khieman
04-01-2016, 02:08 AM
.
Thưa quý bạn đọc,
Có người thắc mắc rằng "Tại sao Việt Nam Cộng Hòa lại sản sinh ra được nhiều người ăn ở tử tế, sống theo đạo đức, nhân nghĩa như thế?".
Xin thưa, những con người tốt lành không từ trên trời rơi xuống, mà xuất thân từ công trình đào tạo của những nhà giáo dục lương hảo đã tận tụy gây dựng thế hệ tương lai nên người.
Mời quý bạn đọc bài này và xin quý bạn cùng với tôi cảm tạ những bậc thày xưa kia đã tận tâm dạy dỗ chúng ta theo chương trình học phong phú, chu đáo về mọi mặt, để tạo nên những con người có phẩm cách cao quý.
KA
Chương trình giáo dục và sách giáo khoa
thời Việt Nam Cộng Hòa
MỞ ĐẦU
Đối tượng của bài viết này là chương trình và sách giáo khoa miền Nam 1954-1975, tuy nhiên nếu không nhắc sơ lại thời kỳ quá độ trong đó nền giáo dục Việt Nam chuyển từ cựu học sang tân học, chúng ta sẽ khó theo dõi để nhận ra một cách rõ ràng những sự thay đổi cùng tên gọi các cấp, lớp, ban học, cũng như nội dung cụ thể của các chương trình học mới sau này.
Có thể nói, không kể thời kỳ Nho học mà sự cáo chung được đánh dấu bằng khoa thi Hội cuối cùng ở Trung Kỳ vào tháng 4 năm Kỷ Mùi (1919), nền giáo dục hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 khi người Pháp đã củng cố xong nền cai trị của họ tại Việt Nam.
Lý do chấm dứt con đường học hành thi cử truyền thống đã được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ trình của Bộ Học, trước khoa thi cuối cùng nêu trên: “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt hẳn. Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt” (theo Khải Định chính yếu sơ tập).
Trước đó, kể từ Đạo dụ ngày 31/5/1906, chính phủ Bảo hộ Pháp được sự thỏa thuận của Nam triều ấn định nền học chính mới thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp dụng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, theo đó chia làm ba bậc học:
(1) Ấu học gồm lớp Đồng ấu (lớp Năm), lớp Dự bị (lớp Tư), lớp Sơ đẳng (lớp Ba). Chương trình học gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối bậc Ấu học (tức lớp Ba), học sinh phải qua một kỳ thi để lấy bằng Sơ học Yếu lược (Primaire Élémentaire).
(2) Tiểu học gồm lớp Nhì năm thứ nhứt (Cours Moyen 1ère année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2ème année), và lớp Nhứt (Cours Supérieur). Chương trình học cũng gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối cấp thi lấy bằng Tiểu học Yếu lược, cũng gọi Sơ đẳng Tiểu học hay Sơ học Pháp Việt (Certificat d’Etude Primaire Franco-Indigène, tương đương bằng Tiểu học sau này).
(3) Trung học, gồm hai cấp/ ban Cao đẳng Tiểu học và Tú tài: (a) Cao đẳng Tiểu học học đủ các môn Pháp văn, Toán, Lý, Hóa, Vạn vật (Sinh vật), Sử, Địa… tương tự chương trình Pháp, gồm 4 năm: Nhất niên (1 ère année), Nhị niên (2 ème année), Tam niên (3 ème année), Tứ niên (4 ème année). Tất cả đều dạy bằng tiếng Pháp, trừ 2 môn Việt văn và Hán văn; (b) Tú tài (Enseignement secondaire, tương đương Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III sau này), thời gian học 3 năm (tương tự 3 lớp bậc sau cùng của chương trình Trung học Pháp), chia làm 3 ban Triết học/ Văn chương, Toán và Khoa học, với học trình gồm các lớp Đệ nhất niên (1 ère année secondaire, tương đương lớp Đệ tam hay lớp 10 sau này), Đệ nhị niên (2 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) và Đệ tam niên (3 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này). Cũng dạy toàn bằng tiếng Pháp, trừ môn Việt văn và Triết học Trung Hoa. Kể từ Đệ nhất niên đã bắt đầu phân ban gồm ban Khoa học (Sciences), ban Toán (Mathématiques), ban Triết (Philosophie). Học sinh học xong Đệ nhị niên (tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) thi lấy bằng Tú tài I (hay Tú tài phần I), nếu đậu mới được học năm cuối cùng (Đệ tam niên, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này) để thi lấy bằng Tú tài II (hay Tú tài toàn phần).
Riêng ở Nam Kỳ là xứ thuộc địa nên nền học chính đều theo quy chế thuộc địa, chỉ có chương trình Pháp, nhưng ở vài trường (như Chasseloup Laubat, Pétrus Ký… ở Sài Gòn) cũng có dạy thêm một số giờ tiếng Việt.
Ở Bắc và Trung, hai chương trình trung học Pháp và Pháp Việt nêu trên vẫn được áp dụng cho đến năm 1945 thì được thay bằng chương trình toàn Việt (lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ) ban hành trong thời chính phủ Trần Trọng Kim bằng Dụ số 67 ngày 3/6/1945 do Hoàng đế Bảo Đại ký và được thực thi ngay với khoa thi Tú tài niên khóa 1944-1945. Đây là chương trình trung học Việt Nam đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam hiện đại, tham khảo từ chương trình Pháp, quen gọi Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn, vì do một nhóm giáo sư tâm huyết ở Hà Nội và Huế biên soạn cấp tốc chỉ trong khoảng 10 ngày, dưới sự chủ trì, đôn đốc của Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn.
Riêng ở Nam, đến năm 1949, trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, chương trình cũ (Pháp và Pháp Việt) mới được thay thế bằng chương trình Hoàng Xuân Hãn.
Đến tháng 9/1949, hai bộ Chương trình Giáo dục Việt Nam mới dành cho bậc Tiểu học và bậc Trung học với một số thay đổi từ chương trình Hoàng Xuân Hãn đã được ban hành chỉ cách nhau chừng tuần lễ, dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát, để áp dụng chung trong những vùng thuộc Quốc gia Việt Nam kiểm soát. Được biết sau đó, cả hai bộ chương trình này còn được cải cách thêm lần nữa vào năm 1953 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn.
Vì vậy, để thấy được sự tiến triển qua các thời kỳ của chương trình và sách giáo khoa Việt Nam giai đoạn 1954-1975, chúng ta không thể không xét qua một số bộ chương trình giáo dục cũ nhưng có tính cơ sở như vừa nêu trên, trong đó có Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn 1945, và Chương trình Tiểu học 1949, vì những bộ chương trình Trung và Tiểu khác về sau đều dựa theo 2 bộ chương trình này để từ đó chỉnh sửa và phát triển thêm, với sự thay đổi gần như không đáng kể.
Hiện nay, mặc dù chỉ mới sau 40 năm thay đổi, việc khảo sát/ nghiên cứu đầy đủ về chương trình và sách giáo khoa miền Nam trước đây là một việc làm không dễ chút nào. Nguyên do vì các thư viện cả tư nhân lẫn nhà nước đều ít có chỗ nào quan tâm lưu trữ loại tài liệu này (kể cả Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Tổng hợp TP HCM, Thư viện Khoa học Xã hội TP HCM…), loại tài liệu mà người ta đơn giản cho rằng không còn cần dùng đến nữa, nên sau ngày 30/4/1975 đã bị vô tình hủy bỏ hầu hết. Chúng tôi đã ráng lùng sục, hỏi han khắp nơi vẫn chưa tìm đủ được tất cả những bộ chương trình giáo dục đã được Bộ Quốc gia Giáo dục miền Nam in ra, còn về sách giáo khoa phục vụ cho chương trình giảng dạy thì tuy cũng tương tự như vậy nhưng may mắn lại được một số người yêu sách “hoài cổ” giữ được chút ít. Vì vậy, khi trình bày bài viết này, đặc biệt ở phần chương trình giáo dục, có những chỗ chúng tôi sẽ trích dẫn nguyên văn tài liệu cũ khá dài, không phải không biết ngại tốn giấy mực, nhưng ngoài việc minh họa còn có ý phần nào giúp thế hệ trẻ và những người nghiên cứu lịch sử giáo dục sau này có sẵn tài liệu tham khảo, khi cần thì vẫn có thể trích dẫn lại được, mà không quá vất vả như khi chúng tôi phải đi tìm chúng (ở những đoạn trích nguyên văn này, chúng tôi sẽ cho in bằng font chữ khác với cỡ chữ nhỏ hơn bình thường, cho dễ phân biệt).
Phần mô tả nội dung cụ thể chương trình học mỗi cấp lớp của hai bậc Trung, Tiểu học, cũng như sách giáo khoa tương ứng, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào 3 môn Văn, Đạo đức/ Công dân giáo dục (Tiểu học, Trung học hay cấp I, II) và Triết (Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III) vì nếu giới thiệu sang tất cả những môn khác sẽ quá mênh mông dài dòng, và vì đây cũng là 3 môn học tiêu biểu cho thấy những nét đặc trưng của nền giáo dục miền Nam 1954-1975 vốn dựa trên nền tảng triết lý giáo dục (hay những nguyên tắc căn bản) gồm Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng. Về sách giáo khoa liên quan các bộ môn trên, chúng tôi cũng lại xin chú trọng giới thiệu chi tiết hơn về sách giáo khoa của bậc Tiểu học, vì quan niệm đây là bậc học phổ thông nền tảng có tính đại chúng quyết định cho những bậc học tiếp sau.
Tuy chủ đề bài viết là chương trình và sách giáo khoa miền Nam trước 1975, nhưng khi trình bày cho từng đề mục hữu quan, chúng tôi không thể không nhắc qua những giai đoạn trước đó, vì nếu không làm như vậy, sẽ không thể nhận ra được mối liên lạc nhân quả trong suốt dòng mạch phát triển có tính kế thừa và liên tục. Chẳng hạn, nếu không nắm bắt sơ qua nội dung các sách giáo khoa về Quốc văn, Luân lý của thời Trần Trọng Kim trước đó thì sẽ không thể hiểu được lý do về nội dung hiện hữu của các sách giáo khoa Quốc văn, Đạo đức, Công dân giáo dục về sau. Tương tự, tìm hiểu về chương trình học của miền Nam trước 1975, như trên đã nói, chúng ta cũng không thể không xét tới những bộ chương trình cũ đã được biên soạn trước, từ 1945.
Riêng về chương trình và sách giáo khoa ở bậc Đại học, chúng tôi cũng xin nói lướt qua cho biết vậy thôi, đơn giản chỉ vì Đại học miền Nam được quyền tự trị, về học vụ mỗi trường đại học tự lo lấy, không có chương trình học quy định và cũng không bị Bộ Quốc gia Giáo dục chi phối, chỉ đạo. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xin lưu ý giới thiệu sơ qua chương trình học và một số giáo trình thường được giảng dạy trong các trường Đại học Sư phạm, vì quan niệm đây như bộ “máy cái” đào tạo giáo viên, có tác dụng rất quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền giáo dục chung cả nước.
A. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
I. CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC
1. Chương trình Tiểu học 1949
a. Tổng quát
Chương trình Tiểu học Việt Nam đầu tiên được ban hành theo Nghị định 4-NĐ/GD trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát ký ngày 27/8/1949.
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, xếp theo thứ tự từ thấp lên cao, gồm: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).
Các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc và Học thuộc lòng - Văn phạm, Chính tả và Viết tập - Tập làm văn), Đức dục, Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Khoa học thường thức, Toán pháp, Tập vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên và tổ chức hàng đội tự trị, Thể dục, Học hát-Tập kịch-Học nói, Họp lớp, Đi chơi, Đi cắm trại, Trò chơi.
Chương trình này đã đánh dấu một bước ngoặt tiến triển quan trọng trong lịch sử giáo dục tiểu học Việt Nam, trở thành căn cứ tham khảo cho những chương trình tiểu học tiếp sau trong thời Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Dưới đây là “Chỉ thị chung” cũng do Bộ trưởng Phan Huy Quát ký tại Hà Nội ngày 24/8/1949, ban hành như một phụ bản kèm theo Nghị định 4-NĐ/GD nêu trên, nội dung tuy có phần hơi rối rắm thiếu mạch lạc nhưng cũng đủ cho thấy chủ trương chính sách qua đó những phương pháp của nền giáo dục mới đã được chính thức đem ra áp dụng tại Việt Nam cho bậc Tiểu học:
CHỈ THỊ CHUNG
Bậc tiểu học là căn bản của nền quốc gia giáo dục.
Ngành tiểu học có nhiệm vụ đào tạo những thế hệ thanh niên xứng đáng của một nước độc lập.
Chương trình bậc tiểu học đã soạn theo những nguyên tắc mới để cho nền giáo dục thời nay được phù hợp với sự tiến hóa của dân tộc và tính cách độc lập của quốc gia.
1) Tinh thần quốc gia.- Nêu cao tinh thần quốc gia để khích lệ lòng ái quốc và chấn khởi dân khí. Tinh thần quốc gia Việt Nam ngày nay là tinh thần của một dân tộc biết tự cường, tự lập, biết phấn đấu để giành độc lập, biết kiên quyết để giữ giang sơn Tổ quốc, biết nỗ lực để ganh đua với người ngoài trên con đường tiến hóa của nhân loại.
2) Cưỡng bách giáo dục.- Muốn đạt được mục tiêu nói trên, nền tiểu học phải đi đến cưỡng bách giáo dục. Bộ đang nghiên cứu để tìm các phương tiện để dần dần thực hiện được sự cưỡng bách giáo dục. Vì lẽ đó, nên chương trình tiểu học không dành một số giờ về môn Pháp ngữ.
3) Chuyển ngữ các môn trong chương trình này là tiếng Việt, nên hạn tuổi tối thiểu vào lớp Năm, là lớp đầu bậc tiểu học, rút xuống 5 tuổi (trước kia 6 tuổi). Như thế, trẻ con có thể 10 tuổi đã học hết bậc tiểu học. Những học trò nào có thể theo học bậc trung học được thì 17 tuổi đã thi lấy bằng Tú tài. So với nền trung học của các nước Âu Mỹ, thì niên hạn ấy là tương đương, và các học sinh xuất sắc sau này vào các trường đại học cũng một loạt tuổi nhau cả.
4) Lớp mẫu giáo.- Muốn cho trẻ con trước khi vào trường tiểu học đã được huấn luyện theo các phương pháp khoa học, một lớp mẫu giáo sẽ thành lập gần đây. Lớp ấy có mục đích là đào tạo một số giáo viên các lớp mẫu giáo sau này để thu nhận các trẻ con dưới 5 tuổi.
5) Thể dục.- Cho nền giáo dục được hoàn toàn, chương trình bậc tiểu học dành một địa vị quan trọng cho môn Thể dục. Một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể cường tráng mới mong gánh vác nổi các công việc nặng nề kiến thiết quốc gia.
Ngoài ra, sự chú trọng về thể dục là sửa soạn một số thanh niên để sau này cung cấp cho các trường quốc gia võ bị có nhiệm vụ gây một quân đội Việt Nam xứng đáng.
6) Ca nhạc.- Bí quyết của sự thành công trong việc giáo huấn trẻ con là sự hoạt động và vui vẻ. Vì lẽ đó, nên ngay từ các lớp tiểu học, Bộ đã để riêng một số giờ để dạy môn ca nhạc. Trẻ con thường thích hát và lại nhớ dai, những bài hát sẽ được lựa chọn, và sẽ luôn luôn nhắc nhở cho chúng những điều chúng cần biết để nuôi một tinh thần quốc gia mạnh mẽ, một lòng tin vững chắc.
7) Tinh thần đoàn kết.- Một dân tộc mà rời rạc thì tất nhiên yếu hèn, không thể sinh tồn trong cái thế giới hơn được kém thua này. Nghĩa đoàn kết là một lợi khí tối quan trọng trong sự tiến triển của một dân tộc. Học đường phải giải thích cho trẻ biết nghĩa hợp quần. Muốn cụ thể hóa nghĩa đoàn kết, việc tổ chức tập đoàn sẽ là một điều mới trong chương trình bậc tiểu học.
8) Học đường không có nhiệm vụ chỉ giáo huấn trẻ con, rồi để mặc chúng tự ý xoay xở lấy. Muốn tránh những kết quả không hay do sự hiểu lầm ấy gây nên, học đường cần phải liên lạc mật thiết với gia đình, để hướng dẫn học sinh vào các ngành chuyên môn.
Để giúp vào công việc ấy, sẽ lập những phiếu để ghi các điều nhận xét về sinh lý, về khả năng, về các điểm có liên can đến sức nảy nở của đứa trẻ về các phương diện.
9) Ngoài ra, nếu có thuận tiện, sẽ đặt một học xưởng cạnh mỗi trường học để học sinh có thể hằng ngày trực tiếp tế nhận các hoạt động của một tiểu công nghệ.
Hà Nội, ngày 24 tháng 8 năm 1949
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
PHAN HUY QUÁT
b. Nội dung chương trình
Chỉ xin ghi lại chương trình Việt ngữ, Đức dục của lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba để có căn cứ so sánh với những chương trình đến sau. Phần giới thiệu đầy đủ hơn sẽ dành cho Chương trình Tiểu học 1959-1960 (ở mục 2, dưới kế tiếp), vì Chương trình 1959-1960 về căn bản cũng tương tự chương trình này nhưng lại được sử dụng ổn định lâu dài trong suốt thời kỳ VNCH.
▪ Chương trình Việt ngữ các lớp Năm, Tư, Ba (chỉ nêu tiêu biểu về phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, và không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng chữ một, từng âm vận một, từng tiếng một, rồi tới câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau học trò đã biết đọc từng bài ngắn. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, phương ngôn có ý nghĩa luân lý hoặc có tương quan với chương trình Ngữ vựng, nhưng phải là những câu hay và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, biết chép bài, thì ông giáo nên dùng thính giác và tập cho học trò lắp đi lắp lại những câu nên thuộc lòng.
- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, có tương thích với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, những bài quốc ca, ca dao ý vị. Chú ý đến cách phát âm và giọng.
- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần có tính cách luân lý, thiết thực. Tập đọc cho trôi chảy và ý vị, đọc cho tự nhiên, đừng ề à.
▪ Chương trình Đức dục các lớp Năm, Tư, Ba (ghi đủ, nhưng không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Ông giáo không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho trẻ những đức tính sau đây:
a) Bổn phận đối với bản thân.- Sạch sẽ, thứ tự, ăn uống điều độ, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Bổn phận đối với cha mẹ, đối với anh em, chị em. Sự tưởng niệm tổ tiên. Các ngày kỷ niệm trong gia đình. Bổn phận đối với người trong họ. Tình gia tộc. Đoàn hợp. Cách đối đãi với gia bộc (nhân từ, độ lượng, tử tế).
c) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời, biết ơn. Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa đoàn thể trong bè bạn, bênh vực kẻ yếu, không ghen ghét, không thóc mách.
d) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Thương kẻ khó, kẻ tàn tật.
Đọc những chuyện hay và tiểu sử danh nhân có bổ ích cho bài dạy.
- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định.
a) Bổn phận đối với bản thân.- Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Phải tập thể dục. Biết gắng công. Tính can đảm. Giữ phẩm giá mình. Khi lầm lỗi biết xấu hổ. Tiết kiệm. Nhún nhường.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Ôn lại chương trình lớp Năm. Thêm: Đừng làm cho cha mẹ, anh em mang tiếng xấu, giữ tiếng thơm cho gia tộc và tổ tiên.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.
- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Ôn lại chương trình hai lớp dưới [tức lớp Năm, lớp Tư] về bổn phận trẻ con đối với bản thân và đối với gia đình.
a) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Ôn qua chương trình lớp Năm. Thêm: bổn phận đối với thầy và bạn sau khi thôi học.
b) Bổn phận đối với Tổ quốc.- Bổn phận người dân trong nước: biết nỗ lực, không ỷ lại, biết hy sinh, ham tự do, trọng kỷ luật, giữ trật tự, trọng pháp luật. Gắng làm việc cho Tổ quốc. Khuyến khích mọi người cùng làm.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Ôn lại chương trình lớp Tư. Thêm: trọng lời hứa, tờ giao kết. Giao tế chân thật, công tâm.
d) Xã giao.- Sự giao thiệp với bà con, họ hàng, làng xóm.
2. Chương trình Tiểu học 1959-1960
a. Tổng quát
Trước chương trình này, được biết còn có một Chương trình Tiểu học tương tự được ban hành đầu niên học 1956-1957, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, nhưng chúng tôi không có sẵn trong tay tài liệu này. Chương trình Tiểu học 1959-1960 thật ra chỉ là một bộ cải biên từ Chương trình 1949 (đã giới thiệu ở trên) và Chương trình 1956-1957, nội dung giữa chúng đều đại đồng tiểu dị (kể cả phần “Lời chỉ dẫn” đặt trước mỗi môn học, mà ở Chương trình 1949 gọi là “Lời nói đầu”), và được sử dụng ổn định trong suốt quãng thời gian còn lại của chế độ VNCH, với vài chi tiết thay đổi không đáng kể.
Chương trình Tiểu học 1959-1960 được ban hành theo Nghị định 1005-GD/NĐ ngày 16/7/1959 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, sửa đổi theo “Chương trình bậc Tiểu học ấn định do Nghị định số 4-NĐ/GD ngày 27.8.1949 và các Nghị định sửa đổi và bổ túc kế tiếp” (Điều 1 Nghị định), “Các bảng phân chia giờ học giữa các môn và chương trình học khóa đính theo Nghị định này sẽ áp dụng kể từ niên học 1959-1960” (Điều 2 Nghị định).
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, cách gọi cũng như Chương trình Tiểu học 1949, tức: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).
Các môn học, gồm 9 môn: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc - Học thuộc lòng - Chính tả và Văn phạm - Tập làm văn - Tập viết), Đức dục và Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Thường thức (Quan sát và Vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên, Trò chơi, Thể dục và trò chơi.
Những nguyên tắc cải tổ chương trình tiểu học để cho ra chương trình 1959-1960 đã được đính kèm theo bản Nghị định 1005-GD/NĐ, đặt ở phần đầu bộ sách Chương trình Tiểu học do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1960. Những nguyên tắc này có tính cách chỉ đạo giáo dục, thường được trích dẫn lại đầy đủ trong các giáo trình dành cho ngành sư phạm (như trong sách Sư phạm thực hành của GS Trần Văn Quế, do Bộ Văn hóa Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964 và lần thứ hai năm 1969), đã thể hiện thêm bước nữa nỗ lực của các nhà chức trách miền Nam trong quá trình tiếp thu ngày càng đầy đủ hơn tinh thần của nền giáo dục mới thời hiện đại. Văn bản này có tính cách quan trọng, nên dưới đây xin chép lại nguyên văn để làm tài liệu tham khảo:
NGUYÊN TẮC CẢI TỔ CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC
I.- Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam
1.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcnhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy, nhằm mục đích phát triển toàn diện con người.
2.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcdân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống mật thiết liên quan với những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh tồn, phát triển của quốc gia dân tộc.
3.Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cáchkhai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học,phát huy tinh thần dân chủ và xã hội, thâu thái tinh hoa các nền vănhóa thế giới.
II. Đặc tính của nền Tiểu học Việt Nam
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam đã được ấn định, nền Tiểu học Việt Nam cần có những đặc tính sau đây:
A.- Tôn trọng nhân cách trẻ em:
1) Giúp trẻ em phát triển điều hòa và trọn vẹn tùy theo bản chất cá nhân và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lý.
2) Tôn trọng cá tính và sở năng riêng biệt của trẻ.
3) Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác.
4) Tránh mọi hình phạt phạm đến nhân vị của trẻ.
B.- Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc:
1) Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xã hội Việt Nam làm đối tượng.
2) Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ý chí tranh đấu của dân tộc, gây tình thân ái và đoàn kết.
3) Dùng Quốc văn làm lợi khí sắc bén để trau giồi tư tưởng quốc gia.
4) Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc.
5) Duy trì đạo lý cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc.
6) Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.
C.- Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học:
1) Triệt để áp dụng tổ chức “hàng đội tự trị”, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ý thức cộng đồng.
2) Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật.
3) Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học.
4) Bài trừ dị đoan, mê tín.
5) Thâu thái tinh hoa văn hóa nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.
III. Những nét chính trong việc sửa đổi chương trình Tiểu học
Chương trình Tiểu học ban hành đầu niên học 1956-1957, tuy đã được soạn thảo theo chương trình mới để phù hợp với tinh thần độc lập của nước nhà và sự tiến hóa của dân tộc, nhưng sau 3 năm kinh nghiệm, Bộ Quốc gia Giáo dục nhận thấy cần phải cải thiện thêm cho thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam và những đặc tính của nền Tiểu học, việc sửa đổi chương trình Tiểu học chú trọng đến những điểm sau đây:
1.- Rút nhẹ chương trình
Chương trình Tiểu học cần rút nhẹ để:
a) Sát với tuổi sinh lý và tâm lý của trẻ, thích ứng với nhu cầu thực tế.
b) Tránh lối học nhồi sọ.
c) Giúp cho trẻ phát triển điều hòa về mọi mặt: trí dục, đức dục và thể dục.
d) Gắn liền học với hành, hòa đời sống của học sinh vào đời sống của nhân dân, khiến chúng có nhiều cơ hội học hỏi nhân dân đồng thời giúp đỡ nhân dân.
2.- Bãi bỏ ngoại ngữ: Theo chương trình Trung học sửa đổi lại do Nghị định số 1286 ngày 12/8/1958 thì khi lên Đệ thất học sinh mới bắt đầu học ngoại ngữ và tự do lựa chọn một trong hai sinh ngữ: Anh văn hoặc Pháp văn. Như vậy, việc dạy Pháp văn ở bậc Tiểu học xét ra không thiết thực nữa, cần phải bãi bỏ, để trẻ em có thêm thời giờ trau giồi về Quốc văn mà giá trị cần được nâng cao ở tất cả các ngành và các bậc học.
3.- Bãi bỏ Ban Hướng nghiệp: Ban Hướng nghiệp thiết lập do chương trình ban hành đầu niên học 1956-57 có mục đích tập cho những học sinh bắt buộc phải trở về với công việc đồng áng, quen và thích sự sinh hoạt ở chung quanh, để chúng khỏi bỡ ngỡ sau khi rời khỏi ghế nhà trường tiểu học.
Theo tinh thần giáo dục mới thì không riêng những trẻ em này, mà tất cả các học sinh đều phải được rèn luyện để có thể giúp ích cho đời sống hằng ngày tùy từng địa phương và tùy theo khả năng và sức khỏe của trẻ. Vì vậy, không cần chia thành 2 ban dự bị trung học và hướng nghiệp nữa.
IV.- Phương pháp sư phạm - Tài liệu giáo khoa
Soạn thảo một chương trình đầy đủ chưa phải là hoàn thành được công cuộc cải tiến giáo dục. Để đạt được kết quả mong muốn, điều cốt yếu là phải áp dụng chương trình theo tinh thần mới, việc giảng dạy phải theo những phương pháp sư phạm mới: phương pháp hoạt động, cụ thể, thính thị.
Chỉ thị ngày 24/8/1949 và Thông tư số 843-GD ngày 25/2/1952 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã có nói rõ đại cương về tinh thần mới phải theo và phương pháp sư phạm mới phải áp dụng để cho việc giáo dục con em được thích ứng với nhịp sống của dân tộc trên con đường tiến hóa. Thêm vào đó, mỗi môn học sẽ có chỉ thị riêng nhấn mạnh vào những đặc điểm của chương trình cải tổ và dẫn giải những phương sách cần thiết để trường tiểu học có thể tích cực hoạt động theo những khuynh hướng mới và làm tròn nhiệm vụ của nó.
Ngoài ra, những điều giảng dạy cho trẻ phải được thấm nhuần tinh thần giáo dục mới. Vì vậy, việc biên soạn hoặc lựa chọn tài liệu giáo khoa phải triệt để căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam nói chung và những đặc tính của nền Tiểu học nói riêng, nhất là về Quốc văn, Việt sử, Địa lý, Đức dục, Công dân giáo dục v.v… là những môn không thể giảng dạy theo những tài liệu lỗi thời, không thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu Việt Nam hiện tại.
b. Nội dung chương trình
Dưới đây chỉ ghi lại chương trình học của 3 môn Việt ngữ, Đức dục và Công dân giáo dục với “Lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn của Bộ Quốc gia Giáo dục. Riêng môn Việt ngữ, chỉ ghi phân môn Tập đọc-Học thuộc lòng (không ghi Ngữ vựng, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết), để tránh rườm, nhưng cũng bởi vì chỉ cần thông qua phân môn này, chúng ta đã đủ hiểu được nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức truyền thống của môn Việt ngữ mà các nhà giáo dục miền Nam trước đây muốn nhấn mạnh.
VIỆT NGỮ
LỜI CHỈ DẪN
Ngày nay khoa Việt ngữ được dùng để rèn đúc và phát huy tư tưởng dân tộc. Ngoài ra, khoa này còn nhằm mục đích:
1) Về thực tế, trực tiếp làm cho học sinh bậc Tiểu học có một căn bản ngữ vựng cần thiết trong sự học tập.
2) Giúp cho học sinh có những tài liệu dùng trong sự tiếp xúc hằng ngày:
a) Phát biểu tư tưởng của mình bằng lời nói hoặc câu văn.
b) Hiểu biết tư tưởng của những người chung quanh mình khi nghe lời nói hoặc khi đọc câu văn.
Chương trình Việt ngữ gồm có:
- Ngữ vựng
- Tập đọc, Học thuộc lòng
- Chính tả và Văn phạm, Tập viết
- Tập làm văn
Trong thời khắc biểu của các lớp tiểu học đều có ghi những môn ấy, riêng môn Tập làm văn không ghi ở thời khắc biểu lớp Năm [lớp 1 bây giờ]. Trong những giờ Ngữ vựng và Tập đọc, giáo chức phải tập cho học trò nói chuyện (nói cho bạo dạn và cho tự nhiên, có thứ tự, có đầu đuôi, đừng kéo dài từng tiếng một). Còn môn Văn phạm [Ngữ pháp] thì chỉ ghi trong chương trình lớp Nhì và lớp Nhất [lớp 4 và lớp 5 bây giờ], nhưng cũng cốt để dạy đại cương về ngữ pháp mà thôi. Giáo chức sẽ dùng những bài Chính tả hoặc Tập đọc để giúp học sinh nhận xét một vài định luật thông thường riêng của Việt ngữ, để giúp chúng trong việc tập làm văn.
Những vấn đề trong chương trình đã ấn định sẽ học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng. Giáo chức phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc tỉ dụ thiết thực để cụ thể hóa tất cả các vấn đề đem dạy cho học trò. Mỗi vấn đề sẽ dùng làm chủ điểm cho tất cả các môn Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Tập làm văn… Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lý v.v… mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau.
Ở lớp Nhì và lớp Nhất, những danh từ khoa học và kỹ thuật (thuật ngữ), những danh từ Hán Việt hoặc ngoại lai (tân ngữ), những danh từ thường dùng trong công văn sẽ chiếm một phần quan trọng. Các tiếng gốc ở chữ Hán sẽ dạy nhiều hơn và giảng kỹ hơn, theo lối tách riêng từng chữ, rồi hợp lại mà giải nghĩa toàn cả tiếng, hoặc các câu thành ngữ.
Đặc biệt chú ý về Việt ngữ: nên nhẹ về phần tầm chương trích cú, nghệ thuật vì nghệ thuật, mà phải chú ý đề cao vấn đề nghệ thuật vì nhân sinh (phục vụ cho đạo đức con người, cho hạnh phúc gia đình, cho an ninh xã hội, cho độc lập tự do).
CHƯƠNG TRÌNH
(Gồm Ngữ vựng-Tập đọc-Học thuộc lòng-Chính tả-Văn phạm-Tập viết-Tập làm văn (từ lớp Tư), nhưng ở đây chỉ ghi 2 phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)
LỚP NĂM
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng tiếng, từng câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau, học trò đã phải biết đọc từng bài ngắn, liên quan với chương trình Ngữ vựng. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, tục ngữ, châm ngôn đượm màu sắc dân tộc có ý nghĩa luân lý hoặc tương quan với chương trình Ngữ vựng nhưng phải là những câu hay, có tính cách thực tế và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, chưa biết chép bài, giáo viên nên dùng thính giác và tập cho học trò lặp đi lặp lại những câu nên thuộc lòng (chú ý đến cách đọc cho đúng giọng).
LỚP TƯ
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, bài quốc ca, ca dao ý vị (chú ý đến cách phát âm và giọng).
LỚP BA
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực, có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng (tập đọc cho trôi chảy, tự nhiên, đừng ê…a…).
LỚP NHÌ
Tập đọc, giải nghĩa, học thuộc lòng những bài văn hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính cách luân lý, thiết thực. Nên chọn những bài văn mới có tinh thần quốc gia hay xã hội (tập đọc cho trôi chảy và có ý vị, đọc tự nhiên, đừng ê…a, để ý đến các “nhỡn tự”, giọng đọc phải thích hợp với ý tưởng, tính cách và tình tiết bài đọc.
LỚP NHẤT
Tập đọc, học thuộc lòng những bài văn hay, vừa sức hiểu biết của học sinh, trích ở tác phẩm của các văn thi sĩ và các nhà chí sĩ hiện đại; tập cho quen các lối văn, tập cho học trò phê bình, giải thích. Đọc những tác phẩm khuynh hướng về đạo lý, về chủ nghĩa quốc gia, về tình cảm, về trào phúng của các văn gia và thi gia cận đại.
ĐỨC DỤC
LỜI CHỈ DẪN
Mục đích môn Đức dục là giúp cho trẻ em những đức tính tốt cần thiết cho một công dân của một nước độc lập. Vậy nguyên tắc của chương trình Đức dục là gây cho học sinh có lòng tự tín và tinh thần tự lập, có tinh thần quốc gia, giàu lòng nhân đạo, bác ái, biết đoàn kết và hy sinh vì chính nghĩa.
Muốn đạt được mục đích nói trên, chương trình Đức dục không thể là một mớ bài luân lý để nhồi vào óc trẻ những lý thuyết suông; trái lại những bài luân lý là những lời huấn giới, những câu châm ngôn hoặc cách ngôn đích đáng, những nhận định chính xác, nêu rõ những đại ý về những nghĩa vụ chính trong đạo làm người. Trong khi giảng giải, ông thầy nên dạy sơ lược về phần lý thuyết và hết sức cụ thể hóa bài học, kể những chuyện vặt thông thường, những thí dụ rút ở đời sống thực tế hay ở truyện danh nhân nước khác. Nên đề cao đạo đức hơn tài năng. Đó là phương pháp làm cho học trò nhận thấy chân lý một cách rõ ràng và sẽ có công dụng là kích thích bản năng đạo lý của đứa trẻ.
Ngoài ra, công cuộc rèn luyện tính tình cốt ở sự thực hành. Bất cứ lúc nào, thầy giáo phải kiểm cố hành vi, cử chỉ học sinh, không để chúng sai lạc ngoài lối dạy, gây cho chúng những tập quán tốt, trừ khử những thói xấu, rèn luyện cho chúng hăng hái và quả quyết trong mọi trường hợp quan trọng.
CHƯƠNG TRÌNH
(Chỉ trích dẫn chương trình Đức dục của 3 lớp đầu Năm, Tư, Ba, lược bớt 2 lớp Nhì, Nhất, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)
Lớp Năm (= Lớp 1)
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Giáo viên không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho chúng có những đức tính sau đây:
1) Bổn phận đối với bản thân: Sạch sẽ, ăn uống, thứ tự, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.
2) Bổn phận trẻ trong gia đình: Bổn phận đối với cha mẹ, anh em, ông bà.- Các ngày kỷ niệm trong gia đình.- Cách đối đãi với người ở (tử tế, dịu dàng).
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời.- Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, hòa thuận nhau, thương nhau – kín miệng.
4) Bổn phận đối với người ngoài: Lễ phép: Cách chào hỏi, xưng hô với kẻ dưới, người trên (trong nhà mình, nơi nhà người, ngoài đường).
- Lớp Tư (Lớp 2)
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho phép một câu quyết định.
1) Bổn phận đối với bản thân.- Phải tập thể dục. Biết gắng công. Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Khi lầm lỗi biết hối cải. Tiết kiệm. Nhún nhường.
2) Bổn phận trẻ trong gia đình.- Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Giữ tiếng thơm cho cha mẹ, ông bà. Bổn phận đối với họ hàng.
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Tình bè bạn.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.
- Lớp Ba (Lớp 3)
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho chép một câu quyết định hay một câu châm ngôn.
1) Nhắc lại chương trình lớp Tư: Bổn phận trẻ con đối với bản thân.
2) Bổn phận trẻ đối với gia đình: Hiếu đễ. Bổn phận làm con: a) Khi còn nhỏ; b) Khi trưởng thành; c) Khi cha mẹ già yếu.
3) Bổn phận trẻ ở học đường.- Nhắc qua những điều đã dạy ở lớp Năm. Tình bè bạn. Bổn phận đối với thầy và bạn: a) Ở học đường; b) Sau khi thôi học.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Nhắc lại những điều đã dạy ở lớp Tư. Thêm: Trọng lời hứa. Chân thật. Sự giao tiếp với bà con, họ hàng, làng xóm.
c) Nhận định về Chương trình Tiểu học 1959-1960
Nhìn chung, Chương trình Tiểu học 1959-1960 chỉ là một bản mô phỏng theo Chương trình Tiểu học năm 1949. Ở không ít chỗ, người soạn chương trình chỉ lược đi chút ít nội dung, hoặc thay đổi cách diễn đạt, sửa vài câu chữ.Thậm chí, giống nhau cả ở những “Lời nói đầu” hướng dẫn giảng dạy chương trình dành cho mỗi môn học (mà Chương trình 1959-1960 sửa lại là “Lời chỉ dẫn”).
- Theo nhận định chung của nhiều người, nội dung chương trình quá nặng nề, còn rườm rà, phức tạp, kém thực tế, vượt quá trình độ phát triển về trí năng và tâm lý của trẻ, như dạy Địa lý cho một em học sinh lớp 5 (lớp Nhất cũ) mà lại muốn cho nó phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hóa của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ, đặng tìm cách theo kịp người hoặc vượt hơn người”, như trong Lời nói đầu một cuốn sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.
Nội dung chương trình chuyển tải còn nặng về lý thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương (nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng cao), không thiết thực với hiện trạng nước nhà (xem phần đúc kết của Tiểu ban Tiểu học trong Đại hội Giáo dục Toàn quốc 1964, Văn hóa nguyệt san, tập XIV, tlđd., tr. 593). Lẽ ra phải có một chương trình học cụ thể, có tính cách đại chúng và thực dụng hơn, gắn với đời sống thường nhật và khung cảnh sống của học sinh, và nên phát triển bậc Tiểu học theo hướng “cộng đồng hóa”, nghĩa là phải làm cho chương trình học thích nghi với cộng đồng học sinh đang sống, tùy theo vùng miền: thôn quê khác thành thị, miền rừng khác miền biển… Như ở môi trường nông thôn thì phải dạy ở mức thô sơ cho trẻ nhỏ về canh tác lúa gạo, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, vệ sinh thường thức, kiến thức về một hai ngành tiểu công nghệ thông thường, về tổ chức xã thôn và phong tục tập quán ở thôn quê…; ở miền biển thì nên dạy cho trẻ hiểu về nghề đánh cá, làm muối, làm nước mắm… “Quy tắc là trẻ trong hoàn cảnh nào thì học nhiều về hoàn cảnh đó, còn những hoàn cảnh khác chỉ cần biết qua loa, như vậy học rồi mới có dịp hành. Về các môn Toán, Sử, Địa, Việt ngữ, vẫn chỉ nên dạy những cái thiết thực. Chương trình Toán tỉa bớt đi một nửa cũng không hại… Trẻ chỉ cần làm được những bài toán thường dùng trong đời thôi, đừng bắt chúng làm những toán lắt léo về phân số, động tử, tỉ trọng như hiện nay…” (Nguyễn Hiến Lê, “Phải mạnh dạn cải tổ nền giáo dục Việt Nam”, Bách khoa số 130, ngày 1/6/1962, tr. 35).
Có tác giả đề nghị nên tăng thêm những giờ âm nhạc, hội họa và thủ công, “để gây khiếu thẩm mỹ trong tâm hồn non nớt của học sinh”, và “để các em yêu mến và tôn trọng công việc lao động, điều cần thiết trong một xã hội vốn chỉ quen cái học từ chương và sách vở.” (xem Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 100-105).
Một số ý kiến thuộc loại như vừa nêu trên có thể được coi như mầm mống của chủ trương cải cách giáo dục theo hướng “cộng đồng hóa” và “địa phương hóa” mà ngành giáo dục VNCH đã cố gắng thực hiện nhưng còn dang dở, trong những năm cuối cùng của chế độ.
3. Chương trình Tiểu học 1967-1968
Chương trình Tiểu học áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968 thật ra chỉ là một bản sao lại chương trình cũ (1959-1960) ở trên. Sự thay đổi chút ít chỉ được thể hiện bằng đôi ba thông cáo hoặc công văn của cơ quan chức năng ngành giáo dục về việc sửa đổi chương trình học của một vài môn học nào đó trong Chương trình Tiểu học cũ trước, như:
a) Thông cáo số 86/SVL/GD/TTH/T ngày 22/1/1964 của Nha Tổng giám đốc Trung, Tiểu học và Bình dân giáo dục về việc Sửa đổi chương trình Đức dục, Công dân giáo dục và Quốc sử ở lớp Ba và lớp Nhất.
b) Công văn số 4865/GD/HL/1 ngày 30/6/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Khoa học bậc Tiểu học.
c) Công văn số 5501-GD/HL/1 ngày 1/8/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Đức dục bậc Tiểu học.
II. TÀI LIỆU VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
1. Những tạp chí giáo khoa Tiểu học
Giai đoạn đầu sách giáo khoa tiểu học còn thiếu, nên thời Pháp thuộc và sau đó từ thời kỳ chuyển tiếp sang Quốc gia Việt Nam qua đến Việt Nam Cộng hòa, nhà nước và một số tư nhân đã cho xuất bản những tạp chí phục vụ cho hoạt động giảng dạy ở các trường sơ đẳng hoặc tiểu học. Căn cứ Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965) của Lê Ngọc Trụ (bản in roneo) và Thư tịch báo chí Việt Nam của Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998), cùng một ít tài liệu hữu quan còn lưu giữ được ở vài thư viện, chúng tôi xin liệt kê theo thứ tự thời gian xuất bản, một số tạp chí chuyên về giáo khoa như sau:
- Học báo (1919-1944), Revue pédagogique à l’usage des écoles primaires de l’Annam et du Tonkin (Tạp chí sư phạm dùng cho các trường sơ đẳng ở Trung và Bắc Kỳ), do một nhóm giáo viên biên tập dưới sự chỉ đạo của Sở Học chính Bắc Kỳ, Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ năm, từ số 9 đến 39, năm 1924).
- Sư phạm học khoa (1922-1939) (Journal des écoles), tuần báo ra ngày thứ Hai (Lê Ngọc Trụ ghi: Số 14 đến 33, năm 1923).
- Khuyến học (1935-1937), bán nguyệt san xuất bản tại Hà Nội. Chủ nhiệm: Nguyễn Xuân Thái (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 1/9/1935; đình bản số 3 tháng 4/1937).
- Sơ học tuần báo (1930-1932), Revue hebdomadaire pour l’enseignement primaire/ Tuần báo dùng cho giáo dục sơ đẳng. Xuất bản ở Hà Nội, Chủ nhiệm là Nguyễn Xuân Mai (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 29/11/1930, đình bản số 57 ngày 22.5.1932).
- Bạn trẻ học sanh (1940), bán nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Quản lý: Đoàn Văn Châu (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1, ngày 25/4/1940 đình bản).
- Giáo dục tạp chí (1942-1944), Revue pédagogique, publié par un groupe de mandarins et de membres de l’enseignement en Annam/ Tạp chí giáo dục được xuất bản do một nhóm quan viên và thành viên ngành giáo dục ở Trung Kỳ, dưới sự bảo trợ của Thượng thư Bộ Học. Xuất bản hàng tháng tại Huế bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Chủ nhiệm: Nguyễn Khoa Toàn. (Lê Ngọc Trụ ghi Năm thứ 1, số 1-2, tháng 9-10.1942; theo Nguyễn Xuân Hoa trong Lịch sử báo chí Huế, Nxb Thuận Hóa, 2013 thì số 1 ra tháng 9-10 năm 1941, số cuối năm 1944).
[B]- Giáo khoa tạp chído Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong niên học 1948-1949 tại Sài Gòn, phục vụ cho việc giảng dạy bậc Tiểu học. Chủ bút là Nguyễn Văn Bường (Thanh tra Tiểu học). Phần Pháp văn do H. Truchet (Thanh tra Liên tỉnh) phụ trách, phần tiếng Việt do một nhóm giáo viên Sài Gòn-Chợ Lớn. Mỗi số đều có Phần tổng quát và Phần giáo khoa. Phần tổng quát đăng vài ba bài viết của giáo chức về lý luận, phương pháp giáo dục/ dạy học; Phần giáo khoa chia ra: Lớp Tiếp liên (Tập I), Lớp Nhứt (Tập II), Lớp Nhì (Tập III), Lớp Ba (Tập IV), Lớp Tư (Tập V) và Lớp Năm (Tập VI), với đủ các môn học trong nhà trường đương thời.
- Giáo dục nguyệt san (Enseignement 1er degré/ Bậc Tiểu học) xuất bản năm thứ nhất 1947, kéo dài đến năm 1949.
- Muốn đậu bằng tiểu học (1953), nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Chủ nhiệm: Vũ Hữu Tiềm. Tập 1, tháng 4/1953; số cuối cùng: tập 8 tháng 11/1953.
- Hiếu học, tuần báo giáo khoa xuất bản tại Hà Nội vào ngày thứ năm (tập đỏ dành cho bậc Tiểu học). Năm thứ nhất 1953, kéo dài đến 1954. Chủ nhiệm: Bùi Cẩm Chương.
- Tiểu học nguyệt san (1955-? ), do Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn xuất bản, số 1-2 tháng 1-2/1955. Ra đều hàng tháng, cung cấp tài liệu giảng dạy cho giáo viên, gồm đủ các môn học thuộc chương trình bậc Tiểu học. Không rõ đình bản từ năm nào, nhưng trong tay chúng tôi hiện còn giữ được số 7 tháng 2/1965 (niên khóa 1964-1965). Bộ biên tập ghi: Chủ bút: Ông Giám đốc Nha Tiểu học (không ghi rõ họ tên); Phụ tá Chủ bút: Ông Đặng Duy Chiểu, Thanh tra Tiểu học Trung ương, Nha Tiểu học; Tổng thư ký: Ông Đinh Gia Dzu, Phòng Học chế Nha Tiểu học; Thư ký: Bà Trần Thị Mẹo, Phòng Thanh tra Nha Tiểu học… Ở mỗi số Tiểu học nguyệt san, trước khi vào phần giáo khoa dạy các bài học theo chương trình của bộ, đều có các phần Luận thuyết, Tạp trở (đăng thông tin…), Văn uyển (đăng thơ, văn dịch), Nghị định (đăng các nghị định, công văn liên quan ngành giáo dục). Phần giáo khoa được sự cộng tác thường xuyên của đông đảo giáo viên, trong đó có một số người được nhiều người biết như Hà Mai Anh, Thềm Văn Đắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Tất Lâm, Văn Công Lầu, Vương Pển Liêm…
- Hiếu học, tuần báo do Nxb Sống mới ấn hành tại Sài Gòn. Tập I đến số 16 (1959).
- Chăm học (1959), tuần báo xuất bản tại Sài Gòn, ra được từ tập 1 đến tập 12. Giám đốc: Nguyễn Văn Hợi.
(còn tiếp)
Thưa quý bạn đọc,
Có người thắc mắc rằng "Tại sao Việt Nam Cộng Hòa lại sản sinh ra được nhiều người ăn ở tử tế, sống theo đạo đức, nhân nghĩa như thế?".
Xin thưa, những con người tốt lành không từ trên trời rơi xuống, mà xuất thân từ công trình đào tạo của những nhà giáo dục lương hảo đã tận tụy gây dựng thế hệ tương lai nên người.
Mời quý bạn đọc bài này và xin quý bạn cùng với tôi cảm tạ những bậc thày xưa kia đã tận tâm dạy dỗ chúng ta theo chương trình học phong phú, chu đáo về mọi mặt, để tạo nên những con người có phẩm cách cao quý.
KA
Chương trình giáo dục và sách giáo khoa
thời Việt Nam Cộng Hòa
MỞ ĐẦU
Đối tượng của bài viết này là chương trình và sách giáo khoa miền Nam 1954-1975, tuy nhiên nếu không nhắc sơ lại thời kỳ quá độ trong đó nền giáo dục Việt Nam chuyển từ cựu học sang tân học, chúng ta sẽ khó theo dõi để nhận ra một cách rõ ràng những sự thay đổi cùng tên gọi các cấp, lớp, ban học, cũng như nội dung cụ thể của các chương trình học mới sau này.
Có thể nói, không kể thời kỳ Nho học mà sự cáo chung được đánh dấu bằng khoa thi Hội cuối cùng ở Trung Kỳ vào tháng 4 năm Kỷ Mùi (1919), nền giáo dục hiện đại Việt Nam chỉ bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 khi người Pháp đã củng cố xong nền cai trị của họ tại Việt Nam.
Lý do chấm dứt con đường học hành thi cử truyền thống đã được vua Khải Định đưa ra trong lời phê tờ trình của Bộ Học, trước khoa thi cuối cùng nêu trên: “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt hẳn. Trẫm nghĩ rằng quy chế cựu học đã không còn đáp ứng được điều mong muốn, trong khi con đường tương lai của tân học đang thênh thang mở rộng trước mặt” (theo Khải Định chính yếu sơ tập).
Trước đó, kể từ Đạo dụ ngày 31/5/1906, chính phủ Bảo hộ Pháp được sự thỏa thuận của Nam triều ấn định nền học chính mới thay dần cho nền giáo dục Nho học cũ, áp dụng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, theo đó chia làm ba bậc học:
(1) Ấu học gồm lớp Đồng ấu (lớp Năm), lớp Dự bị (lớp Tư), lớp Sơ đẳng (lớp Ba). Chương trình học gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối bậc Ấu học (tức lớp Ba), học sinh phải qua một kỳ thi để lấy bằng Sơ học Yếu lược (Primaire Élémentaire).
(2) Tiểu học gồm lớp Nhì năm thứ nhứt (Cours Moyen 1ère année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen 2ème année), và lớp Nhứt (Cours Supérieur). Chương trình học cũng gồm chữ Pháp và chữ Quốc ngữ; cuối cấp thi lấy bằng Tiểu học Yếu lược, cũng gọi Sơ đẳng Tiểu học hay Sơ học Pháp Việt (Certificat d’Etude Primaire Franco-Indigène, tương đương bằng Tiểu học sau này).
(3) Trung học, gồm hai cấp/ ban Cao đẳng Tiểu học và Tú tài: (a) Cao đẳng Tiểu học học đủ các môn Pháp văn, Toán, Lý, Hóa, Vạn vật (Sinh vật), Sử, Địa… tương tự chương trình Pháp, gồm 4 năm: Nhất niên (1 ère année), Nhị niên (2 ème année), Tam niên (3 ème année), Tứ niên (4 ème année). Tất cả đều dạy bằng tiếng Pháp, trừ 2 môn Việt văn và Hán văn; (b) Tú tài (Enseignement secondaire, tương đương Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III sau này), thời gian học 3 năm (tương tự 3 lớp bậc sau cùng của chương trình Trung học Pháp), chia làm 3 ban Triết học/ Văn chương, Toán và Khoa học, với học trình gồm các lớp Đệ nhất niên (1 ère année secondaire, tương đương lớp Đệ tam hay lớp 10 sau này), Đệ nhị niên (2 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) và Đệ tam niên (3 ème année secondaire, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này). Cũng dạy toàn bằng tiếng Pháp, trừ môn Việt văn và Triết học Trung Hoa. Kể từ Đệ nhất niên đã bắt đầu phân ban gồm ban Khoa học (Sciences), ban Toán (Mathématiques), ban Triết (Philosophie). Học sinh học xong Đệ nhị niên (tương đương lớp Đệ nhị hay lớp 11 sau này) thi lấy bằng Tú tài I (hay Tú tài phần I), nếu đậu mới được học năm cuối cùng (Đệ tam niên, tương đương lớp Đệ nhất hay lớp 12 sau này) để thi lấy bằng Tú tài II (hay Tú tài toàn phần).
Riêng ở Nam Kỳ là xứ thuộc địa nên nền học chính đều theo quy chế thuộc địa, chỉ có chương trình Pháp, nhưng ở vài trường (như Chasseloup Laubat, Pétrus Ký… ở Sài Gòn) cũng có dạy thêm một số giờ tiếng Việt.
Ở Bắc và Trung, hai chương trình trung học Pháp và Pháp Việt nêu trên vẫn được áp dụng cho đến năm 1945 thì được thay bằng chương trình toàn Việt (lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ) ban hành trong thời chính phủ Trần Trọng Kim bằng Dụ số 67 ngày 3/6/1945 do Hoàng đế Bảo Đại ký và được thực thi ngay với khoa thi Tú tài niên khóa 1944-1945. Đây là chương trình trung học Việt Nam đầu tiên trong lịch sử giáo dục Việt Nam hiện đại, tham khảo từ chương trình Pháp, quen gọi Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn, vì do một nhóm giáo sư tâm huyết ở Hà Nội và Huế biên soạn cấp tốc chỉ trong khoảng 10 ngày, dưới sự chủ trì, đôn đốc của Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn.
Riêng ở Nam, đến năm 1949, trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, chương trình cũ (Pháp và Pháp Việt) mới được thay thế bằng chương trình Hoàng Xuân Hãn.
Đến tháng 9/1949, hai bộ Chương trình Giáo dục Việt Nam mới dành cho bậc Tiểu học và bậc Trung học với một số thay đổi từ chương trình Hoàng Xuân Hãn đã được ban hành chỉ cách nhau chừng tuần lễ, dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát, để áp dụng chung trong những vùng thuộc Quốc gia Việt Nam kiểm soát. Được biết sau đó, cả hai bộ chương trình này còn được cải cách thêm lần nữa vào năm 1953 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn.
Vì vậy, để thấy được sự tiến triển qua các thời kỳ của chương trình và sách giáo khoa Việt Nam giai đoạn 1954-1975, chúng ta không thể không xét qua một số bộ chương trình giáo dục cũ nhưng có tính cơ sở như vừa nêu trên, trong đó có Chương trình Trung học Hoàng Xuân Hãn 1945, và Chương trình Tiểu học 1949, vì những bộ chương trình Trung và Tiểu khác về sau đều dựa theo 2 bộ chương trình này để từ đó chỉnh sửa và phát triển thêm, với sự thay đổi gần như không đáng kể.
Hiện nay, mặc dù chỉ mới sau 40 năm thay đổi, việc khảo sát/ nghiên cứu đầy đủ về chương trình và sách giáo khoa miền Nam trước đây là một việc làm không dễ chút nào. Nguyên do vì các thư viện cả tư nhân lẫn nhà nước đều ít có chỗ nào quan tâm lưu trữ loại tài liệu này (kể cả Thư viện Quốc gia Hà Nội, Thư viện Tổng hợp TP HCM, Thư viện Khoa học Xã hội TP HCM…), loại tài liệu mà người ta đơn giản cho rằng không còn cần dùng đến nữa, nên sau ngày 30/4/1975 đã bị vô tình hủy bỏ hầu hết. Chúng tôi đã ráng lùng sục, hỏi han khắp nơi vẫn chưa tìm đủ được tất cả những bộ chương trình giáo dục đã được Bộ Quốc gia Giáo dục miền Nam in ra, còn về sách giáo khoa phục vụ cho chương trình giảng dạy thì tuy cũng tương tự như vậy nhưng may mắn lại được một số người yêu sách “hoài cổ” giữ được chút ít. Vì vậy, khi trình bày bài viết này, đặc biệt ở phần chương trình giáo dục, có những chỗ chúng tôi sẽ trích dẫn nguyên văn tài liệu cũ khá dài, không phải không biết ngại tốn giấy mực, nhưng ngoài việc minh họa còn có ý phần nào giúp thế hệ trẻ và những người nghiên cứu lịch sử giáo dục sau này có sẵn tài liệu tham khảo, khi cần thì vẫn có thể trích dẫn lại được, mà không quá vất vả như khi chúng tôi phải đi tìm chúng (ở những đoạn trích nguyên văn này, chúng tôi sẽ cho in bằng font chữ khác với cỡ chữ nhỏ hơn bình thường, cho dễ phân biệt).
Phần mô tả nội dung cụ thể chương trình học mỗi cấp lớp của hai bậc Trung, Tiểu học, cũng như sách giáo khoa tương ứng, chúng tôi sẽ chỉ tập trung vào 3 môn Văn, Đạo đức/ Công dân giáo dục (Tiểu học, Trung học hay cấp I, II) và Triết (Trung học Đệ nhị cấp hay cấp III) vì nếu giới thiệu sang tất cả những môn khác sẽ quá mênh mông dài dòng, và vì đây cũng là 3 môn học tiêu biểu cho thấy những nét đặc trưng của nền giáo dục miền Nam 1954-1975 vốn dựa trên nền tảng triết lý giáo dục (hay những nguyên tắc căn bản) gồm Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng. Về sách giáo khoa liên quan các bộ môn trên, chúng tôi cũng lại xin chú trọng giới thiệu chi tiết hơn về sách giáo khoa của bậc Tiểu học, vì quan niệm đây là bậc học phổ thông nền tảng có tính đại chúng quyết định cho những bậc học tiếp sau.
Tuy chủ đề bài viết là chương trình và sách giáo khoa miền Nam trước 1975, nhưng khi trình bày cho từng đề mục hữu quan, chúng tôi không thể không nhắc qua những giai đoạn trước đó, vì nếu không làm như vậy, sẽ không thể nhận ra được mối liên lạc nhân quả trong suốt dòng mạch phát triển có tính kế thừa và liên tục. Chẳng hạn, nếu không nắm bắt sơ qua nội dung các sách giáo khoa về Quốc văn, Luân lý của thời Trần Trọng Kim trước đó thì sẽ không thể hiểu được lý do về nội dung hiện hữu của các sách giáo khoa Quốc văn, Đạo đức, Công dân giáo dục về sau. Tương tự, tìm hiểu về chương trình học của miền Nam trước 1975, như trên đã nói, chúng ta cũng không thể không xét tới những bộ chương trình cũ đã được biên soạn trước, từ 1945.
Riêng về chương trình và sách giáo khoa ở bậc Đại học, chúng tôi cũng xin nói lướt qua cho biết vậy thôi, đơn giản chỉ vì Đại học miền Nam được quyền tự trị, về học vụ mỗi trường đại học tự lo lấy, không có chương trình học quy định và cũng không bị Bộ Quốc gia Giáo dục chi phối, chỉ đạo. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ xin lưu ý giới thiệu sơ qua chương trình học và một số giáo trình thường được giảng dạy trong các trường Đại học Sư phạm, vì quan niệm đây như bộ “máy cái” đào tạo giáo viên, có tác dụng rất quan trọng đối với toàn bộ sự phát triển của nền giáo dục chung cả nước.
A. CHƯƠNG TRÌNH VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
I. CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC
1. Chương trình Tiểu học 1949
a. Tổng quát
Chương trình Tiểu học Việt Nam đầu tiên được ban hành theo Nghị định 4-NĐ/GD trong thời kỳ Quốc gia Việt Nam dưới quyền Quốc trưởng Bảo Đại, do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát ký ngày 27/8/1949.
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, xếp theo thứ tự từ thấp lên cao, gồm: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).
Các môn học: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc và Học thuộc lòng - Văn phạm, Chính tả và Viết tập - Tập làm văn), Đức dục, Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Khoa học thường thức, Toán pháp, Tập vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên và tổ chức hàng đội tự trị, Thể dục, Học hát-Tập kịch-Học nói, Họp lớp, Đi chơi, Đi cắm trại, Trò chơi.
Chương trình này đã đánh dấu một bước ngoặt tiến triển quan trọng trong lịch sử giáo dục tiểu học Việt Nam, trở thành căn cứ tham khảo cho những chương trình tiểu học tiếp sau trong thời Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Dưới đây là “Chỉ thị chung” cũng do Bộ trưởng Phan Huy Quát ký tại Hà Nội ngày 24/8/1949, ban hành như một phụ bản kèm theo Nghị định 4-NĐ/GD nêu trên, nội dung tuy có phần hơi rối rắm thiếu mạch lạc nhưng cũng đủ cho thấy chủ trương chính sách qua đó những phương pháp của nền giáo dục mới đã được chính thức đem ra áp dụng tại Việt Nam cho bậc Tiểu học:
CHỈ THỊ CHUNG
Bậc tiểu học là căn bản của nền quốc gia giáo dục.
Ngành tiểu học có nhiệm vụ đào tạo những thế hệ thanh niên xứng đáng của một nước độc lập.
Chương trình bậc tiểu học đã soạn theo những nguyên tắc mới để cho nền giáo dục thời nay được phù hợp với sự tiến hóa của dân tộc và tính cách độc lập của quốc gia.
1) Tinh thần quốc gia.- Nêu cao tinh thần quốc gia để khích lệ lòng ái quốc và chấn khởi dân khí. Tinh thần quốc gia Việt Nam ngày nay là tinh thần của một dân tộc biết tự cường, tự lập, biết phấn đấu để giành độc lập, biết kiên quyết để giữ giang sơn Tổ quốc, biết nỗ lực để ganh đua với người ngoài trên con đường tiến hóa của nhân loại.
2) Cưỡng bách giáo dục.- Muốn đạt được mục tiêu nói trên, nền tiểu học phải đi đến cưỡng bách giáo dục. Bộ đang nghiên cứu để tìm các phương tiện để dần dần thực hiện được sự cưỡng bách giáo dục. Vì lẽ đó, nên chương trình tiểu học không dành một số giờ về môn Pháp ngữ.
3) Chuyển ngữ các môn trong chương trình này là tiếng Việt, nên hạn tuổi tối thiểu vào lớp Năm, là lớp đầu bậc tiểu học, rút xuống 5 tuổi (trước kia 6 tuổi). Như thế, trẻ con có thể 10 tuổi đã học hết bậc tiểu học. Những học trò nào có thể theo học bậc trung học được thì 17 tuổi đã thi lấy bằng Tú tài. So với nền trung học của các nước Âu Mỹ, thì niên hạn ấy là tương đương, và các học sinh xuất sắc sau này vào các trường đại học cũng một loạt tuổi nhau cả.
4) Lớp mẫu giáo.- Muốn cho trẻ con trước khi vào trường tiểu học đã được huấn luyện theo các phương pháp khoa học, một lớp mẫu giáo sẽ thành lập gần đây. Lớp ấy có mục đích là đào tạo một số giáo viên các lớp mẫu giáo sau này để thu nhận các trẻ con dưới 5 tuổi.
5) Thể dục.- Cho nền giáo dục được hoàn toàn, chương trình bậc tiểu học dành một địa vị quan trọng cho môn Thể dục. Một tinh thần mạnh mẽ trong một thân thể cường tráng mới mong gánh vác nổi các công việc nặng nề kiến thiết quốc gia.
Ngoài ra, sự chú trọng về thể dục là sửa soạn một số thanh niên để sau này cung cấp cho các trường quốc gia võ bị có nhiệm vụ gây một quân đội Việt Nam xứng đáng.
6) Ca nhạc.- Bí quyết của sự thành công trong việc giáo huấn trẻ con là sự hoạt động và vui vẻ. Vì lẽ đó, nên ngay từ các lớp tiểu học, Bộ đã để riêng một số giờ để dạy môn ca nhạc. Trẻ con thường thích hát và lại nhớ dai, những bài hát sẽ được lựa chọn, và sẽ luôn luôn nhắc nhở cho chúng những điều chúng cần biết để nuôi một tinh thần quốc gia mạnh mẽ, một lòng tin vững chắc.
7) Tinh thần đoàn kết.- Một dân tộc mà rời rạc thì tất nhiên yếu hèn, không thể sinh tồn trong cái thế giới hơn được kém thua này. Nghĩa đoàn kết là một lợi khí tối quan trọng trong sự tiến triển của một dân tộc. Học đường phải giải thích cho trẻ biết nghĩa hợp quần. Muốn cụ thể hóa nghĩa đoàn kết, việc tổ chức tập đoàn sẽ là một điều mới trong chương trình bậc tiểu học.
8) Học đường không có nhiệm vụ chỉ giáo huấn trẻ con, rồi để mặc chúng tự ý xoay xở lấy. Muốn tránh những kết quả không hay do sự hiểu lầm ấy gây nên, học đường cần phải liên lạc mật thiết với gia đình, để hướng dẫn học sinh vào các ngành chuyên môn.
Để giúp vào công việc ấy, sẽ lập những phiếu để ghi các điều nhận xét về sinh lý, về khả năng, về các điểm có liên can đến sức nảy nở của đứa trẻ về các phương diện.
9) Ngoài ra, nếu có thuận tiện, sẽ đặt một học xưởng cạnh mỗi trường học để học sinh có thể hằng ngày trực tiếp tế nhận các hoạt động của một tiểu công nghệ.
Hà Nội, ngày 24 tháng 8 năm 1949
Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục
PHAN HUY QUÁT
b. Nội dung chương trình
Chỉ xin ghi lại chương trình Việt ngữ, Đức dục của lớp Năm, lớp Tư và lớp Ba để có căn cứ so sánh với những chương trình đến sau. Phần giới thiệu đầy đủ hơn sẽ dành cho Chương trình Tiểu học 1959-1960 (ở mục 2, dưới kế tiếp), vì Chương trình 1959-1960 về căn bản cũng tương tự chương trình này nhưng lại được sử dụng ổn định lâu dài trong suốt thời kỳ VNCH.
▪ Chương trình Việt ngữ các lớp Năm, Tư, Ba (chỉ nêu tiêu biểu về phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, và không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng chữ một, từng âm vận một, từng tiếng một, rồi tới câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau học trò đã biết đọc từng bài ngắn. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, phương ngôn có ý nghĩa luân lý hoặc có tương quan với chương trình Ngữ vựng, nhưng phải là những câu hay và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, biết chép bài, thì ông giáo nên dùng thính giác và tập cho học trò lắp đi lắp lại những câu nên thuộc lòng.
- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, có tương thích với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, những bài quốc ca, ca dao ý vị. Chú ý đến cách phát âm và giọng.
- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Tập đọc và học thuộc lòng những bài hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần có tính cách luân lý, thiết thực. Tập đọc cho trôi chảy và ý vị, đọc cho tự nhiên, đừng ề à.
▪ Chương trình Đức dục các lớp Năm, Tư, Ba (ghi đủ, nhưng không chép lại “Lời nói đầu”):
- Lớp Năm [tương đương lớp 1 về sau]
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Ông giáo không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho trẻ những đức tính sau đây:
a) Bổn phận đối với bản thân.- Sạch sẽ, thứ tự, ăn uống điều độ, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Bổn phận đối với cha mẹ, đối với anh em, chị em. Sự tưởng niệm tổ tiên. Các ngày kỷ niệm trong gia đình. Bổn phận đối với người trong họ. Tình gia tộc. Đoàn hợp. Cách đối đãi với gia bộc (nhân từ, độ lượng, tử tế).
c) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời, biết ơn. Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, nghĩa đoàn thể trong bè bạn, bênh vực kẻ yếu, không ghen ghét, không thóc mách.
d) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Thương kẻ khó, kẻ tàn tật.
Đọc những chuyện hay và tiểu sử danh nhân có bổ ích cho bài dạy.
- Lớp Tư [tương đương lớp 2 về sau]
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định.
a) Bổn phận đối với bản thân.- Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Phải tập thể dục. Biết gắng công. Tính can đảm. Giữ phẩm giá mình. Khi lầm lỗi biết xấu hổ. Tiết kiệm. Nhún nhường.
b) Bổn phận trẻ con trong gia đình.- Ôn lại chương trình lớp Năm. Thêm: Đừng làm cho cha mẹ, anh em mang tiếng xấu, giữ tiếng thơm cho gia tộc và tổ tiên.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.
- Lớp Ba [tương đương lớp 3 về sau]
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Ôn lại chương trình hai lớp dưới [tức lớp Năm, lớp Tư] về bổn phận trẻ con đối với bản thân và đối với gia đình.
a) Bổn phận trẻ con ở học đường.- Ôn qua chương trình lớp Năm. Thêm: bổn phận đối với thầy và bạn sau khi thôi học.
b) Bổn phận đối với Tổ quốc.- Bổn phận người dân trong nước: biết nỗ lực, không ỷ lại, biết hy sinh, ham tự do, trọng kỷ luật, giữ trật tự, trọng pháp luật. Gắng làm việc cho Tổ quốc. Khuyến khích mọi người cùng làm.
c) Bổn phận đối với người ngoài.- Ôn lại chương trình lớp Tư. Thêm: trọng lời hứa, tờ giao kết. Giao tế chân thật, công tâm.
d) Xã giao.- Sự giao thiệp với bà con, họ hàng, làng xóm.
2. Chương trình Tiểu học 1959-1960
a. Tổng quát
Trước chương trình này, được biết còn có một Chương trình Tiểu học tương tự được ban hành đầu niên học 1956-1957, dưới thời Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Dương Đôn, nhưng chúng tôi không có sẵn trong tay tài liệu này. Chương trình Tiểu học 1959-1960 thật ra chỉ là một bộ cải biên từ Chương trình 1949 (đã giới thiệu ở trên) và Chương trình 1956-1957, nội dung giữa chúng đều đại đồng tiểu dị (kể cả phần “Lời chỉ dẫn” đặt trước mỗi môn học, mà ở Chương trình 1949 gọi là “Lời nói đầu”), và được sử dụng ổn định trong suốt quãng thời gian còn lại của chế độ VNCH, với vài chi tiết thay đổi không đáng kể.
Chương trình Tiểu học 1959-1960 được ban hành theo Nghị định 1005-GD/NĐ ngày 16/7/1959 dưới thời Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Trần Hữu Thế, sửa đổi theo “Chương trình bậc Tiểu học ấn định do Nghị định số 4-NĐ/GD ngày 27.8.1949 và các Nghị định sửa đổi và bổ túc kế tiếp” (Điều 1 Nghị định), “Các bảng phân chia giờ học giữa các môn và chương trình học khóa đính theo Nghị định này sẽ áp dụng kể từ niên học 1959-1960” (Điều 2 Nghị định).
Bậc Tiểu học 5 năm 5 lớp, cách gọi cũng như Chương trình Tiểu học 1949, tức: lớp Năm (tương đương lớp 1 sau này), lớp Tư (tương đương lớp 2), lớp Ba (tương đương lớp 3), lớp Nhì (tương đương lớp 4), lớp Nhất (tương đương lớp 5).
Các môn học, gồm 9 môn: Việt ngữ (Ngữ vựng - Tập đọc - Học thuộc lòng - Chính tả và Văn phạm - Tập làm văn - Tập viết), Đức dục và Công dân giáo dục, Sử ký, Địa lý, Thường thức (Quan sát và Vệ sinh), Toán, Vẽ, Thủ công, Hoạt động thanh niên, Trò chơi, Thể dục và trò chơi.
Những nguyên tắc cải tổ chương trình tiểu học để cho ra chương trình 1959-1960 đã được đính kèm theo bản Nghị định 1005-GD/NĐ, đặt ở phần đầu bộ sách Chương trình Tiểu học do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản năm 1960. Những nguyên tắc này có tính cách chỉ đạo giáo dục, thường được trích dẫn lại đầy đủ trong các giáo trình dành cho ngành sư phạm (như trong sách Sư phạm thực hành của GS Trần Văn Quế, do Bộ Văn hóa Giáo dục in lần thứ nhất năm 1964 và lần thứ hai năm 1969), đã thể hiện thêm bước nữa nỗ lực của các nhà chức trách miền Nam trong quá trình tiếp thu ngày càng đầy đủ hơn tinh thần của nền giáo dục mới thời hiện đại. Văn bản này có tính cách quan trọng, nên dưới đây xin chép lại nguyên văn để làm tài liệu tham khảo:
NGUYÊN TẮC CẢI TỔ CHƯƠNG TRÌNH TIỂU HỌC
I.- Nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam
1.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcnhân bản, tôn trọng giá trị thiêng liêng của con người, lấy chính con người làm cứu cánh, và như vậy, nhằm mục đích phát triển toàn diện con người.
2.Nền giáo dục Việt Nam phải là một nền giáo dụcdân tộc, tôn trọng giá trị truyền thống mật thiết liên quan với những cảnh huống sinh hoạt như gia đình, nghề nghiệp, đất nước và đảm bảo hữu hiệu cho sự sinh tồn, phát triển của quốc gia dân tộc.
3.Nền giáo dục Việt Nam phải có tính cáchkhai phóng, tôn trọng tinh thần khoa học,phát huy tinh thần dân chủ và xã hội, thâu thái tinh hoa các nền vănhóa thế giới.
II. Đặc tính của nền Tiểu học Việt Nam
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam đã được ấn định, nền Tiểu học Việt Nam cần có những đặc tính sau đây:
A.- Tôn trọng nhân cách trẻ em:
1) Giúp trẻ em phát triển điều hòa và trọn vẹn tùy theo bản chất cá nhân và căn cứ trên định luật nảy nở tự nhiên về thể xác cũng như về tâm lý.
2) Tôn trọng cá tính và sở năng riêng biệt của trẻ.
3) Triệt để áp dụng kỷ luật tự giác.
4) Tránh mọi hình phạt phạm đến nhân vị của trẻ.
B.- Phát triển tinh thần quốc gia dân tộc:
1) Lấy đời sống nhân dân và thực trạng xã hội Việt Nam làm đối tượng.
2) Lấy Quốc sử để rèn luyện tinh thần ái quốc, nêu cao ý chí tranh đấu của dân tộc, gây tình thân ái và đoàn kết.
3) Dùng Quốc văn làm lợi khí sắc bén để trau giồi tư tưởng quốc gia.
4) Nêu cao vẻ đẹp của non sông Việt Nam, những tài nguyên phong phú của đất nước, những đức tính cố hữu của dân tộc.
5) Duy trì đạo lý cổ truyền và những thuần phong mỹ tục của dân tộc.
6) Gây đức tính tự tín, tự lập, tự cường.
C.- Rèn luyện tinh thần dân chủ và khoa học:
1) Triệt để áp dụng tổ chức “hàng đội tự trị”, phát triển tinh thần tập thể (chơi tập thể, làm việc tập thể) và gây ý thức cộng đồng.
2) Rèn luyện óc phê phán, tinh thần trách nhiệm, tinh thần kỷ luật.
3) Kích thích tính hiếu kỳ của trẻ, phát triển tinh thần khoa học.
4) Bài trừ dị đoan, mê tín.
5) Thâu thái tinh hoa văn hóa nước ngoài song song với việc phát huy tinh thần dân tộc.
III. Những nét chính trong việc sửa đổi chương trình Tiểu học
Chương trình Tiểu học ban hành đầu niên học 1956-1957, tuy đã được soạn thảo theo chương trình mới để phù hợp với tinh thần độc lập của nước nhà và sự tiến hóa của dân tộc, nhưng sau 3 năm kinh nghiệm, Bộ Quốc gia Giáo dục nhận thấy cần phải cải thiện thêm cho thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu hiện tại.
Căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam và những đặc tính của nền Tiểu học, việc sửa đổi chương trình Tiểu học chú trọng đến những điểm sau đây:
1.- Rút nhẹ chương trình
Chương trình Tiểu học cần rút nhẹ để:
a) Sát với tuổi sinh lý và tâm lý của trẻ, thích ứng với nhu cầu thực tế.
b) Tránh lối học nhồi sọ.
c) Giúp cho trẻ phát triển điều hòa về mọi mặt: trí dục, đức dục và thể dục.
d) Gắn liền học với hành, hòa đời sống của học sinh vào đời sống của nhân dân, khiến chúng có nhiều cơ hội học hỏi nhân dân đồng thời giúp đỡ nhân dân.
2.- Bãi bỏ ngoại ngữ: Theo chương trình Trung học sửa đổi lại do Nghị định số 1286 ngày 12/8/1958 thì khi lên Đệ thất học sinh mới bắt đầu học ngoại ngữ và tự do lựa chọn một trong hai sinh ngữ: Anh văn hoặc Pháp văn. Như vậy, việc dạy Pháp văn ở bậc Tiểu học xét ra không thiết thực nữa, cần phải bãi bỏ, để trẻ em có thêm thời giờ trau giồi về Quốc văn mà giá trị cần được nâng cao ở tất cả các ngành và các bậc học.
3.- Bãi bỏ Ban Hướng nghiệp: Ban Hướng nghiệp thiết lập do chương trình ban hành đầu niên học 1956-57 có mục đích tập cho những học sinh bắt buộc phải trở về với công việc đồng áng, quen và thích sự sinh hoạt ở chung quanh, để chúng khỏi bỡ ngỡ sau khi rời khỏi ghế nhà trường tiểu học.
Theo tinh thần giáo dục mới thì không riêng những trẻ em này, mà tất cả các học sinh đều phải được rèn luyện để có thể giúp ích cho đời sống hằng ngày tùy từng địa phương và tùy theo khả năng và sức khỏe của trẻ. Vì vậy, không cần chia thành 2 ban dự bị trung học và hướng nghiệp nữa.
IV.- Phương pháp sư phạm - Tài liệu giáo khoa
Soạn thảo một chương trình đầy đủ chưa phải là hoàn thành được công cuộc cải tiến giáo dục. Để đạt được kết quả mong muốn, điều cốt yếu là phải áp dụng chương trình theo tinh thần mới, việc giảng dạy phải theo những phương pháp sư phạm mới: phương pháp hoạt động, cụ thể, thính thị.
Chỉ thị ngày 24/8/1949 và Thông tư số 843-GD ngày 25/2/1952 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã có nói rõ đại cương về tinh thần mới phải theo và phương pháp sư phạm mới phải áp dụng để cho việc giáo dục con em được thích ứng với nhịp sống của dân tộc trên con đường tiến hóa. Thêm vào đó, mỗi môn học sẽ có chỉ thị riêng nhấn mạnh vào những đặc điểm của chương trình cải tổ và dẫn giải những phương sách cần thiết để trường tiểu học có thể tích cực hoạt động theo những khuynh hướng mới và làm tròn nhiệm vụ của nó.
Ngoài ra, những điều giảng dạy cho trẻ phải được thấm nhuần tinh thần giáo dục mới. Vì vậy, việc biên soạn hoặc lựa chọn tài liệu giáo khoa phải triệt để căn cứ vào ba nguyên tắc căn bản của nền giáo dục Việt Nam nói chung và những đặc tính của nền Tiểu học nói riêng, nhất là về Quốc văn, Việt sử, Địa lý, Đức dục, Công dân giáo dục v.v… là những môn không thể giảng dạy theo những tài liệu lỗi thời, không thích ứng với hoàn cảnh và nhu cầu Việt Nam hiện tại.
b. Nội dung chương trình
Dưới đây chỉ ghi lại chương trình học của 3 môn Việt ngữ, Đức dục và Công dân giáo dục với “Lời chỉ dẫn” giảng dạy cho từng môn của Bộ Quốc gia Giáo dục. Riêng môn Việt ngữ, chỉ ghi phân môn Tập đọc-Học thuộc lòng (không ghi Ngữ vựng, Chính tả, Tập làm văn, Tập viết), để tránh rườm, nhưng cũng bởi vì chỉ cần thông qua phân môn này, chúng ta đã đủ hiểu được nội dung giáo dục tư tưởng, đạo đức truyền thống của môn Việt ngữ mà các nhà giáo dục miền Nam trước đây muốn nhấn mạnh.
VIỆT NGỮ
LỜI CHỈ DẪN
Ngày nay khoa Việt ngữ được dùng để rèn đúc và phát huy tư tưởng dân tộc. Ngoài ra, khoa này còn nhằm mục đích:
1) Về thực tế, trực tiếp làm cho học sinh bậc Tiểu học có một căn bản ngữ vựng cần thiết trong sự học tập.
2) Giúp cho học sinh có những tài liệu dùng trong sự tiếp xúc hằng ngày:
a) Phát biểu tư tưởng của mình bằng lời nói hoặc câu văn.
b) Hiểu biết tư tưởng của những người chung quanh mình khi nghe lời nói hoặc khi đọc câu văn.
Chương trình Việt ngữ gồm có:
- Ngữ vựng
- Tập đọc, Học thuộc lòng
- Chính tả và Văn phạm, Tập viết
- Tập làm văn
Trong thời khắc biểu của các lớp tiểu học đều có ghi những môn ấy, riêng môn Tập làm văn không ghi ở thời khắc biểu lớp Năm [lớp 1 bây giờ]. Trong những giờ Ngữ vựng và Tập đọc, giáo chức phải tập cho học trò nói chuyện (nói cho bạo dạn và cho tự nhiên, có thứ tự, có đầu đuôi, đừng kéo dài từng tiếng một). Còn môn Văn phạm [Ngữ pháp] thì chỉ ghi trong chương trình lớp Nhì và lớp Nhất [lớp 4 và lớp 5 bây giờ], nhưng cũng cốt để dạy đại cương về ngữ pháp mà thôi. Giáo chức sẽ dùng những bài Chính tả hoặc Tập đọc để giúp học sinh nhận xét một vài định luật thông thường riêng của Việt ngữ, để giúp chúng trong việc tập làm văn.
Những vấn đề trong chương trình đã ấn định sẽ học đi học lại kỹ lưỡng theo phương pháp tiệm tiến, đi từ chỗ biết đến chỗ chưa biết, từ chỗ gần đến chỗ xa, từ chỗ dễ đến chỗ khó, từ chỗ cụ thể đến chỗ trừu tượng. Giáo chức phải dùng vật liệu, tranh ảnh hoặc tỉ dụ thiết thực để cụ thể hóa tất cả các vấn đề đem dạy cho học trò. Mỗi vấn đề sẽ dùng làm chủ điểm cho tất cả các môn Ngữ vựng, Tập đọc, Học thuộc lòng, Chính tả, Tập làm văn… Trong lúc dạy Việt ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như Đức dục, Công dân giáo dục, Quốc sử, Địa lý v.v… mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy và khoa Việt ngữ có liên lạc với nhau.
Ở lớp Nhì và lớp Nhất, những danh từ khoa học và kỹ thuật (thuật ngữ), những danh từ Hán Việt hoặc ngoại lai (tân ngữ), những danh từ thường dùng trong công văn sẽ chiếm một phần quan trọng. Các tiếng gốc ở chữ Hán sẽ dạy nhiều hơn và giảng kỹ hơn, theo lối tách riêng từng chữ, rồi hợp lại mà giải nghĩa toàn cả tiếng, hoặc các câu thành ngữ.
Đặc biệt chú ý về Việt ngữ: nên nhẹ về phần tầm chương trích cú, nghệ thuật vì nghệ thuật, mà phải chú ý đề cao vấn đề nghệ thuật vì nhân sinh (phục vụ cho đạo đức con người, cho hạnh phúc gia đình, cho an ninh xã hội, cho độc lập tự do).
CHƯƠNG TRÌNH
(Gồm Ngữ vựng-Tập đọc-Học thuộc lòng-Chính tả-Văn phạm-Tập viết-Tập làm văn (từ lớp Tư), nhưng ở đây chỉ ghi 2 phân môn Tập đọc và Học thuộc lòng, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)
LỚP NĂM
Tập nhận và nhớ mặt chữ quốc ngữ, đọc từng tiếng, từng câu ngắn. Bắt đầu nửa năm học về sau, học trò đã phải biết đọc từng bài ngắn, liên quan với chương trình Ngữ vựng. Cho học thuộc lòng những câu ca dao, tục ngữ, châm ngôn đượm màu sắc dân tộc có ý nghĩa luân lý hoặc tương quan với chương trình Ngữ vựng nhưng phải là những câu hay, có tính cách thực tế và vừa sức hiểu của học trò. Trong lúc học trò chưa biết đọc, chưa biết chép bài, giáo viên nên dùng thính giác và tập cho học trò lặp đi lặp lại những câu nên thuộc lòng (chú ý đến cách đọc cho đúng giọng).
LỚP TƯ
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng, bài quốc ca, ca dao ý vị (chú ý đến cách phát âm và giọng).
LỚP BA
Tập đọc, học thuộc lòng những bài (văn xuôi hoặc văn vần) hay, ngắn, thiết thực, có tương quan với chương trình Đức dục và Ngữ vựng (tập đọc cho trôi chảy, tự nhiên, đừng ê…a…).
LỚP NHÌ
Tập đọc, giải nghĩa, học thuộc lòng những bài văn hay và ngắn, bằng văn xuôi hoặc văn vần, có tính cách luân lý, thiết thực. Nên chọn những bài văn mới có tinh thần quốc gia hay xã hội (tập đọc cho trôi chảy và có ý vị, đọc tự nhiên, đừng ê…a, để ý đến các “nhỡn tự”, giọng đọc phải thích hợp với ý tưởng, tính cách và tình tiết bài đọc.
LỚP NHẤT
Tập đọc, học thuộc lòng những bài văn hay, vừa sức hiểu biết của học sinh, trích ở tác phẩm của các văn thi sĩ và các nhà chí sĩ hiện đại; tập cho quen các lối văn, tập cho học trò phê bình, giải thích. Đọc những tác phẩm khuynh hướng về đạo lý, về chủ nghĩa quốc gia, về tình cảm, về trào phúng của các văn gia và thi gia cận đại.
ĐỨC DỤC
LỜI CHỈ DẪN
Mục đích môn Đức dục là giúp cho trẻ em những đức tính tốt cần thiết cho một công dân của một nước độc lập. Vậy nguyên tắc của chương trình Đức dục là gây cho học sinh có lòng tự tín và tinh thần tự lập, có tinh thần quốc gia, giàu lòng nhân đạo, bác ái, biết đoàn kết và hy sinh vì chính nghĩa.
Muốn đạt được mục đích nói trên, chương trình Đức dục không thể là một mớ bài luân lý để nhồi vào óc trẻ những lý thuyết suông; trái lại những bài luân lý là những lời huấn giới, những câu châm ngôn hoặc cách ngôn đích đáng, những nhận định chính xác, nêu rõ những đại ý về những nghĩa vụ chính trong đạo làm người. Trong khi giảng giải, ông thầy nên dạy sơ lược về phần lý thuyết và hết sức cụ thể hóa bài học, kể những chuyện vặt thông thường, những thí dụ rút ở đời sống thực tế hay ở truyện danh nhân nước khác. Nên đề cao đạo đức hơn tài năng. Đó là phương pháp làm cho học trò nhận thấy chân lý một cách rõ ràng và sẽ có công dụng là kích thích bản năng đạo lý của đứa trẻ.
Ngoài ra, công cuộc rèn luyện tính tình cốt ở sự thực hành. Bất cứ lúc nào, thầy giáo phải kiểm cố hành vi, cử chỉ học sinh, không để chúng sai lạc ngoài lối dạy, gây cho chúng những tập quán tốt, trừ khử những thói xấu, rèn luyện cho chúng hăng hái và quả quyết trong mọi trường hợp quan trọng.
CHƯƠNG TRÌNH
(Chỉ trích dẫn chương trình Đức dục của 3 lớp đầu Năm, Tư, Ba, lược bớt 2 lớp Nhì, Nhất, theo Chương trình Tiểu học, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Sài Gòn, 1960)
Lớp Năm (= Lớp 1)
Ở ba lớp dưới (Năm, Tư, Ba), chương trình Đức dục chuyên chú về phần thực hành. Giáo viên không ra bài học, nhưng vẫn có giờ nhất định để giảng giải và kể những chuyện lý thú để cảm hóa trẻ, sớm gây cho chúng có những đức tính sau đây:
1) Bổn phận đối với bản thân: Sạch sẽ, ăn uống, thứ tự, thành thực, vui vẻ, bạo dạn.
2) Bổn phận trẻ trong gia đình: Bổn phận đối với cha mẹ, anh em, ông bà.- Các ngày kỷ niệm trong gia đình.- Cách đối đãi với người ở (tử tế, dịu dàng).
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Bổn phận đối với thầy học: yêu mến, tôn trọng, vâng lời.- Bổn phận đối với bè bạn: giúp đỡ lẫn nhau, hòa thuận nhau, thương nhau – kín miệng.
4) Bổn phận đối với người ngoài: Lễ phép: Cách chào hỏi, xưng hô với kẻ dưới, người trên (trong nhà mình, nơi nhà người, ngoài đường).
- Lớp Tư (Lớp 2)
Không có bài học, nhưng vẫn có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho phép một câu quyết định.
1) Bổn phận đối với bản thân.- Phải tập thể dục. Biết gắng công. Phải học hành và tập rèn đức tính tốt. Khi lầm lỗi biết hối cải. Tiết kiệm. Nhún nhường.
2) Bổn phận trẻ trong gia đình.- Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Giữ tiếng thơm cho cha mẹ, ông bà. Bổn phận đối với họ hàng.
3) Bổn phận trẻ ở học đường: Nhắc lại chương trình lớp Năm. Thêm: Tình bè bạn.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Lễ phép. Ngay thẳng. Yêu mến và giúp đỡ đồng bào.
- Lớp Ba (Lớp 3)
Không có bài học, nhưng có giờ giảng giải nhất định. Giảng xong cho chép một câu quyết định hay một câu châm ngôn.
1) Nhắc lại chương trình lớp Tư: Bổn phận trẻ con đối với bản thân.
2) Bổn phận trẻ đối với gia đình: Hiếu đễ. Bổn phận làm con: a) Khi còn nhỏ; b) Khi trưởng thành; c) Khi cha mẹ già yếu.
3) Bổn phận trẻ ở học đường.- Nhắc qua những điều đã dạy ở lớp Năm. Tình bè bạn. Bổn phận đối với thầy và bạn: a) Ở học đường; b) Sau khi thôi học.
4) Bổn phận đối với người ngoài.- Nhắc lại những điều đã dạy ở lớp Tư. Thêm: Trọng lời hứa. Chân thật. Sự giao tiếp với bà con, họ hàng, làng xóm.
c) Nhận định về Chương trình Tiểu học 1959-1960
Nhìn chung, Chương trình Tiểu học 1959-1960 chỉ là một bản mô phỏng theo Chương trình Tiểu học năm 1949. Ở không ít chỗ, người soạn chương trình chỉ lược đi chút ít nội dung, hoặc thay đổi cách diễn đạt, sửa vài câu chữ.Thậm chí, giống nhau cả ở những “Lời nói đầu” hướng dẫn giảng dạy chương trình dành cho mỗi môn học (mà Chương trình 1959-1960 sửa lại là “Lời chỉ dẫn”).
- Theo nhận định chung của nhiều người, nội dung chương trình quá nặng nề, còn rườm rà, phức tạp, kém thực tế, vượt quá trình độ phát triển về trí năng và tâm lý của trẻ, như dạy Địa lý cho một em học sinh lớp 5 (lớp Nhất cũ) mà lại muốn cho nó phải “hiểu biết những khả năng mới về kinh tế, chính trị và văn hóa của nước nhà, của các nước lân cận và của các nước cường quốc năm châu; để rồi so sánh, suy nghĩ, đặng tìm cách theo kịp người hoặc vượt hơn người”, như trong Lời nói đầu một cuốn sách giáo khoa do Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản.
Nội dung chương trình chuyển tải còn nặng về lý thuyết, thiếu thực tế, chưa sát với hoàn cảnh và nhu cầu địa phương (nhất là đối với các dân tộc thiểu số vùng cao), không thiết thực với hiện trạng nước nhà (xem phần đúc kết của Tiểu ban Tiểu học trong Đại hội Giáo dục Toàn quốc 1964, Văn hóa nguyệt san, tập XIV, tlđd., tr. 593). Lẽ ra phải có một chương trình học cụ thể, có tính cách đại chúng và thực dụng hơn, gắn với đời sống thường nhật và khung cảnh sống của học sinh, và nên phát triển bậc Tiểu học theo hướng “cộng đồng hóa”, nghĩa là phải làm cho chương trình học thích nghi với cộng đồng học sinh đang sống, tùy theo vùng miền: thôn quê khác thành thị, miền rừng khác miền biển… Như ở môi trường nông thôn thì phải dạy ở mức thô sơ cho trẻ nhỏ về canh tác lúa gạo, trồng cây ăn trái, chăn nuôi gia súc, vệ sinh thường thức, kiến thức về một hai ngành tiểu công nghệ thông thường, về tổ chức xã thôn và phong tục tập quán ở thôn quê…; ở miền biển thì nên dạy cho trẻ hiểu về nghề đánh cá, làm muối, làm nước mắm… “Quy tắc là trẻ trong hoàn cảnh nào thì học nhiều về hoàn cảnh đó, còn những hoàn cảnh khác chỉ cần biết qua loa, như vậy học rồi mới có dịp hành. Về các môn Toán, Sử, Địa, Việt ngữ, vẫn chỉ nên dạy những cái thiết thực. Chương trình Toán tỉa bớt đi một nửa cũng không hại… Trẻ chỉ cần làm được những bài toán thường dùng trong đời thôi, đừng bắt chúng làm những toán lắt léo về phân số, động tử, tỉ trọng như hiện nay…” (Nguyễn Hiến Lê, “Phải mạnh dạn cải tổ nền giáo dục Việt Nam”, Bách khoa số 130, ngày 1/6/1962, tr. 35).
Có tác giả đề nghị nên tăng thêm những giờ âm nhạc, hội họa và thủ công, “để gây khiếu thẩm mỹ trong tâm hồn non nớt của học sinh”, và “để các em yêu mến và tôn trọng công việc lao động, điều cần thiết trong một xã hội vốn chỉ quen cái học từ chương và sách vở.” (xem Nguyễn Khắc Hoạch, Xây dựng và phát triển văn hóa giáo dục, Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 100-105).
Một số ý kiến thuộc loại như vừa nêu trên có thể được coi như mầm mống của chủ trương cải cách giáo dục theo hướng “cộng đồng hóa” và “địa phương hóa” mà ngành giáo dục VNCH đã cố gắng thực hiện nhưng còn dang dở, trong những năm cuối cùng của chế độ.
3. Chương trình Tiểu học 1967-1968
Chương trình Tiểu học áp dụng kể từ niên khóa 1967-1968 thật ra chỉ là một bản sao lại chương trình cũ (1959-1960) ở trên. Sự thay đổi chút ít chỉ được thể hiện bằng đôi ba thông cáo hoặc công văn của cơ quan chức năng ngành giáo dục về việc sửa đổi chương trình học của một vài môn học nào đó trong Chương trình Tiểu học cũ trước, như:
a) Thông cáo số 86/SVL/GD/TTH/T ngày 22/1/1964 của Nha Tổng giám đốc Trung, Tiểu học và Bình dân giáo dục về việc Sửa đổi chương trình Đức dục, Công dân giáo dục và Quốc sử ở lớp Ba và lớp Nhất.
b) Công văn số 4865/GD/HL/1 ngày 30/6/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Khoa học bậc Tiểu học.
c) Công văn số 5501-GD/HL/1 ngày 1/8/1967 của Bộ Giáo dục về việc phổ biến Chương trình Đức dục bậc Tiểu học.
II. TÀI LIỆU VÀ SÁCH GIÁO KHOA TIỂU HỌC
1. Những tạp chí giáo khoa Tiểu học
Giai đoạn đầu sách giáo khoa tiểu học còn thiếu, nên thời Pháp thuộc và sau đó từ thời kỳ chuyển tiếp sang Quốc gia Việt Nam qua đến Việt Nam Cộng hòa, nhà nước và một số tư nhân đã cho xuất bản những tạp chí phục vụ cho hoạt động giảng dạy ở các trường sơ đẳng hoặc tiểu học. Căn cứ Mục lục báo chí Việt ngữ trong 100 năm (1865-1965) của Lê Ngọc Trụ (bản in roneo) và Thư tịch báo chí Việt Nam của Học viện Chính trị Quốc gia TP. HCM (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998), cùng một ít tài liệu hữu quan còn lưu giữ được ở vài thư viện, chúng tôi xin liệt kê theo thứ tự thời gian xuất bản, một số tạp chí chuyên về giáo khoa như sau:
- Học báo (1919-1944), Revue pédagogique à l’usage des écoles primaires de l’Annam et du Tonkin (Tạp chí sư phạm dùng cho các trường sơ đẳng ở Trung và Bắc Kỳ), do một nhóm giáo viên biên tập dưới sự chỉ đạo của Sở Học chính Bắc Kỳ, Nhà in Trung Bắc tân văn, Hà Nội (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ năm, từ số 9 đến 39, năm 1924).
- Sư phạm học khoa (1922-1939) (Journal des écoles), tuần báo ra ngày thứ Hai (Lê Ngọc Trụ ghi: Số 14 đến 33, năm 1923).
- Khuyến học (1935-1937), bán nguyệt san xuất bản tại Hà Nội. Chủ nhiệm: Nguyễn Xuân Thái (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 1/9/1935; đình bản số 3 tháng 4/1937).
- Sơ học tuần báo (1930-1932), Revue hebdomadaire pour l’enseignement primaire/ Tuần báo dùng cho giáo dục sơ đẳng. Xuất bản ở Hà Nội, Chủ nhiệm là Nguyễn Xuân Mai (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1 ngày 29/11/1930, đình bản số 57 ngày 22.5.1932).
- Bạn trẻ học sanh (1940), bán nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Quản lý: Đoàn Văn Châu (Lê Ngọc Trụ ghi: Năm thứ 1, số 1, ngày 25/4/1940 đình bản).
- Giáo dục tạp chí (1942-1944), Revue pédagogique, publié par un groupe de mandarins et de membres de l’enseignement en Annam/ Tạp chí giáo dục được xuất bản do một nhóm quan viên và thành viên ngành giáo dục ở Trung Kỳ, dưới sự bảo trợ của Thượng thư Bộ Học. Xuất bản hàng tháng tại Huế bằng hai thứ chữ Việt và Pháp. Chủ nhiệm: Nguyễn Khoa Toàn. (Lê Ngọc Trụ ghi Năm thứ 1, số 1-2, tháng 9-10.1942; theo Nguyễn Xuân Hoa trong Lịch sử báo chí Huế, Nxb Thuận Hóa, 2013 thì số 1 ra tháng 9-10 năm 1941, số cuối năm 1944).
[B]- Giáo khoa tạp chído Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản trong niên học 1948-1949 tại Sài Gòn, phục vụ cho việc giảng dạy bậc Tiểu học. Chủ bút là Nguyễn Văn Bường (Thanh tra Tiểu học). Phần Pháp văn do H. Truchet (Thanh tra Liên tỉnh) phụ trách, phần tiếng Việt do một nhóm giáo viên Sài Gòn-Chợ Lớn. Mỗi số đều có Phần tổng quát và Phần giáo khoa. Phần tổng quát đăng vài ba bài viết của giáo chức về lý luận, phương pháp giáo dục/ dạy học; Phần giáo khoa chia ra: Lớp Tiếp liên (Tập I), Lớp Nhứt (Tập II), Lớp Nhì (Tập III), Lớp Ba (Tập IV), Lớp Tư (Tập V) và Lớp Năm (Tập VI), với đủ các môn học trong nhà trường đương thời.
- Giáo dục nguyệt san (Enseignement 1er degré/ Bậc Tiểu học) xuất bản năm thứ nhất 1947, kéo dài đến năm 1949.
- Muốn đậu bằng tiểu học (1953), nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn. Chủ nhiệm: Vũ Hữu Tiềm. Tập 1, tháng 4/1953; số cuối cùng: tập 8 tháng 11/1953.
- Hiếu học, tuần báo giáo khoa xuất bản tại Hà Nội vào ngày thứ năm (tập đỏ dành cho bậc Tiểu học). Năm thứ nhất 1953, kéo dài đến 1954. Chủ nhiệm: Bùi Cẩm Chương.
- Tiểu học nguyệt san (1955-? ), do Bộ Quốc gia Giáo dục Sài Gòn xuất bản, số 1-2 tháng 1-2/1955. Ra đều hàng tháng, cung cấp tài liệu giảng dạy cho giáo viên, gồm đủ các môn học thuộc chương trình bậc Tiểu học. Không rõ đình bản từ năm nào, nhưng trong tay chúng tôi hiện còn giữ được số 7 tháng 2/1965 (niên khóa 1964-1965). Bộ biên tập ghi: Chủ bút: Ông Giám đốc Nha Tiểu học (không ghi rõ họ tên); Phụ tá Chủ bút: Ông Đặng Duy Chiểu, Thanh tra Tiểu học Trung ương, Nha Tiểu học; Tổng thư ký: Ông Đinh Gia Dzu, Phòng Học chế Nha Tiểu học; Thư ký: Bà Trần Thị Mẹo, Phòng Thanh tra Nha Tiểu học… Ở mỗi số Tiểu học nguyệt san, trước khi vào phần giáo khoa dạy các bài học theo chương trình của bộ, đều có các phần Luận thuyết, Tạp trở (đăng thông tin…), Văn uyển (đăng thơ, văn dịch), Nghị định (đăng các nghị định, công văn liên quan ngành giáo dục). Phần giáo khoa được sự cộng tác thường xuyên của đông đảo giáo viên, trong đó có một số người được nhiều người biết như Hà Mai Anh, Thềm Văn Đắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Tất Lâm, Văn Công Lầu, Vương Pển Liêm…
- Hiếu học, tuần báo do Nxb Sống mới ấn hành tại Sài Gòn. Tập I đến số 16 (1959).
- Chăm học (1959), tuần báo xuất bản tại Sài Gòn, ra được từ tập 1 đến tập 12. Giám đốc: Nguyễn Văn Hợi.
(còn tiếp)