vào nhà hàng, John Kragopoulos cảm thấy thích thú với lối trang trí dân gian thôn dã ở đây; ông đi thẳng và đến ngồi ở quầy rượu. Nhà hàng vắng khách, nhưng là lẽ thường thôi, vì ở vùng này, người ta chỉ ăn nhậu sau năm giờ chiều, John gọi một ly Chivas Regal với nước đá. Khi người bồi rượu mang Chivas đến, John hỏi anh ta còn có thứ gì để ăn vào lúc này.

- Ông cứ gọi thoải mái. - Người bồi rượu nói.

Anh ra trạc tứ tuần. John ưa thích cái tánh vui vẻ nhã nhặn của anh ta cũng như sự sạch sẽ tươm tất của quầy rượu.

Người bồi rượu trao cho John tấm thực đơn:

- Nếu ông muốn steak thì tôi sẽ chọn cho ông một miếng thật ngon. Thông thường thì nhà hàng đóng cửa từ hai giờ đến năm giờ chiều, nhưng ông có thể dùng bữa tại quầy rượu...

- Tốt thôi. - John nói rồi gọi một miếng steak và sà lách.

Cốc Chivas làm John cảm thấy ấm dần và vơi đi buồn bã. Ông nói tiếp:

- Anh pha rượu lão luyện lắm.

Anh bồi rượu mỉm cười:

- Thì phải ở trong nghề mới biết chứ.

- Tôi cũng ở trong nghề đấy. Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ? Tôi tính mua ngôi nhà mà người ta gọi là nhà Tháp Canh để mở nhà hàng. Anh thấy thế nào?

Anh bồi rượu gật đầu:

- Chỗ đó rất được, nếu mở một nhà hàng hạng sang. Kinh doanh ở vùng này không đến nỗi tệ vì luôn có khách du lịch. Đủ mọi hạng người, đủ mọi lớp tuổi, kể cả trẻ con và ông già bà lão. Họ đến để tắm biển hoặc thả bộ qua các cửa hàng đồ cổ. Nhà hàng này thì ở ngay trục lộ. Nhưng một nơi như ngôi nhà Tháp Canh, với cảnh quang vịnh phía trước... Một nơi lý tưởng, với những món đặc sản và một hầm rượu thật tốt... thì sẽ không thiếu khách chịu chi tiền.

- Tôi cũng nghĩ như anh.

- Dĩ nhiên, nếu là ông thì tôi sẽ mua ngôi nhà và tống cổ thằng cha đang sống ở đó đi cho khuất mắt.

- Tôi cũng thắc mắc về lão ấy. Lão có về kỳ cục.

- À, y luôn đến Cape vào cái mùa này, nói là để đi câu. Ray Eldredge bảo với tôi thế. Ray quả là một người lịch lãm. Hai đứa con anh ấy vừa mất tích.

- Tôi có nghe nói.

- Khổ thật! Hai đứa bé quá dễ thương. Thỉnh thoảng ông bà Eldredge có đưa chúng đến ăn ở nhà hàng này. Ông Ray có bà vợ rất đẹp. Thôi, ta hãy quay trở lại chuyện thằng cha ban nãy. Cách đây vài tuần, thằng cha to con đó có ghé lại đây uống một ly. Vì là người mê câu cá biển nên tôi đã hỏi ông ta có phải ông thường ghé lại vùng này vào tháng chín là chỉ vì mê blues 1. Ông biết thằng cha ngu ngốc đó trả lời sao không?

John im lặng chờ nghe anh bồi rượu.

Anh ta lắc đầu:

- Thằng cha ấy không trả lời gì hết. Không biết gì ráo trọi. Ông có thể tin rằng một người từng đến vùng Cape này bảy năm liền mà không hiểu tôi muốn nói gì ư?

Đĩa steak được dọn lên. John ăn ngon miệng. Thịt ngon và rượu nóng làm ông cảm thấy thư thái và ông nghĩ đến ngôi nhà Tháp Canh.

Những ý kiến của anh bồi rượu củng cố thêm quyết định của John trong việc mua ngôi nhà này.

Ông đã cảm thấy thích thú khi tham quan ngôi nhà, nhưng rồi khi lên đến tầng cuối, ông bắt đầu cảm thấy bất an, khó chịu. Đúng vậy. Ông có cảm giác bất ổn khi vào trong căn hộ của ông Parrish.

John từ tốn ăn hết đĩa steak rồi trả tiền, không quên dành cho anh bồi rượu món tiền boa khá hậu. Kéo cao cổ áo choàng, ông rời khỏi nhà hàng và ra xe. Bây giờ ông chỉ còn việc rẽ xe vào quốc lộ và chạy thẳng, thế thôi. Vậy mà ông vẫn ngồi yên trước vô lăng, bất định, ông thầm nghĩ, chuyện gì thế này? Vô lý thật. Ông cảm thấy có một sự thôi thúc vô lý muốn đưa ông trở lại ngôi nhà Tháp Canh.

Lúc nãy, John thấy Courtney Parrish có vẻ giao động. Sau bao năm kinh nghiệm, John dễ dàng nhận ra những dấu hiệu chỉ rõ sự căng thẳng nơi con người. Parrish đã lo sợ... y có vẻ nôn nóng mong cho ông và bà Dorothy rời khỏi nhà. Nhưng tại sao chứ? Người y toát ra một cái mùi mồ hôi nồng và hơi chua. Cái mùi của sự sợ hãi... nhưng sợ cái gì chứ? Rồi còn cái ống viễn kính nữa? Parrish đã vội vã đẩy nó sang hướng khác khi thấy John bước đến gần. John còn nhớ ông đã kịp thời trông thấy những xe cảnh sát quanh ngôi nhà khi hướng ống viễn kính về vị trí cũ. Cái ống viễn kính này là loại cực mạnh. Nếu hướng vào các ngôi nhà của thành phố, nó có thể là một công cụ tuyệt vời trong tay một kẻ rình rập... bệnh hoạn.

John thấy lạnh khi ngồi trong xe. Ông mở công tắc và cho máy nổ một hồi trước khi mở hệ thống sưởi. Ông cầm lấy điếu xì gà và mồi bằng cái hộp quẹt Dunhill vàng mà vợ ông đã tặng nhân ngày sinh nhật. Ông kéo một hơi dài cho đến khi đầu điếu xì gà rực đỏ như than hồng.

Ông thấy mình ngu ngốc. Ngu ngốc và đa nghi. Nhưng biết làm sao bây giờ? Phải chăng nên gọi cho cảnh sát để báo ông có thấy một người có vẻ rất căng thăng và họ nên đến tìm y để tra hỏi? Và nếu, cảnh sát đến đó và được Parrish giải thích: "Lúc đó tôi chuẩn bị đi tắm và tôi rất bực khi họ đến quấy rầy". Lúc đó là lý do khá chính đáng vì những người sống đơn độc thường có khuynh hướng tuân thủ các thói quen của họ.

Phải chăng Parrish sống đơn độc? Đó là điều làm John không ngừng thắc mắc. Ông đã ngạc nhiên khi không thấy một ai khác trong căn hộ Parrish. Vậy mà ông vẫn tin chắc là Parrish không ở một mình.

Chính cái đồ chơi con nít vứt trong bồn tắm khiến John tin rằng Parrish không đơn độc. Đúng vậy, chính cái con vịt bằng cao su đó. Và cái mùi phấn talc dành cho con nít...

Một nỗi nghi ngờ vô lý, không giải thích được, hình thành trong tâm trí John Kragopoulos.

Ông biết mình sẽ phải làm gì. Lấy ra từ túi cái hộp quẹt Dunhill vàng, ông giấu nó trong ngăn để bao tay của xe. Ông quyết định trở lại ngôi nhà Tháp Canh và khi Courtney Parrish mở cửa, ông sẽ xin phép vào nhà để tìm cái hộp quẹt mà lúc nãy ông đã đánh rơi đâu đó khi tham quan ngôi nhà. Đó là một lý do khá chính đáng. Như vậy, ông sẽ có dịp quan sát kỹ các nơi và sau đó, hoặc sẽ không còn nghi ngờ gì nữa, hoặc sẽ có đủ lý lẽ hơn để trình bày với cảnh sát.

--------------------------------
1 Blues (blue fish) một loại cá rất được chuộng tại vùng bờ biển Đông Hoa Kỳ (N.D.)

giavui
05-26-2020, 03:20 PM
Chương 21
Nàng không muốn nhớ gì hết... Nhớ lại chỉ gây thêm buồn khổ. Một hôm, khi còn bé, Nancy đã vướng phải cái cán chảo trên bếp và làm súp cà chua đổ tung tóe trên người. Nàng phải nhập viện trong nhiêu tuần vì bị bỏng, để lại những vết thẹo trên ngực.... Carl đã hỏi nàng về những vết thẹo đó... và đã sờ chúng... Chàng nói, "Tội nghiệp cô bé, tội nghiệp cô bé..." Chàng ưa nghe nàng kể về tai nạn đó. Và chàng hỏi, "Em có đau lắm không?"

Sự hồi tưởng cũng gây đau đớn như thế... Điều đó gây đau đớn... chỉ đau đớn mà thôi.. Tốt nhất là quên đi... đừng nhớ gì hết.

Nhưng những câu hỏi, xa xăm, không ngớt vang lên... Những câu hỏi về Carl, về mẹ nàng... Lisa... Peter... Và có cả giọng nói của nàng nữa. Nàng trả lời:

- Không, cho tôi xin. Tôi không muốn nói.

Cái giọng nói vẫn nằn nì:

- Nhưng cô phải nói. Cô phải giúp chúng tôi. Tại sao cô sợ Carl?

Nàng thấy cần phải trả lời, để cho người ta không hỏi nữa.

Nàng nghe thấy giọng nói mình, từ xa xăm, đang cố trả lời... Nàng tưởng chừng nhìn thấy mình trên một sân khấu... với những vai diễn.

Mẹ nàng... bữa ăn tối... lần cuối với mẹ... khuôn mặt ưu tư của mẹ. Mẹ chăm chú nhìn nàng, rồi nhìn Carl. Mẹ hỏi, "Chiếc áo ở đâu thế, Nancy?" Nàng biết mẹ không thích chiếc áo.

Chiếc áo bằng hàng len trắng. Nàng đã nói: "Con và anh Carl đã chọn nó. Mẹ không thích ư?"

- Có vẻ... trẻ con quá!

Mẹ nàng đứng lên đi gợi điện thoại. Phải chăng mẹ gọi cho bác sĩ Lendon Miles? Nancy thầm mong như thế. Nàng mong mẹ được hạnh phúc... có thể nàng sẽ trở về sống với mẹ... Có thể nàng sẽ không còn cảm thấy mệt mỏi nữa. Phải chăng nàng đã nói điều đó với Carl?

Lúc đó, Carl đã đứng dậy và nói, "Xin lỗi, anh cần phải ra ngoài..." Mẹ trở lại khi anh ta vẫn còn vắng mặt.

Mẹ nói: "Nancy à, ngày mai mẹ cần gặp riêng con để nói chuyện. Mẹ sẽ đến đón con đi ăn sáng".

Carl đã trở lại.

Mẹ hôn Nancy và nói, "Thôi chào. Chúc con một buổi tối vui vẻ. Tám giờ sáng mai nhé!"

Mẹ lên chiếc xe hơi mà mẹ đã mướn, vẫy tay chào, rồi ra đi...

Sau đó, Carl đưa Nancy về trường, chàng đã nói trên đường về: "Anh sợ rằng mẹ em không có thiện cảm với anh".

Rồi một cú điện thoại... một tai nạn... chiếc xe bị lệch hướng.

Và Carl... nói: "Anh sẽ lo cho em, cô bé của anh..."

Tang lễ.

Rồi hôn lễ. Cô dâu sẽ mặc chiếc áo bằng len trắng để đến tòa thị chính ký hôn thú.

Nhưng Nancy không thể mặc nó... ở trên vai áo có đốm dầu nhớt...

Nàng đã hỏi:

- Anh Carl à, không lẽ em đã vấy dầu nhớt trên chiếc áo này? Em chỉ mặc có một lần khi đi ăn tối với mẹ.

- Đừng lo. Anh sẽ giặt cho. - Chàng nói và đưa tay ve vuốt vai nàng, một cử chỉ quen thuộc của chàng.

- Không... không... không...

Một giọng lên tiếng hỏi:

- Chuyện gì thế, Nancy?

- Tôi không biết... Tôi không rõ... tôi sợ.

- Sợ Carl ư?

- Không... Anh ấy tử tế với tôi... Tôi rất mệt... tôi luôn mệt mỏi... Hãy uống thuốc đi... Rồi sẽ đỡ... Các con... Peter và Lisa... Lúc đầu, mọi chuyện đều ổn... Carl tử tế... Carl, anh đóng cửa hộ em... Carl, em van anh, em không muốn điều đó... Đừng có đụng vào em như thế... Hãy để em yên...

- Nancy à, cô không thích điều gì?

- Không... tôi không muốn nói.

- Carl có thương yêu hai đứa bé?

- Anh luôn buộc chúng phải vâng lời... Anh muốn chúng ngoan ngoãn.. Peter rất sợ Carl... cả Lisa nũa. Như thế là cô bé gái có một đứa bé gái.

- Có phải Carl đã nói thế?

- Vâng. Anh không đụng đến tôi nữa... tôi cảm thấy hài lòng... Nhưng tôi không muốn uống thuốc mỗi bữa ăn tối nữa... Tôi quá mệt... Có một điều gì đó không bình thường... Tôi cần phải ra đi. Các con... bỏ trốn.

- Trốn Carl?

- Tôi không bị bệnh... Carl mới bị bệnh.

- Nancy, cô thấy Carl bệnh thế nào?

- Tôi không biết.

- Nancy à, hãy nói về cái hôm Lisa và Peter mất tích. Cô còn nhớ chứ?

- Hôm đó Carl đã giận dữ.

- Tại sao giận dữ?

- Vụ thuốc trị bệnh... tối hôm trước... Ảnh đã thấy tôi vứt bỏ và ảnh đã nhặt lên... và buộc tôi uống... Tôi cảm thấy quá mệt... quá buồn ngủ... Lisa khóc ngất... Carl... với con bé... Tôi cần phải nhổm dậy... đến bên con... Con bé khóc ngất... Carl đã... cho nó một trận đòn... Ảnh nói là con bé đái ướt giường... Tôi cần phải đưa Lisa rời khỏi đây... Sáng ngày mai... sinh nhật tôi... Tôi sẽ nói với Carl...

- Cô sẽ nói điều gì?

- Carl biết... Ảnh e ngại.

- E ngại gì?

- Ảnh sợ tôi trốn đi... đem theo hai con... Tôi phải bỏ trốn...

- Nancy à, cô không yêu Carl ư?

- Tôi hẳn phải yêu ảnh. Ảnh đã nói: Mừng sinh nhật em... Lisa rất ngoan... Tôi có hứa với các con là sẽ làm một ổ bánh sinh nhật. Tôi và hai con sẽ đi mua nến và sô-cô-la. Hôm ấy, thời tiết xấu... trời bắt đầu đổ mưa... Lisa có thể sẽ bị cảm lạnh...

- Vào ngày ấy, Carl có đi dạy?

- Vâng... Anh đã gọi điện về... Tôi nói tôi và hai con sẽ đến trung tâm thương mại... sau đó đưa Lisa đi bác sĩ... Tôi lo sợ. Tôi nói với Carl là mẹ con tôi sẽ ra phố lúc mười một giờ, sau khi kết thúc chương trình truyền hình dành cho thiếu nhi.

- Carl đã phản ứng ra sao khi biết cô lo ngại cho sức khỏe Lisa?

- Ảnh bảo rằng vì trời lạnh... và Lisa không nên ra đường nếu bị cảm... Tôi cho ảnh biết hai con sẽ ngồi chờ trong xe khi tôi vào trung tâm thương mại... Chúng rất vui nhân ngày sinh nhật của tôi... Theo lẽ tôi không nên để Carl quá nghiêm khắc với các con như thế... Do lỗi ở tôi... Tôi sẽ nói với bác sĩ... sẽ hỏi ý kiến ông về trường hợp Lisa... trường hợp của tôi... Tại sao tôi phải uống quá nhiều thuốc đến thế?... Rob đã làm hai đứa bò cười ngất... Chúng vui hẳn khi có mặt anh ta... Bọn trẻ sinh ra là để vui cười...

- Này Nancy, cô có yêu Rob?

- Không... tôi là người bị giam hãm... Tôi cần phải thoát... tôi cần phải nói chuyện với một ai đó... không phải như thế... không phải như thế.

Nghe giọng Nancy trở nên the thé, bác sĩ Lendon ôn tồn nói:

- Như vậy, lúc mười một giờ, cô đã đưa hai đứa bé đến trung tâm thương mại?

- Vâng. Trời mưa... Tôi bảo các con ngồi lại trong xe... Chúng hứa sẽ ngồi yên... chúng rất ngoan... chúng ngồi ở băng sau... Tôi không bao giờ gặp lại hai con nữa... không thể gặp lại nữa...

- Nancy à, có nhiều xe trong bãi đâu hôm ấy?

- Không... Cửa hàng vắng hoe... Gió thổi mạnh... Rét căm... Rất ít người...

- Cô vào trong đó bao lâu?

- Không lâu lắm... mười phút.. Tôi không mua được nến sinh nhật... Mười phút... Tôi vội vã ra xe... Chẳng còn hai đứa bé.

- Rồi cô làm gì?

- Tôi không biết nữa... Tôi nghĩ có lẽ Peter và Lisa đã vào một cửa hàng nào đó để mua quà cho tôi... Peter có tiền... Chúng sẽ không ra khỏi xe trừ khi... Chúng rất ngoan... Hẳn chúng đi mua quà cho tôi... Tôi tìm khắp... trong cửa hàng bánh kẹo... tiệm bách hóa... tiệm bán quà... Tôi trở ra xe. Tìm, tìm các con.

- Cô có hỏi han một ai về chúng?

- Không... Tôi cố giữ không cho Carl biết... Ảnh sẽ giận dữ... Tôi không muốn ảnh trừng phạt các con...

- Và cô đã tìm khắp các cửa hàng của trung tâm thương mại?

- Hẳn hai đứa bé đã đi tìm tôi... và lạc lối... chúng đã đi tìm trong bãi đậu xe... có thể chúng không tìm thấy xe. Tôi sợ... Một ai đó muốn báo cho chồng tôi và cảnh sát biết... Tôi đã nói, xin đừng cho chồng tôi hay, tôi năn nỉ mà... Một phụ nữ đã nhắc lại câu này trong phiên tòa... Tôi không muốn Carl giận dữ, thế thôi...

- Tại sao cô không khai điều đó ra trước tòa?

- Không nên... Luật sư của tôi đã khuyên: đừng đề cập đến chuyện giận dữ của Carl... Đừng khai rằng cô và Carl đã cự nhau qua điện thoại... Lisa không đái ướt giường... các tấm drap trải giường đều khô...

- Cô nói gì?

- Các tấm drap đều khô... Tại sao Carl lại muốn hành hạ con bé? Tại sao chứ? chuyện đó có hệ trọng gì đâu?...

Chẳng có gì quan trọng cả. Hai đứa bé đã mất tích... Michael... Missy cũng mất tích... Phải đi tìm chúng.. Tôi cần phải đi tìm chúng...

- Hãy cho tôi biết sáng nay cô đã tìm hai con ra sao?

- Tôi tìm chúng ở phía bên hồ... Có thể chúng đã té xuống nước... Nhanh, nhanh lên... Có một vật gì đó trong hồ. Một vật gì đó dưới nước...

- Vật gì dưới nước chứ?

- Màu đỏ. Một vật màu đỏ... Có thể là cái bao tay của Missy. Tôi cố chụp lấy... Nước lạnh buốt... Tôi không thể chụp lấy cái vật đó... Đó không phải là cái bao tay... Rét, quá rét...

- Rồi cô đã làm gì?

- Hai con không có đó... Tôi phải ra... ra khỏi nước... Rét căm... bãi cát... Tôi ngã xuống cát... Hắn ở đó... trong cánh rừng... và nhìn tôi... Tôi trông thấy hắn... đang nhìn tôi.

Jed Coffin chồm dậy. Ray nhỏm về phía trước. Lendon đưa tay ra hiệu cho họ trầm tĩnh.

Ông hỏi:

- Người đó là ai vậy, Nancy? Hãy nói cho chúng tôi biết người đó là ai?

- Một gã... Tôi biết... đó là Rob Legler... Rob Legler đã núp nơi đó... và nhìn tôi.

Giọng Nancy vỡ vụn. Nàng chớp chớp mắt rồi từ từ nhắm lại. Mặt Ray tái xanh. Dorothy nín thở. Như vậy là cả hai vụ có liên quan nhau.

Lendon đứng dậy và nói:

- Tác dụng của Penthotal đang giảm dần. Nancy sắp hồi tỉnh.

Thanh tra Jed nói bằng giọng lạnh lùng:

- Thưa bác sĩ tôi có thể nói chuyện với bác sĩ chứ? Tôi cần gặp riêng bác sĩ và ông Jonathan đây.

Trước khi rời phòng khách, Lendon căn dặn:

- Ray à, anh phải ở cạnh Nancy. Chẳng bao lâu nữa, cô ấy sẽ tỉnh lại.

Khi London và Jonathan vào đến nhà bếp, thanh tra Jed nói ngay:

- Theo tôi nghĩ thì chúng ta không nên nêu thêm bất cứ một câu hỏi nào với Nancy nữa. Với những gì cô ấy đã nói ra, chúng ta chỉ biết được rằng Nancy rất sợ chồng, nàng không yêu ông ta và rất có thể là sáng nay Rob Legler đã xuất hiện trong khu vực gần hồ.

Lendon quắc mắt:

- Bộ ông không nghe người đàn bà ấy nói gì sao? Hay là ông có nghe mà không hiểu? Ông nghĩ sao về Carl Harmon?

- Đó là một người có tính gia trưởng, cưới một người vợ trẻ và muốn cai trị vợ. Chuyện đó có gì lạ đâu? Phân nửa đàn ông ở Cape cũng có tính như ông ấy. Và nếu xét rộng hơn thì thế giới này đầy rẫy những thằng thích ăn hiếp vợ như Carl Harmon.

Vẫn với giọng trầm tĩnh, bác sĩ Lendon hỏi:

- Ông thanh tra à, vậy ông có biết gì về chứng luyến ái trẻ con?

Jonathan gật đầu:

- Đó chính là điều tôi đang nghĩ đến!

Không chờ thanh tra Jed lên tiếng, Lendon nói:

- Trên phương diện pháp lý, điều đó có liên quan đến chuyện quan hệ tình dục với những đứa trẻ chưa đến tuổi thành niên.

- Chuyện đó không liên quan gì đến vụ này.

- Gần đúng như vậy. Nancy kết hôn ở tuổi mười tám, nhưng nàng vẫn có dáng vẻ của một đứa trẻ. Thưa ông chanh tra, liệu ông có thể cho điều tra về quá khứ của Carl Harmon?

Jed Coffin sững người. Một lúc sau, cố kềm chế sự tức giận, ông nói:

- Này bác sĩ Lendon, bộ ông không nghe thấy tiếng mưa gió bên ngoài hay sao? Ở một nơi nào đó bên ngoài, có hai đứa trẻ đang chết dần vì rét, hoặc chúng đang bị cầm giữ bởi một kẻ điên loại, hay là chúng đã chết rồi. Nhiệm vụ của tôi là tìm ra hai đứa bé càng sớm càng tốt. Đến lúc này, chúng ta chỉ biết rằng, Nancy và một người bán xăng đã trông thấy Rob Legler. Chỉ thế thôi và thông tin này có thể giúp tôi tiến hành cuộc điều tra. Tôi không dại gì nghe ông đi điều tra một người đã chết để đưa ra một giả thuyết hoàn toàn gàn dở!

Chuông điện thoại reo. Đứng ở góc phòng, Bernie Mills vội vã chạy đến nhấc máy.

Ở đầu dây, trung sĩ Poler lớn tiếng: "Cho tôi nói chuyện với ông thanh tra".

Trước ánh mắt của Lendon và Jonathan, thanh tra Jed cầm lấy máy, nghe một lúc, rồi hỏi ngắn gọn: "Từ lúc nào? Ở đâu?"

Rồi ông gác mạnh ống nghe và quay về phía họ:

- Sáng nay, lúc 10 giờ 30, người ta đã trông thấy Rob Legler trong một motel ở Adam Port. Một chiếc xe, có lẽ do hắn đánh cắp, vừa gặp nạn trên quốc lộ 6A, nhưng hắn đã chạy trốn, chúng tôi đã ra lệnh báo động. Bây giờ tôi phải mở cuộc hành quân truy lùng hắn đây. Chúng tôi sẽ tóm cổ được gã Legler đó và rồi chúng ta sẽ biết rõ chuyện gì đã xảy ra với hai đứa bé.

Khi cánh cửa đã khép lại sau lưng thanh tra Jed, Jonathan quay sang hỏi London:

- Bác sĩ nghĩ sao về những tiết lộ của Nancy?

Lendon đắn đo một lúc rồi đáp:

- Tôi hình dung thấy Priscilla hôm đó gọi điện cho tôi... Carl Harmon ngay sau đó đã rời bàn ăn. Anh ta đi đâu? Phải chăng anh ta nghe được câu chuyện mà Priscilla đã nói với tôi? Rồi Nancy cho hay chiếc áo của nàng bị dính dầu máy. Cô ấy muốn gì khi nói lên điều đó? Phải chăng cô muốn nói rằng bàn tay của Carl dính dầu máy và đã làm bẩn áo khi chạm vào vai cô? Hay Nancy muốn cho biết rằng Carl Harmon đã phá hoại xe của Priscilla?

Lendon hình dung thấy những chuyện dữ tợn, nhưng rồi ông thầm nghĩ, tìm hiểu chuyện đó mà ích gì một khi Carl Harmon đã nằm dưới mồ?

Jonarhan nói:

- Vì Harmon đã chết nên giờ đây chúng ta quay sang Rob Legler, nhân chứng duy nhất trong vụ án trước đây. Liệu chúng ta có thể tin vào lời khai của Nancy khi cô ta hoàn toàn dưới tác dụng của thuốc?

Lendon lắc đầu:

- Tôi không rõ. Có một số con bệnh có khả năng đề kháng Penthotal và che giấu sự thật. Nhưng tôi tin rằng Nancy đã trông thấy - hoặc tưởng rằng đã thấy - Rob Legler bên hồ Maushop.

Jonathan nói:

- Vào 10 giờ 30 sáng này, người ta đã thấy hắn xuất hiện tại một motel, đi một mình.

Lendon gật đầu.

Không nói gì thêm, cả hai quay lại và nhìn ra cửa sổ, về phía hồ.

giavui
05-26-2020, 03:21 PM
Chương 22
Ngoài những thông tin về tình hình căng thẳng ở Trung Đông, nạn lạm phát và sự đe dọa đình công của các công nhân trong ngành công nghiệp ô-tô, bản tin truyền hình lúc bảy giờ chiều dành ra hơn nửa tiếng đồng hồ để nói về vụ mất tích hai đứa bé con gia đình Kldredge và chiếu lại cuốn phim về vụ án Harmon.

Những bức ảnh đăng trên tờ Cape Cod Community cũng được công bố. Phát thanh viên lưu ý khán giả truyền hình đến cảnh Rob Legler và giáo sư Harmon rời khỏi pháp đình sau khi tòa tuyên án Nancy về tội cố ý giết hại những đứa con của nàng.

Cùng lúc hình của Rob Legler xuất hiện trên màn ảnh truyền hình là thông báo: "Theo tin cho biết thì sáng nay Rob Legler đã xuất hiện trong khu vực kề cận nhà gia đình Eldredge. Nếu trông thấy người này, xin quý vị báo ngay cho số KL 53800. Mạng sống của hai cháu bé con ông bà Eldredge có thể đang lâm nguy. Nếu quý vị biết một thông tin nào có thể giúp cho cuộc tìm kiếm hai cháu được nhanh chóng, hãy gọi ngay số KL 53800. Xin nhắc lại: KL 53800".

Ngồi trước truyền hình, bà Wiggins nói:

- Cái ông đó trông giống một người.

- Bà thì lúc nào cũng nói kiểu đó. - Ông Wiggins làu bàu.

- Thật mà. Có một điều gì đó... cái cách mà ông ta khom người về phía trước.. Dầu sao, chẳng thấy đẹp trai tí nào.

Jack Wiggins nhìn vợ:

- Theo tôi nghĩ thì hắn có thể làm các cô gái mê mệt.

- Ông ta ư? Ồ! Nãy giờ ông quan tâm đến gã trai trẻ. Tôi thì nói về ông giáo sư.

- Giờ này mà bà còn nhắc đến ông giáo sư đó nữa ư? Ông chết lâu rồi. Bây giờ, thiên hạ bàn đến Legler.

Bà Wiggins cắn môi:

- Ồ! Tôi hiểu. Nhưng tôi muốn ông hiểu cho chỉ vì... Ồ!...

Ông Wiggins nặng nề đứng dậy:

- Ông cảm phiền chờ chút. Thật khó lòng mà nấu nướng khi đầu óc cứ nghĩ đến hai đứa bé Michael và Missy... Chỉ có Trời mới biết hiện chúng đang ở đâu... Phải chi ta có thể giúp họ... Tôi chẳng tin những gì thiên hạ nói về Nancy Eldredge. Cô ấy ít khi đến siêu thị, nhưng mỗi lần cô xuất hiện là tôi mải mê nhìn cô với hai con. Cô luôn tỏ ra nhã nhặn, tử tế, không khi nào cáu kỉnh, càu quạu như bao bà mẹ trẻ khác, ông biết không, so với những khổ đau đó thì những chuyện bực mình nho nhỏ của chúng ta chẳng đáng gì.

- Bực mình nho nhỏ gì chứ? - Ông Wiggins thắc mắc hỏi.

- Thì là... - Bà Wiggins cắn môi, không nói nữa.

Mùa hè qua, vợ chồng họ đã nhiều phen bực mình vì mất mát một số hàng hóa ở quầy. Bà Wiggins biết chỉ nói ra điều này thôi là cũng đủ làm ông chồng gắt gỏng, bực tức. Chính vì vậy, mà không muốn kể ông nghe bà biết chắc sáng nay ông Parrish đã lấy cắp hộp phấn talc trên quầy.


Chương 23
Trong ngôi nhà nhỏ cạnh nhà thờ Saint Francis -Xavier ở Hyannis Port gia đình Keeney đang quây quần bên bữa ăn tối. Bây giờ là lúc đài phát đi bản tin trong ngày và mọi con mắt đều hướng về cái truyền hình đặt trong căn bếp đầm ấm và đầy đủ này.

Ellen Keeney lắc đầu khi trông thấy khuôn mặt của Michael và Missy xuất hiện trên truyền hình. Bà bất chợt liếc nhìn đám con. Neil và Jimmy, Deirdre và Kit... một... hai... ba... bốn. Không thiếu đứa nào.

Phát thanh viên bình luận về bài báo đăng trong tờ Community News và cho biết cảnh sát đang truy tìm tác giả của bức thư. Nghe thoáng qua bản tin, Ellen thầm nghĩ, Nancy hẳn không liên quan gì đến chuyện sát hại hai đứa con của nàng. Chuyện đó không thể có được. Chẳng có người mẹ nào đủ nhẫn tâm giết con ruột của mình.

Rồi bà nghe giọng nói của thằng Neil: "Ông ta mập hẳn ra đấy!"

Sững người, bà nhìn chăm chăm vào đứa con trai đầu. Mới bảy tuổi mà Neil đôi khi có những suy nghĩ như người lớn và khá kiên định.

Quay sang nhìn truyền hình, bà nói:

- Ai mập ra hả con?

- Người đàn ông đó, người đi phía trước. Tháng trước, chính ông ta đã cho con một đô-la để nhờ đến bưu điện lấy hộ lá thư. Mẹ còn nhớ chứ, con đã cho mẹ xem mảnh giấy do ông viết, khi mà mẹ chẳng muốn tin con.

Ellen và Pat nhìn vào truyền hình. Trước mặt họ là hình ảnh Rob Legler rời khỏi tòa án, theo sau Carl Harmon.

Bà Ellen nói:

- Neil có vẻ tức tối.

- Mẹ chẳng bao giờ tin con. Ông ta có mập ra nhiều và tóc cũng mọc nhiều hơn, nhưng khi khom người nơi cửa xe, cái đầu ông rút vào hai vai y hệt như người đàn ông mà con đã gặp.

Pat cau mày.

Bà Ellen có vẻ ưu tư. Bà cần phải báo cho cảnh sát thông tin về tác giả của lá thư. Và Neil chính là đứa đã nhận một đô-la để đến bưu điện nhận lá thư cho ông ta. Bà còn nhớ rõ: hôm đó là thứ sáu, cách đây bốn tuần, sở dĩ bà không quên là vì hôm đó cả nhà phải ăn tối sớm vì bà còn phải đi họp phụ huynh học sinh, đã vậy, thằng Neil lại về trễ.

Bỗng dưng nhớ đến một chi tiết, bà Ellen hỏi con:

- Neil à, con còn giữ cái mẩu giấy mà ông đó đã trao cho con khi con đến bưu điện? Hình như con đã nhét nó vào trong ống tiền cùng với tờ đô-la thì phải?

- Vâng, nó còn đó.

- Con có thể lấy cho mẹ xem được chứ? Mẹ muốn xem cái tên ghi trên ấy.

Pat chăm chăm nhìn vợ. Khi Neil đã rời nhà bếp, ông nói với bà: "Vậy mà em bảo rằng không tin những gì thằng bé kể..."

giavui
05-26-2020, 03:22 PM
Chương 24
Mọi việc xem chừng không ổn nữa. Chẳng đúng như y đã tiên liệu. Trước tiên là sự xuất hiện của con mụ ngu ngốc đó, rồi đến con bé. Giờ đây y buộc phải chờ cho cho nó tỉnh dậy. Để thấy nó quằn quại khi muốn thoát khỏi tay y. Rồi đến chuyện thằng nhóc đã lủi mất và đang trốn đâu đó trong ngôi nhà. Y phải đi tìm nó mới được.

Parrish có cảm tưởng mọi việc đang vuột khỏi tầm tay y. Cái cảm giác thích thú khi trước giờ đã biến thành oán giận và thất vọng. Y không còn toát mồ hôi, nhưng lớp quần áo ướt đẫm mồ hồi làm y rin rít khó chịu.

Y nghĩ đến thằng nhóc và biết rằng chính nó là sự đe dọa. Nếu nó thoát được là tiêu đời y. Y thấy tốt hơn nên kết thúc sớm hai đứa nhóc này, tương tự như lần trước là ổn nhất. Chỉ trong chốc lát, y sẽ bít kín mắt, miệng và mũi chúng và, vài tiếng sau đó, khi thủy triều lên, y sẽ vứt chúng xuống trên những con sóng sôi sục. Chẳng một ai có thể hay biết. Sau đó, y lại được yên ổn, chẳng gì có thể đe dọa y. Y có thể thanh thản nhìn Nancy quằn quại.

Vào chiều mai, một khi không còn hiểm nguy, y sẽ cho xe trực chỉ đất liền. Y sẽ lang thang khi hoàng hôn xuống, và có lẽ y sẽ gặp một bé gái đang đi dạo một mình... Y sẽ bảo rằng y là thầy giáo mới đến... Chuyện đó ổn thôi.

Sau khi đã dứt khoát, y cảm thấy dễ chịu hơn. Giờ đây, y chỉ muốn một điều: kết thúc sự đe dọa. Thằng nhóc quả là lì lợm, y hệt như Nancy... ngoan cố... vô ơn bạc nghĩa... luôn tìm cách bỏ trốn... Y sẽ tìm thấy nó. Y sẽ trói nó, rồi lấy ra cuộn nhựa plastic trong. Y sẽ bọc đầu nó lại trước tiên, bởi vì nó quá lì lợm. Rồi đến lượt con bé... Y sẽ không chờ cho nó tỉnh dậy... bởi quá nguy hiểm khi giữ nó.

Cái cảm giác lâm nguy luôn làm y toát mồ hôi nhiều hơn. Tương tự như lần trước đây. Y đã lồng lộng rời trường đại học và đến trung tâm thương mại, tuy chưa thực sự biết mình sẽ làm gì. Y chỉ biết rằng y không thể để Nancy đưa bé Lisa đến bác sĩ. Y đã thấy Nancy lái xe vào bãi đậu, nói với hai đứa bé trước khi vào cửa hàng. Chẳng có xe nào đậu quanh đó. Trong thoáng chốc, y biết mình sẽ phải làm gì.

Hai đứa bé đã tỏ ra ngoan ngoãn. Chúng có vẻ ngạc nhiên vì khiếp sợ khi trông thấy y mở cửa xe; nhưng khi nghe y nói, "Nào, chúng ta sẽ dành cho mẹ một ngạc nhiên nhân ngày sinh nhật", thì chúng đã chui ngay vào cái rương để sau xe y. Chỉ trong giây lát, y đã kết thúc mọi chuyện. Y chỉ việc tròng những túi plastic vào đầu hai đứa bé, siết thật mạnh, giữ chặt tấm thân bé bỏng của chúng cho đến khi chúng không còn giẫy giụa rồi đóng cốp xe lại - và trở về giảng đường để tiếp tục giảng dạy. Tất cả không đầy tám phút, đang chú tâm vào bài thí nghiêm, đám sinh viên không hay biết gì. Một mớ nhân chứng sẵn sàng xác nhận sự hiện diện của y nếu y cần. Tối hôm đó, y đã lái xe ra bãi biển và vứt xác hai đứa bé vào đại dương. Cách đây bảy năm, y đã biết nắm bắt cơ hội để loại bỏ hiểm nguy. Hôm nay cũng vậy, một lần nữa y cần phải loại bỏ hiểm nguy. Y lớn tiếng gọi: "Michael à, ra đi. Bác sẽ đưa cháu về mẹ".

Y vẫn đứng đó, trong căn bếp. Giơ cao cây đèn bão, y nhìn quanh phòng. Chẳng có nơi nào để có thể ẩn núp. Các tủ hốc tường thì quá cao. Nhưng y biết không dễ tìm thấy thằng nhóc trong cảnh tối tăm này, chỉ với cây đèn bão để tháp sáng. Hẳn phải mất nhiều giờ và chẳng biết phải bắt đầu từ nơi đâu?

Y lại gọi:

- Michael à, cháu có muốn về nhà với mẹ? Mẹ cháu chưa về trời đâu... Mẹ cháu đã khỏe rồi... Mẹ muốn gặp cháu...

Y lưỡng lự, chẳng hiểu có nên bắt đầu từ lầu hai, trong các phòng ngủ trước tiên?

Không. Thoạt đầu, thằng nhóc định thoát ra bằng cửa bếp. Thằng này khá láu. Nó đương nhiên không trốn ở tầng hai. Phải chăng nó đã mò về phía cửa chính? Y thấy tốt hơn nên đến đó xem.

Bước được vài bước ra khỏi nhà bếp, y bỗng nhớ đến cái phòng khách nhỏ ở cuối hành lang. Nếu Michael nghe tiếng chân y đi đến trong khi nó tìm cách thoát ra bằng ngã nhà bếp, thì hẳn nó sẽ chạy ra hành lang rồi vào cái phòng khách đó để trốn. Điều này tỏ ra rất hợp lý.

Parrish dừng lại nơi ngưỡng cửa phòng khách đó. Y tần ngần, không biết có phải tiếng thở của thằng nhóc hay chỉ là tiếng gió rít dọc theo những bức tường bên ngoài? Y tiến vài bước vào phòng, đưa cao cây đèn bão. Y chăm chú nhìn vào cảnh tranh tối tranh sáng, cố xác định những đồ vật quanh y. Khi định quay trở ra, y làm lắc lư cây đèn bão cầm trong tay phải.

Y khựng lại, bật cười inh ỏi. Tiếng cười điên loạn, tựa tiếng ngựa hí. Ánh sáng của ngọn đèn bão đưa cao làm in đậm trên sàn gỗ sồi nâu nhạt cái bóng nhỏ bé đang thu người sau tràng kỷ, tựa một con thỏ khiếp đảm.

Parrish gào lên:

- Michael à, tao đã tìm thấy mày rồi. Lần này, mày không thoát khỏi tay tao!

Chương 25
Khi John Kragopoulos rời khỏi quốc lộ 6A để hướng xe vào con đường dẫn lên ngôi nhà Tháp Canh thì cúp điện. Tuy bật đèn pha, nhưng tầm nhìn rất bị giới hạn. John thận trọng trượt qua những khúc quanh co, chăm chú vào con đường trơn trượt phía trước, không để sơ sẩy.

Ông thầm nghĩ, trở lại ngôi nhà chìm trong tăm tối đó để tìm cái hộp quẹt, quả là một lý do kỳ cục. Có thể Parrish sẽ khuyên ông nên trở lại vào sáng mai hoặc bảo rằng y sẽ tìm hộ ông và trao cho bà Dorothy nếu tìm thấy.

John định sẽ đi thẳng vào cổng chính, mang theo cây đèn pin. Ông sẽ nói rằng lúc nãy, khi khom người trên ống viễn kính, ông đã nghe rơi một vật gì đó và bây giờ ông mới biết có thể là cái hộp quẹt. Lý do này rất hợp lý. Dẫu sao, lầu ba là nơi ông muốn lên để tìm hiểu.

Con đường dẫn lên ngôi nhà Tháp Canh thật hiểm nghèo. Ở khúc quanh sau cùng, phần trước xe suýt trệch hướng khiến John phải kềm chặt vô lăng. Suýt chút là xe lao xuống sườn dốc và đâm vào một gốc sồi cổ thụ cách đó hai thước. Vài phút sau đó, John lái xe vào lối đi phía sau nhà dừng lại. Ông không bỏ xe trong gara như Dorothy trước đây. Ông muốn tỏ ra thư thái, thân thiện, ông sẽ nói rằng, lúc nãy khi ăn tối, ông phát hiện mất cái hộp quẹt và muốn trở lại đây để kiếm thay vì gọi điện thoại.

Ra khỏi xe, John sững sờ trước cảnh tăm tối đáng sợ của ngôi nhà. Ngay cả lầu ba cũng tối thui tuy Parrish dĩ nhiên không thiếu đèn dầu. Vào mùa này, gặp lúc giông bão, thì cúp điện là chuyện thường xảy ra ở Cape. Hay là Parrish đã ngủ và không hay cúp điện? Hay là y hẹn hò với tình nhân? Lần đầu tiên, John nghĩ đến chuyện đó.

Bỗng nhiên thấy mình ngu xuẩn, John muốn trở vào xe. Tuyết tan rơi lả chả vào mặt ông, len vào cổ áo choàng. Cái cảm giác ấm cúng sau bữa ăn tối đã biến mất. John cảm thấy rét cóng, mệt lả, hơn nữa ông biết mình còn phải vượt qua một chặng đường thật dài để về nhà. Ông thấy mình chẳng khác chi thằng ngốc tưởng tượng đủ điều, ông thắc mắc chẳng hiểu tại sao trước đây mình không nghĩ rằng Parrish đang kín đáo hẹn hò với người tình và người này không muốn để ai biết? John thấy mình ngu ngốc; ngu ngốc và đa nghi. Hẳn ông và Dorothy đã quấy rầy một buổi hẹn hò của Parrish, thế thôi. Ông thấy mình nên rời khỏi đây và đừng gây phiền hà gì nữa. Nhưng rồi, khi chực ngồi vào xe thì ông trông thấy có ánh sáng hắt ra từ cửa sổ phía cuối nhà, bên trái nhà bếp. Ánh sáng di động khá nhanh và vài giây sau, John thấy nó hắt ra từ những cửa sổ bên phải cửa vào nhà bếp. Ông biết có ai đó đang đi quanh phòng, cầm đèn trên tay.

Thật nhẹ nhàng, John đóng cửa xe, cố không gây tiếng động. Đèn pin trong tay, ông đi về phía cửa sổ nhà bếp rồi nhìn vào trong. Lúc này, ánh đèn có lẽ đang hắt ra từ hành lang. John cố nhớ lại sơ đồ ngôi nhà. Cầu thang cuối nhà dẫn vào hành lang đó, đồng thời cũng dẫn đến cái phòng khách nhỏ phía bên kia. Nếp sau hàng ngói gỗ đã mục vì thời gian, John men nhanh qua phía sau nhà, rồi tiến về những cửa sổ mà theo ông hẳn là của phòng khách nhỏ. Ánh đèn không di động nữa và có vẻ sáng hơn khi John đến gần. Rồi ông thấy cây đèn trong một bàn tay giơ lên. John lùi lại và trông thấy Parrish. Y đang tìm kiếm một cái gì đó... cái gì nhỉ? Y đang gọi ai đó. John lắng tai nghe. Tiếng gió át đi những âm thanh trong nhà, nhưng John cũng nghe được cái tên "Michael" Parrish đang gọi "Michael".

Một nỗi khiếp đảm ập xuống John, khiến ông lạnh buốt đến xương tủy. Quả ông không lầm. Parrish là một kẻ tâm thần và hai đứa bé đang bị giữ trong ngôi nhà. Dưới ánh đèn bão, tấm thân to lớn của Parrish càng có vẻ to lớn hơn. John thấy mình không đủ sức để đối đầu. Ông không có gì trong tay ngoại trừ cây đèn pin làm vũ khí. Ông tự hỏi, liệu có nên đi kêu cứu? Michael đã trốn kỹ hay chưa? Nếu Parrish tìm thấy thằng bé thì chỉ ít phút thôi là nó sẽ toi mạng.

Trong cơn khiếp đảm, John thấy Parrish đong đưa cây đèn bão về phía phải và lôi ra từ phía sau trường kỷ một tấm thân nhỏ bé đang vùng vẫy một cách tuyệt vọng. Parrish đặt cây đèn bão xuống và John thấy y đưa hai tay bóp cổ đứa bé.

Tìm thấy lại cái bản năng vốn có khi còn là một sĩ quan trong quân đội, John dộng mạnh cây đèn pin vào ô kính. Parrish quay nhìn khi nghe tiếng động. John vội vã thọc tay vào, mở chốt cửa sổ. Rồi, lấy hết sức, ông đẩy cửa sổ lên và nhảy vào bên trong, ông đánh rơi cây đèn pin khi hai chân vừa chạm đất. Trông thấy thế, Parrish nhào tới. Giữ cây đèn bão bằng tay trái, y đưa tay phải chụp lấy cây đèn pin và dùng nó nện xuống đầu John.

John né sang một bên và nếp sái tường để tranh thủ thời gian trong khi hét lớn: "Chạy đi Michael... hãy đi kêu cứu" Trước khi Parrish kịp giáng thêm một cú nữa vào đầu John thì ông đã đá văng cây đèn bão trên tay Parrish.

giavui
05-26-2020, 03:22 PM
Chương 26
Hắn cảm thấy hối tiếc khi vứt bỏ chiếc Volkswagen. Lỗi là do hắn quá hoảng loạn, quá ngu ngốc. Rob luôn tin rằng số phận của mỗi người là do chính họ tạo ra. Ngày hôm nay, hắn đã làm bao điều tầm bậy. Theo lẽ, khi gặp Nancy bên hồ, hắn phải nhanh chóng chuồn khỏi Cape Cod. Thay vì thế, hắn nghĩ rằng Nancy đã uống rượu say khướt hoặc say xì ke. Và hắn chỉ việc lánh mặt một ngày rồi sau đó tìm gặp nàng hoặc chồng nàng để kiếm tiền. Hắn đã làm những chuyện không đâu để phải rơi vào tình huống bế tắc này, và hai đứa con của Nancy đã mất tích.

Trong trường hợp hai đứa bé trước đây, Rob thật sự tin chắc Nancy không sát hại chúng. Nhưng lần này, nào ai biết được? Có lẽ nàng đã mất trí, như trước đây Harmon đã nói.

Sau khi vứt bỏ xe, Rob lội bộ về phía nam, men theo xa lộ chạy ngang qua Cape. Nhưng rồi hắn phải đi ngược trở lại khi trông thấy một chiếc xe cảnh sát chạy ào qua. Hắn biết nếu quá giang xe, hắn có thể sẽ bị chặn bắt ở rào cản trước khi qua cầu. Vì vậy, hắn thấy tốt hơn nên đi về phía vịnh. Phía đó, hẳn có nhiều biệt thự nghỉ hè của những nhà giàu có. Hắn sẽ lẻn vào một biệt thự và ẩn náu một thời gian. Trong các nhà bếp ở đó hẳn sẽ có thức ăn, vì hắn thấy đói rồi. Và hai ngày nữa, khi mọi sự yên ổn trở lại, hắn sẽ đón một chiếc xe tải, núp sau xe và rời khỏi vùng đất bất hạnh này.

Hắn rùng mình khi bước vội qua những con đường nhỏ, âm u. Tuy vậy, hắn cũng mừng thầm vì với thời tiết này, chẳng có ai lang thang ngoài đường để nhìn thấy hắn.

Nhưng rồi đến một ngã rẽ, Rob phải vội vã lẫn sau một hàng rào dâm bụt để tránh ánh đèn pha đang rõ dần của một chiếc ô-tô. Hắn hồi hộp chờ cho xe chạy qua và rủa thầm, "Lại một xe cớm nữa. Chỗ này coi bộ không ổn". Hắn phải rời xa con đường. Hẳn bãi biển không còn bao xa. Men theo hàng rào dâm bụt, Rob vội vã đi về phía cánh rừng ở đàng sau các ngôi nhà. Hắn thầm nghĩ, phải chăng Nancy đã trông thấy hắn ở bên hồ? Nàng đã nhìn về phía hắn... nhưng cũng có thể đó là ấn tượng. Dẫu sao, hắn sẽ chối phăng. Nancy không đủ tỉnh táo để chứng thực những gì nàng đã thấy. Hơn nữa, ngoài Nancy, chẳng có một người chứng nào khác. Hắn chắc như vậy. Ngoại trừ... người lái chiếc Ford đó. Y có lẽ là người vùng này. Biển số Ford là Massachusetts... 8 X 642... Rob chẳng hiểu lại sao hắn lại nhớ rõ đến thế? Phải chăng vì là những con số đọc ngược của 2-4-6-8. Nếu bị tóm, hắn sẽ khai chiếc Ford đó. Hắn đã thấy chiếc Ford chạy ra khỏi con đường dẫn vào nhà Eldredge ngay cái lúc hai đứa trẻ mất tích. Nếu bị tra hỏi nữa thì hắn sẽ khai lúc đó hắn đã có mặt gần nhà Eldredge.

Thế rồi, hắn lại quyết định là sẽ không khai gì hết nếu bị tóm. Hắn chỉ nói rằng hắn có ý định đến thăm Nancy, nhưng muốn đi ngay khi thấy báo đăng hình hắn trong bài viết về vụ án Harmon. Dứt khoát xong, Rob thấy yên tâm hơn. Giờ đây, mục tiêu của hắn là ra bờ biển và chui vào một biệt thự...

Mọi thứ đều trơn trượt, Rob tựa tay trên những gốc cây băng giá để khỏi trượt ngã trong khi cố bước vội.


Chương 27
Ngồi lặng lẽ dưới mái hiên bọc kính, Thurston Givens lắng nghe cơn bão quay cuồng trong đêm đen. Ở tuổi tám mươi, ông vẫn say đắm bởi những cơn gió Đông bắc và biết rằng có lẽ mình sẽ chẳng còn bao năm để được thấy sự tung hoành của chúng. Ông để mở lớn cái radio và vừa nghe xong bản tin cuối tường thuật về vụ mất tích hai đứa con gia đình Eldredge.

Vẫn chưa tìm thấy chúng.

Thurston hướng mắt ra vườn, tự hỏi tại sao những khốn khổ như thế lại ập xuống những mái đầu xanh vô tội.

Là một nhà kinh doanh bất động sản đã nghỉ hưu, Thurston biết rõ Ray Eldredge. Ông là bạn thân của cha Eldredge và cũng biết cả ông nội của Ray nữa. Ray là một người trẻ lịch sự, một công dân điển hình của Cape. Anh làm ăn lương thiện, không bóc lột một ai. Thurston thực sự tin rằng Nancy không phải là hạng đàn bà có thể nhúng tay vào tội ác và ông nghĩ hẳn phải có một điều gì đó mà chưa ai biết được.

Đang nghĩ ngợi mông lung như thế, Thurston bỗng thấy có sự di động trong cánh rừng phía trước khiến ông giật mình. Ông nghiêng người, cau mày để nhìn rõ hơn. Hẳn phải có người đang đi ở ngoài kia, một ai đó đang len qua những hàng cây, cố né tránh, ông nghĩ rằng con người đang di động đó hẳn phải có ý đồ đen tối khi lén lút trong rừng vào thời tiết như thế này.

Thurston với tay nhấc điện thoại. Ông nhấn số thanh tra cảnh sát. Thanh tra Jed Coffin vốn là bạn của ông nhưng ông biết giờ này hẳn Jed đang bận. Ông ấy phải lo vụ Eldredge.

Ở đầu bên kia có tiếng nhấc máy và giọng nói:

- Trung sĩ Poler thuộc sở cảnh sát Adam Port nghe đây...

Thurston nói ngay:

- Tôi là Thurston Givens. Báo với ông rằng có một người lạ đang lai vãng trong cánh rừng sau nhà tôi và người này đang đi về hướng vịnh.

giavui
05-26-2020, 03:22 PM
Chương 28
Nancy nhỏm dậy, nhìn đăm đăm về phía trước. Ray đã nhóm củi vào lò sưởi và lửa đang lan dần trên những nhánh cây và thanh củi. Nàng thầm nghĩ về ngày hôm qua. Hôm qua. Có phải mới chỉ là hôm qua? Nancy đã cắt tỉa thảm cỏ cùng với Michael. Nàng đã nói, "Michael à, phải năm tới mẹ con ta mới tỉa lại thảm cỏ này. Lá sẽ rụng nhiều trong suốt mùa này". Hôm qua, Michael đã buồn bã gật đầu. Rồi nó nhặt những cành cây khô trong đống lá. Nó đã nói, "Con mang chúng về nhà để nhóm lửa".

Nancy thốt lên. "Ồ! Lạy Chúa!"

Nàng biết mình đã nói lớn tiếng khi trông thấy Ray đang ngạc nhiên nhìn nàng. Ray ngồi ở ghế bành, vẻ mặt căng thẳng. Dorothy cũng đang nhìn nàng; bà bỗng chốc trông già hẳn.

Nancy nói:

- Rob Legler. Có phải em đã nói rằng sáng nay em có trông thấy Rob Legler?

Ray gật đầu:

- Đúng.

- Phải chăng em đã nói trong giấc mơ? Ông bác sĩ có tin rằng em đã thực sự trông thấy hắn ta - rằng em đã nói thật?

Ray ngập ngừng, rồi nói:

- Bác sĩ Lendon không hề hồ nghi về những gì em đã kể. Nancy à, người ta đã trông thấy Rob xuất hiện trong vùng này.

Giọng nói của Nancy nghe tỉnh táo và sáng suốt hơn, điều đó làm Ray bớt lo lắng:

- Rob Legler sẽ không làm hại hai đứa bé. Nếu hắn bắt cóc các con, nếu hắn là kẻ chủ mưu, hắn sẽ không làm hại chúng. Em biết như thế.

Bác sĩ Lendon bước vào, theo sau là Jonathan. Trông thấy Jonathan, Ray hỏi:

- Ai gọi điện vậy bác?

- Họ gọi ông thanh tra và ông ta đã đi.

- Bây giờ bác có thể hỏi chuyện Nancy được rồi đấy. Nancy đã biết là người đã trông thấy Rob Legler trong vùng.

- Chính đó là lý do để thanh tra Jed phải vội vã ra đi. Legler bị truy đuổi và đã bỏ lại chiếc xe mà hắn đánh cắp trên quốc lộ 6A, cách đây ba cây số. Nhưng chúng ta không nên lo sợ vì với thời tiết này, hắn không thể đi xa.

Bác sĩ Lendon chăm chú nhìn Nancy:

- Nancy à, cô thấy thế nào?

- Vâng, khá khỏe. Thưa bác sĩ, có phải tôi đã nói nhiều về Carl?

- Đúng.

- Tôi muốn nhớ lại một điều gì đó. Một điều quan trọng mà tôi muốn nói với bác sĩ.

Bằng giọng bình thản, Lendon hỏi:

- Nhiều lần cô đã nói rằng: tôi không tin... tôi không tin.. Cô có biết vì sao cô lại nói thế?

Nancy lắc đầu:

- Không.

Nàng đứng dậy, vội vã hước đến bên cửa sổ và nói:

- Trời tối quá. Tìm kiếm một cái gì đó hoặc một ai đó trong lúc này là điều không dễ.

Nàng muốn cử động, muốn giữ cho đầu óc tỉnh táo để suy nghĩ. Nàng nhìn xuống và thấy mình vẫn còn mặc áo ngủ. Nàng nói:

- Tôi phải thay đồ mới được. Tôi muốn ăn mặc đàng hoàng hơn.

- Nancy có cần tôi giúp...? - Dorothy hỏi.

- Cám ơn chị, tôi có thể xoay xở được. - Nancy nhỏ nhẹ đáp.

Nàng thầm mghĩ, rồi họ sẽ tóm được Rob Legler. Nàng tin chắc như thế. Nàng cần phải ăn mặc đàng hoàng để lúc đó nàng sẽ đến gặp hắn. Nàng sẽ nói với hắn: "Này Rob, tôi biết anh không làm hại các con tôi. Anh muốn tiền ư? Hay anh muốn gì? Hãy cho tôi biết các con tôi đang ở đâu và tôi sẽ cho anh mọi thứ anh muốn".

Khi đã lên lầu, Nancy cởi áo ngủ và đến máng ở giá treo. Nàng thấy chóng mặt đến nỗi phải tựa trán vào bức tường mát lạnh. Rồi cửa phòng mở ra và nàng nghe tiếng gọi lo sợ của Ray: "Nancy!" Chàng chạy đến ôm lấy nàng. Nàng cảm nhận hơi ấm và sức mạnh của đôi tay chàng đang giữ nàng.

Nàng nói:

- Em vãn khỏe. Thật mà.

- Nancy! - Chàng thốt lên rồi hôn lên môi nàng.

Khi môi họ rời nhau, Nancy nép sát vào Ray.

Buổi đầu yêu nhau cũng tương tự như thế. Hôm đó, chàng đến ăn tối ở nhà nàng. Họ đã đi bộ ra bờ hồ. Trời rét căm và nàng lạnh run. Chàng không cài nút chiếc áo choàng và đã kéo nàng sát vào chàng, dùng tà áo che cho nàng bớt lạnh. Chiều hôm đó, khi trao nhau nụ hôn đầu tiên, nàng thật là tự nhiên. Nàng đã yêu Ray ngay lần đầu gặp gỡ. Không như với Carl... tội nghiệp Carl... nàng chỉ biết chịu đựng ông ta. Nàng cảm thấy có lỗi khi không yêu ông ta. Và, sau khi sanh Lisa, ông không động đến nàng nữa... không như một người chồng nữa... Phải chăng ông biết nàng không thích ông? Nàng vẫn thường tự hỏi điều đó. Điều đó gây cho nàng cái mặc cảm có lỗi.

Nàng buột miệng nói:

- Em yêu anh.

- Anh cũng yêu em. Ồ! Nancy, thật khổ cho em. Anh hiểu nhưng anh không thể...

- Ray à, liệu chúng ta có thể tìm được các con?

Toàn thân Nancy run lên bần bật. Ôm chặt lấy nàng, Ray nói:

- Anh không biết được. Chẳng thể biết. Nhưng em hãy nhớ rằng dẫu thế nào chăng nữa thì chúng ta vẫn ở bên nhau. Thanh tra Jed đã về sở cảnh sát. Rob Legler vừa bị tóm. Bác sĩ Lendon đã đến đó. Anh và ông Jonathan chuẩn bị đi đây.

- Em muốn đi theo. Có thể hắn sẽ nói với em...

- Không. Jonathan có một dự tính mà anh nghĩ là có thể thành công, chúng ta cần phải rõ sự thật. Có thể một đồng lõa của Rob đang cầm giữ hai đứa bé. Nếu trông thấy em, có thể hắn sẽ không chịu khai vì hắn đã có dính líu đến vụ án trước đây.

- Anh Ray...

- Can đảm lên em. Chỉ cần đôi chút nhẫn nại nữa thôi. Em hãy đi tắm nước nóng và thay đồ đi. Dorothy sẽ ở bên em.

Ray hôn lên tóc nàng và rời khỏi phòng.

Như người mất hồn, Nancy vào phòng tắm. Nàng mở vòi sen rồi nhìn vào gương. Nàng thấy mặt mình xanh xao, đôi mắt quầng thâm, nặng trĩu. Đó là vẻ mặt của nàng trong những năm sống với Carl; đó là hình ảnh của nàng đã được đưa lên báo sáng nay.

Nàng quay mặt đi và bước đến đứng dưới vòi sen. Nước nóng dần dần loại bỏ những căng thẳng nơi các cơ bắp của nàng. Nàng thấy tỉnh hẳn. Nàng ngước cổ lên và thấy đầu óc sáng suốt hơn.

Từ lâu lắm, nàng đã bỏ cái thói quen ngâm mình trong bồn tắm. Nàng đã bỏ nó kể từ ngày sống với Carl. Nàng không muốn tắm bồn nữa. Nàng muốn quên chuyện đó. Vậy mà hôm nay, khi nước tuôn trên mặt, nàng bỗng nhớ lại. Cái bồn tắm... Carl cứ dứt khoát tắm cho nàng... cái lối rờ rẫm, xem xét của ông ta. Một hôm nàng đã đẩy Carl ra và ông trượt chân, úp mặt xuống nước. Sự kinh hoàng khiến Carl không thể nhổm dậy ngay. Và khi gượng dậy được, ông ta đã khạc nhổ, run rẩy và ho khan liên tục. Carl đã khiếp đảm khi ngập mặt vào nước.

Đúng thế. Đó chính là điều mà nàng cố nhớ: cái tật khiếp sợ nước.

"Ồ! Chúa tôi!" Nancy thốt lên. Nàng lảo đảo, tựa tay vào tường. Nàng cảm thấy quá buồn nôn, không tài nào kềm được. Nàng ói mửa trong nhiều phút, tựa tay vào bàn cầu để khỏi té ngã. Và rồi, khi những cơn co thắt ruột gan đó đã qua đi, nàng run lên bần bật, cảm thấy lạnh buốt từ đầu đến chân.

giavui
05-26-2020, 03:23 PM
Chương 29
Ray à, anh không nên quá tin tưởng. - Jonathan nói.

Ray không quan tâm đến câu nói của ông ta. Qua kính xe, chàng đã trông thấy sở cảnh sát. Với những ánh đèn dầu, ngôi nhà đó trông như cả trăm năm về trước. Ray đậu xe, băng qua đường và chạy ào vào. Ở phía sau, chàng nghe tiếng thở hổn hển của Jonathan khi ông cố bám theo. Ngồi ở phòng ngoài, viên trung sĩ tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Ông Ray à, sở không hề mời ông đến tối nay. Tôi rất tiếc, hai cháu....

Ray nôn nóng lắc đầu:

- Rob Legler đang bị hỏi cung ở phòng nào?

- Thưa ông Eldredge, chuyện đó không liên quan gì đến ông.

- Ồ, trung sĩ muốn nghĩ thế nào cũng được, nhưng vui lòng báo cho ông thanh tra là tôi cần gặp ông ấy gấp.

Viên trung sĩ chưng hửng, rồi quay sang nói với người cảnh sát đang đi trong hành lang, giọng khô khốc:

- Cậu vào nói với ông thanh tra là Ray Eldredge cần gặp.

Ray nhìn quanh phòng và thấy có cặp vợ chồng đang ngồi trên băng ghế gần cửa. Chàng thắc mắc chẳng hiểu họ đến đây làm gì giữa lúc mưa gió như thế này. Hay là họ gây gổ nhau và bà ấy đã lôi ông chồng đến đây để trình báo? Chàng thấy cái ý nghĩ đó quả là lố bịch. Ở một nơi nào đó bên ngoài căn phòng này, có những người đầm ấm với gia đình, đang ăn tối dưới những ngọn nến, thương yêu con cái, làm tình...

Ray thấy người đàn bà đó đang nhìn chàng chăm chăm. Bà ta nhổm dậy, nhưng bị ông chồng giữ lại. Ray quay lưng về phía họ, cảm thông.

Có tiếng chân bước vội trong hành lang và thanh tra Jed bước vào. Ông hỏi ngay:

- Có chuyện gì thế Ray? Có tin gì mới không?

Jonathan nói:

- Có phải Rob Legler đang ở đây?

- Đúng. Tôi và bác sĩ Lendon đang tra hỏi hắn. Rob yêu cầu có một luật sư và từ chối trả lời.

- Đó là điều tôi lo ngại. Chính vì thế mà chúng tôi có mặt ở đây.

Rồi Jonathan nói nhỏ với thanh tra Jed về kế hoạch của ông.

Thanh tra Jed lắc đầu:

- Chuyện đó không ổn. Hắn ta khá to con. Thuyết phục hắn chịu nhận là đã có mặt gần nhà Eldredge sáng nay là chuyện không dễ.

- Ta cố thử xem. Bộ ông không thấy là thời gian cấp bách lắm sao? Nếu một đồng bọn của hắn vào lúc này đang cầm giữ hai đứa bé, thì hắn ta có thể hoảng loạn và làm bậy...

- Được... Ông hãy vào và nói với Rob. Nhưng chớ có ảo tưởng đây.

Thanh tra Jed hất hàm về phía căn phòng giữa hành lang. Khi Jonathan và Ray bước theo ông, người đàn bà ngồi ở băng ghế bật dậy và e dè gọi:

- Ông thanh tra! Tôi có chuyện cần nói với ông.

Thanh tra Jed quay nhìn:

- Chuyện có quan trọng không?

- Có thể quan trọng lắm. Nhưng tôi không thể yên ổn nếu không... Chính thằng bé con tôi đã...

Nghe đến đó, thanh tra Jed tỏ vẻ không mấy quan tâm. Ông nói:

- Bà vui lòng ngồi đó. Tôi sẽ quay lại tiếp bà khi có thể.

Ellen Keeney lại ngồi xuống và nhìn ba người đàn ông đi vào bên trong. Đứng gần đó, viên trung sĩ thấy rõ sự thất vọng của bà ta.

Anh hỏi:

- Thưa bà, liệu tôi có thể giúp được gì cho bà?

Nhưng Ellen không tin tưởng anh chàng trung sĩ này.

Lúc nãy, khi vào đây, Pat và Ellen đã giải thích cho anh ta rằng đứa con trai của họ có thể đã biết một điều gì đó có liên quan đến chuyện gia đình Eldredge. Thế mà anh ta nói tỉnh khô: "Thưa bà, bà có biết chúng tôi đã nhận bao nhiêu cú điện thoại chứ? Từ khi có thông báo trên đài phát thanh và truyền hình, chuông điện thoại reo không ngớt, nhưng chẳng ai cho được một tin chính xác. Bà vui lòng ngồi chờ đây, ông thanh tra sẽ tiếp bà".

Ellen mở xắc tay và lấy ra mẩu giấy mà người khách lạ đã trao cho Neil để nhờ hắn nhận giùm lá thư. Bà đã ghim mẩu giấy này với tờ giấy mà bà đã ghi tất cả những chi tiết mà thằng Neil đã cho biết, kể cả chiếc xe ông ta, "một xe đời cũ như xe của Gramp" - có lẽ đó là một chiếc Ford đời cũ. Neil cũng cho biết trên kính chắn gió của xe đó có dán tờ giấy phép câu cá của Adam Port.

Ellen dứt khoát ngồi đây cho đến khi có thể kể ra sự việc. Ông Pat xem chừng đã đuối sức.

Cửa phòng mở ra. Một cặp vợ chồng độ tuổi trung niên bước vào. Người chồng trông cáu kỉnh trong khi bà vợ có vẻ lo lắng.

Viên trung sĩ nói:

- Chào ông bà Wiggins... có chuyện rắc rối chăng?

Ông Wiggins càu nhàu:

- Anh có thể tin nổi không? Trời mưa gió thế này mà nhà tôi cứ nằng nặc đòi đến đây khai báo chuyện mất cắp một hộp phấn trẻ con.

- Phấn trẻ con ư? - Viên trung sĩ ngạc nhiên hỏi lớn.

Bà Wiggins càng căng thẳng hơn:

- Chuyện có vẻ ngu ngốc thì mặc kệ. Tôi muốn gặp ông thanh tra.

- Ổng ra ngay bây giờ. Ông bà vui lòng ngồi chờ. Hai người kia cũng đang chờ ổng. - Viên trung sĩ nói và chỉ tay về vợ chồng Keeney.

Trong căn phòng cách đó hai mươi thước, Rob Legler đang nhìn Ray Eldredge bằng một ánh mắt thù nghịch. Hắn thầm nghĩ, thằng cha này trông khá điển trai. Lần này, Nancy hẳn gặp người không đến nỗi tệ; cứ nhớ đến Carl Harmon mà hắn nổi gai ốc. Rob cảm thấy khiếp đảm khi biết hai đứa vẫn còn mất tích. Nếu chúng mệnh hệ gì thì hắn sẽ lãnh đủ. Nhưng cũng may là chẳng ai trông thấy hắn xuất hiện gần nhà Eldredge. Không một nhân chứng nào ngoại trừ thằng cha to con lái chiếc Ford. Biết đâu thằng đó là một nhân viên giao hàng và hắn đi báo cảnh sát thì sẽ ra sao đây? Chẳng ai tin rằng hắn đến Cape với mục đích duy nhất là thăm Nancy.

Rob cố nặn óc để tìm một lời giải thích tương đối hợp lý nhưng chẳng thể nào.

Ông Jonathan nói:

- Cậu là một quân nhân đào ngũ và chỉ với tội này không thôi cậu cũng lãnh đủ từ mười đến hai mươi năm tù.

- Rồi sẽ biết thôi. - Rob nói nho nhỏ nhưng trong lòng hắn biết Jonathan không nói ngoa.

- Dĩ nhiên, tội đào ngũ thì nhẹ hơn là can tội sát nhân.

Rob đứng phắt dậy:

- Tôi không giết ai cả.

- Ngồi xuống! - Thanh tra Jed ra lệnh.

Cố nén giận, Ray bước đến bên Rob:

- Mày là tên rác rưởi. Cách đây bảy năm, lời khai của mày suýt nữa đã đưa vợ tao vào phòng hơi ngạt. Và giờ đây, hẳn mày cũng biết nhiều điều có thể giúp tao tìm kiếm hai đứa bé. Vợ tao tin rằng mày không đủ nhẫn tâm để giết hoặc làm hại chúng. Tao muốn tin là Nancy không lầm. Nhưng sáng nay Nancy đã trông thấy mày và điều đó có nghĩa là mày biết sự việc. Đừng chối rằng mày không lai vãng gần nhà tao. Vô ích thôi! Tao đã có chứng cứ. Nhưng nếu mày chịu hợp tác, nếu hai đứa bé được trả về, tao sẽ không truy tố mày về tội bắt cóc. Và ông Jonathan đây, một luật sư rất nổi tiếng, sẽ bào chữa cho mày để mày được lãnh án nhẹ nhất, ổng quen biết nhiều. Vậy mày nghĩ sao? Chịu hợp tác chứ?

Rob nhìn từng khuôn mặt một... ông thanh tra... bác sĩ... Ray Eldredge và luật sư Jonathan... rồi quyết định chấp nhận lời đề nghị.

Hắn nhún vai và nhìn Jonathan:

- Ông sẽ bào chữa cho tôi chứ?

- Đúng.

- Tôi không muốn bị lãnh cái án bắt cóc trẻ con.

- Chuyện đó cậu khỏi lo. Chúng tôi chỉ muốn biết sự thật - sự thật đúng như cậu đã biết.

Rob tựa người vào lưng ghế, tránh không nhìn Ray. Hắn nói:

- Được, câu chuyện bắt đầu như thế này. Một người bạn của tôi ở Canada...

Mọi người chăm chú nghe. Thỉnh thoảng thanh tra Jed và Jonathan nêu lên một vài thắc mắc. Rob thận trọng chọn những từ chính xác khi kể rằng hắn đến đây chỉ với mục đích là xin tiền Nancy. Hắn nói:

- Theo tôi nghĩ thì cô ấy chẳng có liên quan gì đến cái chết của hai đứa bé trước đây, nhưng khi ra tòa, tôi đã không nói ra điều đó. Tôi giữ ý kiến đó cho riêng tôi. Tội nghiệp cho cô ta. Theo tôi, cổ chỉ là nạn nhân của một vụ dàn dựng.

- Mà trong đó mày có phần trách nhiệm. - Ray nói.

- Anh im đi - Thanh tra Jed quát rồi quay sang Rob - Sáng nay cậu đã có mặt gần nhà Eldredge vào lúc mấy giờ?

- Mười giờ kém hai phút. Tôi lái xe chậm, cố tìm con đường đất nơi mà bạn tôi đã vẽ trong sơ đồ... nhưng biết mình đã lạc lối.

- Tại sao cậu biết?

- À, tại vì có một chiếc xe khác... Tôi phải chậm lại để chờ nó qua.. Rồi tôi bỗng nhận ra rằng nó vừa ra khỏi con đường đất mà tôi tìm.

- Một xe khác? - Ray nhắc lại rồi vùng dậy - Xe nào nữa?

Cửa phòng điều tra xét hỏi đột ngột mở ra và viên trung sĩ chạy ào vào:

- Thưa sếp, hai vợ chồng ban nãy và ông bà Wiggins cần gặp xếp. Theo tôi nghĩ thì họ có chuyện rất quan trọng muốn báo với xếp.

giavui
05-26-2020, 03:23 PM
Chương 30
Cuối cùng, Nancy đã gượng dậy để súc miệng và rửa mặt. Nàng không muốn để thiên hạ biết nàng bị bệnh. Nàng phải che giấu điều đó nếu không người ta sẽ bảo nàng là tâm thần, điên loạn. Họ sẽ chẳng tin nàng, sẽ không hiểu nàng. Nhưng nếu chuyện ngoài sức tưởng tượng lại là sự thật... thì hai đứa bé....

Nàng vội vã vào phòng, kéo hộc tủ để lấy đồ lót rồi chọn một quần tây và cái áo săng-đay dầy. Nàng thấy cần phải đến sở cảnh sát để gặp Rob, nói cho hắn biết ý định của nàng và năn nỉ hắn nói rõ sự thật. Mặc cho người ta bảo ràng nàng điên.

Nàng vội vã mặc đồ, mang đôi giày thể thao và chạy ào xuống nhà.

Dorothy đang chờ nàng ở phòng ăn với bánh sandwich và trà nóng.

Bà nhỏ nhẹ:

- Nancy à... hãy ngồi xuống đây và cố ăn đôi chút...

Nancy nói ngay:

- Tôi cần phải gặp Rob Legler. Tôi có chuyện cần hỏi hắn.

Rồi quay sang Bernie Mills đang đứng ở ngưỡng cửa, nàng nói:

- Anh làm ơn gọi ông thanh tra hộ tôi. Nói với ổng rằng tôi muốn đến gặp ổng... về chuyện hai đứa bé.

Dorothy nắm lấy cánh tay Nancy:

- Nancy à! Tại sao chứ?

- Tôi phải gặp Rob. Hãy gọi sở cảnh sát hộ tôi. Thôi, để tôi gọi cũng được.

Nancy bưóc nhanh đến bên điện thoại. Khi nàng đưa tay định cầm máy thì chuông điện thoại reo. Bernie ào đến, nhưng Nancy đã nhấc ống nghe.

"Alô?" Nàng hỏi nhanh, nôn nóng.

Rồi nàng nghe một giọng thì thấm thật nhỏ, khiến nàng cố láng nghe: "Mẹ, mẹ ơi, đến cứu tụi con. Missy bị bệnh. Đến cứu tụi con".

Nàng gào lên:

- Michael.. Michael! Con ở đâu? Nói cho mẹ biết.

- Con đang ở trong... - Giọng nói im bặt.

Nancy lắc lắc ống nghe và gào lên, "Đừng cúp máy! Đừng cúp máy". Nhưng đã quá trễ. Chỉ còn tiếng vo ve buồn bã vang vang trong tai nàng.

Và Dorothy ở bên nàng:

- Chuyện gì thế Nancy? Ai gọi?

- Michael. Michael vừa gọi. Trời! Chị không tin ư? Michael thật mà.

Rồi, cầm ống nghe trên tay, nàng vội vã nhấn số tổng đài. Không chờ bên kia lên tiếng hỏi, nàng nói ngay:

- Cô có thể cho tôi biết số máy vừa gọi cho tôi? Số máy đó của ai? Từ đâu gọi đến?

- Thưa bà, chúng tôi rất tiếc. Chúng tôi không thể biết. Hiện nay, hầu hết các máy đều không liên lạc được và đường dây hoạt động rất kém. Có chuyện gì vậy, thưa bà?

- Tôi cần biết cú điện thoại mà tôi vừa nhận là từ đâu gọi đến.

- Thưa bà, chúng tôi không thể biết được. Đường dây đã bị hỏng.

Điếng người, Nancy gác ống nghe rồi nói:

- Hẳn ai đó đã cúp máy. Có thể là người đang giữ hai đứa bé.

- Nancy, cô có chắc không? - Dorothy hỏi.

Bernie Mills cố nói bằng một giọng trầm tĩnh:

- Thưa bà Eldredge, có lẽ vì bà quá mệt nên tinh thần không còn tỉnh táo.

Không quan tâm đến câu nói của Bernie Mills, Nancy hỏi Dorothy:

- Michael vừa nói: chúng con đang ở trong... Như vậy, thằng bé biết nó đang ở đâu. Chắc không xa lắm đâu. Chị hiểu chứ Dorothy? Nó nói là Missy đang bệnh.

Nàng nghe từ cõi xa xăm một tiếng nói khác, "Lisa đang bệnh... Con bé không được khỏe". Đã lâu lắm, nàng từng nói với Carl như thế.

Nancy quay sang nói với Bernie Mills:

- Anh vui lòng cho biết số điện thoại của sở cảnh sát.

Nàng cố đẩy lùi sự yếu đuối đang dâng lên trong tâm trí như một đám mây mù. Thật quá dễ để ngã xuống... để buông xuôi. Nhưng không, nàng không có quyền trở bệnh... Nàng phải tìm các con.

Tựa người vào bàn, nàng nói bằng giọng trầm tĩnh:

- Có thể anh nghĩ rằng tôi mất trí, nhưng tôi quả quyết rằng đó là giọng nói của con trai tôi. Vui lòng cho tôi số điện thoại của sở cảnh sát?

- Hãy nhấn số KL 53800. - Bernie Mills đáp và nghĩ rằng Nancy không còn thực sự tỉnh táo... Cô ta cho rằng đó là con trai cô nhưng có thể là ai khác, không chừng.

Điện thoại ở đầu dây bên kia reo lên và ngay sau đó là giọng: "Sở cảnh sát Adam Port nghe đây. Tôi là trung sĩ..."

Khi Nancy định nói "Cho tôi gặp tranh tra Jed..." thì cúp máy. Nàng cáu kỉnh lắc lắc cái ống nghe rồi nói: "Đường dây đã hỏng".

Bemie Mills nói:

- Giông bão thế này thì hỏng đường dây là chuyện thường.

Nancy lắc đầu:

- Thế thì anh đưa tôi đến sở cảnh sát vậy! Ừ, mà thôi, anh hãy đến đó một mình để báo cho họ. Tôi cần ở lại đây, biết đâu đường dây điện thoại được nối lại và Michael có gọi... Anh hãy cho họ biết là Michael đã gọi về nhà. Hãy nói họ đưa Rob Legler đến đây. Chúng tôi chờ.

Bernie Mills đắn đo suy nghĩ. Thanh tra Jed đã dặn anh trực ở đây, nhưng vì đường dây điện thoại đã hỏng, nên chẳng thể liên lạc về sở. Nếu Nancy đi với anh, có lẽ thanh tra Jed sẽ không đồng ý với lối giải quyết đó. Nếu bỏ Nancy lại đây, anh chỉ mất mười phút để thông báo cho sở biết là thằng bé đã gọi về nhà. Biết đâu đó là chuyện có thật mà nếu anh bỏ qua, không báo cho ông thanh tra thì sẽ chịu trách nhiệm.

Cuối cùng, anh quyết định:

- Tôi đi đây. Quý vị hãy ở yên đó.

Rồi vội vã chạy ra xe.

Nancy nói với Dorothy:

- Chị Dorothy à, Michael biết nó đang ở đâu. Nó đã nói: "Tụi con đang ở trong..." chị hãy nghĩ đi. Nếu chị đang ở ngoài đường thì chị sẽ nói, chẳng hạn tôi đang ở trên quốc lộ 6A, nhưng nếu chị đang ở nhà thì chị sẽ nói tôi đang ở trong nhà hoặc trong nhà hàng, chị hiểu tôi muốn nói gì chứ? Ồ, hẳn phải có một phương cách để chúng ta có thể hiểu ra. Hẳn phải có một điều gì đó giúp chúng ta hiểu. Rồi Michael nói rằng Missy đang bệnh. Theo lẽ sáng nay tôi không nên để con bé ra vườn, vì trời nhiều gió. Nhưng tôi không muốn chăm sóc thái quá các con như thể chúng đang bệnh. Giờ đây tôi đã hiểu tại sao. Tất cả chỉ vì Carl và cái lối chăm nom của ông ấy đối với các con... cái lối chăm nom của ông ấy đối với tôi. Chính ông ta mới bệnh. Bây giờ, tôi đã rõ. Vì thế sáng nay tôi đã để Missy ra vườn chơi. Tôi biết trời ẩm và hơi lạnh đối với Missy, nhưng tôi đã thầm nghĩ, chỉ nửa tiếng thôi. Chính vì vậy mà tôi đã mang đôi bao tay màu đỏ cho con bé và dặn nó đừng tháo ra kẻo lạnh. Đó là đôi bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo. Nhưng có một chiếc đã rơi trên cái đu. Ồ! Phải chi tôi đừng để chúng ra vườn!

Nancy quay phát lại khi nghe bà Dorothy nghẹn ngào gào lên:

- Dorothy, tại sao chị lại hỏi về đôi bao tay của Missy? Phải chăng chị đã biết một điều gì đó?

Dorothy đưa hai tay ôm mặt, nức nở:

- Tôi biết hai đứa bé đang ở đâu. Ồ! Tôi đã biết... Lạy Trời, sao tôi ngu thế chứ...

Bà rút cái bao tay màu đỏ từ túi áo ra và tiếp:

- Lúc chiều... tôi đã nhặt được nó trên nền gara... và tôi tưởng là tôi đã làm rơi nó từ xe tôi. Người đàn ông kỳ dị đó... tôi thấy hắn ta có vẻ không lương thiện. Cái mùi chua như dấm... và mùi phấn talc con nít... Ồ! Chúa tôi!

Nancy chụp lấy cái bao tay:

- Chị Dorothy à, xin chị hãy giúp tôi. Chị đã nhặt được cái này ở đâu?

Dorothy tưởng chừng không đứng vững trên đôi chân:

- Tại ngôi nhà Tháp Canh, khi tôi dẫn khách đến xem.

- À, ngôi nhà mà Parrish đã mướn. Tôi chưa hề găp người đàn ông đó.

Trong thoáng chốc, Nancy cảm thấy hoàn toàn sáng suốt; nàng hiểu ra sự thật và nhận thấy có thể là đã quá muộn. Nàng nói tiếp:

- Chị Dorothy à, bây giờ tôi phải đến đó ngay... Hai đứa con tôi chắc đang ở đó. Có thể tôi sẽ đến kịp. Chị hãy đi báo cho Ray và cảnh sát. Hãy bảo họ đến đó ngay, chị có giữ chìa khóa của ngôi nhà chứ?

Dorothy đã bớt run. Cũng tựa như Nancy giọng nói của bà đã trầm tĩnh:

- Cửa nhà bếp có then cài bên trong. Nếu đã cài then thì không mở được. Nhưng cô có thể vào bằng cửa chính, cửa hướng ra vịnh. Hắn ta không sử dụng cửa này và tôi cũng chẳng trao cho hắn chìa khóa.

Dorothy lấy từ túi áo ra xâu chìa khóa và trao cho Nancy:

- Cái chìa này là cửa chính, có thể mở được cả hai ổ khóa. Cô giữ đi.

Nghe Nancy quyết định tới ngôi nhà Tháp Canh một mình, Dorothy không hề phản đối. Cả hai vội vã ra khỏi nhà bằng cửa sau, và mỗi người chạy về xe mình. Dorothy nhường cho xe Nancy đi trước. Bà nín thở khi thấy xe Nancy lao đi trên con đường trơn trượt.

Trời tối om. Hầu như chẳng thể trông thấy gì. Băng giá đóng thành lớp trên kính chắn gió. Nancy hạ kính và thò đầu ra cửa xe để có thể trông thấy con đường trước mặt. Nàng buộc phải nheo mắt lại trong cơn mưa tuyết. Nàng phóng xe đến quốc lộ 6A, vượt qua quốc lộ và theo con đường ngoằn ngoèo dẫn lên ngôi nhà Tháp Canh.

Khi leo lên sườn dốc thì xe trượt bánh. Nancy nhấn thêm ga, cố đưa xe về hướng cũ nhưng rồi xe trượt nhanh, ngoằn ngoèo trên con đường băng giá. Nàng thắng gấp làm chiếc xe quay ngược đầu. Nàng cố kềm lại nhưng quá muộn. Xe lao về bên phải, húc mạnh vào một thân cây.

Toàn thân Nancy bị đẩy tới trước rồi hất ngược ra sau. Nàng vội vã mở cửa xe, đắm mình trong cơn bão tuyết.

Vào đến lối đi dẫn lên ngôi nhà Tháp Canh, Nancy trượt ngã. Chẳng còn biết đau đớn, nàng lao nhanh đến nhà, nhủ thầm "Cầu mong đừng quá muộn, cầu mong đừng quá muộn". Như lao vào một đám mây đen, nàng thấy mình đang nhìn Lisa và Peter trên những chiếc bàn đá ở nhà xác... Khuôn mặt trắng bệch và phù lên vì nước của chúng... với những mảnh bao plastic còn bám trên đó. Nàng lẩm bẩm, "Lạy Trời, xin thương xót!"

Nàng vội vã men theo hàng ngói gỗ để đến cửa chính. Cái chìa khóa trên tay nàng ướt nước và giá rét. Ngoại trừ lầu ba có chút ánh sáng hắt ra từ một cửa sổ, phần còn lại của ngôi nhà hoàn toàn chìm trong tăm tối. Khi ra đến mặt tiền ngôi nhà, nàng nghe vang vang tiếng sóng ì ầm trên những mỏm đá. Ở mặt này, bờ biển chỉ toàn đá và đá. Bãi cát ở xa hơn, phía trái.

Nancy không ngờ ngôi nhà cao đến thế. Từ các cửa sổ sau nhà, hẳn người ta có thể trông thấy toàn bộ thành phố.

Từ họng nàng thoát ra những tiếng nấc hổn hển. Tim nàng đập thình thịch. Những ngón tay rét cóng của nàng vụng về nhét chìa khóa vào ổ. Nàng cảm thấy chìa khóa như khựng lại trong ổ hoen rỉ và rồi lách qua. Cửa đã mở.

Bên trong tối om - tối hết sức. Nancy chẳng thấy gì trong cái mùi ẩm mốc ngoại trừ chút ánh sáng hắt xuống từ lầu ba, làm tăng thêm sự im vắng khủng khiếp. Nàng cố tìm cầu thang và nén cái thôi thúc gọi lớn, "Michael!".

Dorothy đã cho nàng biết là có hai cầu thang, đàng sau căn phòng lớn mặt tiền - căn phòng mà nàng đang đứng. Vì quá tối, nàng buộc phải đưa hai tay ra đàng trước để bước đi. Cố tránh không gây tiếng động, nàng dò dẫm và vấp phải một thứ gì đó khiến nàng suýt té nhào nếu không nhanh tay bám vào một vật mà nàng nghĩ là thành trường kỷ hoặc tay ghế bành. Nàng đi né sang một bên và lắng tai nghe ngóng... hình như nàng vừa nghe thấy... một tiếng kêu... hay chỉ là tiếng gào của gió trong ống khói lò sưởi?

Cuối cùng, nàng đã mò tới cầu thang. Vì đôi giày sũng nước kêu rin rít nên nàng quyết định cởi giày. Những bậc thang lót gỗ phát ra những tiếng động nhỏ ở mỗi bước chân của nàng.

Lên tới thềm cầu thang lầu ba, Nancy dừng lại để lấy hơi. Cửa phía trên để mở và ánh đèn bên trong hắt lên tường một cái bóng. Nancy nghe có giọng nói - giọng nói của Michael... "Đừng làm thế! Đừng làm thế!"

Như kẻ mất trí, nàng lao lên. Khi đã đến bên trên, nàng khựng lại. Ánh đèn hắt ra từ cuối hành lang. Thật nhẹ nhàng, nàng nhanh nhẹn băng ngang qua căn phòng đầu tiên - hẳn là phòng khách - âm u và im vắng, rồi hướng mắt nhìn vào phòng bên, nơi hắt ra ánh sáng của ngọn nến, nàng trông thấy một người to lớn đang quay lưng về phía nàng, một tay giữ đứa bé trên giường trong khi tay kia tròng cái bao plastic vào đầu một đứa bé khác, có mái tóc vàng.

Y đang khúc khích cười.

Trong thoáng chốc, Nancy trông thấy đôi mắt khiếp đảm của Michael, cái đầu thằng bé đã bị bọc kín trong bao plastic. Nang hét lớn: "Buông nó ra, Carl!..." Chỉ sau khi đã hét nàng mới biết mình đã tự động thốt lên cái tên "Carl".

Người đán ông quay phắt lại, nhìn Nancy bằng ánh mắt bóc lửa. Rồi sự kinh ngạc đó đã thay thế bằng sự xảo quyệt trong ánh mắt. Y thốt lên, "Em!" Nàng còn nhớ giọng nói của y, cái giọng nói mà trong suốt bảy năm trời nàng đã tìm cách để xóa đi trong trí nhớ. Y tiến về phía nàng, vẻ đe dọa. Nàng thấy mình phải né tránh để chạy nhanh đến bên Michael; thằng bé không còn thở nổi.

Rồi y nhào đến. Nàng ngả người ra sau, thấy cổ tay mình đã bị giữ chặt, cả hai ngã xuống, nặng nề, vụng về. Cùi chỏ y thúc vào sườn nàng. Nàng đau điếng, nhưng đồng thời thấy cổ tay mình đã được buông ra. Khuôn mặt phị và nhợt nhạt của y kề sát nàng, cùng với cái mùi chua như giấm, rin rít... cái mùi của dạo ấy.

Trong cơn hoảng loạn, nàng húc mạnh và cắn vào má y. Y gào lên điên tiết, dộng vào nàng nhưng đồng thời cũng nơi lỏng vòng tay. Nàng gượng dậy, thoát khỏi bàn tay đang giữ nàng. Nàng nhảy bổ đến giường, xé toạc cái bao plastic trên đôi mắt trợn trừng và hai má xanh mét của Michael. Nàng nghe thằng bé đã hít thở trở lại khi nàng quay mặt để đương đầu với Carl. Y chụp lấy nàng và kéo về phía y.

Nàng đưa hai tay đẩy ra, nhưng y đã ôm nàng, khiến nàng oằn người ra sau. Trong khi vùng vẫy để thoát thân, Nancy chạm phải bàn chân Missy đang cựa quậy. Nàng mừng thầm khi biết Missy vẫn còn sống. Nàng biết chắc như thế. Nàng cảm nhận điều đó.

Nàng hét lên - một tiếng hét dài, thật dài, cầu xin sự trợ giúp. Rồi bàn tay Carl áp lên mũi và miệng nàng. Nàng vô vọng cố cắn vào gan bàn tay to lớn đó, bàn tay đang chặn đứng hơi thở và kéo một màn đen lên mắt nàng.

Khi nàng đã ngạt thở và chìm dần vào hôn mê thì sức ép của bàn tay to lớn đó bỗng nhiên nhả ra. Nàng hổn hển lấy lại hơi thở và nghe có ai đó gọi tên mình. Thì ra, Ray! Đúng là Ray. Nàng há họng gọi chàng nhưng không thể lên tiếng.

Tựa người lên khuỷu tay, nàng nhổm dạy. Có tiếng Michael, "Mẹ. Mẹ ơi, ông ấy bắt Missy!" Đúng là Michael. Nó đang lay nàng.

Khi nàng đã đứng hẳn lên thì Carl đang chạy đi, mang theo một hình thể bé bỏng đang vùng vẫy và khóc ngất.

Nàng thều thào:

- Carl, hãy bỏ nó xuống! Đừng có đụng đến nó!

Carl quay lại, nhìn bằng ánh mắt lạc thần rồi luống cuống chạy tiếp. Nàng nghe tiếng rổn rảng của bàn ghế khi Carl va phải trong bóng tối của phòng bên và nàng lảo đảo lao theo. Có tiếng chân chạy ở cầu thang. Tuyệt vọng, nàng lắng tai nghe ngóng và nghe thấy tiếng chân Carl đang chạy dọc theo hành lang. Nàng thấy bóng y đậm nét trên khung cửa sổ. Y đang leo lên cầu thang dẫn lên tầng dưới - mái. Nàng lên theo, đuổi kịp, cố nắm lấy chân y. Tầng dưới mái rộng mênh mông, với trần thấp và những xà ngang to lớn. Nơi đây nồng nặc mùi ẩm mốc và tối tăm đến nỗi nàng rất khó trông thấy Carl.

Nàng hét lớn:

- Cứu tôi! Cứu tôi với! Ở đây này Ray!

Nàng xẩy chân, nhưng vẫn cố dõi theo tiếng bước của Carl. Nàng thắc mắc không biết y đang ở đâu. Và bỗng nàng hiểu ra: cái thang cây. Y đang leo lên cái thang ọp ẹp dẫn lên mái nhà. Như vậy là y muốn ra cây cầu nhỏ của góa phụ, một ban công hẹp và cheo leo bao quanh ống khói, nằm giữa hai tháp nhỏ của mái nhà.

Nàng lớn tiếng:

- Carl à, đừng lên trên đó. Nguy hiểm lắm! Hãy xuống đi...

Nàng nghe hơi thở khàn khàn của y, cứ như tiếng cười lẫn tiếng thổn thức. Nàng lao theo, cố giữ chân y lại, nhưng vừa chạm được chân y thì nàng lãnh ngay một cú đạp vào trán khiến nàng trượt xuống thang.

Không buồn quan tâm đến dòng máu đang chảy xuống mặt và sự đau đớn do cú đạp mạnh bằng giày, Nancy tiếp tục leo lên và năn nỉ:

- Carl, hãy đưa con bé cho em. Carl, hãy dừng lại đi.

Nhưng Carl đã lên đến cuối thang và đẩy cánh cửa ra mái nhà. Cánh cửa ken két mở ra, tuyết tan tràn vào như lũ.

Nancy lại năn nỉ:

- Carl à, anh không thoát được đâu. Anh là người bệnh. Em sẽ nói với họ là anh bị bệnh.

Một cơn gió ào đến, đập mạnh cửa vào tường nhà. Missy ré lên: "Mẹẹẹ!"

Carl leo lên ban công. Nancy cố bám theo, tựa vào khung cửa. Khoảng cách giữa lan can và ống khói nhà chỉ đủ chỗ cho một người đứng. Nàng vô vọng túm lấy áo Carl, cố giữ y lại, không để y lao ra ban công. Nàng sợ y sẽ rơi xuống hoặc xẩy tay để rơi Missy... nàng gào lên:

- Ồ! Carl, dừng lại! Dừng lại!

Mưa tuyết xối xả trút xuống. Carl quay lại, toan đạp Nancy thêm một cú nữa nhưng vấp ngã ra sau. Y ôm chặt Missy vào lòng hơn. Rồi, bám tay vào thành ban công để khỏi té ngã, y cười rộ lên từng cơn. Băng giá phủ dày ban công. Y bỏ Missy xuống trên lan can và chỉ giữ con bé bằng một tay.

Y nói với Nancy:

- Này cô bé, đừng có đến gần, nếu không tôi sẽ đẩy nó xuống. Hãy bảo bọn chúng đừng động đến tôi. Nói với chúng hãy để cho tôi ra đi.

- Carl à, em sẽ giúp anh. Hãy đưa con bé cho em.

- Cô không hề giúp tôi. Cô chỉ muốn bọn chúng làm hại tôi.

Y vắt một chân qua thành ban công.

Nancy gào lên:

- Đừng làm thế Carl! Anh vốn sợ nước mà. Anh rất sợ ngập đầu vào nước mà. Hẳn anh biết điều đó. Chính vì thế mà theo lẽ em phải biết là anh không tự sát. Anh không thể trầm mình tự vẫn. Anh biết điều đó mà, Carl!

Nàng cố giữ một giọng ôn tồn, bình tĩnh và vỗ về. Nàng bước thêm một bước về lan can. Missy đang giơ hai tay cầu cứu.

Rồi nàng nghe những tiếng răng rắc... tiếng gỗ gãy đổ. Lan can đang sụm xuống. Những thanh chống bằng gỗ của lan can đã gãy vì không chịu nổi sức nặng của Carl. Y đột ngột đưa hai tay ra, đầu ngã ngửa ra sau.

Y đã buông Missy. Nancy nhào đến và chụp lấy đứa con. Nàng lảo đảo ở rìa ban công. Khi toàn bộ lan can sụp hẳn. Carl gào lên, túm lấy cẳng chân nàng khi rơi xuống.

Rồi, trong khi nàng cảm thấy mình đang bị lôi đi thì hai canh tay vạm vỡ ôm lấy thân nàng để giữ lại đồng thời ép cái đầu Missy sát vào cổ nàng và đưa cả hai mẹ con lên. Nancy ngã gục lên Ray khi tiếng thét tuyệt vọng của Carl vang lên. Y đang trượt dài trên mái nhà băng giá để rơi xuống trên những con sóng bạc đầu đang ì ầm giữa những mỏm đá.

giavui
05-26-2020, 03:23 PM
Chương 31
Lửa lan dần trên những khúc củi. Căn phòng thơm mùi gỗ cháy quyện lẫn với mùi cà phê. Ngồi ở trường kỷ, Nancy ôm bé Missy đang ngon giấc trong vòng tay nàng.

Để trả lời những thắc mắc của bác sĩ Lendon, Michael kể lại sự việc: "... khi đang đánh nhau thì người đàn ông dễ mến đó bảo cháu hãy đi kêu cứu, nhưng cháu không muốn rời ngôi nhà nếu không có Missy cùng theo.. Vì vậy cháu đã chạy lên lầu trên để kiếm Missy và gọi điện cho mẹ. Nhưng rồi điện thoại hỏng. Cháu cố bế Missy xuống cầu thang, nhưng người đàn ông hung dữ đã lên đến..." Đặt tách cà phê xuống, thanh tra Jed Coffin rà soát lại lời tuyên bố mà ông sẽ dành cho báo chí: "Khi được vớt lên, giáo sư Carl Harmon, bí danh Courtney Parrish, đang trong tình trạng hấp hối. Trước khi từ trần, ông đã thú nhận mọi chuyện, cho biết ông chính là kẻ đã giết Peter và Lisa, cách đây bảy năm. Ngoài ra ông cũng nhận đã ám hại mẹ Nancy. Vì nghĩ rằng bà ta sẽ không tán thành cuộc hôn nhân giữa ông và Nancy, nên ông đã phá hoại trục lái của xe khi bà ăn tối với Nancy ở nhà hàng. Sau khi bị giáo sư Carl Harmon đập vào đầu, ông John Kragopoulos đã được đưa đến bệnh viện Cape Cod trong tình trạng hôn mê, nhưng các bác sĩ cho biết ông sẽ qua khỏi và không gặp một vấn đề nghiêm trọng nào".

Thanh tra Jed cảm thấy mệt mỏi. Ông quyết định sẽ đọc lời tuyên bố này và về nhà. Dẫu có nhiều sai sót khi tỏ ra nghi ngờ Nancy và thiếu hợp tác với Jonathan, Ray và bác sĩ Lendon, nhưng ông thấy mình đã chuộc được những lỗi lầm đó, khi lao xe thật nhanh để đưa Ray đến ngôi nhà Tháp Canh, Ray có thể leo lên mái kịp lúc. Ngoài ông ra, chẳng ai dám lái xe với một tốc độ kinh khủng như thế trên con đường dốc ngoằn ngoèo và trơn trượt. Khi trông thấy xe Nancy đã húc vào một thân cây bên đường, Ray muốn dừng lại nhưng Jed đã lao xe đi tiếp. Trực giác cho ông biết là Nancy đã rời xe và đang có mặt trong ngôi nhà. Trực giác ông quả không sai và ông không có gì để lên án mình ở điểm này.

Jonathan chăm chú nhìn Dorothy một lúc, rồi hỏi:

- Chắc chị mệt lắm thì phải?

Thấy bà ta vẫn buồn bã, ông nói tiếp:

- Này Dorothy, chị không nên tự dằn vặt mình. Ngày hôm nay, tất cả chúng ta đều đã không lưu ý đến một số sự việc và điều đó suýt nữa đã dẫn đến tai họa. Như tôi chẳng hạn, cứ mỗi lần ngang qua ngôi nhà đó, tôi cảm thấy khó chịu vì bị một thứ ánh sáng hắt vào mắt. Ngay cả sáng nay, tôi đã tính yêu cầu Ray hỏi xem lão mướn nhà đã đặt cái thứ gì trước cửa sổ của lão. Với kinh nghiệm của một luật sư, hẳn tôi phải nhớ đến cái chi tiết này và giúp cho cuộc điều tra trở nên nhanh chóng hơn. Và còn một sự việc nữa: nếu chị dời lại cái hẹn, không đưa ông Kragopoulos đi xem nhà, thì hẳn Carl Harmon đã thực hiện được ý đồ đen tối của y.

Dorothy lắng nghe và đồng ý với quan điểm của Jonathan. Bà bỗng chốc thấy nhẹ nhõm, thư thái:

- Xin cám ơn anh. Tôi cần nghe những lời như vậy.

Jonathan vỗ nhẹ vào cánh tay Dorothy:

- Đường sá vẫn còn trơn trượt. Lát nữa, tôi sẽ đưa chị về.

Cùng lúc với tiếng gió, cơn bão tuyết bỗng chốc lắng xuống.

Michael nói bằng giọng ngái ngủ:

- Mẹ ạ. Hôm nay sinh nhật mẹ mà con không có quà tặng mẹ.

Ray nói:

- Con đừng lo. Ngày mai chúng ta sẽ mừng sinh nhật mẹ.




Hết