duyanh
03-07-2018, 12:25 PM
Đồng Bằng Sông Cửu Long dưới tác hại đập nước của Trung Cộng và đê bao của Việt Cộng
https://3.bp.blogspot.com/-GvW2PR3nb6E/Vwxu8fwiWgI/AAAAAAAB-9c/H91L4LMPBCsMSh2qYe5VPYhi0TtfDOQuQCLcB/s640/%25C4%2590o%25CC%2582%25CC%2580ng%2Bba%25CC%2586%2 5CC%2580ng%2Bso%25CC%2582ng%2BCu%25CC%259B%25CC%25 89u%2BLong-babui-danlambao.jpg
Lâm Văn Bé (Danlambao) - Đồng Bằng Sông Cửu Long đã và đang đối diện với những tàn phá của thiên tai như lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng cao do hiện tượng biến đổi khí hậu. Ngoài thiên tai, ĐBSCL còn phải gánh chịu những tác hại do chính con người tạo ra, hoặc để sinh tồn, hoặc để chống đỡ với thiên nhiên như các đập nước của Trung Cộng và các đê bao ngăn nước mặn của Việt Cộng. Cho đến nay, các tác hại của những đập nước của Trung Cộng chưa được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu về cường độ, tác nhân và đối tượng của sự tàn phá đối với các quốc gia ở hạ nguồn.
*
Eugene K. Chow, chuyên viên về các vấn đề ngoại giao và quân sự, trong bài viết tựa là China in Weaponizing Water đăng trong The National Interest ngày 26 tháng 8 năm 2017 có đoạn nhập đề phỏng dịch như sau:
"Trung Quốc sở hữu một vũ khí nguy hiểm cho phép Trung Quốc giữ làm con tin một phần tư dân số trên thế giới mà không cần bắn một phát súng. Trong khi mọi người chỉ quan tâm đến Trung Quốc với một lực lượng quân sự tối tân đáng sợ, nhưng họ không nghĩ đến kho vũ khí vô hình ghê gớm của Trung Quốc là các đập nước. Với hơn 87 000 đập nước và làm chủ cao nguyên Tây Tạng, nơi phát xuất 10 con sông lớn trên thế giới mà 2 tỉ người lệ thuộc, Trung Quốc đang sở hữu một vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chỉ cần bật một nút bấm, Trung Quốc có thể xả hàng trăm triệu gallon nước từ các đập nước khổng lồ, gây ra tai họa lũ lụt và thay đổi các hệ sinh thái cho các quốc gia ở hạ nguồn".
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm trong quốc gia cuối cùng ở hạ nguồn sông Mekong, là một trong số đối tượng của Trung Quốc trong hiểm họa tàn phá nầy.
BS Ngô Thế Vinh, tuy không phải là chuyên viên thủy học và môi trường học, nhưng từ 20 năm nay đã để tâm nghiên cứu về sông Mekong và ĐBSCL, đã đi quan sát thực địa sông Mekong từ nguồn qua các quốc gia ven sông, đã xuất bản hai quyển sách về chủ đề nầy là Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng (NXB Văn Nghệ, 2000) và Mekong, dòng sông nghẽn mạch (NXB Văn Nghệ Mới, 2007) đã có đoạn viết như sau nhân cuộc quan sát thực địa vùng ĐBSCL hồi tháng 12/2017:
"Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay" (Ngô Thế Vinh. "Cổng đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả" đăng trong báo Tiếng Dân ngày 13/2/2018).
Nhận định của BS Ngô Thế Vinh đã được TS Tô Văn Trường phản bác trong một bài phân tích khá dài đăng trên hai trang mạng Tiếng Dân và Bauxite VN ngày 22/2/2018 có đoạn như sau:
"Đọc cả bài "Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả” cho thấy tác giả mới chỉ đưa ra những nhận định mang cảm tính, trực quan của cá nhân dựa trên chuyến đi thực tế cùng một số chuyên gia quen biết, chưa có một phân tích, một đánh giá nào mang tính khoa học, định lượng,… Chưa thấy một con số một đoạn viết nào có nội dung khoa học chứng minh về nhận định của tác giả… Đây là ý kiến của những người thích “chém gió” không có kiến thức cơ bản về thủy văn, thủy lực dòng chảy trên sông…"
Ngày hôm sau (23-2), cũng tại hai trang mạng trên, nhà báo Lê Phú Khải, đã từng có nhiều liên lạc với các đảng viên cao cấp cũng có bài chỉ trích Ngô Thế Vinh và biện hộ cho chế độ bằng lời lẽ tự cao trịch thượng:
"Hơn 30 năm là người quan sát (observateur) Đồng Bằng Sông Cửu Long, quan sát từng bước đi, từng công trình, cả thành quả đến những khiếm khuyết được uốn nắn kịp thời, tiếp xúc từ người nông dân đến ông Thủ tướng vốn là nông dân sinh ra và lớn lên ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là ông Võ Văn Kiệt… tôi xin nói rõ: Không dễ gì những ông chủ tịch tỉnh như ông Nguyễn Minh Nhị (7 Nhị), thủ tướng như Võ Văn Kiệt là những người có quyền lại dễ dàng nghe các anh “trí thức Bắc Kỳ” như tiến sỹ Tô Văn Trường, tiến sỹ Đào Xuân Học, Mai Văn Quyền “xui dại” trong việc trồng lúa, đắp đê bao v.v… và v.v… Hơn nữa, những trí thức như Võ Tòng Xuân, giáo sư Nguyễn Ngọc Trân… họ đều là các chuyên gia được đào tạo từ chế độ Sài Gòn cũ và ở nước ngoài… đấy thôi" (!)
Người viết cần nói thêm là ông Lê phú Khải đã gởi bản thảo tác phẩm "Lời Ai Điếu" cho Nhật báo Người Việt ở California xuất bản và được quảng cáo rần rộ là một best-seller sách tiếng Việt. Điều ngạc nhiên là trong sách, ông chỉ trích nặng nề nhiều nhân vật cao cấp trong đảng mà ông vẫn bình chân như vại. Phải chăng, ông cũng cùng một "type" với Huy Đức tác giả Bên Thắng Cuộc?
Chưa hết, ngày 28-2, bài phản biện thứ ba của TSKS Nguyễn Phúc Vĩnh Phong, chuyên viên thủy lợi, với văn phong ôn tồn cởi mở hơn:
"Bài phản biện của TS Tô Văn Trường trả lời nhà văn Bác sĩ y khoa Ngô Thế Vinh trên vấn đề hệ lụy do các công trình thủy lợi lên hệ sinh thái ĐBSCL nhắc chúng ta là không ai có thể đúng 100% cả; chúng ta chỉ có thể hiến tặng những gì chúng ta có sẵn trong hầu bao mà thôi. Bác sĩ Ngô Thế Vinh mặc dầu không phải chuyên nghề thủy lợi như Tiến Sĩ Tô văn Trường nhưng cũng đã phát biểu ý kiến có tầm nhìn đúng phần nào trong tương lai xa; như khi đề cập đến các hồ chứa thủy điện xuyên mùa trên sông Lan-thương (tên người Trung Quốc gọi sông Mê-kông trong vùng đất của họ) đã xướng lên hoàn cảnh Cửu Long cạn dòng; cạn dòng nước và nhất là cạn dòng phù sa vào ĐBSCL của nước Việt Nam chúng ta. Hết phù sa thì ĐBSCL sẽ không thể còn là vựa lúa bền vững sinh thái của Việt Nam chúng ta nữa; chúng ta sẽ phải dùng nhiều phân hoá học để tiếp tục sản suất nông nghiệp; nguồn nước dân sinh, nuôi trồng thủy sản sẽ bị ô nhiễm bởi lượng phân hoá học dư thừa không được cây cối hấp thụ…"
Rõ ràng là chuyện tác hại các đập nước trên dòng Mekong đã chuyển thành cuộc "đôi co" giữa các chuyên gia mà có người cao giọng như bên thắng cuộc Miền Bắc nói với các người bị xem là bọn chém gió bên thua cuộc Miền Nam trong việc quản lý đất đai, sông nước vùng ĐBSCL.
Từ những nhận định trên, bài viết lược khảo hiện trạng vùng ĐBSCL qua 1/ một số dữ kiện địa chánh trị liên quan đến sông Mekong, 2/ các tác động của các đập thủy điện trên sông Mekong và 3/ hậu quả của chánh sách đắp đê ngăn nước mặn trên sông Cửu Long và vùng ven biển. Như thông tin về một vấn đề phức tạp và nhiều tranh cãi, người viết phản ảnh những quan điểm dị biệt của những người trong cuộc, từ người nông dân đến chánh quyền, từ các chuyên gia thực sự am tường ngọn rau cọng cỏ của vùng đất nầy đến các tiến sĩ dỏm ngự trị trong các phủ bộ, viện nghiên cứu ở Hà Nội.
Và sau cùng, bài viết như một đóng góp khiêm tốn trong loạt bài nhận định về bài viết của BS Ngô Thế Vinh của một người tuy không phải là chuyên gia về thủy lợi, nhưng cũng biết thế nào là thủy nông, biết địa hình địa vật và tâm tư của con người vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long trước khi đoàn quân thủy lợi từ miền Bắc tràn vào đào xới vùng đất nầy.
Mekong, dòng sông phúc lợi cho 6 quốc gia
Sông Mekong là dòng sông hạng 10 thế giới nếu kể theo lưu lượng (trung bình 13 200 m3/s, mùa nước lũ có thể đến 30 000 m3/s), hạng 12 nếu kể theo chiều dài (4 350 km) với lưu vực 795 000 km2, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. (Wikipedia).
Về vị trí chính xác của nguồn sông, theo Encyclopedia Britannica thì sông Mekong phát nguyên ở triền phía Bắc của núi Tanggula có cao độ 4 900 m, nhưng nhiều tài liệu xác nhận những địa điểm khác nhau, do đó chiều dài và cao độ con sông cũng khác nhau.
Từ khi nhà thám hiểm Pháp Jules-Léon Dutreuil de Rhins lần đầu tiên công bố vào năm 1894 nguồn của sông Mekong là con suối Lungmung chảy qua bộ lạc Zayaqu ở cao độ 5 055m trên cao nguyên Tây Tạng cho đến báo cáo năm 2014 của Peter Neele đăng trong Japanese Alpine News, nhiều đoàn thám hiểm ngoại quốc và Trung Quốc đã thăm dò, nghiên cứu thực địa và tuy có công bố của cơ quan thẩm quyền Trung Quốc, nhưng đến nay các đoàn thám hiểm vẫn còn tiếp tục.
Năm 1999, Viện Khoa học địa lý và Nghiên Cứu Tài nguyên thiên nhiên thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc, sau nhiều cuộc điều tra toàn diện trực tiếp vả nghiên cứu tài liệu đã kết luận nguồn thật sự của sông Mekong là sông Zayaqu trên núi Guosongmucha, cao độ 5514m, thuộc thị trấn Zadoi, quận Yushi thuộc Khu tự trị Tây Tạng, tỉnh Thanh Hải (The Source of Mekong River-Sangri-La River Expeditions).
Trước đó, năm 1994, Viện Khoa Học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences CAS) phối hợp với Đại học Nông Nghiệp Tokyo (Tokyo University of Agriculture TUA) sau cuộc thăm dò thực địa và khoa học đã công bố nguồn của sông Mékong là một con suối tên là Lasagongma ở cao độ 5224 m. Dữ kiện nầy sau đó được xác nhận vào năm 1999 như dữ kiện chính thức. (Final determination of the source of the Mekong River).
https://lh4.googleusercontent.com/Zgy7-T3ycpielUcnjhjyJTEMzIPCaIC1JeuuRlEjdyZMNJb22esxGDs sDZn_GUPF_TqcYtC265xfQ8XYD_PW-2G-7r1A8W39HwW9qkgnJ7Fn09ZHv2wnUIuRzhjf3Ow5AIb9Eq5Ski MQydx9qg
Bản đồ trên ghi những địa điểm nguồn sông Mékong không được công nhận: Lungmung (1894), Rupsa (1994), Jifu (1999) và nguổn được công nhận bởi Viện Khoa Học TQ: Lasagongma (1994, 1999).
Ref: Tomotsu Natamura & PeterWinn. Final determination of the source of the Mekong River
Về tên, sông Mekong có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo nơi sông chảy qua. Gần phân nửa chiều dài con sông (2150 km) nằm trong lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Lan Thương Giang (Lancang Jiang), chảy qua các vách núi sâu và bậc thềm thấp dần và khi ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc thì chỉ còn cao hơn mặt biển 500m. Sau đó, Mekong làm ranh giới giữa Myanmar (Miến Điện, trước gọi là Burma, Birmanie) và Lào (200km) rồi ranh giới giữa Lào và Thái Lan. Người Miến Điện gọi Mekong là Mekaung Myit, người Thái và người Lào gọi là Maenam Khong (Maenam = sông), phía hữu ngạn có một chi nhánh chảy qua Thái Lan gọi là Maenam Mun dài 750km. Người Tây Phương trong các du ký hay thám hiểm, ngay từ thế kỷ 18 đã gọi là Mekong, có lẽ nói trại tử danh từ Mae Khong của Thái-Lào.
Sông chảy vào Campuchia có tên là Tonlé Mekongk hay Tonlé Thom (Tonlé = sông lớn). Phía trên Phnom Penh, Mékongk hợp lưu với sông Tonlésap và vào mùa mưa, nước chảy ngược vào hồ Tonlésap (Biển Hồ). Biển Hồ là hồ chứa nước ngọt lớn nhứt ở Đông Nam Á, vào mùa mưa (tháng 6 - tháng 10), diện tích của hồ lên đến 10 000km2, sâu 14m, nhưng đến mùa khô chỉ còn chừng 3 000 km2, sâu 2 m. Biển Hồ là trạm cuối cùng đưa nước, phù sa và vật trầm tích xuống miền Nam Việt Nam.
Từ Phnom Penh sông MeKông chia thành hai nhánh dài từ 220–250 km chảy từ Bắc xuống Nam. Nhánh lớn vẫn gọi là Mekong đi vào VN qua thị xã Tân Châu gọi là Tiền Giang, đến Cai Lậy chia thành 4 sông chảy ra biển bằng 6 cửa: sông Mỹ Tho đổ ra cửa Tiểu (hay Vàm Láng ở Gò Công), cửa Đại (quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre), sông Ba Lai chảy qua phía Bắc tỉnh Bến Tre đổ ra cửa Ba Lai, sông Hàm Luông ở phía Nam tỉnh Bến Tre đổ ra cửa Hàm Luông, sông Cổ Chiên làm ranh giới giữa tỉnh Bến Tre và Trà Vinh đổ ra cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
Nhánh nhỏ ở tả ngạn gọi là Bassac theo chữ Miên là Tonlé Bassac (Ba Thắc) vào VN ở Châu Đốc gọi tên là Hậu Giang chảy ra biển bằng 3 cửa là Ba Thắc, Định An và Trần Đề (Tranh Đề).
Bởi lẽ sông Mekong đổ ra Biển Đông bằng 9 cửa nên đoạn sông nầy được gọi là Cửu Long (9 con rồng). Tên gọi Cửu Long Giang được xuất hiện trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Trịnh Hoài Đức nhưng theo Võ Hương An: Cái tên Cửu Long Giang là sản phẩm văn hóa của lưu dân Việt - Minh Hương trên bước đường định cư khai phá vùng châu thổ Cửu Long, lấy ý từ 9 cửa sông đổ ra biển mà đặt ra. Cái tên Cửu Long Giang có thể đã xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, ngay cả trước năm 1732 (nhưng phải sau thế kỷ 17), khi Việt Nam thủ đắc Vĩnh Long, An Giang. (Võ Hương An. Ai đã đặt tên cho sông Cửu Long / Khoahocnet.
https://lh4.googleusercontent.com/6Xy2WGgipMDZtnlgOvRic69HwZCbCmj8b_7BEht4wg77gbaIMo DcLhNx1e8hbVPK2PuiDc5sdXgaFjfnS-xKxQjvkJFDah2pCsup3CL-nK3-oSI3V2JYZV9eCcbOs0S3mtBuy6MvI5PmwHC7DQ
Bản đồ: Võ Hương An
Nói là 9 cửa, nhưng thực sự hiện nay chỉ còn 7 cửa vì phù sa đã bồi lấp cửa Ba Thắc, chỉ còn lại dòng sông Côn Tròn chảy dọc theo Cù lao Dung hợp với cửa Trần Đề chảy ra biển. Tương tự như vậy với cửa Ba Lai, hiên nay chánh phủ xây cống đập Ba Lai để ngăn nước mặn tràn vào đất liền.
Hai sông Tiền và sông Hậu đã nhận phù sa và các vật liệu trầm tích từ thượng nguồn theo dỏng chảy của sông Mekong đổ xuống, bồi đắp vùng châu thổ tạo nên Đồng Bằng Sông Cửu Long, là vùng đất trù phú nhất của Việt Nam. Sự sinh tồn và phát triển của 18 triệu cư dân vùng nầy tùy thuộc vào mạch nước, và đó là lý do khi dòng sông nầy nghẽn mạch theo cách nói của nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh bởi những con đập khổng lồ của Trung Quốc và của Lào thiết lập trên thượng nguồn, Việt Nam sẽ nghẽn mạch.
Đồng bằng sông Cửu Long rộng 40 548 km², tổng số dân của 13 tỉnh, thị xã trong vùng gần 18 triệu người (chiếm 12% diện tích và 19% dân số của cả nước). ĐBSCL là nơi có nhiều kinh rạch (8 000km) trong đó có 50% là kinh chánh có bề rộng từ 8-40m và cao độ trên mặt biển từ 2-4m. 75% dân số sống ở ven kinh, sông, biển nên nông nghiệp và ngư nghiệp là sinh hoạt kinh tế chính yếu.
ĐBSCL nổi tiếng là vựa lúa của Việt Nam và là trung tâm cung cấp phần lớn các sản phẩm lương thực cho cả nước. Theo thống kê 2015, chỉ riêng lúa chiếm 57% sản lượng của quốc gia (cả nước: 45.1 triệu tấn, ĐBSCL: 25.6 triệu tấn); 90% gạo xuất cảng là gạo của ĐBSCL. Về thủy sản chiếm 56% (3.7 triệu tấn /trên 6,6 triệu tấn cho cả nước) trong đó có 0.8 triệu cá biển và 0.5 triệu tôm (80% cả nước), và 70% các loại trái cây. Hiện nay, mỗi năm VN xuất cảng thủy sản khoảng 6 tỉ USD, trong đó riêng tôm chiếm khoảng 50% doanh thu.
https://lh4.googleusercontent.com/P8N5_ejQ7oPbtPyqmVu79U0Bn8h17hpROiEhLarZ-87gnb2x7230BwYXaAllOHSUBOrrChRddx_0Gdr2kmG-X_xMiJePy1r5sHyXdRZnYpwcgtUdyPz0q5FyFWGJ4r0i7_DrZ7 d37iJMWypTmg
Tuy nhiên, với chánh sách phát triển thiên vị các địa phương của chế độ cộng sản, từ một vùng đất trù phú trước 1975, Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là vùng đất bị bỏ quên, càng ngày càng thêm nghèo và nhiều tỉnh trong vùng nghèo nhứt nước cùng với "vùng sâu, vùng xa" của các dân tộc thiểu số.
Nguồn: ĐBSCL với thử thách 2017/Lê Anh Tuấn
Đập thủy điện của Trung Cộng và Lào Cộng trên sông Mekong
Nước là một trong những nhu cầu hàng đầu của Trung Quốc để nuôi một dân số khổng lồ và cung cấp thủy điện cho một quốc gia đang phát triển kỹ nghệ. Người dân Trung Quốc cần nước như thức ăn. Năm 2017, lượng nước cung cấp cho một người dân Trung Quốc chỉ bằng 1/3 lượng nước tiêu thụ trung bình của một người dân trên thế giới (một số tài liệu ghi ít hơn hay nhiều hơn). Do đó, không có gì ngạc nhiên vào năm 1997, Trung Quốc là một trong 3 quốc gia trên thế giới (cùng với Burundi và Thổ Nhĩ Kỳ) đã biểu quyết chống lại Công ước Liên Hiệp Quốc về Nguồn Nước (United Nations Watercourses Convention UNWC = Convention des Nations Unies sur les cours d’eau) để Trung Quốc tự do thao túng trên các dòng sông có chung lưu vực với Trung Quốc. Trên toàn thế giới có 276 con sông quốc tế (xuyên biên giới, liên quốc gia) và mục đích của Công ước nhằm "bảo đảm cho việc sử dụng, phát triển, bảo tồn, quản lý và bảo vệ các nguồn nước liên quốc gia một cách tối ưu và bền vững cho các thế hệ hôm nay và mai sau…". Nói khác đi, các quốc gia có chung một dòng sông phải tôn trọng những nghĩa vụ theo một thỏa ước giữa tất cả các quốc gia nầy. Trung Quốc có 40 dòng sông chia sẻ lưu vực với 16 quốc gia láng giềng, nhưng Trung Quốc chỉ ký thỏa ước song phương với 3 quốc gia cộng sản là Nga, Bắc Hàn và Mông Cổ. Sự từ chối của Trung Quốc tham gia vào Công Ước UNWC đã bị thế giới chỉ trích, nhưng Trung Quốc viện dẫn UNWC vi phạm vào chủ quyền của TQ.
Chính trong sách lược "cướp dòng nước", Trung Quốc đã thiết lập các đập thủy điện, thủy lợi khắp nơi trên các dòng sông chánh và phụ. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 23 842 đập, nhiều nhất thế giới trong số 58 519 đập (Commission imternationale des grands barrages. Registre mondial des barrages).
Trên thượng nguồn Mekong, Trung Quốc đã bắt đầu xây một chuỗi các đập nước từ năm 1986 mà không tham khảo các nước trong lưu vực cũng không cung cấp các thông tin chính xác về lưu vực sau khi đập đã hoàn thành. Hiện nay có 6 đập đã hoạt động, 7 đang xây và khoảng 20 đập nữa trong vùng Thanh Hải, Tây Tạng dự trù trong thời gian sắp tới.
https://lh6.googleusercontent.com/tadb180aHu6B-uCWmp4Eau9zQh_XdMMJvPbUiKf1sxJ4B2T0comTij9be9E1em8 q3kodl9xhQwgVjkjHFOH3F88rS9vPuzlv8ZTOiuqzb2a9wcrtu 6qr1zJUfDx_40Bbc1geHHuAsujj-ZldgA
Các đập nước trên sông Mékong năm 2013 (Nguồn: MRC. Dams on Mekong)
Sáu đập đang hoạt động là: đập đầu tiên là Mãn Loan (Manwan) bắt đầu hoạt động năm 1993, Đại Triều Sơn (Dachaosan, 2003), Cảnh Hồng (Jinghong, 2009), Tiểu Loan (Xiaoman, 2010), Công quả Kiều (Gungguogiao, 2012), đập mới nhứt là Noa Trát Độ (Nuozhadu, 2014). Hai đập Tiểu Loan và Noa Trát Độ nằm trong top 20 đập lớn nhứt thế giới, và đập Tiểu Loan có chiều cao 292m, chỉ thấp hơn đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang (Dương Tử) là đập nước lớn nhứt thế giới. Sáu đập nầy cung cấp 15 000 MW và tích trữ 50 tỉ m3 nước (Tiểu Loan: 15 tỉ, Noạ Trác Độ: 22 tỉ), chiếm 28% lưu lượng nước đoạn sông chảy từ nguồn đến Thái Lan (Timo Rasanen. New study shows significant impact of Chinese dams on Mekong – www.thethirdpole.net, Feb.6, 2017).
Ngoài ra, Trung Quốc còn đầu tư và sở hữu 6 dự án đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong ở Lào trong đó có 2 đập đang xây là đập Xayaburi (1260 kW) ở Thượng Lào, Don Sahong (260 KW) ở biên giới Lào-Campuchia và chuẩn bị xây đập Pak Beng (912KW). Lào lại còn có tham vọng xây thêm 9 đập nữa để bán điện cho Việt Nam và Thái Lan, không kể dự án chuyển nước sông Mekong về Vientiane.
Trước hành động ngang ngược của Lào dưới sự bảo che của cộng sản đàn anh Trung Quốc, Liên Minh Bảo vệ sông Mékong (Save the Mekong Coalition) đã lên tiếng phản đối, đòi phải có những nghiên cứu đầy đủ hơn về những tác hại của 12 dự án trên hạ lưu sông Mekong, nhưng vô hiệu. Thực ra, Lào là một quốc gia chậm tiến, dân rất nghèo và nhẫn nhục, chỉ có đảng cộng sản Pathet Lao cầm quyền là độc tài nhưng nhu nhược vâng lịnh đàn anh Trung Quốc. Cũng như VN, nước Lào hiện nay có khoảng 10 000 nhân công Trung Quốc đang khai thác kinh tế và tài nguyên tại nhiều vùng da beo (lãnh địa) trên đất Lào, đang bị nợ Trung Quốc ngập đầu với con đường sắt 6 tỉ USD nối liền Lào với các tỉnh phía Nam của Trung Quốc.
https://3.bp.blogspot.com/-GvW2PR3nb6E/Vwxu8fwiWgI/AAAAAAAB-9c/H91L4LMPBCsMSh2qYe5VPYhi0TtfDOQuQCLcB/s640/%25C4%2590o%25CC%2582%25CC%2580ng%2Bba%25CC%2586%2 5CC%2580ng%2Bso%25CC%2582ng%2BCu%25CC%259B%25CC%25 89u%2BLong-babui-danlambao.jpg
Lâm Văn Bé (Danlambao) - Đồng Bằng Sông Cửu Long đã và đang đối diện với những tàn phá của thiên tai như lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng cao do hiện tượng biến đổi khí hậu. Ngoài thiên tai, ĐBSCL còn phải gánh chịu những tác hại do chính con người tạo ra, hoặc để sinh tồn, hoặc để chống đỡ với thiên nhiên như các đập nước của Trung Cộng và các đê bao ngăn nước mặn của Việt Cộng. Cho đến nay, các tác hại của những đập nước của Trung Cộng chưa được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu về cường độ, tác nhân và đối tượng của sự tàn phá đối với các quốc gia ở hạ nguồn.
*
Eugene K. Chow, chuyên viên về các vấn đề ngoại giao và quân sự, trong bài viết tựa là China in Weaponizing Water đăng trong The National Interest ngày 26 tháng 8 năm 2017 có đoạn nhập đề phỏng dịch như sau:
"Trung Quốc sở hữu một vũ khí nguy hiểm cho phép Trung Quốc giữ làm con tin một phần tư dân số trên thế giới mà không cần bắn một phát súng. Trong khi mọi người chỉ quan tâm đến Trung Quốc với một lực lượng quân sự tối tân đáng sợ, nhưng họ không nghĩ đến kho vũ khí vô hình ghê gớm của Trung Quốc là các đập nước. Với hơn 87 000 đập nước và làm chủ cao nguyên Tây Tạng, nơi phát xuất 10 con sông lớn trên thế giới mà 2 tỉ người lệ thuộc, Trung Quốc đang sở hữu một vũ khí hủy diệt hàng loạt. Chỉ cần bật một nút bấm, Trung Quốc có thể xả hàng trăm triệu gallon nước từ các đập nước khổng lồ, gây ra tai họa lũ lụt và thay đổi các hệ sinh thái cho các quốc gia ở hạ nguồn".
Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm trong quốc gia cuối cùng ở hạ nguồn sông Mekong, là một trong số đối tượng của Trung Quốc trong hiểm họa tàn phá nầy.
BS Ngô Thế Vinh, tuy không phải là chuyên viên thủy học và môi trường học, nhưng từ 20 năm nay đã để tâm nghiên cứu về sông Mekong và ĐBSCL, đã đi quan sát thực địa sông Mekong từ nguồn qua các quốc gia ven sông, đã xuất bản hai quyển sách về chủ đề nầy là Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy sóng (NXB Văn Nghệ, 2000) và Mekong, dòng sông nghẽn mạch (NXB Văn Nghệ Mới, 2007) đã có đoạn viết như sau nhân cuộc quan sát thực địa vùng ĐBSCL hồi tháng 12/2017:
"Bấy lâu, các chuyên gia Bộ Nông nghiệp từ ngoài Bắc vào vẫn có cái nhìn rất giản đơn về hệ sinh thái sông nước Cửu Long: họ chỉ thấy có triều cường và triều kiệt. Rồi đề xuất kế hoạch làm những cống đập chặn triều cường để ngăn mặn giữ ngọt. Từ suy nghĩ giản đơn ấy, họ đã và đang gây ra bao nhiêu hệ lụy cho hệ sinh thái ĐBSCL như hiện nay" (Ngô Thế Vinh. "Cổng đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả" đăng trong báo Tiếng Dân ngày 13/2/2018).
Nhận định của BS Ngô Thế Vinh đã được TS Tô Văn Trường phản bác trong một bài phân tích khá dài đăng trên hai trang mạng Tiếng Dân và Bauxite VN ngày 22/2/2018 có đoạn như sau:
"Đọc cả bài "Cống đập chặn mặn gây rối loạn hệ sinh thái và những cái giá phải trả” cho thấy tác giả mới chỉ đưa ra những nhận định mang cảm tính, trực quan của cá nhân dựa trên chuyến đi thực tế cùng một số chuyên gia quen biết, chưa có một phân tích, một đánh giá nào mang tính khoa học, định lượng,… Chưa thấy một con số một đoạn viết nào có nội dung khoa học chứng minh về nhận định của tác giả… Đây là ý kiến của những người thích “chém gió” không có kiến thức cơ bản về thủy văn, thủy lực dòng chảy trên sông…"
Ngày hôm sau (23-2), cũng tại hai trang mạng trên, nhà báo Lê Phú Khải, đã từng có nhiều liên lạc với các đảng viên cao cấp cũng có bài chỉ trích Ngô Thế Vinh và biện hộ cho chế độ bằng lời lẽ tự cao trịch thượng:
"Hơn 30 năm là người quan sát (observateur) Đồng Bằng Sông Cửu Long, quan sát từng bước đi, từng công trình, cả thành quả đến những khiếm khuyết được uốn nắn kịp thời, tiếp xúc từ người nông dân đến ông Thủ tướng vốn là nông dân sinh ra và lớn lên ở Đồng Bằng Sông Cửu Long là ông Võ Văn Kiệt… tôi xin nói rõ: Không dễ gì những ông chủ tịch tỉnh như ông Nguyễn Minh Nhị (7 Nhị), thủ tướng như Võ Văn Kiệt là những người có quyền lại dễ dàng nghe các anh “trí thức Bắc Kỳ” như tiến sỹ Tô Văn Trường, tiến sỹ Đào Xuân Học, Mai Văn Quyền “xui dại” trong việc trồng lúa, đắp đê bao v.v… và v.v… Hơn nữa, những trí thức như Võ Tòng Xuân, giáo sư Nguyễn Ngọc Trân… họ đều là các chuyên gia được đào tạo từ chế độ Sài Gòn cũ và ở nước ngoài… đấy thôi" (!)
Người viết cần nói thêm là ông Lê phú Khải đã gởi bản thảo tác phẩm "Lời Ai Điếu" cho Nhật báo Người Việt ở California xuất bản và được quảng cáo rần rộ là một best-seller sách tiếng Việt. Điều ngạc nhiên là trong sách, ông chỉ trích nặng nề nhiều nhân vật cao cấp trong đảng mà ông vẫn bình chân như vại. Phải chăng, ông cũng cùng một "type" với Huy Đức tác giả Bên Thắng Cuộc?
Chưa hết, ngày 28-2, bài phản biện thứ ba của TSKS Nguyễn Phúc Vĩnh Phong, chuyên viên thủy lợi, với văn phong ôn tồn cởi mở hơn:
"Bài phản biện của TS Tô Văn Trường trả lời nhà văn Bác sĩ y khoa Ngô Thế Vinh trên vấn đề hệ lụy do các công trình thủy lợi lên hệ sinh thái ĐBSCL nhắc chúng ta là không ai có thể đúng 100% cả; chúng ta chỉ có thể hiến tặng những gì chúng ta có sẵn trong hầu bao mà thôi. Bác sĩ Ngô Thế Vinh mặc dầu không phải chuyên nghề thủy lợi như Tiến Sĩ Tô văn Trường nhưng cũng đã phát biểu ý kiến có tầm nhìn đúng phần nào trong tương lai xa; như khi đề cập đến các hồ chứa thủy điện xuyên mùa trên sông Lan-thương (tên người Trung Quốc gọi sông Mê-kông trong vùng đất của họ) đã xướng lên hoàn cảnh Cửu Long cạn dòng; cạn dòng nước và nhất là cạn dòng phù sa vào ĐBSCL của nước Việt Nam chúng ta. Hết phù sa thì ĐBSCL sẽ không thể còn là vựa lúa bền vững sinh thái của Việt Nam chúng ta nữa; chúng ta sẽ phải dùng nhiều phân hoá học để tiếp tục sản suất nông nghiệp; nguồn nước dân sinh, nuôi trồng thủy sản sẽ bị ô nhiễm bởi lượng phân hoá học dư thừa không được cây cối hấp thụ…"
Rõ ràng là chuyện tác hại các đập nước trên dòng Mekong đã chuyển thành cuộc "đôi co" giữa các chuyên gia mà có người cao giọng như bên thắng cuộc Miền Bắc nói với các người bị xem là bọn chém gió bên thua cuộc Miền Nam trong việc quản lý đất đai, sông nước vùng ĐBSCL.
Từ những nhận định trên, bài viết lược khảo hiện trạng vùng ĐBSCL qua 1/ một số dữ kiện địa chánh trị liên quan đến sông Mekong, 2/ các tác động của các đập thủy điện trên sông Mekong và 3/ hậu quả của chánh sách đắp đê ngăn nước mặn trên sông Cửu Long và vùng ven biển. Như thông tin về một vấn đề phức tạp và nhiều tranh cãi, người viết phản ảnh những quan điểm dị biệt của những người trong cuộc, từ người nông dân đến chánh quyền, từ các chuyên gia thực sự am tường ngọn rau cọng cỏ của vùng đất nầy đến các tiến sĩ dỏm ngự trị trong các phủ bộ, viện nghiên cứu ở Hà Nội.
Và sau cùng, bài viết như một đóng góp khiêm tốn trong loạt bài nhận định về bài viết của BS Ngô Thế Vinh của một người tuy không phải là chuyên gia về thủy lợi, nhưng cũng biết thế nào là thủy nông, biết địa hình địa vật và tâm tư của con người vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long trước khi đoàn quân thủy lợi từ miền Bắc tràn vào đào xới vùng đất nầy.
Mekong, dòng sông phúc lợi cho 6 quốc gia
Sông Mekong là dòng sông hạng 10 thế giới nếu kể theo lưu lượng (trung bình 13 200 m3/s, mùa nước lũ có thể đến 30 000 m3/s), hạng 12 nếu kể theo chiều dài (4 350 km) với lưu vực 795 000 km2, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng. (Wikipedia).
Về vị trí chính xác của nguồn sông, theo Encyclopedia Britannica thì sông Mekong phát nguyên ở triền phía Bắc của núi Tanggula có cao độ 4 900 m, nhưng nhiều tài liệu xác nhận những địa điểm khác nhau, do đó chiều dài và cao độ con sông cũng khác nhau.
Từ khi nhà thám hiểm Pháp Jules-Léon Dutreuil de Rhins lần đầu tiên công bố vào năm 1894 nguồn của sông Mekong là con suối Lungmung chảy qua bộ lạc Zayaqu ở cao độ 5 055m trên cao nguyên Tây Tạng cho đến báo cáo năm 2014 của Peter Neele đăng trong Japanese Alpine News, nhiều đoàn thám hiểm ngoại quốc và Trung Quốc đã thăm dò, nghiên cứu thực địa và tuy có công bố của cơ quan thẩm quyền Trung Quốc, nhưng đến nay các đoàn thám hiểm vẫn còn tiếp tục.
Năm 1999, Viện Khoa học địa lý và Nghiên Cứu Tài nguyên thiên nhiên thuộc Viện Hàn Lâm Khoa học Trung Quốc, sau nhiều cuộc điều tra toàn diện trực tiếp vả nghiên cứu tài liệu đã kết luận nguồn thật sự của sông Mekong là sông Zayaqu trên núi Guosongmucha, cao độ 5514m, thuộc thị trấn Zadoi, quận Yushi thuộc Khu tự trị Tây Tạng, tỉnh Thanh Hải (The Source of Mekong River-Sangri-La River Expeditions).
Trước đó, năm 1994, Viện Khoa Học Trung Quốc (Chinese Academy of Sciences CAS) phối hợp với Đại học Nông Nghiệp Tokyo (Tokyo University of Agriculture TUA) sau cuộc thăm dò thực địa và khoa học đã công bố nguồn của sông Mékong là một con suối tên là Lasagongma ở cao độ 5224 m. Dữ kiện nầy sau đó được xác nhận vào năm 1999 như dữ kiện chính thức. (Final determination of the source of the Mekong River).
https://lh4.googleusercontent.com/Zgy7-T3ycpielUcnjhjyJTEMzIPCaIC1JeuuRlEjdyZMNJb22esxGDs sDZn_GUPF_TqcYtC265xfQ8XYD_PW-2G-7r1A8W39HwW9qkgnJ7Fn09ZHv2wnUIuRzhjf3Ow5AIb9Eq5Ski MQydx9qg
Bản đồ trên ghi những địa điểm nguồn sông Mékong không được công nhận: Lungmung (1894), Rupsa (1994), Jifu (1999) và nguổn được công nhận bởi Viện Khoa Học TQ: Lasagongma (1994, 1999).
Ref: Tomotsu Natamura & PeterWinn. Final determination of the source of the Mekong River
Về tên, sông Mekong có nhiều tên gọi khác nhau tùy theo nơi sông chảy qua. Gần phân nửa chiều dài con sông (2150 km) nằm trong lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Lan Thương Giang (Lancang Jiang), chảy qua các vách núi sâu và bậc thềm thấp dần và khi ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc thì chỉ còn cao hơn mặt biển 500m. Sau đó, Mekong làm ranh giới giữa Myanmar (Miến Điện, trước gọi là Burma, Birmanie) và Lào (200km) rồi ranh giới giữa Lào và Thái Lan. Người Miến Điện gọi Mekong là Mekaung Myit, người Thái và người Lào gọi là Maenam Khong (Maenam = sông), phía hữu ngạn có một chi nhánh chảy qua Thái Lan gọi là Maenam Mun dài 750km. Người Tây Phương trong các du ký hay thám hiểm, ngay từ thế kỷ 18 đã gọi là Mekong, có lẽ nói trại tử danh từ Mae Khong của Thái-Lào.
Sông chảy vào Campuchia có tên là Tonlé Mekongk hay Tonlé Thom (Tonlé = sông lớn). Phía trên Phnom Penh, Mékongk hợp lưu với sông Tonlésap và vào mùa mưa, nước chảy ngược vào hồ Tonlésap (Biển Hồ). Biển Hồ là hồ chứa nước ngọt lớn nhứt ở Đông Nam Á, vào mùa mưa (tháng 6 - tháng 10), diện tích của hồ lên đến 10 000km2, sâu 14m, nhưng đến mùa khô chỉ còn chừng 3 000 km2, sâu 2 m. Biển Hồ là trạm cuối cùng đưa nước, phù sa và vật trầm tích xuống miền Nam Việt Nam.
Từ Phnom Penh sông MeKông chia thành hai nhánh dài từ 220–250 km chảy từ Bắc xuống Nam. Nhánh lớn vẫn gọi là Mekong đi vào VN qua thị xã Tân Châu gọi là Tiền Giang, đến Cai Lậy chia thành 4 sông chảy ra biển bằng 6 cửa: sông Mỹ Tho đổ ra cửa Tiểu (hay Vàm Láng ở Gò Công), cửa Đại (quận Ba Tri, tỉnh Bến Tre), sông Ba Lai chảy qua phía Bắc tỉnh Bến Tre đổ ra cửa Ba Lai, sông Hàm Luông ở phía Nam tỉnh Bến Tre đổ ra cửa Hàm Luông, sông Cổ Chiên làm ranh giới giữa tỉnh Bến Tre và Trà Vinh đổ ra cửa Cổ Chiên và cửa Cung Hầu.
Nhánh nhỏ ở tả ngạn gọi là Bassac theo chữ Miên là Tonlé Bassac (Ba Thắc) vào VN ở Châu Đốc gọi tên là Hậu Giang chảy ra biển bằng 3 cửa là Ba Thắc, Định An và Trần Đề (Tranh Đề).
Bởi lẽ sông Mekong đổ ra Biển Đông bằng 9 cửa nên đoạn sông nầy được gọi là Cửu Long (9 con rồng). Tên gọi Cửu Long Giang được xuất hiện trong Đại Nam Nhất Thống Chí của Trịnh Hoài Đức nhưng theo Võ Hương An: Cái tên Cửu Long Giang là sản phẩm văn hóa của lưu dân Việt - Minh Hương trên bước đường định cư khai phá vùng châu thổ Cửu Long, lấy ý từ 9 cửa sông đổ ra biển mà đặt ra. Cái tên Cửu Long Giang có thể đã xuất hiện vào đầu thế kỷ 18, ngay cả trước năm 1732 (nhưng phải sau thế kỷ 17), khi Việt Nam thủ đắc Vĩnh Long, An Giang. (Võ Hương An. Ai đã đặt tên cho sông Cửu Long / Khoahocnet.
https://lh4.googleusercontent.com/6Xy2WGgipMDZtnlgOvRic69HwZCbCmj8b_7BEht4wg77gbaIMo DcLhNx1e8hbVPK2PuiDc5sdXgaFjfnS-xKxQjvkJFDah2pCsup3CL-nK3-oSI3V2JYZV9eCcbOs0S3mtBuy6MvI5PmwHC7DQ
Bản đồ: Võ Hương An
Nói là 9 cửa, nhưng thực sự hiện nay chỉ còn 7 cửa vì phù sa đã bồi lấp cửa Ba Thắc, chỉ còn lại dòng sông Côn Tròn chảy dọc theo Cù lao Dung hợp với cửa Trần Đề chảy ra biển. Tương tự như vậy với cửa Ba Lai, hiên nay chánh phủ xây cống đập Ba Lai để ngăn nước mặn tràn vào đất liền.
Hai sông Tiền và sông Hậu đã nhận phù sa và các vật liệu trầm tích từ thượng nguồn theo dỏng chảy của sông Mekong đổ xuống, bồi đắp vùng châu thổ tạo nên Đồng Bằng Sông Cửu Long, là vùng đất trù phú nhất của Việt Nam. Sự sinh tồn và phát triển của 18 triệu cư dân vùng nầy tùy thuộc vào mạch nước, và đó là lý do khi dòng sông nầy nghẽn mạch theo cách nói của nhà văn bác sĩ Ngô Thế Vinh bởi những con đập khổng lồ của Trung Quốc và của Lào thiết lập trên thượng nguồn, Việt Nam sẽ nghẽn mạch.
Đồng bằng sông Cửu Long rộng 40 548 km², tổng số dân của 13 tỉnh, thị xã trong vùng gần 18 triệu người (chiếm 12% diện tích và 19% dân số của cả nước). ĐBSCL là nơi có nhiều kinh rạch (8 000km) trong đó có 50% là kinh chánh có bề rộng từ 8-40m và cao độ trên mặt biển từ 2-4m. 75% dân số sống ở ven kinh, sông, biển nên nông nghiệp và ngư nghiệp là sinh hoạt kinh tế chính yếu.
ĐBSCL nổi tiếng là vựa lúa của Việt Nam và là trung tâm cung cấp phần lớn các sản phẩm lương thực cho cả nước. Theo thống kê 2015, chỉ riêng lúa chiếm 57% sản lượng của quốc gia (cả nước: 45.1 triệu tấn, ĐBSCL: 25.6 triệu tấn); 90% gạo xuất cảng là gạo của ĐBSCL. Về thủy sản chiếm 56% (3.7 triệu tấn /trên 6,6 triệu tấn cho cả nước) trong đó có 0.8 triệu cá biển và 0.5 triệu tôm (80% cả nước), và 70% các loại trái cây. Hiện nay, mỗi năm VN xuất cảng thủy sản khoảng 6 tỉ USD, trong đó riêng tôm chiếm khoảng 50% doanh thu.
https://lh4.googleusercontent.com/P8N5_ejQ7oPbtPyqmVu79U0Bn8h17hpROiEhLarZ-87gnb2x7230BwYXaAllOHSUBOrrChRddx_0Gdr2kmG-X_xMiJePy1r5sHyXdRZnYpwcgtUdyPz0q5FyFWGJ4r0i7_DrZ7 d37iJMWypTmg
Tuy nhiên, với chánh sách phát triển thiên vị các địa phương của chế độ cộng sản, từ một vùng đất trù phú trước 1975, Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay là vùng đất bị bỏ quên, càng ngày càng thêm nghèo và nhiều tỉnh trong vùng nghèo nhứt nước cùng với "vùng sâu, vùng xa" của các dân tộc thiểu số.
Nguồn: ĐBSCL với thử thách 2017/Lê Anh Tuấn
Đập thủy điện của Trung Cộng và Lào Cộng trên sông Mekong
Nước là một trong những nhu cầu hàng đầu của Trung Quốc để nuôi một dân số khổng lồ và cung cấp thủy điện cho một quốc gia đang phát triển kỹ nghệ. Người dân Trung Quốc cần nước như thức ăn. Năm 2017, lượng nước cung cấp cho một người dân Trung Quốc chỉ bằng 1/3 lượng nước tiêu thụ trung bình của một người dân trên thế giới (một số tài liệu ghi ít hơn hay nhiều hơn). Do đó, không có gì ngạc nhiên vào năm 1997, Trung Quốc là một trong 3 quốc gia trên thế giới (cùng với Burundi và Thổ Nhĩ Kỳ) đã biểu quyết chống lại Công ước Liên Hiệp Quốc về Nguồn Nước (United Nations Watercourses Convention UNWC = Convention des Nations Unies sur les cours d’eau) để Trung Quốc tự do thao túng trên các dòng sông có chung lưu vực với Trung Quốc. Trên toàn thế giới có 276 con sông quốc tế (xuyên biên giới, liên quốc gia) và mục đích của Công ước nhằm "bảo đảm cho việc sử dụng, phát triển, bảo tồn, quản lý và bảo vệ các nguồn nước liên quốc gia một cách tối ưu và bền vững cho các thế hệ hôm nay và mai sau…". Nói khác đi, các quốc gia có chung một dòng sông phải tôn trọng những nghĩa vụ theo một thỏa ước giữa tất cả các quốc gia nầy. Trung Quốc có 40 dòng sông chia sẻ lưu vực với 16 quốc gia láng giềng, nhưng Trung Quốc chỉ ký thỏa ước song phương với 3 quốc gia cộng sản là Nga, Bắc Hàn và Mông Cổ. Sự từ chối của Trung Quốc tham gia vào Công Ước UNWC đã bị thế giới chỉ trích, nhưng Trung Quốc viện dẫn UNWC vi phạm vào chủ quyền của TQ.
Chính trong sách lược "cướp dòng nước", Trung Quốc đã thiết lập các đập thủy điện, thủy lợi khắp nơi trên các dòng sông chánh và phụ. Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 23 842 đập, nhiều nhất thế giới trong số 58 519 đập (Commission imternationale des grands barrages. Registre mondial des barrages).
Trên thượng nguồn Mekong, Trung Quốc đã bắt đầu xây một chuỗi các đập nước từ năm 1986 mà không tham khảo các nước trong lưu vực cũng không cung cấp các thông tin chính xác về lưu vực sau khi đập đã hoàn thành. Hiện nay có 6 đập đã hoạt động, 7 đang xây và khoảng 20 đập nữa trong vùng Thanh Hải, Tây Tạng dự trù trong thời gian sắp tới.
https://lh6.googleusercontent.com/tadb180aHu6B-uCWmp4Eau9zQh_XdMMJvPbUiKf1sxJ4B2T0comTij9be9E1em8 q3kodl9xhQwgVjkjHFOH3F88rS9vPuzlv8ZTOiuqzb2a9wcrtu 6qr1zJUfDx_40Bbc1geHHuAsujj-ZldgA
Các đập nước trên sông Mékong năm 2013 (Nguồn: MRC. Dams on Mekong)
Sáu đập đang hoạt động là: đập đầu tiên là Mãn Loan (Manwan) bắt đầu hoạt động năm 1993, Đại Triều Sơn (Dachaosan, 2003), Cảnh Hồng (Jinghong, 2009), Tiểu Loan (Xiaoman, 2010), Công quả Kiều (Gungguogiao, 2012), đập mới nhứt là Noa Trát Độ (Nuozhadu, 2014). Hai đập Tiểu Loan và Noa Trát Độ nằm trong top 20 đập lớn nhứt thế giới, và đập Tiểu Loan có chiều cao 292m, chỉ thấp hơn đập Tam Hiệp trên sông Trường Giang (Dương Tử) là đập nước lớn nhứt thế giới. Sáu đập nầy cung cấp 15 000 MW và tích trữ 50 tỉ m3 nước (Tiểu Loan: 15 tỉ, Noạ Trác Độ: 22 tỉ), chiếm 28% lưu lượng nước đoạn sông chảy từ nguồn đến Thái Lan (Timo Rasanen. New study shows significant impact of Chinese dams on Mekong – www.thethirdpole.net, Feb.6, 2017).
Ngoài ra, Trung Quốc còn đầu tư và sở hữu 6 dự án đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong ở Lào trong đó có 2 đập đang xây là đập Xayaburi (1260 kW) ở Thượng Lào, Don Sahong (260 KW) ở biên giới Lào-Campuchia và chuẩn bị xây đập Pak Beng (912KW). Lào lại còn có tham vọng xây thêm 9 đập nữa để bán điện cho Việt Nam và Thái Lan, không kể dự án chuyển nước sông Mekong về Vientiane.
Trước hành động ngang ngược của Lào dưới sự bảo che của cộng sản đàn anh Trung Quốc, Liên Minh Bảo vệ sông Mékong (Save the Mekong Coalition) đã lên tiếng phản đối, đòi phải có những nghiên cứu đầy đủ hơn về những tác hại của 12 dự án trên hạ lưu sông Mekong, nhưng vô hiệu. Thực ra, Lào là một quốc gia chậm tiến, dân rất nghèo và nhẫn nhục, chỉ có đảng cộng sản Pathet Lao cầm quyền là độc tài nhưng nhu nhược vâng lịnh đàn anh Trung Quốc. Cũng như VN, nước Lào hiện nay có khoảng 10 000 nhân công Trung Quốc đang khai thác kinh tế và tài nguyên tại nhiều vùng da beo (lãnh địa) trên đất Lào, đang bị nợ Trung Quốc ngập đầu với con đường sắt 6 tỉ USD nối liền Lào với các tỉnh phía Nam của Trung Quốc.