PDA

View Full Version : 16 phát minh “tình cờ và bất ngờ” nhưng đã thay đổi cả thế giới



sophienguyen
06-27-2016, 02:02 AM
16 phát minh “tình cờ và bất ngờ” nhưng đã thay đổi cả thế giới



Những “huyền thoại” sau đây chắc chắn sẽ khiến bạn cảm thấy vừa quen thuộc lại vừa… lạ lẫm vì không ngờ chúng lại được tạo ra trong những hoàn cảnh “có một không hai” như vậy.

http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/maxresdefault35.jpg (http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/maxresdefault35.jpg)


Một số nhà khoa học phải cống hiến cả cuộc đời họ để phát minh ra một công cụ, phương pháp đột phá, mang tính cách mạng cho những vấn đề mắc phải trên thế giới trong hàng thế kỷ. Thế nhưng, cũng không hiếm những trường hợp đơn thuần bằng một cách nào đó đã “vô tình” chạm tay vào vinh quang, cho ra đời những phát minh vĩ đại mà đến nay vẫn còn được áp dụng rộng rãi.Dù bằng phương pháp nào đi chăng nữa, chúng ta cũng nên cảm thấy biết ơn và may mắn vì tựu chung lại, chúng đều có chung mục đích là xây dựng, kiến thiết nên một thế giới tốt đẹp hơn bao giờ hết.Dưới đây là danh sách những phát minh “tình cờ” trong quá khứ, nhưng kết quả thì bất ngờ không kém:


1. Đất nặn

http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/goi-y-nhung-tro-choi-voi-dat-nan-thu-vi-cua-me-nhim.jpg (http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/goi-y-nhung-tro-choi-voi-dat-nan-thu-vi-cua-me-nhim.jpg)


Đất nặn.


Nhà phát minh: Joseph McVicker, Chủ tịch công ty Kutol Products – một hãng sản xuất xà-bông tại Cincinnati, Ohio.

Mục đích ban đầu: Những năm đầu thập niên 1950, công ty Kutol đã chế tạo thành công một loại bột đất sét đặc biệt có công dụng loại bỏ các vết đen do bồ hóng gây ra trong những căn nhà sử dụng than, củi để nấu nướng và sưởi ấm. Nhưng theo như số liệu từ Christian Science Monitor, người dân đã sớm có xu hướng chuyển đổi từ loại hình than củi sang sử dụng gas, dẫn đến nguy cơ thua lỗ nghiêm trọng cho công ty.

Diễn biến và kết quả: McVicker khi đó nhớ lại bài học ngày xưa được chị ông dạy cho về việc sử dụng những chất bột nhão để mô phỏng độ dẻo của đất sét. Và cuối cùng, vào năm 1957, với quyết định đúng đắn của mình – biến thiết kế trên trở thành một loại đồ chơi cho trẻ em với nhiều màu sắc hấp dẫn – đã giúp mang lại cho công ty hàng triệu USD

.2. Kem que

http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Kem que.

Nhà phát minh: Frank Epperson, khi mới… 11 tuổi.

Mục đích ban đầu: Năm 1905, trong khi đang vui chơi cùng với gia đình ở sân sau nhà tại San Francisco, Epperson vô tình dùng một chiếc que trộn bột soda khô và nước lại với nhau trong một chiêc cốc để đùa nghịch, sau đó bỏ quên đống hỗn độn ấy bên ngoài và trở vào bên trong nhà.

Diễn biến và kết quả: Sáng hôm sau (theo nguồn tin từ Gizmodo), Epperson phát hiện ra một “que kẹo băng” ở đó. Cậu bé đã đặt tên cho sản phẩm này theo tên của chình mình: Eppsicle, rồi dần dần khoe và làm nó cho các bạn cùng trang lứa, cho đến cả những đứa con của mình. Những đứa trẻ khi ấy gọi tên chiếc que của cậu là Popsicle, vì được làm từ soda nên khi nếm sẽ có hiện tượng nổ li ti, cho nên vào năm 1923, anh đã đăng ký bằng sáng chế cho thiết kế này, chính thức đánh dấu sự ra đời của kem que – sản phẩm bán chạy nhất mọi thời đại mỗi khi mùa hè đến.

3. Đồ chơi lò xo uốn “Slinky”

http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/images-212.jpg (http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/images-212.jpg)


Đồ chơi lò xo uốn “Slinky”


Nhà phát minh: Richard Jones, Kỹ sư Hải quân.

Mục đích ban đầu: Năm 1943, John đang tham gia vào quá trình chế tạo một dụng cụ đồng hồ đo cho mức năng lượng trên những chiến hạm.Diễn biến và kết quả: Khi ấy, John tập trung vào nghiên cứu lò xo ép. Bỗng nhiên một lần đang mải thiết kế thì một chiếc lò xo rơi xuống sàn, và tiếp tục nảy qua nảy lại cho đến khi mãi sau mới chịu nằm yên trê mặt đất. Sau một vài lần sửa đổi, đồ chơi Slinky đã chính thức ra đời.

4. Coca-Cola


http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/85815-su-that-it-biet-ve-cocacola.jpg (http://tinhhoa.net/wpcontent/uploads/2014/08/85815-su-that-it-biet-ve-cocacola.jpg)

Nhà phát minh: John Pemberton, Dược sĩ

.Mục đích ban đầu: Sống ại Atlanta những năm 1880, Pemberton kinh doanh một loại xi-rô làm từ rượu và chiết xuất từ cây coca, với tên gọi “Rượu Coca Pháp nhãn hiệu Pemberton”, được quảng cáo là có tác dụng chữa đau đầu và chứng lo lắng, bồn chồn.

Diễn biến và kết quả: Năm 1885, Atlanta nghiêm cấm mọi hình thức buôn bán đồ uống có cồn, vì vậy Pemberton đành loại bỏ nguyên liệu trên khỏi sản phẩm của mình, chỉ còn lại dung dịch coca là yếu tố chính dùng để hòa với nước muối khoáng, tạo nên một loại soda. Thật bất ngờ, kết quả sau đó lại trở nên được ưa chuộng vô cùng vào thời điểm ra mắt, sau này lấy tên Coca-Cola.

5. Bánh quy điểm socola

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-uyYdp7-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-uyYdp7-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Bánh quy điểm socola


Nhà phát minh: Ruth Wakefield, Chủ công ty Toll House.

Mục đích ban đầu: Wakefield đơn giản chỉ muốn… làm vài chiếc bánh quy thông thường.

Diễn biến và kết quả: Năm 1930, trong lúc trộn một mẻ bánh, Wakefield chợt nhận ra mình hết nguyên liệu socola. Để ứng biến, cô đã bẻ vụn số socola còn lại thành những mảnh bé hơn và tiếp tục trộn vào bột làm bánh. Cô định nướng chảy số vụn socola ấy, hòa cùng nhân bánh nhưng không, những mảnh vụn đó vẫn “cứng đầu”, không hề bị ảnh hưởng, để rồi cuối cùng cho ra một loại bánh quy đặc biệt mới.

6. Lát khoai tây chiên


http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-9YFA1z-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-9YFA1z-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Lát khoai tây chiên


Nhà phát minh: George Crum, Đầu bếp tại Carey Moon Lake House, nằm ở Saratoga Springs, New York.

Mục đích ban đầu: Crum khi ấy đang cố gắng phục vụ món khoai tây Pháp do một khách hàng đặt vào mùa hè 1853.

Diễn biến và kết quả: Khách hàng đó liên tục gửi trả lại món ăn đã phục vụ, yêu cầu phải thái lát mỏng hơn cà giòn hơn nữa. Crum đã mất bình tĩnh, cắt lát khoai mỏng đến nỗi không thể mỏng hơn rồi chiên chúng sao cho “khô cứng” nhất có thể. Nhưng không ngờ là rất nhiều người thích nó và đặt mua rất nhiều.

. Máy điều hòa nhịp tim

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-i8Ay7E-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-i8Ay7E-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Máy điều hòa nhịp tim.


7.Nhà phát minh: John Hopps, Kỹ sư điện tử.

Mục đích ban đầu: Hopps khi ấy đang tiến hành một vài nghiên cứu về hiện tượng hạ thân nhiệt ở người và cố gắng áp dụng công nghệ tần số radio để hồi phục và làm nóng cơ thể trở lại.

Diễn biến và kết quả: Trong khi mải mê thí nghiệm, ông khám phá ra rằng nếu trái tim con người ngừng đập vì thân nhiệt giảm xuống, chúng ta vẫn có thể cứu nguy bằng cách sử dụng những kích thích nhân tạo từ bên ngoài. Từ đó, qua nhiều phân tích chuyên sâu, máy điều hòa nhịp tim đã được phát minh thành công vào năm 1951.

8. Đồ chơi nhựa nảy Silly Putty

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-hE7xuw-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-hE7xuw-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Đồ chơi nhựa nảy Silly Putty.


Nhà phát minh: James Wright, Kỹ sư điện.

Mục đích ban đầu: Trong thời gian diễn ra Thế chiến II, chính phủ Mỹ yêu cầu nguồn cung cấp cao su cho việc sản xuất lốp máy bay, giày ủng và những thứ liên quan. Wright khi ấy đang thử nghiệm ứng dụng silicon thay cho cao su, vì độ phổ biến rộng rãi của nó thời bấy giờ.

Diễn biến và kết quả: Trong một lần thử đặc tính của dầu silicon vào năm 1943, Wright cho thêm boric acid vào hợp chất ban đầu. Kết quả cho ra là một thứ chất nhầy nhụa, có khả năng nảy cao. Khi đó ông không thể nghĩ ra mục đích sử dụng gì cho thứ này, rồi sau đó chợt lóe lên ý tưởng biến nó thành một loại đồ chơi thú vị và tuyệt vời cho trẻ em.

9. Lò vi sóng

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-WaO2Cf-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-WaO2Cf-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Lò vi sóng.


Nhà phát minh: Percy Spencer, Kỹ sư Tập đoàn Raytheon.

Mục đích ban đầu: Năm 1946, Spencer đang tham gia vào dự án nghiên cứu ứng dụng của radar cùng một ống chân không.

Diễn biến và kết quả: Trong khi thực hiện thí nghiệm với ông tuýp, một thanh kẹo trong túi Spencer đột nhiên bị chảy ra. Ngay lập tức, ông lấy thêm vài lõi ngô còn nguyên vẹn đặt gần thiết bị trên, và chúng cũng bắt đầu “nổ”. Đó là thời điểm Spencer nhận ra mình vừa chế tạo thành công cỗ máy đồng nghĩa với một khám phá mang tính chất cách mạng của thời đại

.10. Ma túy gây ảo giác LSD


http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-32Nrw3-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-32Nrw3-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Ma túy gây ảo giác LSD.



Nhà phát minh: Albert Hofmann, Chuyên gia hóa học.

Mục đích ban đầu: Ông đang trong quá trình nghiên cứu chất dẫn xuất của acid kết tinh từ nấm cựa lúa mạch (LSD) trong phòng thí nghiệm tại Basel, Thụy Sỹ năm 1938.

Diễn biến và kết quả: Hoffman tình cờ nuốt một lượng LSD trong lúc mải xem xét những đặc tính của nó. Sau đó ông đã khởi đầu cho một thời kỳ lan tỏa rộng khắp của loại ma túy này, trở thành một mặt hàng thường xuyên của thế giới ngầm.

11. Chất tạo ngọt


http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-lpmyNS-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-lpmyNS-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Chất tạo ngọt.

Nhà phát minh: Constantine Fahlberg, Nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins.

Mục đích ban đầu: Cố gắng tìm ra nguồn nguyên liệu thay thế cho nhựa đường chiết xuất từ than đá vào năm 1879.

Diễn biến và kết quả: Một ngày bình thường như bao ngày khác, trở về nhà sau giờ làm việc, ông phát hiên jra bánh quy vợ làm hôm nay ngọt hơn thường lệ. Nguyên liệu bí mật của vợ ông hóa ra lại trở thành nguồn gốc cho chất tạo ngọt sau này.


12. Giấy nhớ

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-DsgS8t-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-DsgS8t-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)
Giấy nhớ


Nhà phát minh: Spencer Silver and Art Fry, làm việc tại Phòng thí nghiệm 3M.

Mục đích ban đầu: Năm 1968, Silver tạo ra một chất dính tạm trong phòng thí nghiệm, nhưng không biết sử dụng nó vào việc gì.

Diễn biến và kết quả: Điểm đặc biệt của chất dính chế tạo bởi Silver là bạn có thể đính một vật có trọng lượng nhỏ lên đó, một mảnh giấy chẳng hạn, dính lên hoặc bỏ đi khỏi bề mặt mà không làm hư hại gì cả. Hơn nữa, độ dính của sáng chế trên rất lâu, có thể được dùng dán lại nhiều lần. Tuy nhiên, mọi cố gắng tìm kiếm ứng dụng thật sự trong đời sống của sản phẩm này vẫn chưa đâu vào đâu.Vài năm sau, đồng nghiệp của ông – Fry – vốn đang bực tức vì không thể tìm ra cách gì để dán một số giấy tờ lên cuốn sách hợp ca của mình tại nhà thờ. Và từ đó, ý tưởng lớn gặp nhau, giấy nhớ đã được ra đời (dù phải đến năm 1980 mới trở nên phổ biến).

13. Dung dịch chống bám bẩn

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-7DOrPv-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-7DOrPv-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Dung dịch chống bám bẩn.


Nhà phát minh: Patsy Sherman, Chuyên gia hóa học tại 3M.

Mục đích ban đầu: Năm 1953, Sherman đã được nhận vào làm việc cho một dự án phát triển ứng dụng của cao su có khả năng không bị ăn mòn và phân hủy khi tiếp xúc với nhiên liệu của áy bay phản lực.

Diễn biến và kết quả: Một trợ lý của cô vô tình đánh đổ dung dịch thí nghiệm của Sherman lên giày của mình. Sau đó, cô nhận rằng trong khi hầu hết giày của cô trợ lý bị bẩn xung quanh thì chỗ bị đổ vào lại “miễn nhiễm”. Sau đó, Sherman đã tái kế hoạch dự án và tập trung nghiên cứu hợp chất kháng khuẩn trên, được biết tới với cái tên Scotchgard.

14. Sản phẩm ngũ cốc

http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-OCdjbG-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-OCdjbG-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Sản phẩm ngũ cốc


Nhà phát minh: John and Will Kellogg, Hai anh em cùng có đam mê khởi nghiệp.

Mục đích ban đầu: Họ đơn thuần chỉ đang tìm cách làm mềm hạt ngũ cốc để chế biến món yến mạch trộn.

Diễn biến và kết quả: Năm 1898, hai anh em tình cờ bỏ quên một nồi ngũ cốc còn đang luộc trong lò trong vòng tận vài ngày. Hỗn hợp đó đã dần bị thiu và mốc, nhưng thành phần còn lại được tạo ra từ đó lại cứng và dày hơn hẳn. Tò mò, họ đã thử thí nghiệm lại, và cuối cùng cũng loại bỏ được hỗn hợp ôi thiu đáng ghét kia, giữ lại sản phẩm cuối cùng như ngày nay.

15. Penicillin


http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-dSjg2y-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-dSjg2y-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Penicillin.


Nhà phát minh: Alexander Fleming, Nhà khoa học.

Mục đích ban đầu: Thật nực cười là Fleming đang tìm kiếm một phương thuốc “chữa bách bệnh” trên đời. Tuy nhiên, cho đến khi ông nhận ra nghiên cứu trên là vô ích, thì một bước ngoặt cuộc đời mới xảy đến với ông.

Diễn biến và kết quả: Năm1928, Fleming nhận thấy một đĩa cấy vi khuẩn trong phòng thí nghiệm mà ông đã bỏ đi không dùng đến bỗng xuất hiện một loại nấm có khả năng phân rã toàn bộ vi khuẩn xung quanh nó. Khi được cấy ghép và nuôi dưỡng trong môi trường riêng, ông khám phá ra một nhân tố kháng sinh bên trong – penicillin – có thể được dùng để điều trị rất nhiều loại bệnh lây lan cũng như viêm nhiễm. Thành quả thu được là tỷ lệ tử vong do các loại bệnh trên giảm đáng kể, chỉ còn bằng 1/20 so với thời điểm năm 1900.

16. Phương pháp chụp tia X


http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-ZjYSbJ-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg (http://drive.tinhhoa.net/http/1200x1200/tinhhoa.net-ZjYSbJ-20160627-16-phat-minh-tinh-co-va-bat-ngo-nhung-da-thay-doi-ca-the-gioi.jpg)


Phương pháp chụp tia X.


Nhà phát minh: Wilhelm Röntgen, Nhà Vật lý học.

Mục đích ban đầu: Röntgen khi ấy đang vật lộn với những thí nghiệm về ống catôt, cũng là lúc ông phát hiện ra tia phóng xạ có khả năng xuyên qua tấm bìa cho bên ngoài của ống, tác động lên một hợp chất phía sau làm nó phát sáng lên.

Diễn biến và kết quả: Những nghiên cứu tiếp theo càng chỉ ra rằng ông đã tạo ra một loại bức xa mới, đặt tên là “tia X”, có khả năng xuyên qua hầu hết mọi vật thể, kể cả da thịt con người.
Theo genk