khieman
12-06-2015, 04:16 AM
.
Qua và Bậu trong văn thơ Miền Nam
Phan Tấn Tài
http://www.baoquangninh.com.vn/dataimages/201210/original/images651663_DSC_3599.jpg
“Qua”, “bậu” là đại từ xưng hô của lứa đôi, đặc trưng của miền Trung và nhất là Nam ViệtNam. Cho dù ngày nay, hai từ ngữ này không còn được thông dụng trong dân chúng miềnNam: từ “bậu” hầu như tuyệt đối không dùng nữa và từ “qua” còn được sử dụng một cáchgiới hạn. Nhưng trong thơ văn, hai từ ngữ này vẫn còn được dùng và không giới hạn chỉ ởcác văn thi sĩ vùng Đồng Nai & Cửu Long.
“Qua” và “bậu” trong văn thơ được dùng vớinghĩa rất thân mật.“Qua” là đại từ, ngôi thứ nhứt, dùng riêng rẽ là từ xưng hô của người lớn tuổi khôngphân biệt nam nữ với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (ở các cấp cô, dì, cậu, chú, bác, anh,chị). Khi dùng chung với “bậu” nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc củangười con trai xưng với người yêu. “Bậu” cũng là đại từ, ngôi thứ hai, để gọi hay ám chỉngười vợ hay người yêu hay người con gái được mến chuộng. Nghĩa cuối cùng trong thời kỳlẽo đẽo đi chinh phục:
Bậu sang phà Rạch Miễu
Qua lẽo đẽo theo sau ...
(Phải lòng con gái Bến Tre, Luân Hoán/Phan Ni Tấn)
Ngày xưa, từ “bậu” cũng được dùng gọi người con trai trẻ tuổi như trong hai câu tríchtừ Lục Vân Tiên và trong bài vè “Bậu Lỡ Thời” (lời người cha nói với con trai).Hai đại từ xưng hô “qua”, “bậu” đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam,chẳng những thường thể hiện trong ca dao, mà còn trong văn thơ:...
Dân rằng: „Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành“...
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)…
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay,
Cánh chim bay người ta còn bắn …
(Bậu ở đây là người con trai cưng, kén vợ. Vè Bậu lỡ thời của vùng Rạch Giá)...
Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bìnhlớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:
- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925)
... hay lời bà Cả nhắn với tên Hứa:
- Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn chủ sự nghe.
(Tại Tôi, Hồ Biểu Chánh (1938).
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:
- Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà quaqua“.
Trong bài nầy, người viết không có tham vọng nghiên cứu nguồn gốc của hai đại từ ấymà chỉ đưa ra vài luận cứ đã có từ lâu.
Gốc của từ “qua” theo Lê Ngọc Trụ, là do chữ “wá” (hay đọc đúng hơn là u_á) theogiọng Triều Châu của chữ “ngã” tức là “tôi”.
Nguyên Nguyên có đặt cả sự liên hệ từ “qua”với tiếng Mường và tiếng Nhật. Bình-nguyên Lộc trong “Lột Trần Việt Ngữ” xếp hai đại từ“qua”, “bậu” vào từ ngữ cổ Việt còn giữ lại nơi tiếng Mạ.
Bình-nguyên Lộc cho rằng người Việt phương Bắc quên hai đại từ ấy (BNL: …bởiBẬU chết, QUA chết, MÌNH cũng chết…),
Nguyên Nguyên cho rằng đại từ “qua” bị bỏ mấtđi (NN: Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng “Tôi” bằng “Qua” (Wa)).
Như vậy, Lê Ngọc Trụ cho “qua” từ tiếng Tàu mà ra, Bình-nguyên Lộc bám vào cổViệt, Nguyên Nguyên hòa đồng hai khuynh hướng (cũng nên nhắc rằng Lê Ngọc Trụ là mộttrong 3 vị bị Bình-nguyên Lộc chỉ trích nặng nề về quan niệm ngôn ngữ và sử học trong mộttác phẩm nghiên cứu của ông).
Ở đây có thể đặt câu hỏi rằng, phải chăng người phương Nam của sông Gianh đã do sựtiếp xúc với người Mạ mà còn xài hai đại từ trên (theo BNL) hay là vì đoàn người di cư cuốinhà Minh đã hòa đồng với người Việt và đã làm ta nhớ lại cổ ngữ (ít nhiều theo hướng LNT).
Sự nhớ lại cổ ngữ: Bình-nguyên Lộc đã có cho một thí dụ là chữ lẩu (canh, món ănngày nay được ưa thích) đã được người Việt Nam “nhớ lại” nhờ nhóm Triều Châu, nếu thếthì “qua” và “bậu” cũng có thể không phải chỉ vì người phương Bắc quên đi mà vì ngườiphương Nam nhớ lại qua sự trung gian của người Triều Châu. Nhóm này, tuy thành phầnthấp hơn nhóm Quảng Đông, nhưng vì khả năng hội nhập cao (đại đa số người Hoa nhómTriều Châu lấy vợ Việt ngay từ khi mới định cư và kể từ thế hệ thứ hai đã trở thành ngườiViệt, đến thế hệ thứ ba họ là người Việt hoàn toàn) cho nên số từ ngữ Việt hóa theo giọngphát âm Triều Châu có thể cao hơn các nhóm Hoa khác.
Cứ chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu “qua” đã là “tôi” từ âm TriềuChâu thì “bậu” cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình-nguyên Lộc có đưa ra gốctừ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì được biết trong tiếng TriềuChâu có tiếng “pa_u” hay “pấu” hay “bô” (giọng đọc khác nhau tùy vùng: Bạc Liêu, NamVang, Sài Gòn) là vợ, hoặc đàn bà, không phân biệt ngôi thứ, một danh từ thuộc vào loại vănnói của tiếng Hoa nên không có chữ viết, tức bình thường là từ ngữ cũ của người sống ở đấtHoa Nam trước khi vùng nầy bị người Hoa xâm lăng và cho tới nay, hơn hai ngàn năm saukhi mất nước, họ vẫn còn giữ được một số từ ngữ không thuộc Hoa ngữ ở vùng Hoa Nam (thídụ chữ cà na của Triều Châu (sự thật là của Hoa Nam và Đông-Nam Á) họ gọi cà na nhưngkhông có chữ để viết “cà na”).
Từ ngữ pa_u (pấu, bô) nầy chỉ khi ghép vào một chữ nữa mớiphân rõ ngôi thứ như “cha pấu”, “cha pa_u”, “chao bô” (=vợ tôi) “deo pa_u” (=vợ yêu) nhưta dùng Hán Việt “tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê ...”. Từ ngữ ghép của chữ pau (pấu, bô)chỉ có ý nghĩa rất bình thường.Có người phỏng đoán rằng chữ bậu do phát âm theo giọng các vùng Hoa Nam của chữphụ (婦 vợ, nàng dâu, đàn bà đã có chồng) mà ra, nhưng theo thông tin của người Hoa thìgiọng “Tàu” đọc chữ phụ khởi đầu bằng chữ “H” chớ không là “B” hay “P” thí dụ TriềuChâu đọc là Hu_e (chữ e đọc rất ngắn). Sự phỏng đoán này sai ? Tới đây mới thấy có lý là vìchữ pa_u hay pấu hay bô của Triều Châu hầu như đồng nghĩa với chữ phụ của tiếng HánViệt, có điều nó không giản dị như sự phỏng đoán là đã trực tiếp phát âm tương tự chữ bậu,mà có thể những điểm sau đây đã xảy ra:
3 - 1) người Triều Châu đã không ngờ chữ Phụ của Việt Nam là chữ Hu_e của họ (cho nênhọ không có chữ viết mà đọc lợ lợ theo âm tiếng Việt là pa_u, pấu, bô).
2) người Việt đã không biết pa_u, pấu, bô của Triều Châu là cách đọc trại của chữ phụcủa (chính) Việt Nam, cho nên đã mượn chữ nầy với cách đọc trại một lần nữa là bậu,và cho thêm nghĩa khác hơn là nghĩa chánh của chữ phụ (xem phần dưới).Vay mượn và thêm nghĩa vào từ ngữ mới đó là “tài mọn” của người Việt.
Bên cạnh chữ bậu phái nữ, chữ bậu phái nam (trai trẻ) mà Nguyễn Đình Chiểu đã dùngtrong Lục Vân Tiên hay trong bài vè “Bậu Lỡ Thời” của vùng Rạch Giá cũng có thể là do tavay mượn của Triều Châu, và cũng có cùng một sự rắc rối là họ đã dùng chữ “bô” mà họkhông biết gốc:Chao bô = đàn bà; chao bô chea = con gái trẻ; ba bô = con trai trẻ.Có phải chăng sự trùng âm của hai chữ bô của người Triều Châu (vừa chỉ phái nữ vừachỉ phái nam) bắt nguồn do sự vay mượn tiếng Việt (Hán Việt) từ hai chữ phụ (phụ 婦 = đànbà, phụ nữ có chồng (vợ) và phụ 父 = cha) ?
Dù người Triều Châu có vay mượn chữ ba bôtừ tiếng Việt hay không, thì giả thiết về một sự vay mượn chữ này của người Việt để gọi traitrẻ là bậu cũng có thể là sự thật.Như vậy, có nghĩa là chữ bậu để chỉ trai trẻ, theo giả thiết, đã do người Triều Châu vaymượn của ta rồi “chế biến”, sau đó ta vay mượn trở lại vì ngỡ là nó có gốc Triều Châu .
Tuykhông chứng minh được sự đồng nghĩa của chữ bô của phái nam với chữ phụ là “cha” củatiếng Việt, như trường hợp chữ bô của phái nữ và chữ phụ là “đàn bà”, nhưng chúng tôi cũngxin tạm kết thúc giả thiết cũa đoạn trên như sau:Nữ: Hu_e (Triều Châu) = phụ (Việt Nam) => bô (Triều Châu) => bậu (Việt Nam)Nam: Bể (Triều Châu) = phụ (Việt Nam) => bô (Triều Châu) => bậu (Việt Nam)
Như vậy, điểm kết luận lần đầu với ông bạn người “Huê Kiều” rằng chữ pa_u, pâu haybô là từ ngữ cổ của miền Nam Trung Hoa (vì không có chữ viết) là không đúng, mà nhữngchữ này cùng với chữ bậu là những từ ngữ phát sinh do sự hiểu lầm (nhưng tốt đẹp) của hainhóm dân trong cuộc sống hội nhập ở miền Nam Việt Nam.
Xin ghi vài sự khác biệt “qua”, “bậu”:
Qua:Lê Ngọc Trụ: WÁ (=TÔI), tiếng Triều Châu, từ của người lớn tuổi xưng hô thân mậtvới người thuộc vai em cháu.*
Bình-nguyên Lộc: TƯA, (= TÔI) từ của một phụ chi của Mạ, dùng để tự xưng với vợhoặc người yêu, hoặc em út, như ANH.
Nguyên Nguyên: „tiếng Nam Bộ‟, tiếng Hải Nam (Wa), Triều Châu (Gua), và âm tươngtự tiếng Mường: Qua (Wa) và Ha…. Những người di dân về phía Nam,đã giữ lối xưng Wa, xưng „tôi‟ đó - và ngày nay ta thường lầm đó lốinói người Nam Bộ.
Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng„Tôi‟ bằng „Qua‟ (Wa).* không đúng, xin đọc tiếp đoạn dưới đây:
“Qua” (ngôi thứ nhứt) trong âm Triều Châu dùng tự xưng với mọi cấp bực, không có ýnghĩa thân mật: người lớn xưng với cấp dưới hoặc cấp dưới xưng với người lớn đều dùng“wá” (u-á, gua). “Tưa” trong tiếng Mạ cũng không khác nghĩa với tiếng Hoa âm Triều Châunghĩa là Tôi.
Dù BNL không giải thích rõ, nhưng nếu TƯA là TÔI thì đồng nghĩa với WÁcủa Triều Châu, tức dùng tự xưng với mọi cấp bực.
4) Trong tiếng Việt phương Nam mới được xác định thì qua là:
1) từ tự xưng của cấp trên với cấp dưới trong nghĩa thân mật (dì, cô, chú, bác, cậu,anh, chị) hay từ tự xưng của người có địa vị cao với người ở vào bực thấp trong xãhội như trong hai thí dụ của Hồ Biểu Chánh ở trên; người xưng “qua” thuộc cả haigiống đực và cái.
2) “anh”, dùng xưng hô với vợ, với người yêu, với người con gái trong thời kỳ tántỉnh.Bậu:Bình-nguyên Lộc: BAU, tiếng Mạ, dùng để gọi vợ, như EM ngày nay.
Nhưng BAU củaMạ còn có thêm nghĩa là CƯỚI.(Không tìm được sự đề cập của đại từ nầy của Lê Ngọc Trụ và Nguyên Nguyên).Âm Triều Châu: pa_u, pấu, bô; nghĩa là vợ hoặc đàn bà, không phân biệt ngôi thứ, chỉkhi dùng từ ghép mới xác định, không nhứt thiết có nghĩa thân mật.Trong tiếng Việt phương Nam, “bậu” luôn luôn ngôi thứ hai (nữ) với nghĩa là mình, emyêu, nàng (người con gái ở thời kỳ tán tỉnh), luôn luôn với ý nghĩa thân mật.
Như vậy, “bậu”không chỉ là vợ hay đàn bà như trong tiếng Mạ hoặc tiếng Hoa giọng Triều Châu. Thỉnhthoảng ta vẫn gặp trong văn chương đại từ “bậu” dùng để gọi một chàng trai trẻ như hai thídụ kể trên, là có thể cũng vay mượn từ chữ ba bô là con trai trẻ của Triều Châu.Từ những từ ngữ Hoa hoặc Mạ với một ý nghĩa rất thông thường như mọi từ ngữ khác,khi được Việt hóa, “qua”, “bậu” trở thành những từ ngữ của tình cảm, của thương yêu, củalứa đôi với nghĩa chính xác và súc tích.
“Qua”, “bậu” tiêu biểu cho ngôn từ Việt hóa ởphương Nam.Mặc dù số từ ngữ Việt hóa (từ Hoa ngữ, từ Miên ngữ) rất nhiều nhưng đi vào ca dao vàvăn chương mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ “qua” và “bậu”.
Trong ca dao miền Nam, những bài có từ ngữ “bậu” chiếm giữa 2 - 3 phần trăm. Nếu talưu ý với hàng trăm, hàng ngàn đề tài của ca dao thì số lượng này rất cao. Một sự tình cờ: HộPháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ra 4 câu đố bằng ca dao vào dịp trung thu 1955, trong đócó 2 bài ca dao có chữ “bậu” (xem Qui Tâm: “Dưới bóng cờ cứu khổ”).
- Hộ Pháp PhạmCông Tắc có thông lệ, ngay hôm những dịp đại lễ, đến bao lơn đền thánh đưa ra câu đố để tínđồ tụ họp ở Đại Đồng Xã tìm giải đáp.Theo thời gian, hai từ “anh, em” thay cho “qua, bậu” trong xưng hô lứa đôi. Dù chomột số người cầm bút hoặc vì nuối tiếc hoặc vì tìm thấy trong hai từ đó một ý nghĩa thi vị nênvẫn còn sử dụng trong nhiều sáng tác sau này, nhưng nếu muốn tìm lại dấu vết quê hươngphương Nam liên quan tới hai từ này thì không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc vănthơ của một số văn thi sĩ miền Nam. Chính ở đây mới có hương vị thực sự của “qua, bậu” củathời khai phá vùng đất mới.Từ “qua” tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không „thân mật“ một cáchđa dạng như từ “bậu”.
1) “Bậu” trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời,
Canh hai vật đổi sao dời,
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2) “Bậu” trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3) “Bậu” trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4) “Bậu” trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập hoặc nhớ lại,“qua”, “bậu” đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tíchhơn và ngôi thứ được xác định rành rẽ hơn từ gốc (Hoa, Mạ).
Hai đại từ này phổ biến giớihạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa hầu như tương đươngnhau trong thời di dân lập ấp và người Mạ là chủ đất cũng còn đông đảo. Khi người Việtquay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập - đãđóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sốngtrong một vùng đất, là phương tiện viễn thông ngôn ngữ trong lịch sử hội nhập miền Nam -đã “chết” và đã trở thành dĩ vãng !
_dongnaicuulongucchau.org
Qua và Bậu trong văn thơ Miền Nam
Phan Tấn Tài
http://www.baoquangninh.com.vn/dataimages/201210/original/images651663_DSC_3599.jpg
“Qua”, “bậu” là đại từ xưng hô của lứa đôi, đặc trưng của miền Trung và nhất là Nam ViệtNam. Cho dù ngày nay, hai từ ngữ này không còn được thông dụng trong dân chúng miềnNam: từ “bậu” hầu như tuyệt đối không dùng nữa và từ “qua” còn được sử dụng một cáchgiới hạn. Nhưng trong thơ văn, hai từ ngữ này vẫn còn được dùng và không giới hạn chỉ ởcác văn thi sĩ vùng Đồng Nai & Cửu Long.
“Qua” và “bậu” trong văn thơ được dùng vớinghĩa rất thân mật.“Qua” là đại từ, ngôi thứ nhứt, dùng riêng rẽ là từ xưng hô của người lớn tuổi khôngphân biệt nam nữ với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (ở các cấp cô, dì, cậu, chú, bác, anh,chị). Khi dùng chung với “bậu” nghĩa là anh, là cách xưng hô của chồng với vợ hoặc củangười con trai xưng với người yêu. “Bậu” cũng là đại từ, ngôi thứ hai, để gọi hay ám chỉngười vợ hay người yêu hay người con gái được mến chuộng. Nghĩa cuối cùng trong thời kỳlẽo đẽo đi chinh phục:
Bậu sang phà Rạch Miễu
Qua lẽo đẽo theo sau ...
(Phải lòng con gái Bến Tre, Luân Hoán/Phan Ni Tấn)
Ngày xưa, từ “bậu” cũng được dùng gọi người con trai trẻ tuổi như trong hai câu tríchtừ Lục Vân Tiên và trong bài vè “Bậu Lỡ Thời” (lời người cha nói với con trai).Hai đại từ xưng hô “qua”, “bậu” đã ăn sâu vào đời sống của người dân phương Nam,chẳng những thường thể hiện trong ca dao, mà còn trong văn thơ:...
Dân rằng: „Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành“...
(Bậu ở đây là Lục Vân Tiên trong Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)…
Bậu lỡ thời như giặc Hà Tiên,
Giặc Hà Tiên người ta còn đánh
Bậu lỡ thời như cánh chim bay,
Cánh chim bay người ta còn bắn …
(Bậu ở đây là người con trai cưng, kén vợ. Vè Bậu lỡ thời của vùng Rạch Giá)...
Tú Phan nói chưa dứt lời thì lại thấy họ khiêng về một bộ tranh cẩn với một cặp lục bìnhlớn và đưa một phong thơ nữa. Tú Phan xé thơ coi rồi cười mà nói với mấy người kia:
- Mấy em về nói qua cám ơn ông Bá hộ nha! ...
(Nhơn Tình Ấm Lạnh, Hồ Biểu Chánh (1925)
... hay lời bà Cả nhắn với tên Hứa:
- Ông chủ sự dây thép tử tế quá. Em về nói qua cám ơn chủ sự nghe.
(Tại Tôi, Hồ Biểu Chánh (1938).
Có dạo người dân, trong ý trêu cợt lối viết văn rặt Nam Kỳ, đặt câu sau:
- Hôm qua qua nói qua qua mà qua không qua, hôm nay qua không nói qua qua mà quaqua“.
Trong bài nầy, người viết không có tham vọng nghiên cứu nguồn gốc của hai đại từ ấymà chỉ đưa ra vài luận cứ đã có từ lâu.
Gốc của từ “qua” theo Lê Ngọc Trụ, là do chữ “wá” (hay đọc đúng hơn là u_á) theogiọng Triều Châu của chữ “ngã” tức là “tôi”.
Nguyên Nguyên có đặt cả sự liên hệ từ “qua”với tiếng Mường và tiếng Nhật. Bình-nguyên Lộc trong “Lột Trần Việt Ngữ” xếp hai đại từ“qua”, “bậu” vào từ ngữ cổ Việt còn giữ lại nơi tiếng Mạ.
Bình-nguyên Lộc cho rằng người Việt phương Bắc quên hai đại từ ấy (BNL: …bởiBẬU chết, QUA chết, MÌNH cũng chết…),
Nguyên Nguyên cho rằng đại từ “qua” bị bỏ mấtđi (NN: Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng “Tôi” bằng “Qua” (Wa)).
Như vậy, Lê Ngọc Trụ cho “qua” từ tiếng Tàu mà ra, Bình-nguyên Lộc bám vào cổViệt, Nguyên Nguyên hòa đồng hai khuynh hướng (cũng nên nhắc rằng Lê Ngọc Trụ là mộttrong 3 vị bị Bình-nguyên Lộc chỉ trích nặng nề về quan niệm ngôn ngữ và sử học trong mộttác phẩm nghiên cứu của ông).
Ở đây có thể đặt câu hỏi rằng, phải chăng người phương Nam của sông Gianh đã do sựtiếp xúc với người Mạ mà còn xài hai đại từ trên (theo BNL) hay là vì đoàn người di cư cuốinhà Minh đã hòa đồng với người Việt và đã làm ta nhớ lại cổ ngữ (ít nhiều theo hướng LNT).
Sự nhớ lại cổ ngữ: Bình-nguyên Lộc đã có cho một thí dụ là chữ lẩu (canh, món ănngày nay được ưa thích) đã được người Việt Nam “nhớ lại” nhờ nhóm Triều Châu, nếu thếthì “qua” và “bậu” cũng có thể không phải chỉ vì người phương Bắc quên đi mà vì ngườiphương Nam nhớ lại qua sự trung gian của người Triều Châu. Nhóm này, tuy thành phầnthấp hơn nhóm Quảng Đông, nhưng vì khả năng hội nhập cao (đại đa số người Hoa nhómTriều Châu lấy vợ Việt ngay từ khi mới định cư và kể từ thế hệ thứ hai đã trở thành ngườiViệt, đến thế hệ thứ ba họ là người Việt hoàn toàn) cho nên số từ ngữ Việt hóa theo giọngphát âm Triều Châu có thể cao hơn các nhóm Hoa khác.
Cứ chấp nhận lối giải thích giản dị của Lê Ngọc Trụ. Nếu “qua” đã là “tôi” từ âm TriềuChâu thì “bậu” cũng rất có thể do âm Triều Châu mà ra. Tuy Bình-nguyên Lộc có đưa ra gốctừ tiếng Mạ nhưng sau khi bàn luận với người Triều Châu, thì được biết trong tiếng TriềuChâu có tiếng “pa_u” hay “pấu” hay “bô” (giọng đọc khác nhau tùy vùng: Bạc Liêu, NamVang, Sài Gòn) là vợ, hoặc đàn bà, không phân biệt ngôi thứ, một danh từ thuộc vào loại vănnói của tiếng Hoa nên không có chữ viết, tức bình thường là từ ngữ cũ của người sống ở đấtHoa Nam trước khi vùng nầy bị người Hoa xâm lăng và cho tới nay, hơn hai ngàn năm saukhi mất nước, họ vẫn còn giữ được một số từ ngữ không thuộc Hoa ngữ ở vùng Hoa Nam (thídụ chữ cà na của Triều Châu (sự thật là của Hoa Nam và Đông-Nam Á) họ gọi cà na nhưngkhông có chữ để viết “cà na”).
Từ ngữ pa_u (pấu, bô) nầy chỉ khi ghép vào một chữ nữa mớiphân rõ ngôi thứ như “cha pấu”, “cha pa_u”, “chao bô” (=vợ tôi) “deo pa_u” (=vợ yêu) nhưta dùng Hán Việt “tệ phụ, tệ nội, hiền phụ, hiền thê ...”. Từ ngữ ghép của chữ pau (pấu, bô)chỉ có ý nghĩa rất bình thường.Có người phỏng đoán rằng chữ bậu do phát âm theo giọng các vùng Hoa Nam của chữphụ (婦 vợ, nàng dâu, đàn bà đã có chồng) mà ra, nhưng theo thông tin của người Hoa thìgiọng “Tàu” đọc chữ phụ khởi đầu bằng chữ “H” chớ không là “B” hay “P” thí dụ TriềuChâu đọc là Hu_e (chữ e đọc rất ngắn). Sự phỏng đoán này sai ? Tới đây mới thấy có lý là vìchữ pa_u hay pấu hay bô của Triều Châu hầu như đồng nghĩa với chữ phụ của tiếng HánViệt, có điều nó không giản dị như sự phỏng đoán là đã trực tiếp phát âm tương tự chữ bậu,mà có thể những điểm sau đây đã xảy ra:
3 - 1) người Triều Châu đã không ngờ chữ Phụ của Việt Nam là chữ Hu_e của họ (cho nênhọ không có chữ viết mà đọc lợ lợ theo âm tiếng Việt là pa_u, pấu, bô).
2) người Việt đã không biết pa_u, pấu, bô của Triều Châu là cách đọc trại của chữ phụcủa (chính) Việt Nam, cho nên đã mượn chữ nầy với cách đọc trại một lần nữa là bậu,và cho thêm nghĩa khác hơn là nghĩa chánh của chữ phụ (xem phần dưới).Vay mượn và thêm nghĩa vào từ ngữ mới đó là “tài mọn” của người Việt.
Bên cạnh chữ bậu phái nữ, chữ bậu phái nam (trai trẻ) mà Nguyễn Đình Chiểu đã dùngtrong Lục Vân Tiên hay trong bài vè “Bậu Lỡ Thời” của vùng Rạch Giá cũng có thể là do tavay mượn của Triều Châu, và cũng có cùng một sự rắc rối là họ đã dùng chữ “bô” mà họkhông biết gốc:Chao bô = đàn bà; chao bô chea = con gái trẻ; ba bô = con trai trẻ.Có phải chăng sự trùng âm của hai chữ bô của người Triều Châu (vừa chỉ phái nữ vừachỉ phái nam) bắt nguồn do sự vay mượn tiếng Việt (Hán Việt) từ hai chữ phụ (phụ 婦 = đànbà, phụ nữ có chồng (vợ) và phụ 父 = cha) ?
Dù người Triều Châu có vay mượn chữ ba bôtừ tiếng Việt hay không, thì giả thiết về một sự vay mượn chữ này của người Việt để gọi traitrẻ là bậu cũng có thể là sự thật.Như vậy, có nghĩa là chữ bậu để chỉ trai trẻ, theo giả thiết, đã do người Triều Châu vaymượn của ta rồi “chế biến”, sau đó ta vay mượn trở lại vì ngỡ là nó có gốc Triều Châu .
Tuykhông chứng minh được sự đồng nghĩa của chữ bô của phái nam với chữ phụ là “cha” củatiếng Việt, như trường hợp chữ bô của phái nữ và chữ phụ là “đàn bà”, nhưng chúng tôi cũngxin tạm kết thúc giả thiết cũa đoạn trên như sau:Nữ: Hu_e (Triều Châu) = phụ (Việt Nam) => bô (Triều Châu) => bậu (Việt Nam)Nam: Bể (Triều Châu) = phụ (Việt Nam) => bô (Triều Châu) => bậu (Việt Nam)
Như vậy, điểm kết luận lần đầu với ông bạn người “Huê Kiều” rằng chữ pa_u, pâu haybô là từ ngữ cổ của miền Nam Trung Hoa (vì không có chữ viết) là không đúng, mà nhữngchữ này cùng với chữ bậu là những từ ngữ phát sinh do sự hiểu lầm (nhưng tốt đẹp) của hainhóm dân trong cuộc sống hội nhập ở miền Nam Việt Nam.
Xin ghi vài sự khác biệt “qua”, “bậu”:
Qua:Lê Ngọc Trụ: WÁ (=TÔI), tiếng Triều Châu, từ của người lớn tuổi xưng hô thân mậtvới người thuộc vai em cháu.*
Bình-nguyên Lộc: TƯA, (= TÔI) từ của một phụ chi của Mạ, dùng để tự xưng với vợhoặc người yêu, hoặc em út, như ANH.
Nguyên Nguyên: „tiếng Nam Bộ‟, tiếng Hải Nam (Wa), Triều Châu (Gua), và âm tươngtự tiếng Mường: Qua (Wa) và Ha…. Những người di dân về phía Nam,đã giữ lối xưng Wa, xưng „tôi‟ đó - và ngày nay ta thường lầm đó lốinói người Nam Bộ.
Phía Bắc, sau khi quốc ngữ ra đời, bỏ mất lối xưng„Tôi‟ bằng „Qua‟ (Wa).* không đúng, xin đọc tiếp đoạn dưới đây:
“Qua” (ngôi thứ nhứt) trong âm Triều Châu dùng tự xưng với mọi cấp bực, không có ýnghĩa thân mật: người lớn xưng với cấp dưới hoặc cấp dưới xưng với người lớn đều dùng“wá” (u-á, gua). “Tưa” trong tiếng Mạ cũng không khác nghĩa với tiếng Hoa âm Triều Châunghĩa là Tôi.
Dù BNL không giải thích rõ, nhưng nếu TƯA là TÔI thì đồng nghĩa với WÁcủa Triều Châu, tức dùng tự xưng với mọi cấp bực.
4) Trong tiếng Việt phương Nam mới được xác định thì qua là:
1) từ tự xưng của cấp trên với cấp dưới trong nghĩa thân mật (dì, cô, chú, bác, cậu,anh, chị) hay từ tự xưng của người có địa vị cao với người ở vào bực thấp trong xãhội như trong hai thí dụ của Hồ Biểu Chánh ở trên; người xưng “qua” thuộc cả haigiống đực và cái.
2) “anh”, dùng xưng hô với vợ, với người yêu, với người con gái trong thời kỳ tántỉnh.Bậu:Bình-nguyên Lộc: BAU, tiếng Mạ, dùng để gọi vợ, như EM ngày nay.
Nhưng BAU củaMạ còn có thêm nghĩa là CƯỚI.(Không tìm được sự đề cập của đại từ nầy của Lê Ngọc Trụ và Nguyên Nguyên).Âm Triều Châu: pa_u, pấu, bô; nghĩa là vợ hoặc đàn bà, không phân biệt ngôi thứ, chỉkhi dùng từ ghép mới xác định, không nhứt thiết có nghĩa thân mật.Trong tiếng Việt phương Nam, “bậu” luôn luôn ngôi thứ hai (nữ) với nghĩa là mình, emyêu, nàng (người con gái ở thời kỳ tán tỉnh), luôn luôn với ý nghĩa thân mật.
Như vậy, “bậu”không chỉ là vợ hay đàn bà như trong tiếng Mạ hoặc tiếng Hoa giọng Triều Châu. Thỉnhthoảng ta vẫn gặp trong văn chương đại từ “bậu” dùng để gọi một chàng trai trẻ như hai thídụ kể trên, là có thể cũng vay mượn từ chữ ba bô là con trai trẻ của Triều Châu.Từ những từ ngữ Hoa hoặc Mạ với một ý nghĩa rất thông thường như mọi từ ngữ khác,khi được Việt hóa, “qua”, “bậu” trở thành những từ ngữ của tình cảm, của thương yêu, củalứa đôi với nghĩa chính xác và súc tích.
“Qua”, “bậu” tiêu biểu cho ngôn từ Việt hóa ởphương Nam.Mặc dù số từ ngữ Việt hóa (từ Hoa ngữ, từ Miên ngữ) rất nhiều nhưng đi vào ca dao vàvăn chương mạnh mẽ nhất có lẽ là hai từ “qua” và “bậu”.
Trong ca dao miền Nam, những bài có từ ngữ “bậu” chiếm giữa 2 - 3 phần trăm. Nếu talưu ý với hàng trăm, hàng ngàn đề tài của ca dao thì số lượng này rất cao. Một sự tình cờ: HộPháp Phạm Công Tắc của Cao Đài ra 4 câu đố bằng ca dao vào dịp trung thu 1955, trong đócó 2 bài ca dao có chữ “bậu” (xem Qui Tâm: “Dưới bóng cờ cứu khổ”).
- Hộ Pháp PhạmCông Tắc có thông lệ, ngay hôm những dịp đại lễ, đến bao lơn đền thánh đưa ra câu đố để tínđồ tụ họp ở Đại Đồng Xã tìm giải đáp.Theo thời gian, hai từ “anh, em” thay cho “qua, bậu” trong xưng hô lứa đôi. Dù chomột số người cầm bút hoặc vì nuối tiếc hoặc vì tìm thấy trong hai từ đó một ý nghĩa thi vị nênvẫn còn sử dụng trong nhiều sáng tác sau này, nhưng nếu muốn tìm lại dấu vết quê hươngphương Nam liên quan tới hai từ này thì không gì hơn bằng cách tìm trong ca dao hoặc vănthơ của một số văn thi sĩ miền Nam. Chính ở đây mới có hương vị thực sự của “qua, bậu” củathời khai phá vùng đất mới.Từ “qua” tuy được dùng xưng hô một cách thân mật nhưng không „thân mật“ một cáchđa dạng như từ “bậu”.
1) “Bậu” trong tâm tình nhớ thương:
Ngó lên Hòn Kẽm đá dừng
Thương cha, nhớ mẹ quá chừng bậu ơi
Bướm xa hoa bướm lại dật dờ
Anh xa xôi bậu đêm chờ ngày trông.
(Hòn Kẽm: địa danh miền Trung)
Bước sang canh một, anh thắp ngọn đèn vàng
Chờ con bạn ngọc thở than đôi lời,
Canh hai vật đổi sao dời,
Tính sao nàng tính trọn đời thủy chung.
Canh ba cờ phất trống rung
Mặc ai ai thẳng ai dùn mặc ai
Canh tư hạc đậu cành mai
Sương sa lác đác khói bay mịt mờ
Canh chầy tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu dậy rờ chiếu không.
2) “Bậu” trong trách móc:
Bên kia sông, ai lập kiểng chùa Tân Thiện
Bên này sông, qua lập cái huyện Hà Đông
Cái huyện Hà Đông để cho ông Bao Công xử kiện
Cái chùa Tân Thiện nhiều kẻ tu hành
Chim kêu dưới suối trên cành
Qua không bỏ bậu, sao bậu đành bỏ qua?
3) “Bậu” trong trêu chọc:
Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng:
Chữ đề tên bậu, không chồng có con.
Bậu đừng lên xuống đèo bồng,
Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan.
4) “Bậu” trong sự hóm hỉnh:
Bậu để chế cho ai, xé anh một nửa,
Bậu để chế cho chồng, châm lửa đốt đi.
Đờn cò lên trục kêu vang
Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng
Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng
Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương
Chiều nay qua phản hồi hương
Nghe bậu ở lại vầy vương nơi nào
Ghe tui tới chỗ cắm sào
Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông.
Từ một đại từ và một danh từ bình thường, sau một tiến trình hội nhập hoặc nhớ lại,“qua”, “bậu” đã trở thành hai đại từ độc đáo của lứa đôi, phưởng phất thi vị với nghĩa súc tíchhơn và ngôi thứ được xác định rành rẽ hơn từ gốc (Hoa, Mạ).
Hai đại từ này phổ biến giớihạn ở vùng đất Phương Nam, vì ở đây số người Việt và người Hoa hầu như tương đươngnhau trong thời di dân lập ấp và người Mạ là chủ đất cũng còn đông đảo. Khi người Việtquay về với ngôn từ thống nhất, hai đại từ này cùng với một số không ít từ ngữ hội nhập - đãđóng vai trò nhịp cầu của giai đoạn sơ khai, nhịp cầu nối liền những dân tộc cùng chung sốngtrong một vùng đất, là phương tiện viễn thông ngôn ngữ trong lịch sử hội nhập miền Nam -đã “chết” và đã trở thành dĩ vãng !
_dongnaicuulongucchau.org