PDA

View Full Version : Thằng Luyến-Duyên Anh



giavui
10-16-2015, 06:47 PM
http://i796.photobucket.com/albums/yy249/hangnga_01/cooltext143030685972077.png

https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/02/duyenanh-nhungduatrethaibinh.jpg (https://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/02/duyenanh-nhungduatrethaibinh.jpg)

Những Đứa Trẻ Thái Bình 6

Thị xã đã hoàn toàn thay đổi. Mới chưa đầy ba năm, mà tưởng chừng dâu biển qua đây hàng mấy thế kỷ. Trên hoang tàn của gạch vụn, ngói nát, rêu cỏ mọc xanh um, người ta đua nhau xây dựng lại những căn nhà lá, sống tạm bợ. Chiến tranh còn đó, đã hết đâu. Thành ra, dân chúng vùng Pháp tạm chiếm đóng đêm vẫn nghe tiếng súng nổ ran, bên kia sông Trà Lý; ngày vẫn nhìn xe căm nhông xám xịt chở lính viễn chinh từ Nam Định sang. Không khí ngột ngạt sáng tối. Và, nỗi lo sợ căng thẳng. Tháng 5, 1950, Pháp nhẩy dù xuống cánh đồng Lạc Đạo, gần khít An Tập, rồi tiến nhanh qua Phụ Dực, Quỳnh Côi. Chắc mặt trận bên đó nặng lắm. Phi cơ Pháp đã rải truyền đơn đe dọa: Quỳnh Côi, Phụ Dực ra tro, Đống Năm, Trực Nội ăn no đạm đồng. Nỗi lo sợ muốn đứt tung. Chỉ mấy tháng đầu. Tình hình có vẻ im lặng trở lại. Như chính phủ Bảo Hoàng lẽo đẽo mang Bảo Chính Đoàn và các cơ cấu cai trị của mình theo Pháp lập quyền bính, người hồi cư cũng vững bụng về tề. Mỗi lúc, một đông.

Người về trước, thường là dân 12 phủ huyện, không phải dân thị xã, đã làm nhà cửa bừa bãi trên đất Vọng Cung, bệnh viện và trường học. Phố chính có ba nơi quan trọng, dân hồi cư choán hết. Chỉ ba nơi đó tuyệt tích, đã đủ nói lên cảnh tượng thương hải biến vi tang điền. Dinh tổng đốc biến thành nơi cư ngụ bên ngoài, chợ búa bên trong. Nhà thương biến thành chỗ buôn bán. Trường học biến thành xóm điếm. Trường Monguillot cao quý ngày xưa đã là chốn chơi bời của lính viễn chinh ngày nay. Dân thị xã giầu sang tản cư đã không chờ hôm nay mới hồi cư. Họ lén lút vào Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng từ 1947, giã biệt Thái Bình tiêu thổ kháng chiến. Nhà sách Mậu Hiên, mà cái bảng hiệu bị xi măng cốt sắt chôn vùi, đã nhường chỗ cho Đông A, Học Hải ngoi lên. Hiệu bánh Con Rồng của bà Hanh Tụ đã bỏ rơi tết Trung Thu thị xã ngậm ngùi. Không còn bánh nướng, bánh giẻo và những con giống nữa. Những hiệu cao lâu của người Trung Hoa đã theo gió bụi cuốn đi, cùng với chủ nhân của nó. Dược sĩ Vũ Ngọc Anh về đâu rồi? Mà nay thị xã mới mọc một pharmacie dépositaire. Những người tài giỏi của Thái Bình đều vắng mặt.

Chính phủ Bảo Hoàng của vua Bảo Đại, vừa từ chức, hồi 19-8-1945, thà làm công dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ, lại nhận chức quốc trưởng của một nước nô lệ, năm 1949. Quốc trưởng Bảo Đại dấy động cuộc cách mạng giấy tờ. Lính Bảo An rồi Bảo Chính, mặc quân phục, khác hẳn lính lệ, lính khố xanh. Có nội các ra đời. Nội các nới rộng. Thủ tướng thao túng quyền hành. Quốc trưởng nằm tận Paris hóng mát, chẳng cần biết cái tâm sự của nước non. Thượng thư khoác áo bộ trưởng. Tổng đốc xuống hàng tỉnh trưởng. tri phủ, tri huyện lui gót về quận trưởng.

Tổng khởi nghĩa đã chôn vùi đầu óc thực dân của người Pháp. Thực dân Pháp khuyến khích tay sai của mình làm cách mạng. Họ bầy một thế chính trị, hỗ trợ cho quân sự: Cách mạng chống cách mạng. Vì thế, thời đại diện áo nhiễu dài, đeo mề đay chấm dứt. Bi cảnh mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ, thì vẫn còn. Miền Bắc đã ngoi lên sân khấu Tổng trấn Bắc Hà, Thủ hiến Bắc Việt. Miền Nam trưng bầy các Thủ tướng. Thủ đô bay tít, từ Hà Nội, vô Sàigòn. Đảng phái lừng danh nhất là Đại Việt, đã ngoan ngoãn vâng lời triều đình nhà Nguyễn, cúc cung phục vụ thực dân, coi chiến đấu như bát canh xuông. Cho nên, Pháp cho phép Đại Việt vùng vẫy. Xứ bộ miền Nam độc quyền ra đất Bắc, hiêu hiêu tự mãn. Nguyễn Ngọc Tân, ngồi ở căn nhà 48 phố hàng Ngang, nơi Hồ Chí Minh viết tuyên ngôn độc lập, xem mình trổ mã. Nguyễn Văn Hướng, lộng hành kiểu quốc gia trên lưng ngựa. Quan huyện miền Bắc, Nguyễn Hữu Trí, nhẩy vút lên ghế Thủ hiến. Thấy Đại Việt thua kém mình, mà hiển hách hơn mình, Việt Nam quốc dân đảng, của đảng trưởng Vũ Hồng Khanh, chơi nước cờ thời thế. Gặp may. Vũ Hồng Khanh được bổ nhiệm chức Bộ trưởng thanh niên, quên luôn các đồng chí Nguyễn Thái Học, Ký Con..., rơi đầu trên máy chém thực dân. Trong nghịch cảnh đó, dân vùng tạm chiếm sống một cổ ba, bốn tròng. Người ta vẫn gửi giấc mơ về kháng chiến. Thị xã Thái Bình, chẳng hạn.

Dọc phố chính, nằm trên quốc lộ số 10, đi từ cầu Bo trở xuống, phía tay phải, có ba nơi không bị tiêu thổ. Thứ nhất: Dinh công sứ giữ lại, để chủ tịch cách mạng công tác thường xuyên, nên tỉnh trưởng mới có chỗ làm việc. Thứ hai: Đền Mẫu giữ lại, vì lý do tôn giáo. Tỉnh trưởng tiếp thu ngoài đền, để làm ty thông tin tuyên truyền và cho dân chúng tới coi báo chí. Chẳng ai dám phản đối, xâm phạm vào tín ngưỡng cả. Thứ ba: Nhà thờ Tin Lành. Không hiểu mục sư đi kháng chiến hay vào Hà Nội rồi, thành thử, nhà thờ hoang vắng, nhường chỗ cho quận Vũ Tiên. Huyện Vũ Tiên nằm sát thị xã, nên huyện đường, nhà dân, và các nhà hát cô đầu đều bị hủy hết. Gần nhà thờ Tin Lành, có cái nghĩa địa thành phố. Vẫn còn nguyên, bất diệt như người chết, tuy cỏ hoang mọc đầy các ngôi mộ. Cái bục, ở ngã tư Vũ Tiên-Thị Xã, xây bằng gạch, với nóc che mưa nắng, nơi cảnh sát đứng hướng dẫn xe cộ lưu thông, bị san bằng. Bên cạnh nhà thờ, còn có một hồ nhỏ bé, thơ mộng lắm. Tiêu thổ kháng chiến, gạch ngói đã lấp kín hồ. Rồi, nước mưa làm bùn, gió thổi cát bụi về đây, xóa lấp hết dấu tích kỷ niệm. Bên tay trái, chỉ một nhà bán bánh Vạn Phát Tường còn y như cũ. Trường trung học cũng tan tành.

Ngày xưa, thị xã chia làm ba khu phố. Từ cách mạng, phố chính Jules Picket đổi thành Lê Lợi. Tất cả biến tên Pháp sang tên Việt Nam. Chính phủ Bảo Hoàng vẫn dùng tên phố cách mạng. Tính ở phía Lê Lợi, từ cầu Bo tới đền Mẫu và những phố ngang, đường dọc nằm trong địa hạt cầu Bo-đền Mẫu thuộc về khu phố đệ nhất; từ đền Mẫu tới Vọng Cung: khu phố đệ nhị; từ Vọng Cung tới nhà thờ Tin Lành: khu phố đệ tam. Bây giờ, đã mất tích những khu phố, chỉ còn lại thị xã Thái Bình với những căn nhà mái rạ tồi tệ, sống không biết ngày mai

Đi dạo con phố phụ, song song với phố chính và cách nhau những con phố ngắn. Trước hết, phố Trưng Trắc, khởi đầu tự lối xuống cống Đậu, bên trái, là trại lính khố xanh hoang vu. Thoạt tiên, người ta xây bệnh viện bằng nguyên liệu tiền chế, do Mỹ viện trợ, sau đền Mẫu. Được ít lâu, bệnh viện nhỏ bé quá, phải dọn tới trại lính khố xanh. Nhà tiền chế của Mỹ thấp và mái tôn, tường tôn nóng hừng hực. Mùa nóng, mồ hôi chẩy ròng ròng. Mùa lạnh, giá rét run bần bật. Không một thứ cây nào còn sống. Nhà thương của chính phủ Bảo Hoàng, ở đấy. Đối diện với nó là bãi gạch vụn của Sở Cẩm và Sen Đầm, bên phải. Để bắt cảnh trống vắng bớt sầu thảm, quân đội Pháp chở ra đây giàn đại bác khổng lồ, câu sang biên kia sông Trà Lý, ngày đêm. Bệnh viện bớt buồn tẻ.

Bước đi, còn có gì trong cảnh đổ vỡ này mà chiêm ngưỡng. Một khúc dài, thấy ngôi trường trung học công lập Nguyễn Công Trứ vừa cất xong. Ngôi trường cao, lợp mái tôn, xây dựng trên nền nhà người Pháp. Còn đợi giáo sư ở Hà Nội về mới khai giảng. Bao giờ giáo sư mới về? Sát nách Nguyễn Công Trứ có trung học tư thục Trần Lãm. Một ông là Sứ quân, sau triều đại Ngô Quyền, án binh vùng Bố Khẩu, Thái Bình. Khi mất đi, quyền hành vào tay Đinh Bộ Lĩnh. Nhờ họ Đinh, mới dẹp tan 11 Sứ quân, thu giang san về một mối và lập một kỷ nguyên sáng tạo. Một ông là Doanh điền sứ, thời nhà Nguyễn, có công khai phá đất Tiền Hải, cũng Thái Bình. Ai nghĩ tên trường cho thị xã rất đáng khen. Lác đác đó đây, những ngôi trường tiểu học lợp rạ, trét vách bùn, học trò đang học. Trường Monguillot tiêu tan, tuổi thơ hết chỗ học làm người. Chả còn những thầy giáo Nguyễn Công Hoan, Trần Cao Đàn nữa,

Bước thêm những bước dài. Nhìn thây ma rạp chiếu bóng Odéon mà buốt ruột gan. Odéon không ngờ có ngày mình gục xuống, như thành phố Babylone đã gục xuống. Trong khi ông Lê Văn Định đang sửa chữa máy móc, sơn xe. Ông không vẽ Con Voi lên cửa xe nữa. Còn đua chi với Con Sóc, Con Ngựa Bay mà vẽ Con Voi! Đường số 10 Thái Bình-Hải Phòng, ông chỉ chạy đến Đống Năm. Cầu Nghìn ở Phụ Dực, giật mìn nổ tung rồi. Đường đào hố chữ chi khá dài. Họa chăng có hòa bình ngay mới sửa nổi. Bến xe thị xã vẫn còn nguyên. Chỉ tiếc, những căn nhà quanh bến xe, đêm ngày khóc suốt mướt.

Bước dồn thẳng tắp. Thấy sân vận động bỗng rơi nước mắt. Hôm nào, sĩ quan Nhật ngự ở Câu lạc bộ thể thao, kè kè thanh kiếm, mặt lầm lỳ. Phút biến đổi, theo dự tính trước, Nhật đảo chính và hành hạ Pháp. Nhanh vù vù, Nhật đầu hàng Mỹ vô điều kiện. Vậy mà, khuôn mặt lầm lỳ của Nhật vẫn còn. Mặt trời mọc quên mất mặt trời lặn. Khi tổng khởi nghĩa, Nhật gây nhiều khó khăn cho dân thị xã. Đến lượt, Trung Hoa sang tước kh1 giới Nhật, cái lầm lỳ đi sang cái van nài tha thứ. Dân thị xã lại thương Nhật như đã thương Pháp. Câu lạc bộ thể thao trơ trụi trên miếng đất lầm than. Nạn nhân của tàn phá văng ra tận sân vận động. Cỏ mọc rậm rì, che lấp cả gạch ngói. Bãi cỏ này, bọn thằng Vũ, thằng Côn, thằng Luyến, thằng Vọng đã từng sút những cú bóng ngả bàn đèn, đã đánh đầu những cú bóng không gôn nào bắt nổi, lúc này giống bãi tha ma làm sao!

Tiểu đoàn trưởng Hoàng Sĩ Tính bị xử tử giữa sân vận động, về tội để giặc Pháp sang Thái Bình như vào chỗ trống không. Những kỷ niệm xám buồn hay rực vui, người ta gửi ở sân cỏ, đều bay biến hết. Trên cái vẻ tịch liêu đó, cây cột cao, treo miếng vải trắng vòng tròn vệt đỏ, báo hiệu cho máy bay trực thăng và Bà Già, quân đội Pháp mới dựng lên, nghĩ mà đau cho sân vận động, tủi cho mình. Kế bên Câu lạc bộ thể thao là hồ tắm. Đã ba năm, không ai săn sóc, cái plongeoir ai đã gỡ xuống và đem đi. Mưa tràn ngập hồ, mang theo sỏi đất. Bão lốc thổi tung cát bụi, cành cây khô héo cho nó định cư hồ tắm, đỡ bị phiêu lưu mệt mỏi. Lau sậy lổn ngổn tứ bề. Hồ tắm đáng yêu của thị xã biến thành cái ao tù, bùn lầy nước đọng, bèo tây đóng đầy. Người ta tìm cống Kỳ Bá mà bơi lội. Hồ tắm buồn thiu, nước còn cau mặt với tang thương. Bảo Chính Đoàn, đáng lẽ phải đóng quân ở trại lính khố xanh, ai dè đóng quân ở làng Kỳ Bá. Cổng chính, lính kh6ng đi, cứ nhè cổng hậu mà chui tọt. Cổng hậu là sân vận động thị xã. Lính kèn Bảo Chính thích ra hồ tắm tập thổi kèn. Tiếng kèn và giọng chửi thề của lính làm cho sân cỏ đã hiu quạnh, lại hiu quạnh thêm.

Bây giờ, đi dạo con phố phụ thứ hai, từ gần cuối, lên lưng chừng thị xã. Phố Trưng Nhị có bốn nơi cần nói cho hả dạ.

Nơi nói trước nhất là cái chateau d'eau, đằng sau trường Monguillot. Ngày xưa, nhà máy dẫn nước về chatean d'eau, cả thị xã dùng thỏa thích. Ngày nay, nhà máy nước, trong cơn thịnh nộ của tiêu thổ, đã chết dí một xó. Và, cái chateau d'eau theo chân Monguillot về với đất. Đánh gẫy nó ba chân, chateau d'eau ngã thảm thương. Nhìn nó nằm bất động, cỏ heo may lấp trùm kín mít, lòng không khỏi ngậm ngùi. Mất cái cũ, đành trở về với cái cũ, lạc hậu hơn. Dân thị xã đua nhau ra sông Trà Lý mà tắm giặt, mà gánh nước, thổi cơm, nấu nước. Giầu thì thuê người gánh. Nghèo thì oằn vai gánh lấy. Mùa đông và mùa xuân, nước sông trong vắt, đỡ khổ. Mùa hạ, nước cạn đục ngầu. Mùa thu, nước lũ đỏ ối. Phải đánh phèn chua lâu tay, nước mới lắng lại và trong được. Nỗi khổ của dân thị xã vùng tề, ai mà biết. Những ống nước dẫn vào tận từng nhà, giờ đã hoen rỉ hết. Nước máy, chỉ quân đội Pháp, chở từ Nam Định sang, được dùng. Ngay cả bệnh viện cũng dùng nước sông. Thị xã không có điện. Máy điện chở lên Việt Bắc rồi. Nhá máy bị dẵm nát dưới chân tiêu thổ. Thị xã đúng là một huyện lỵ nghèo nàn, không điện, không nước máy, nhà cửa rơm rạ, sập sùi. Có hơn gì huyện lỵ. Dân thị xã lại phải đi mua đèn Hoa kỳ, thắp bằng dầu hỏa, kiếm chút ánh sáng, ban đêm. Thôi được, còn tìm ra ánh sáng chân trời, bằng cách đọc nhật báo Tia Sáng của Ngô Vân, Giang Sơn của Hoàng Cơ Bình, mà nhà sách Đông A đã làm đại lý. Ở Thái Bình heo hút biết đầy đủ tin tức của Hà Nội, của khắp nơi, của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp, của Việt Minh, của thế giới. Mong gì hơn nữa.

Nơi nói thứ hai là khu nhà Bà Sơ. Cách mạng chẳng dại gì tiêu thổ trường mẫu giáo, trường nuôi trẻ con mồ côi, trường dạy người mù, câm, điếc, trường dạy con gái thêu thùa. Các bà hồi cư sớm nhất. Chưa thấy ai gửi em nhỏ đến học. Chưa thấy anh câm nào đi chăn bò. Chưa thấy cô nào đi học thêu... Tạm thời, các bà tới nhà thương săn sóc bệnh nhân, theo đúng ý Chúa.

Nơi nói thứ ba là nhà thờ Thiên Chúa. Nhà thờ rất uy nghiêm, đụng vào nó là điêu đứng. Cách mạng đã giả vờ quên. Đã ba năm liền, không được nghe hồi chuông kêu gọi con chiên, người ta trông đợi linh mục cũ trở về. Bốn tháng, không thấy linh mục hồi cư. Linh mục Nguyễn Văn Chỉnh, từ nhà thờ Lạc Đạo, tiếp thu nhà thờ thị xã. Không ai dám ngăn cản. Lạc Đạo là làng Thiên Chúa giáo. Ngày Pháp chiếm Thái Bình, Lạc Đạo xin tình nguyện phục vụ quân đội Pháp. Thanh niên Lạc Đạo được võ trang súng ống, ăn mặc quân phục như lính Bùi Chu, Phát Diệm. Lnh mục Nguyễn Văn Chỉnh vừa đóng vai thầy tu, vừa đóng vai chỉ huy quân Lạc Đạo, bắt giết Việt Minh và những người vô tội. Chắc Pháp nể nang, nên mặc kệ linh mục Chỉnh trông coi luôn xứ đạo thị xã. Người ta chán nản chuyện nhà thờ.

Nơi nói thứ tư là chợ thị xã. Chợ thị xã cũng phá tiêu tan rồi. Nằm trong khu vựa hành dinh của quân đội Pháp. Do đó, Pháp rào kẽm gai ba vòng, cả miếng phố trước nhà thờ lẫn chợ thị xã, ăn tuốt vào hồ Phúc Khánh, bên bờ sông Trà Lý. Khu vực của quân đội Pháp giam giữ luôn tù binh Việt Minh. Những hoạt động của Pháp, chỉ Pháp biết. Dân thị xã bị cấm chỉ bước tới hàng rào kẽm gai. Ai đi lễ nên về nhà ngay. Nếu đứng lại ngó nhìn để thỏa mãn chút tò mò là có chuyện lớn. Và, chợ đành họp ở Vọng Cung, vì thế. Dân thị xã sống dưới những nghịch cảnh như vậy. Ở đời ai có qua cầu mới hay. Vẻ buồn tỉnh lỵ rõ rệt...

giavui
10-16-2015, 06:48 PM
2

Tháng 11, 1950, gia đình Khoa vào thị xã. Mùa đông năm nay ít mưa dầm kéo dài dưới nửa tháng. Cái lạnh nó chẳng thương kiếp nghèo. Gió chướng tự do xoáy vào da thịt con người trong thế trống tung của chống đỡ rét buốt. Dân ch1ng đã về đông. Sự sinh hoạt có phần tấp nập.

Tuần lễ đầu tiên, Khoa phải giúp cha mẹ ổn định nơi ăn chốn ở, chưa đi tới đâu xem bạn bè Vũ hồi cư chưa. Đến nay, cha mẹ Khoa đã tìm được thợ làm nhà nên Khoa rảnh rỗi, muốn ghé thăm Luyến. Vì, nghe nói, Luyến đã trở lại thị xã. Bạn bè thân thiết với Vũ có ba người thôi. Côn thì đang theo học lớp sĩ quan Trần Quốc Tuấn, trên Sơn Tây. Vọng thì mải lo huấn luyện bộ đội tân binh, tại Tường An. Chỉ còn Luyến, chả biết đi kháng chiến hay ở Đống Năm học hành.

Đống Năm vui lắm. Nằm bên đường số 10, quy tụ dân tản cư của những thành phố Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương. Người ta buôn bán đủ các thứ hàng, ăn diện sang trọng. Lịch duyệt hơn thủ đô Hà Nội. Nhà cửa đua nhau mọc san sát. Dù không mái ngói và tường đúc xi măng. Ngôi trường trung học của giáo sư Hà Nội mọc lên. Đông nghít học trò. Đống Năm lừng danh như Cống Thần, Chợ Đại, một thị trấn ăn chơi khét tiếng của Liên Khu 3. Pháp ghét Đống Năm khủng khiếp, dọa dẫm từ mấy măm trước, sẽ cho Đống Năm ăn no đạn đồng. Chả hiểu tại sao? Hôm Pháp trải quân đầy mười hai phủ huyện, chắc Đống Năm bị đốt phá, giết chóc không gớm tay. Khoa lo sợ giùm Luyến.

Đằng xa, trông về phía cửa nhà Luyến, Khoa thấy một người chống nạng gỗ, quay lưng lại. Khoa bước nhanh tới:

- Làm ơn cho tôi hỏi thăm...

Người chống nạng xoay mặt.

- Anh Luyến. Trời ơi!

Khoa ôm lấy Luyến, khóc nức nở:

- Anh bị thương hả? Pháp bắn anh, hả?

Luyến mỉm cười thân ái, đưa tay vuốt tóc Khoa:

- Em Khoa, sao lại khóc? Anh vẫn cười mà. Em đã đọc truyện Tái ông thất mã chưa?

Khoa rút khăn, thấm nước mắt:

- Thưa anh, rồi ạ!

Luyến vui vẻ:

- Anh theo triết lý Tái ông thất mã. Mà, đứng ngoài lạnh lắm, vào trong nhà, anh em mình nói chuyện.

Luyến chống nạng đi trước, Khoa theo sau. Phòng khách của nhà Luyến, bây giờ, đơn sơ lắm. Mấy chiếc ghế đẩu cho khách, bàn xa lông đóng lấy để bầy ấm tích và chén uống nước. Luyến và Khoa cùng ngồi xuống.

- Bố anh đi làm ở Lục lộ. Pháp nó gọi thế. Cách mạng biến thành Sở cầu đường. Bảo Hoàng chuyển sang Ty công chính. Còn đổi nữa. Mình là dân, cứ để thời đại nó đổi thay mà theo thời đại. Tội gì nghĩ vẩn vơ cho mệt óc. Mẹ anh đi ăn giỗ ông ngoại. Chị Nhi theo chồng về Hưng Yên. Anh Lưu theo vợ sang Hải Phòng.

Luyến rót chén nước nóng mời Khoa:

- Uống cho ấm bụng, em.

Khoa hỏi:

- Còn anh Ái đâu?

Luyến đáp:

- Nó vào bộ đội, lâu lắm rồi không về.

Nhấp một ngụm nước trà nóng, Luyến nói:

- Nhà anh chia làm hai phe; Phe triệt để tích cực và phe thời cơ chủ nghĩa. Thằng Ái phe đầu. Anh và bố phe cuối. Thằng Ái tin bác Hồ Chí Minh như thánh sống, coi giai cấp vô sản như xứng đáng lãnh đạo dân tộc. Bố anh theo thời Bảo Đại, thời Pháp. Anh thì chỉ theo thời đại, mặc cho thời đại cuốn xoáy mình.

Khoa ngạc nhiên:

- Anh nói khác hẳn xưa.

Luyến cười:

- Anh khác hẳn xưa à? Cái cây còn biết lớn, hỏi chi con người. Ngày xưa còn bé của anh đã chết rồi, chết hẳn rồi. Năm năm cách mạng dạy ta nhiều thứ, khiến ta lớn khôn ra. Ngôn ngữ thay đổi, con người cũng đổi thay. Anh theo thời đại mà. Có gì lạ đâu? Em còn muốn bé nhỏ mãi, tốt thôi. Khó mà bé nhỏ mãi như ý ta mong muốn. Cuộc đời chia ra thành ba chu kỳ: Sinh, Lão. Tử. Ta bắt chước, chia cuộc đời làm ba giai đoạn: Ấu thơ, Thanh niên, Tuổi già. Có người bất hạnh không biết tuổi thơ của mình. Có người bất hạnh hơn, bị đốt cháy thuở thanh niên. Như anh chẳng hạn. Anh may mắn được làm tuổi thơ Monguillot, được làm Luyến mít sơ lanh. Dã đủ hạnh phúc rồi, em ạ! Người ta càng khôn ra, càng lớn lên, tâm hồn càng già nua, em nhỉ?

Khoa hối hận, khoanh tay lễ phép:

- Em xin lỗi anh.

Luyến xua tay:

- Can chi. À, sao lúc nãy em khóc?

- Em đau khổ với anh.

- Đau khổ vì anh mất chân phải à?

- Vâng.

- Đừng đau khổ. Anh không đau khổ mà. Nhờ mất chân mà gia đình anh về tề sớm nhất. Anh bị đạn trúng chân, nằn giẫy giụa trên sân. Ông đại úy nhẩy dù Pháp hỏi anh là ai, anh đáp là học sinh. Ông ta cho gia đình anh lên xe căm nhông vào thị xã, rồi chở anh đến Bệnh viện dã chiến của quân đội, cưa chân anh. Lành bệnh, họ cho anh đôi nạng gỗ, chở anh về nhà, và chúc anh cam đảm lên.

- Họ tốt nhỉ?

- Với anh, họ đầy tình người. Với những người khác, anh không biết. Họ đốt hết thị trấn Đống Năm, người ta xét đoán thế nào về họ?

- Họ chỉ làm theo cấp trên, Bộ tư lệnh tối cao của họ. Đống Năm, Trực Nội ăn no đạn đồng cơ mà.

- Em biết điều này lâu chưa?

- Mới đây, nghe anh bảo họ khuyên anh can đảm.

- Những người lính Pháp vừa qua Việt Nam, có thích viễn chinh, xâm lăng một nước nào. Pháp bị Đức đô hộ, họ vùng lên giải phóng nước họ. Người ta hân hoan niềm vui giải phóng muốn tắt thở. Họ lại đi xâm lăng một nước đã bị họ đô hộ, mới tự giải phóng, chẳng kịp sung sướng. Họ đóng vai phát xít Đức. Họ mâu thuẫn với họ. Họ bất mãn chính phủ họ. Biết làm sao? Là lính, họ cam đành tuân lệnh chính phủ của họ, đuổi theo một chính sách lỗi thời. Chúng ta chống Pháp là chống chính sách lỗi thời của tập đoàn thực dân Pháp. Lính Pháp vô tội. Lính Pháp ra trận mạc phải đánh nhau lấy thắng, không thắng thì chết. Và, chúng ta căm thù họ dã man, tàn bạo. Muốn sống lâu, sống có ngày về với vợ con, lính ở bất cứ nước nào cũng sợ chết. Lính cách mạng và lính xâm lăng đều giống nhau. Tổng thống Pháp có chết trận đâu? Thủ tướng Pháp có chết trận đâu? Tướng lãnh, sĩ quan, lính Pháp chết ở Việt Nam vô kể. Chủ tịch Hồ Chí Minh có chết trận đâu? Thủ tướng Phạm văm Đồng có chết trận đâu? Bộ đội ta đã phơi xương máu ngút ngàn. Các ông ấy đều mang cái anh hùng ra dụ lính giết nhau.

Ngưng một lát, Luyến tiếp:

- Để ý đến hiếp dâm, bắn giết dân chúng, đốt nhà cửa, ăn cướp gà vịt mỗi lần hành quân làm gì? Bọn lính da đem mọi rợ, bọn lính lê dương vô tổ quốc, tội ác đã kín người chúng. Thôi, anh không nói nữa.

Khoa van nài:

- Anh cứ nói cho em học.

Luyến lảng chuyện:

- Khoa ạ, còn bé hay khóc lắm, khóc cả những trận đá bóng thua An Tập. Lớn lên, phải tiết kiệm nước mắt, em nhé! Anh giờ, còn chút ít nước mắt thôi. Bố mẹ anh chết, anh không khóc đâu. Anh để dành khóc hai thằng bạn thân nhất trên đời là Vũ và Côn, nếu chúng nó bị cuộc đời xua đuổi. Còn thằng Vọng, anh khóc vì nó nữa.

Khoa rướn người lên:

- Anh Vọng chưa chết.

Luyên cuống quýt:

- Vọng còn sống, em gặp nó ở đâu?

Khoa sung sướng:

- Ở làng em, hồi tháng trước.

Khoa say sưa kể những tháng Vọng đóng quân ở làng Tường An. Nó không gặp Vọng sớm sủa nên để lòng nhớ tiếc bộ đội năm xưa cùng bài hát của họ, và ghét bộ đội mới với những ca khúc suy tôn Malenkov, Mao Trạch Đông. Nó và thằng bạn ra bãi tha ma làm đám tang cho Vệ quốc quân và chào mừng Quân đội nhân dân. Khi gặp Vọng rồi, Vọng giải thích cho Khoa những điều Khoa chưa biết, Khoa mới yên lòng.

Tháng ba, năm Ất Dậu, Vọng sắp chết đói được thầy Nguyễn Công Hoan cứu, đưa nó vào cách mạng, trước Luyến, Côn, Vũ mấy ngày đem cơm cứu đói tới nhà Vọng. Khoa nói ba người bạn thương Vọng nhất trên đời này là Vũ, Côn, Luyến. Vọng khóc.

Luyến cảm động:

- Thầy Hoan dẫn Vọng làm cách mạng đúng nhất. Nó cứ kháng chiến diệt Pháp, kẻ thù của giai cấp nó. Chúng ta không phê bình và vẫn yêu mến nó.

Khoa tròn đôi mắt:

- Anh Vọng thuộc giai cấp nào?

Luyến trả lời thẳng thắn:

- Giai cấp vô sản. Nhà Vọng nghèo, giá làm nông dân, Vọng sẽ là bần cố nông. Công nhân với nông dân hợp thành giai cấp vô sản. Công nhân Vọng nhiều ưu đãi hơn. Vọng cấp gì trong quân đội?

Khoa nói:

- Em quên hỏi, chỉ biết anh ấy là chính ủy trung đội, bí danh Kỳ Bá.

Luyến quả quyết:

- ít lâu nữa, chừng 32 tuổi, Vọng sẽ lên chính ủy sư đoàn.

Khoa bảo:

- Anh ấy phục Vệ quốc quân vô cùng, coi họ là lính tiểu tử sản lãng mạn cách mạng. Em nhớ anh ấy tâm sự với em: Còn anh, tim vẫn hé mở để lính tiểu tư sản đồn trú.

Luyến khen ngợi:

_ Vọng là người vô sản có tâm hồn. Em biết người cộng sản là người vô sản chứ?

Khoa lắc đầu. Và, tiếp tục:

- Anh ấy còn buồn bã: Một mai, em sẽ oán trách người này, bênh vực người nọ. Rồi, em sẽ ân hận, vì oán trách sai, bênh vực sai nốt. Con người này chống con người nọ không phải con người thích chống đối. Mà, hoàn cảnh nó dìu đi.

Luyến thở than:

- Trời ơi, thằng Vọng nó tiên tri thời đại. Nó tuyệt diệu, Vọng ghẻ tầu! Anh còn phải học nó, học người cộng sản có lòng như nó. Thầy anh dạy: Học hải, sự học như biển cả, biết đến khi nào mới tới đích. Cao Bá Quát nói: Trong thiên hạ có ba bồ chữ, ta chiếm hai bồ, anh ta bạn ta, Cao Bá Đạt Nguyễn Siêu, nửa bồ, còn nửa bồ phát cho thiên hạ. Cao Bá Quát đã hoàn toàn sai lầm. Trên đời, có những năm đại dương chứa đựng chữ nghĩa. Bao nhiêu bồ mới xuể? Hai bồ thì ít quá, tiểu học quá! Có lẽ, được sang Tân gia ba, Cao Bá Quát mới giật mình khi ở xó nhà, Văn chương chữ nghĩa khéo là trò chơi. Anh thì đang đi trên đất Thái Bình, phải học mọi người, học thằng Vọng, mới có thể tiến xa nổi.

Khoa thắc mắc:

- Ông thầy nào đó, thưa anh?

Luyến gật gù:

- Thầy Trúc, dân Hưng Yên, dạy anh Việt văn ở Đống Năm. Anh đã tiêm nhiễm tư tưởng của thầy. Thầy bảo: Nếu mình đủ tài năng tạo ra một thời đại, hãy sống chết với thời đại đó, đi tới cùng sự thất bại hay thành công. Còn không đủ tài năng, mình nên sống yên ổn theo thời đại. Thầy Trúc phê bình kháng chiến: Chẳng phải kháng chiến chống Pháp mới giành được độc lập. Để cho chu kỳ của thời đại nó xoay vần. Rất mau, thực dân và đế quốc sẽ tàn lụi. Mình vẫn độc lập huy hoàng, có tình nghĩa. Dân không chết, bộ đội không chết và thành phố khỏi bị tiêu thổ như Thái Bình. Người ta chủ trương kháng chiến vì quyền bính thống trị nó làm hoa mắt mình và chỉ muốn nó độc quyền về tay mình. Còn nói kháng chiến cho dân tộc, bánh vẽ mà thôi.

Luyến lại lảng chuyện:

- Cách mạng bỏ lớp nhì 2, Khoa học đến đâu rồi?

- Em nghỉ học gần một năm, chứ không, niên học này, đệ tam.

- Anh đỗ Trung học phổ thông năm ngoái. Bây giờ, anh rảnh rỗi lắm, định xin làm giáo viên. Em lại đây, anh dạy em Toán, Lý, Hoá, Pháp văn, Việt văn cho hết đệ tam. Sang năm, em học đệ tứ, khỏi lãng phí một năm bị nghỉ. Em thông minh thế, thừa sức học hết cả chương trình đệ tứ, từ nay tới ngày khai trường.

- Cám ơn anh.

- Đừng khách sáo. Lâu nay, nhà có nhận được tin tức gì của Vũ không?

- Thưa anh, không.

- Chả sao. Mỗi người có một cuộc đời. Sự lo nghĩ của mình không giúp ích người khác đâu. Anh chỉ biết cầu cho Vũ mạnh khỏe.

Luyến rót ly trà mới mời Khoa uống. Khoa nghe Luyến nói Luyến đã đốt mất tuổi thanh niên; thoạt đầu, Khoa tưởng Luyến bị què quặt đâm ra yếm thế nói vậy. Ngồi lâu với Luyến, Khoa mới rõ, sự hiểu biết làm con người già đi. Côn đã già đi. Vũ đã già đi. Như Vọng và Luyến. Khoa đã sống trọn vẹn tuổi ngọc trong nhi đồng hậu phương bình an. Đó là những tháng năm đẹp nhất, một đời chỉ có một lần. Nó giã từ hồn đào vội vàng và nhanh lẹ quá, cứ ngỡ hồn đào còn lởn vởn đâu đây. Khoa quên không truy lùng bước chân hôm nay. Nó đã lớn mà chẳng biết. Thực ra, 16 tuổi, Khoa đã bị đuổi khỏi thế giới hoa mộng. Năm nay, cách mạng đẩy mạnh ta tới đoạn không tính toán. Mỗi người hiểu cách mạng một lối. Buồn xuống thấp hay vui lên cao. Luyến thì không vui không buồn. Cái triết lý sống theo thời đại của Luyến thế mà hợp với chính trị bây giờ. Khoa thì vui nhiều buồn ít. Nó có ba người đang kháng chiến ngoài xa: Vũ, Vọng, Côn.

- Anh em mình đi dạo thị xã đi!

giavui
10-16-2015, 06:48 PM
3

Chẳng mấy đỗi, đã tới Giáng Sinh 1950. Thị xã đón mừng Chúa xuống trần gian cứu rỗi nhân loại long trọng lắm. Nhà theo đạo treo cờ Thiên Chúa giáo khắp các phố. Nhà ngoại đạo cắm cờ vàng ba sọc đỏ, theo lệnh của linh mục Nguyễn Văn Chỉnh. Đã ba năm nay, ít được nghe hồi chuông ấm áp tình người như muốn dìu trái tim đau khổ vào cõi thiên đàng cực lạc; ít được nghe tiếng kinh thổn thức linh hồn, cơ hồ trách móc chiến tranh gây nên bao cảnh đổ vỡ, chết chóc. Dân ngoại đạo giống dân nội đạo, cùng một ý nghĩ, tưởng mình gần Chúa. Thời loạn ly, con người không biết tin ai, đành tin ở Chúa, ở Phật, ở thánh thần. Tôn giáo làm con người tín ngưỡng nồng thắm. Nhiều lúc đến độ mê tín, dị đoan. Thì thôi, đành bỏ qua cho con người sống giữa thời chinh chiến. Chỉ còn nỗi đó mới bớt sầu thảm mà tin đời sẽ sáng lạn.

Thái Bình đã tiêu thổ trơ trụi, dân chúng hồi cư trên đống gạch ngói hoang tàn. Chúa thừa biết Thái Bình, một tỉnh lỵ oan nghiệt và không được cách mạng yêu thương. Dân thị xã đã khóc than đập phá nhà gạch ngói, tản cư, lại than khóc xây dựng nhà mái tranh, hồi cư. Hai hàng cây hồi phố chính, nơi bao nhiêu kỷ niệm leo lên, những ngọn dao thô bạo đã chặt ngã hết rồi. Thái Bình nhiều đau đớn vô cùng. Nhật chủ mưu cuộc chết đói lịch sử, năm Ất Dậu. Thái Bình giầu nhất miền Bắc, kho lúa của Liên khu 3, chết đói nhiều vào hạng nhất. Gần ba mươi vạn người. Con số chết bom nguyên tử, ở Hiroshima và Nagasaki, chưa bằng Thái Bình chết đói. Năm nào Mỹ cũng thả những vòng hoa ăn năn tội lỗi xuống an ủi kẻ chết. Nhật có nghĩ tới Thái Bình không nhỉ? Người cố tình không thèm hiểu người, thì Chúa hiểu người và thương người. Cho nên, năm nay, dân thị xã trông chờ ngày 24 tháng 12 hơn cả đại hạn trông mưa.

Hãy xem anh em nhà thằng Khoa ngoại đạo chuẩn bị đón Giáng Sinh. Khoa làm cái máng cỏ cho hai đứa em gái. Thoạt tiên, Khoa lấy miếng các tông tạo ra cái nền máng cỏ. Nó dán hai ba chiếc bìa mầu vào nhau, bóp nát, gắn lên miếng các tông. Thế là có nơi Chúa xuống trần gian, dơn giản hơn ở hang Bê lem. Nó cắt giấy trắng nhỏ như chỉ, giả vờ cỏ, rải đầy trong và ngoài hang lừa. Khoa đến chợ Vọng Cung mua tượng Chúa sơ sinh có Mẹ Maria và thánh Joseph đứng cạnh. Quanh máng cỏ, mấy chú mục tử chăn mấy con lừa và đàn cừu. Xa xa, ba ông vua Đông phương tới chúc mừng. Xong xuôi, anh em nhà thằng Khoa xúm nhau khen rối rít. Chúng nó hát bài Đêm đông tập từ tuần trước. Khoa đệm ác mô ni ca:

Đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời

Chúa sinh ra đời

nằm trong hang đá nơi máng lừa

Trong hang Bê lem

ánh sáng tỏa lan tưng bừng

Nghe trên không trung

tiếng hát thiên thần vang lừng

Đàn hát

Xướng ca

Đây Chúa thiên tòa giáng sinh vì ta

Người hỡi

Đến xem

Ôi Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn

Nửa đêm mừng Chúa giáng sinh ra chốn gian trần

Người đem ơn phước xuống cho muôn dân lầm than

Nơi hang Bê lem thiên thần xướng ca

Thiên Chúa vinh danh chúng dân an hòa

Ca khúc dứt, Khoa nói:

- Đêm nay, nghe bài này từ nhà thờ vọng lại mới cảm động. Của ông linh mục Hải Linh đấy. Ông ấy bảo Chúa giáng sinh khó khăn thấp hèn, còn bẩn thỉu hơn cái máng cỏ của anh em chúng mình.

Tú tiếc rẻ:

- Chỉ thiếu đèn nhấp nháy quanh máng cỏ.

Khoa vỗ vai em:

- Điện chẳng có, nói chi đèn! 1950 năm về trước, Chúa sinh ra trong máng cỏ ỏ Bê lem, nghèo nàn, bệ rạc, không có lấy một ngọn đèn dầu. Bây giờ, người ta chế ra những cái máng cỏ sang trọng, đèn nhấp nháy thật tinh vi, máng cỏ giấy bạc, tượng Chúa tuyệt đẹp... Anh nghĩ rằng, Chúa không vào nơi sang trọng đâu, Chúa chỉ vào những nơi nghèo hèn. Như mang cỏ của anh em mình.

Mai hỏi:

- Anh có chắc Chúa đến nhà mình không?

Khoa gật đầu:

- Chắc chứ.

Tú đề nghị:

- Thế thì anh đừng thắp đèn trong máng cỏ nữa.

Khoa lắc tay:

- Không, anh phải thắp đĩa dầu lạc bé nhỏ. Ngọn bấc sẽ cháy thiêng liêng lắm đây. Chúa vui, thấy nhà người ngoại đạo đón mừng Chúa. Và, Chúa sẽ nhìn rõ làng Tường An, thị xã Thái Bình, tỉnh lỵ Thái Bình chìm lấp trong chiến tranh, tiêu thổ kháng chiến nheo nhóc đến dường nào. Chúa sẽ nhìn ra anh Vũ, anh Côn, anh Vọng đang rét mướt ngoài chiến trường, cầm súng đuổi thực dân...

Tú và Mai ngồi im nghe Khoa nói, mắt đầy ngấn lệ. Như thánh Matthieu kể tích Chúa đọc Bài giảng trên Núi, Khoa cũng kể tích Chúa yêu trẻ thơ, anh Luyến đã nói với nó.

- Hãy để trẻ thơ đến cùng ta, vì nước Thiên Đàng gồm những người như thế. Chúa dạy: Nước Thiên Đàng, nước của Chúa, toàn những tuổi thơ và những người lớn tâm hồn còn trong vắt như tuổi thơ. Những người không tươi sáng, giản dị, đôn hậu và thừa tình yêu thương không được lên nước Thiên Đàng. Chúa dạy; Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu được vào nước trên Trời. Vậy thì, những người lớn độc ác, gian dối chỉ được sống ở trần gian, chờ chết, xuống Địa Ngục đền tội với Satan. Chúa giáng sinh để cứu rỗi loài người sống trong chiến tranh khổ quá, đâm ra độc ác, gian dối để được sung sướng. Chúa dạy: Hãy vào ngõ hẹp, vì ngõ rộng và đường lớn dẫn đến sự hư nát, kẻ vào đó thì nhiều. Song ngõ hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, kẻ tìm được thì ít. Những người độc ác, gian dối, háo danh lợi, địa vị, bổng lộc đều đi trên con đường rộng thênh thang...

Khoa không hiểu đã nói những gì, em nó cứ lắng tai nghe. Khoa cười, sung sướng.

- Anh đã nói gì thế?

Em nó trả lời:

- Đọc kinh Chúa!

Khoa bối rối:

- Đọc Thánh Kinh à? Anh có đi đạo bao giờ đâu? Có em nào còn nhớ và hiểu gì không?

Mai ngây thơ:

- Chẳng nhớ nổi câu nào, chẳng hiểu ý nghĩa ra sao!

Khao vờ vẫn:

- À, hôm nay nhằm ngày Giáng Sinh, Chúa cảm động thấy anh làm cái máng cỏ, ban ân sủng cho anh được giảng lời Chúa với các em đấy mà!

Nó rẽ nhanh sang chuyện Giáng Sinh:

- Anh Luyến đọc sách nhiều lắm. Anh ấy nói với anh, chỉ có hai chữ Giáng Sinh tả cảnh Chúa xuống trần gian cứu rỗi loài người mới tuyệt hay, các em ạ! Người Pháp thì Noel, bánh cũng Noel, cây cũng Noel, ông già cũng Noel. Người Anh thì Christmas. Noel và Christmas là cái gì? Giáng Sinh là nhất. Tối nay, anh và anh Luyến đi xem lễ ở nhà thờ.

Vừa khi ấy, cha mẹ anh em thằng Khoa đi cầu Kiến Xương thăm người bạn mới hồi cư về đến nhà. Mai khoe cha mẹ cái máng cỏ anh Khoa mới làm xong.

- Đẹp không, bố mẹ?

Mẹ bĩu môi:

- Ngoài chợ người ta bán thiếu gì máng cỏ! Đẹp ơi là đẹp. Sao không mua một cái, đỡ mất thì giờ và tốn tiền?

Khoa cãi:

- Cái máng cỏ của chúng con làm ra khác hẳn máng cỏ của người ta, khác hẳn máng cỏ bán ngoài chợ. Tuy nó không đẹp, nhưng Giáng Sinh là ngày thiêng liêng, chúng con làm máng cỏ chào mừng Chúa ra đời bằng hết tâm hồn chúng con, mẹ lại chê bai!

Từ hôm Khoa đi học Luyến, cha nó biết Khoa đã tiến nhanh. Nó ăn nói chững chạc và có chiều sâu. Cha nó vội vàng:

- Xin lỗi con, mẹ thương con vất vả nên nói thế. Đúng, các con làm cái máng cỏ bằng cả tấm lòng. Chúa sẽ ban phúc cho các con, cho bố mẹ, cho anh Vũ của các con.

Khoa không nói năng gì, một mình ra ngoài cửa hóng gió lạnh cuối đông. Nó đã đến nghĩa địa, định chặt một cành thông đem về gắn sao và rắc bông làm tuyết, kê sát máng cỏ. Hơi muộn, người ta đã lấy hết cành thông. Khoa chỉ muốn làm vui lòng các em thôi. Nó vào nhà, sửa soạn ăn cơm chiều.

Đến bảy giờ tối, Khoa tới nhà Luyến, rủ Luyến đi xem lễ. Vẫn limh mục Nguyễn Văn Chỉnh giảng bài Giáng Sinh. Hôm kia, linh mục Chỉnh bắt dân đạo thị xã rước kiệu Chúa và Đức Mẹ, tạ ơn Chúa, tổ chức mấy tuần trước. Linh mục Chỉnh muốn làm gì thì làm. Quyền uy của llnh mục hơn cả Chúa. Cảnh rước kiệu quanh vài con phố, người ta không bằng lòng câu viết trên băng đờ rôn: Nguyện dâng nước Việt Nam cho Chúa. Nhưng, người ta im lặng. Chả một khẩu hiệu nào khuyên chấm dứt chiến tranh. linh mục Chỉnh hân hoan ra mặt, cho rằng, lễ tạ ơn Chúa Giáng Sinh đã thành công.

Thị xã giới nghiêm bắt đầu từ 11 giờ 30 đêm. Nhà thờ phải giảng lễ lúc 8 giờ và chấm dứt lúc 10 giờ. Để giáo dân còn về ăn rê vây ông. Buổi tối, ngày Giáng Sinh, trời lạnh và không trăng sao, thiếu đèn điện soi phố nên buồn lắm. Lính Pháp ở nguyên trong đồn. Lính pác ti dăng Hổ Xám và lính Bảo Chính cũng vậy. Đúng 8 giờ, Khoa và Luyến có mặt trong nhà thờ. Người nội đạo và người ngoại đạo đến chật ních cả cửa giáo đường. Nhà thờ gần hành dinh của Pháp, được Pháp cho câu điện ngày Giáng Sinh sáng choang, rực rỡ. Linh mục Chỉnh mặc quần áo, đội mũ như Giám mục, bệ vệ, hớn hở. Trên đầu linh mục Chỉnh, Chúa bị đóng đinh, khuôn mặt sầu thảm nhìn khắp mọi người, thấu tận tim.

- Mình về thôi, đủ rồi, Khoa ạ!

Luyến chống nạng tách đám đông.

- Linh mục Chỉnh chưa giảng mà?

Luyến vẫn thong thả bước ra bên ngoài. Khoa theo sau.

- Anh ngắm mặt mũi linh mục Chỉnh một tí, thế là xong rồi.

Trên đường về, Luyến hỏi Khoa:

- Em có biết người nào buồn nhất nhân loại không?

- Không, anh ạ!

- Chúa đấy, Chúa Giê xu đấy. Người đã buồn, buồn cho đến chết. Thế mà, người ta lại vui vẻ, trong khi nỗi buồn của Người mãi không nguôi. Hình như người ta lợi dụng nỗi buồn của Chúa để vui vẻ, làm những việc trái ý Chúa. Cứ xem linh mục Chỉnh hớn hở, rõ ngay tâm địa của ông ấy. Bài giảng đêm Giáng Sinh thế nào chả có tiêu diệt cộng sản!

- Vâng, em hiểu.

- Thời Pháp đô hộ chúng ta, dân nô lệ thả cửa gọi linh mục là cố đạo. Nay, chế độ Bảo Hoàng độc lập, tự do, dân chủ, chúng ta phải gọi cố đạo là linh mục hay cha. Ai gọi cố đạo Chỉnh, ông ta bắt liền! Em nên thận trọng cách ăn nói, nghe chưa?

- Vâng.

- Anh thích nhất một bài ca Giáng Sinh, tiếng Anh. Học hết cuốn L'Anglais vivant 6è bleu, thừa sức hiểu nghĩa bài hát. Ca khúc này, do một mục sư Đức sáng tác. Chắc ông đã gặp Chúa trong đêm thánh vô cùng. Anh hát Silent night cho em nghe, nhé! Anh em mình mừng lễ Giáng Sinh.

Tiếng lọc cọc của nạng gỗ trong đêm yên lặng, Luyến vừa đi vừa hát:

Silent night, holy night

All is calm, all is bright

'Round you Virgin Mother and Child!

Holy Infant,

so tender and mild,

Sleep in heavenly peace,

sleep in heavenly

peace!

Khoa đưa tay áo, thấm nước mắt.

- Về nhà em ăn rê vây ông miến gà. Mẹ em đã nấu, bảo đảm ngon, dặn em cố mời anh.

Luyến không từ chối. Nó chống nạng đi theo Khoa...

giavui
10-16-2015, 06:48 PM
4

Giáng Sinh 1950 vừa qua, Tết Dương Lịch 1951 đã tới. Phố chính đóng cửa kín mít. Người ta sợ lính Pháp uống rượu say sưa mừng năm mới, ra khỏi trại phá cửa, phá nhà. Hú vía, chả xẩy ra chuyện gì. Thái Bình thiếu tòa án, dân chúng nhường nhịn nhau, khỏi đưa nhau sang Nam Định thuê luật sư và kiện nhau. Thái Bình không còn nhà lao nữa. Cách mạng tiêu thổ kháng chiến rồi. Bảo Hoàng lười xây cất hỏa lò nhốt người tội, thành thử chẳng ai làm điều tội để nằm hỏa lò. Những việc lặt vặt, cảnh sát lo giải quyết. Bây giờ, cảnh sát đồn trù sát cạnh Vọng Cung.

Riêng công an Bảo Hoàng là đáng kinh hãi. Nhiều nhân viên thuộc đảng Đại Việt, đảng Việt Nam Quốc dân. Họ làm việc ở giữa hiệu thuốc lào Vĩnh Thái và hiệu sách Học Hải, phố Lê Lợi. Đằng sau ty công an, một phòng tra tấn hãi hùng, ngày nào cũng xẩy ra. Công an bắt được Việt Minh, đàn ông hay đàn bà, họ đều tra khảo đủ mọi đòn thù ghê tởm. Những người bị công an dồn nỗi thống khổ quyết liệt trên thân thể yếu sức quá, chết vội vàng. Công an chôn vùi ở đâu, không ai biết. Đằng trước ty công an, một phòng cấp sổ gia đình, thẻ căn cước và giấy di chuyển các thành phố miền Bắc. Người ta không muốn nhắc hai tiếng công an. Vì, công an Bảo Hoàng tàn ác vô cùng.

Mặt trận bên kia sông Trà Lý mỗi ngày một nặng. Pháp tới tấp về! Quỳnh Côi, Phụ Dực, Duyên Hà, Thụy Anh bốn nơi hệ trọng nhất. Bên đây sông Trà Lý, vắng lặng. Những huyện Thư Trì, Vũ Tiên, Kiến Xương, Tiền Hải, mới đầu, Pháp đóng. Sau dần, Pháp để cho pác ti dăng đóng. Tình hình tốt đẹp. Có thể nói, bốn phủ huyện, bên đây sông Trà Lý, quy hàng Pháp hết. Cách mạng lợi dụng Pháp quá chủ quan, lấy những nơi ở Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải, Kiến Xương làm chỗ dưỡng quân, nuôi quân, tuyển quân khi bị đánh nát nhầu ở bên kia sông Trà Lý. Thực ra, cách mạng thừa hiểu mình chưa đủ sức chống Pháp ở bên đây sông. Pháp từ sông Trà Lý quay mặt lại, từ sông Hồng phóng sang; cách mạng nằm trong ổ, chờ Pháp móc ra. Ấy là chưa kể tầu Pháp cho quân đổ bộ ở các bãi biển Bồng Tiên, Bồng Lai và Đồng Châu. Bốn huyện bên đây sông Trà Lý nguy kịch. Tháng 5, 1950, Pháp đã nhẩy dù xuống Lạc Đạo rồi biến nhanh sang bên ấy một trung đoàn. Trận tuyến chưa giải quyết nổi. Phụ Dực là bãi chiến trường đẫm máu. Cách mạng chết nhiều và Pháp chết nhiều. Có những hôm, trực thăng đáp ở sân vận động thị xã, chở lính Pháp bị thương nặng qua Nam Định, một giờ một lần. Bây giờ, Pháp lại tăng cường số quân bên kia sông.

Không đủ lính, Pháp cho pác ti dăng đóng nhiều nơi. Lính pác ti dăng quân đội Pháp tuyển dụng như lính khố đỏ trước 1945, cần thiết có sĩ quan Bảo Hoàng chỉ huy họ.

Lính khố đỏ, ngày xưa, lên lon tới trung sĩ, thượng sĩ, quân đội Pháp gửi họ về nước Pháp, đặc cách cho họ theo học các trường sĩ quan Saumure, Saint Cyr. Rồi, chở họ hồi hương. Phần đông, người miền Nam và Trung. Đầu 1951, Thái Bình đã có sĩ quan cấp úy pác ti dăng. Lính pác ti dăng chết đâu, mộ đó. Nhiều lính pác ti dăng Thái Bình rồi.

Đó là những tin buồn của Pháp và Bảo Hoàng. Tin vui của dân thị xã sau đây: Hãng xe Con Voi của ông Lê Văn Định sẽ khai lộ vào ngày mồng 6 tháng 1 năm 1951. Xe Con Voi chạy đường số 10, Thái Bình-Nam Định-Hà Nội, và ngược lại, Hà nội-Nam Định-Thái Bình. Mỗi ngày một chuyến. Xe hàng của ông Lê Văn Định đã là Con Voi, dân thị xã vẫn gọi là xe Con Voi. Có lẽ, Con Voi là niềm an ủi của dân thị xã. Con Voi chở con người đi vô sự, về bình yên. Con Voi không biết tra tấn con ngưòi đến chết. Với dân thị xã, Con Voi sẽ phục vụ rất nhiều. Hai điều hữu ích nhất: Con Voi mang nhật báo xuất bản ở Hà Nội về Thái Bình và chuyển thư của bưu điện lên Hà Nội nhanh lắm. Tin vui của dân thị xã nữa: Trung học công lập Nguyễn Công Trứ sẽ khai giảng 15-9, năm nay. Trường mới chỉ dạy hai lớp đệ thất và đệ lục. Rồi, ngày vun vút qua, xe Con Voi đã chạy và đem bốn gói báo về: Giang Sơn của Hoàng Cơ Bình, Tin Sáng của Ngô Vân, Dân Chủ của Vũ Ngọc Các, Liên Hiệp của Văn Tuyên.

Khoa sung sướng đến hiệu sách Đông A mua cả bốn tờ nhật báo đem về nhà Luyến.

- Anh đọc báo chưa?

- Chưa, báo mới vể, hả?

- Vâng.

- Ba năm chưa đọc báo.

- Báo chậm mất một ngày. Xe Con Voi về chập tối hôm qua.

- Đọc đi.

Một tiếng đồng hồ, Luyến đã đọc xong bốn tờ báo. Báo nào tin tức cũng giống nhau. Trang 4, leo bài trang 1, và toàn các rạp xi nê ma giới thiệu phim đang chiếu ở Đại Nam, ở Long Biên, ở Eden, ở Majectic... Trang 3 và 4, một cái phơi ơ tông truyện kháng chiến hay truyện lịch sử, một bài thơ hài hước, hai ba bài sưu khảo văn học, tử vi và quảng cáo. Trang 1, tin tức quốc tế, tin thiên hạ chửi nhau, tin lạ bốn phương... Không có tin chiến sự. Báo đăng Thông cáo của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp. Báo chí không có phóng sự chiến trường. Thời luận và phim hàng ngày nhạt nhẽo. Xã luận viết vu vơ. Báo chí không dám phê bình việc sai lầm của chính phủ Bảo Hoàng và Pháp. Thời chiến, báo chí bị kiểm duyệt khéo léo chăng? Dẫu sao, có báo để đọc là vui rồi.

Một tin loan cùng một lượt trên bốn tờ báo, khiến Luyến phải suy nghĩ: Động viên sinh viên, học sinh vào Trường Sĩ Quan Nam Định. học sinh rớt trung học phổ thông, rớt tú tài 1, rớt tú tài 2, nằm trong sắc lệnh động viên. Sinh viên rớt năm thứ hai, năm thứ ba... cũng nằm trong sắc lệnh động viên. Tú tài 2 thôi học, làm công chức hay tư chức, càng động viên thật gấp. Chỉ có học mãi, học không thi rớt mới, may mắn, thoát khỏi động viên, hôm nay. Rồi, sẽ bị động viên, nhưng ngày mai cơ. Ngày mai, có thể, cuộc chiến ở Việt Nam thôi súng đạn.

Người Pháp chiếm Nam Định, đặt trường sĩ quan ở đó, chắc đã tin tưởng rằng, Nam Định an ninh hoàn toàn, Nam Định đã quy thuận Pháp. Nam Định là một trong bốn thành phố lớn nhất miền Bắc. Có ngân hàng Đông Dương, có tòa án, có nhà tù đáng sợ, có nhà hát, có sân khấu diễn kịch, có nhiều rạp cinéma,và nhà triển lãn tranh ảnh, có bãi sông trên bến dưới tầu bè... Nam định, phần nào thoát cảnh tiêu thổ kháng chiến, còn dinh thự, nhà cửa khang trang. Nam Định 1950 giống Nam định 1945. Nó vẫn là thành phố thơ mộng của đồng bằng, như Hà nội, Hải Phòng và Hải Dương. Nay, lại thêm trường sĩ quan của người Bắc. Lần đầu tiên, trong lịch sử Nan Định, trong lịch sử Việt Nam. Cách mạng đã thấm nỗi đau lòng, đứng bên kia sông Hồng, nhìn với sang bên đây, thấy Nam Định thay đổi mầu sắc. Mổi thành phố tạm chiếm, mỗi khởi sắc vươn lên, là mỗi buồn phiền của cách mạng.

Người Pháp nhất định ở lại Việt Nam rồi. Họ đã nghĩ tới tương lai quân đội của bản xứ. Pháp muốn người sĩ quan phải có học, phải trí thức một chút. Họ ngậm ngùi cho những anh lính khố đỏ lên hàng sĩ quan. Người Pháp thật tốt, quân đội Pháp thật tốt trong ý nghĩ đào tạo sĩ quan Bảo Hoàng. Thời đại đã đổi thay, Pháp cũng thay đổi theo chiều thuận. Tạm thời, Pháp dùng sĩ quan Việt Nam do họ huấn luyện để chỉ huy lính pác ti dăng do họ tuyển mộ. Khi Thái Bình quy thuận Pháp như Nam Định, tất cả thành phố, tỉnh lỵ đồng bằng trung du, Pháp đã chinh phục xong xuôi. Cách mạng sẽ bơ vơ miền thượng du. Pháp sẽ có những Bảo Hoàng Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải dẹp tan cách mạng như dẹp tan cần vương Phan Đình Phùng, Trần Cao Vân, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám... Pháp phải đè bẹp cách mạng Thái Bình.

Ông Hồ Chí Minh đã tiên tri: Pháp về Thái Bình là có thái bình. Thái bình ở chiến thắng của cách mang, ở chiến bại của Pháp. Ai sẽ chiến thắng, chiến bại? Hãy nhìn sang bên kia sông Trà Lý, quan sát trận tuyến Phụ Dực, Quỳnh Côi, Duyên Hà, Thụy Anh, và chờ đợi.

- Khoa ơi, em đọc tin động viên chưa?

- Thưa anh, rồi ạ!

- Thấy sao?

- Em sẽ cố gắng hết sức em, học để thi đỗ mãi mãi, kéo dài ngày động viên ra.

- Nếu em rớt tú tài 1?

- Số phận, em không chống lại được.

- Em trốn ra ngoài hậu phươ8g kháng chến hay ở lại chịu động viên đánh kháng chiến?

- Đến khi chuyện xẩy tới em, em sẽ quyết định.

- Hay lắm. Đồng tiền chưa ra khỏi túi, biết nhặt hay không nhặt. Bây giờ, em đã buồn rồi. Phải tập suy nghĩ, em ạ! Có thời đại nào khốn khó như thời đại này? Cái học bị chiến tranh ám ảnh cái động viên. Người ta phải cầm súng bắn giết anh em ruột thịt của mình. Khoa sẽ động viên bắn giết Vũ. Vũ sẽ kháng chiến bắn giết Khoa. Không thù hận, rất thương yêu nhau. Tại sao, tại sao?

- Thôi anh, mình còn thời gian lo liệu mà...

- Thiên hạ thì sao?

- Ngoài tầm tay của mình. Năm ngoái, em đã bất bình bộ đội tiểu tư sản bị gạt ra kháng chiến một cách phũ phàng. Năm nay, sống bên anh, học hỏi anh, em thấy thời đại nó xoay vần đúng như anh nói, bất bình chẳng ích lợi chi. Em, mơ hồ, cảm giác anh Vọng đã nói với em điều gì có liên quan tới tương lai. Tương lai, em không cần biết tương lai và chẳng một ai biết tương lai. Em bằng lòng hiện tại, dù hiện tại ngọt bùi hay chua chát. Anh ạ, em dần dần mất hết tuổi thanh niên. Chiến tranh tàn nhẫn thật! Em mới chỉ đứng ở thị xã ngắm chiến tranh, chứ chưa tham dự chiến tranh. Mà đã xót xa.

- Anh hài lòng cái chân cụt của anh! Không chính phủ nào bắt anh đi lính được. Cái tội của anh là ưa suy nghĩ. Suy nghĩ về thiên hạ hơn về mình. Em nói đúng lắm, những nỗi khổ ngoài tầm tay mình, khó với tới. Em ạ...

- Gì anh?

- Anh Tái ông thất mã lần thứ hai.

- Nghĩa là...

- ... anh què nên khỏi bị động viên, khỏi biết Trường Sĩ Quan Nam Định.

- Anh Côn học trường Sĩ Quan Trần Quốc Tuấn.

- Trần Quốc Tuấn và Nam Định sẽ bắn nhau, nếu anh không mất một chân.

- Thời đại đẻ ra nhiều nghịch cảnh quá.

- Ừ. Mà mình vẫn theo thời đại. Để sống.

- Dù ở đâu?

- Phải, dù ở đâu.

Luyến xếp những tờ báo lại, lấy sách ra dạy Khoa. Câu chuyện sầu thảm của dân thị xã tạm ngừng.

giavui
10-16-2015, 06:49 PM
5

Lính Lạc Đạo của linh Mục Nguyễn Văn Chỉnh đêm nào cũng hành quân ở An Tập. Họ tác yêu tác quái, không coi ai ra gì. Những gia đình có chồng con, anh em theo kháng chiến, vào bộ đội, họ đều kê họng súng vào cổ, tra vấn quái đản, nói năng xách mé. Nhiều người bị báng súng giáng xuống thân thể. Họ còn tịch thu đồ đạc của dân, bảo làm chứng cớ. Lính Lạc Đạo gọi đó là những cuộc hành quân tiễu trừ cộng sản. Thực ra, họ đi càn quét hôi đồ.

Chính quyền Bảo Hoàng muốn làm sáng chính nghĩa quốc gia, cứ ngó ngơ chuyện này. Pháp cũng thế. Họ chỉ bắn nhau với kẻ thù ngoài trận địa, để chính trị cho Bảo Hoàng thao túng thị xã.

Một đạo quân do Pháp cung cấp đầy đủ súng đạn ra đời, không cần đến chính sách, sắc luật, sắc lệnh của Bảo Hoàng; không thèm biết luật pháp, tòa án của Bảo Hoàng, luôn luôn, xử tội đám giặc cỏ và bắt chúng nó xử tử, tù đầy, thú nhận tội ác chúng nó gây ra. Quận trưởng Vũ Tiên đành bó tay. Lính Lạc Đạo đã đâm sau lưng Bảo Hoàng và Pháp những nhát dao chí mạng. Dân chúng ngoại đạo, xưa nay, vẫn quý mến dân chúng nội đạo. Linh mục Nguyễn Văn Chỉnh và Lạc Đạo đã tạo nên cảnh chia rẽ tôn giáo trầm trọng ở những làng lân cận Vũ Tiên.

Ngoài thị xã, dân chúng đã khổ vì lính Bảo Chính, lính Lạc Đạo. Trong thị xã, dân chúng khổ hơn; Nguyễn Văn Chỉnh, linh mục chính tòa, Vương Văn Chừ, đại úy Bảo Chính, Trần Ngự Chiêu, trưởng ty công an... Mỗi vị là một sợ hãi lớn dần. Hôm nay, tháng 4, trời ấm áp, dân thị xã bắt đầu lo ngay ngáy: lính Bùi Chu - Phát Diệm của linh mục hoàng Quỳnh đã sang Thái Bình.

Bùi Chu - Phát Diệm là vùng đất tự trị. Lính của linh mục Hoàng Quỳnh sao không đồn trú khu tự trị, giữ gìn an ninh, trông chừng giặc giã, lại kéo nhau sang Thái Bình làm gì? Chắc bên kia sông Trà Lý nổ lớn, thiếu quân án ngữ, Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp phải thuê lính Bùi Chu - Phát Diệm sang đây đánh mướn? Những chiếc xe căm nhông chở lính Bùi Chu - Phát Diệm, từ Nam Định qua phà Tân Đệ, vào thị xã. Đến ngã tư Vũ Tiên, xe chạy từ từ để lính Bùi Chu - Phát Diệm ngắm cảnh Thái Bình tiêu thổ kháng chiến. Dân chúng phố chính ra tận vỉa hè xem.

Khoa và Luyến cũng ra xem đạo nghĩa binh Bùi Chu - Phát Diệm. Họ mặc quần áo như lính Pháp xông trận, chân đi giầy xăng đá, đầu đội mũ cao bồi, bẻ một nửa vành làm duyên. Lon lá của họ khác với lon lá Bảo Chính Đoàn. Khuôn mặt họ đặc sệt chất Bùi Chu - Phát Diệm, giấu cách nào chả nổi. lính Bùi Chu - Phát Diệm đứng lên, quay mặt hai bên thành căm nhông, vẫy tay lia lịa, cười rất tươi. Dân thị xã cười lớn hơn, cười chế nhạo lính Bùi Chu - Phát Diệm, họ không hiểu.

- Hoan hô lính Buôi Chu - Phát Riệm!

Một người chào mừng họ bằng chính giọng họ phát âm. Trên xe, lính Bùi Chu - Phát Diệm móc thuốc là Gauloises Pháp mới phát cho, ném xuống, y hệt thuốc lá Tây quăng.

- Đừng để Việt Minh bắn tan xác. Các anh về với em nhé, Phát Riệm - Buôi Chu!

Một cô gái khôi hài đen. Chỉ khoáai lính đánh thuê Bùi Chu - Phát Diệm chết hết.

Người này:

- Phát Riệm cương quyết không đánh thuê!

Người nọ:

- Tiền nhiều hãy đánh thuê nghe, Buôi Chu!

Đoàn xe căm nhông đi hết. Nó rẽ vào giáo đường. lính Bùi Chu - Phát Diệm sẽ đóng quân chung quanh nhà thờ thị xã. Linh mục Nguyễn Văn Chỉnh sẽ hài lòng ghê. Dân chúng tản mạn về nhà. Họ bàn tán về lính Bùi Chu - Phát Diệm.

- Chẳng hiểu lính Bùi Chu - Phát Diệm có hỗn láo như lính Lạc Đạo không?

- Chúng nó như nhau.

- Cố đạo Hoàng Quỳnh cũng là cố đạo Nguyễn Văn Chỉnh.

- Cố đạo Nguyễn Văn Chỉnh ra cái thớ gì.

- Đúng. Cố đạo Nguyễn Văn Chỉnh xách dép cho cố đạo Hoàng Quỳnh không đáng.

- Chúng nó là kiêu binh Bùi Chu - Phát Diệm đấy.

- Như kiêu binh thời chúa Trịnh, hả?

- Sợ còn hơn.

- Kiêu binh thời chúa Trịnh toàn dân Nghệ An. Kiêu binh Bùi Chu - Phát Diệm toàn dân Ninh Bình.

- Kiêu binh mà đi đánh thuê?

- Đánh thuê nộp tiền cho cố đạo Hoàng Quỳnh.

- Pháp nó nghĩ gì về lính Bùi Chu - Phát Diệm đánh thuê cho nó?

- Dùng có lợi thì cứ dùng. Chứ Pháp nó khinh ra mặt!

Dân thị xã lạ lắm. Những người chung một dòng máu Thái Bình, khi bị úc hiếp, cam đành chịu ức hiếp. Sự ức hiếp đến mức nào ngừng lại, dân thị xã không bao giờ chống đối. Sự ức hiếp quá độ, sẽ bị chống đối theo từng giai đoạn. Dân thị xã về tề, đương nhiên quy thuận Pháp rồi, theo Pháp chống cách mạng thì chưa. Họ trung lập giữa Pháp và cách mạng, nghiêng cảm tình về cách mạng. Dân thị xã coi Bảo Hoàng bằng nửa con mắt. Chính phủ Bảo Hoàng bù nhìn rõ rệt. Dân chúng trọng chữ tín vô cùng. Người lớn đã nói, phải trung thành với lời nói, dân mới theo. Bảo Đại tuyên bố: Thà làm công dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ. Lời nói chưa kịp nuốt nước bọt, Bảo Đại đã làm quốc trưởng một nước nô lệ rồi. Cái chính nghĩa quốc gia không đời nào sáng tỏ nổi. Pháp chia sẻ quyền bính nát bấy. Và, phi luật pháp. Lính Lạc Đạo do Pháp ở Thái Bình nâng đỡ và dung túng. lính Bùi Chu - Phát Diệm được gọi sang đánh thuê. Dân thị xã mất niềm tin vào Pháp.

Giá như Bảo chính đoàn, Pác ti dăng, Phật giáo hay Thiên Chúa giáo đánh phá cách mạng, chẳng ai nói gì. Đằng này lính Lạc Đạo và Bùi Chu - Phát Diệm toàn những người đi đạo, đánh phá cách mạng, đánh phá luôn dân chúng đi đời sống trong vùng tề. Hỏi sao dân chúng không chịu nổi? Sự ức hiếp đã dài quá một năm, lính Lạc Đạo chưa thay đổi cung cách sống. Tự mấy trăm năm, ngày các linh mục Tây ban nha, Bồ đào nha, Pháp... sang nước ta truyền giáo, đạo Thiên Chúa sáng rực bầu trời Việt Nam, ngang hàng cùng đạo Khổng-Mạnh, đạo Lão, đạo Phật. Các vua u tối nhà Nguyễn đã sát đạo Thiên Chúa một cách dã man, tàn bạo. Đạo thầm lặng đã thắng vua hung bạo. Đạo Thiên Chúa có võ trang chống triều đình đâu? Người ta theo cái đức bác ái, vị tha của Chúa Giê xu mà thờ phụng Ngài. Hãy tìm kiếm trong tiếu lâm, ca dao xem có truyên, có câu thơ nào châm biếm, mỉa mai đạo Thiên Chúa? Ca dao đã chết từ trăm năm nay, nhưng mấy trăm năm về trước, ngay cả khi đạo Thiên Chúa gặp nạn, cảm hứng nào đã bắt thi sĩ ca dao lặng thinh trước Chúa? Không thể riêng đi đạo mới tôn vinh Chúa, đi đời còn tôn vinh Chúa nhiều hơn. Một đêm Giáng Sinh của người đi đời nồng thắm gấp bội 365 ngày của người đi đạo cầu nguyện. Người ta vẫn vui vẻ sống chung, chẳng hề chia rẽ tôn giáo.

Linh mục Nguyễn Văn Chỉnh và linh mục Hoàng Quỳnh không học lịch sử. Càng không học Thiên Chúa giáo sử ở Việt Nam. Các ông mới võ trang người công giáo thành những kiêu binh trong đạo quân Lạc Đạo và Bùi Chu - Phát Diêm, và xúi giết cách mạng, trong khi cách mạng không tàn sát, không thể tàn sát người công giáo như Minh Mạng.

Chuyện lính Bùi Chu - Phát Diệm dân thị xã nói chưa hết. Thì lại một tin mới: Mỹ qua Thái Bình. Buồn đi vui tới. Tấp nập. Mỹ chưa sang Thái Bình, chỉ nhân viên Việt Nam làm ở cơ quan viện trợ Mỹ đến thị xã thôi. Những người này đem chiếc xe mới toanh, láng bóng, sơn trắng y như xe của ty thông tin về thị xã, làm phương tiện lưu thông. Xe kín mít, hai bên viết chữ VIỆN TRỢ Mỹ, dưới vẽ hình hay bàn tay nắm chặt lấy nhau trên cờ sao sọc. Hai bàn tay thẳng hàng. Bàn tay nắm to hơn và mạnh hơn bàn tay bị nắm. Chắc bàn tay nắm là Mỹ, bàn tay bị nắm là nước nhận viện trợ. Cái bàn tay của chính phủ Mỹ đã kiêu ngạo và phách lối rồi! Không hiểu người Mỹ có phách lối và kiêu ngạo? Người Mỹ còn ở Sàigòn, Hà Nội, chưa thèm về Thái Bình đâu.

Xe viện Trợ Mỹ chạy khắp phố thị xã, oang oang phát thanh tại những chỗ dừng lại. Người ta nói: Mỹ giầu có và nhân đạo, viện trợ cho cả thế giới, cả Pháp và Đức, cả Ý và Nhật... Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam đủ thứ. Bây giờ, Mỹ viện trợ Thái Bình thực phẩm và thuốc DDT diệt trừ muỗi. Ngày mai, Mỹ sẽ viện trợ dân thị xã sữa bột, phó mát, vải vóc và DDT. Đồng bào chú ý. Mi cô của Mỹ tối tân, hô pác lơ của Mỹ vô địch, tiếng nói đâm vào lòng dân thị xã. Tuyên truyền nhân đạo của Mỹ giản dị, mộc mạc và có sữa, phó mát, thế là siêu đẳng. Sau đó, người ta mở cửa sau, phát sách in bằng song ngữ Anh-Việt: Vài nét đan thanh về nước Mỹ và cờ Mỹ giấy. Lần đầu tiên, dân thị xã chiêm ngưỡng quốc kỳ Mỹ. Đợi ngày mai, lĩnh sữa bột, phó mát và vải vóc, thị xã mới hoan nghênh Hoa kỳ giầu tình thương.

Khoa chạy sang nhà Luyến:

- Anh biết tin Viện Trợ Mỹ đã đến thị xã chưa?

Luyến cười tủm:

- Thị xã bé nhỏ, cách xa năm cây số còn nghe được alô alô của máy phóng thanh Mỹ mà.

Khoa nói:

- Nó cho em cuốn sách Vài nét đan thanh về nước Mỹ, song ngữ, em học tiếng Anh bằng cuốn này sẽ giỏi, anh ạ!

Luyến gật đầu:

- Ừ. Cần một cuốn tự điển thật tốt nữa.

Luyến ưu tư. Chẳng biết người Mỹ sang Thái Bình làm gì? Tại sao Mỹ kh6ng giúp Pháp ổn định tình hình bên kia sông Trà Lý? Tiên Hưng, Duyên Hà, Hưng Nhân, Phụ Dực, Quỳnh Côi... chiến trận đang nặng. Pháp phải thuê lính Bùi Chu - Phát Diệm tăng cường. Thế mà Mỹ lại đem sữa bột, phó mát, vải vóc viện trợ dân thị xã. Thì lạ lắm.

Thị xã Thái Bình bé nhỏ, trước ngày 9 tháng 3 năm 1945, đã bị đè lên đầu mình hai ông khách Pháp và Nhật. Khách Nhật chán ông chủ Việt Nam làm nô lệ cho hai người. Bèn đảo chính đuổi ông khách Pháp đi cho đỡ bẩn mắt. Ông khách Pháp đi, rồi ông khách Pháp lại về, một mình một chiếu thảnh thơi ngồi. Vẫn Bảo Đại làm nô lệ cho khách. Bình cũ thay đổi rượu mới cho hợp thời đại. Bây giờ, ông khách Mỹ cũng lò dò tới đây. Ông khách Mỹ có bắt chước ông khách Nhật không? Người Mỹ giầu có và nhân đạo. Không, chẳng có thằng ngoại quốc nào thưong mình cả. Sữa bột và phó mát là bước đầu trong âm mưu gì đó của người Mỹ.

Luyến cứ lặng thinh suy nghĩ. Để mặc Khoa đọc sách.

giavui
10-16-2015, 06:49 PM
6

- Mỹ giầu có khác, cho bao nhiêu thứ.

- Chơi sang như Mỹ mà.

- Mỹ viện trợ, chứ không cho, không bố thí bệ rạc.

- Nó nói tiếng gì, mày?

- Tiếng Anh.

- Nó thiếu chữ nghĩa, phải nhờ nước Anh cho mượn chữ nghĩa đấy. Mỹ nói tiếng Anh, khôi hài quá nhỉ?

- Khôi hài chó gì. Mỹ đông bạc, thế là đủ.

- Mỹ viện trợ sữa bột, phó mát.

- Cả vải may quần áo nữa.

- Còn thuốc diệt muỗi là đằng khác.

- Phó mát ăn với gì, mày?

- Ăn vã.

- Chả lẽ ăn vã. Ăn với gì chứ?

- Lát nữa, Mỹ phát quà viện trợ, tha hồ hỏi.

- ừ, tao sẽ hỏi: Sữa bột có đường không?

- Mỹ nó ở đâu? Người ngợm nó ra sao?

- Nó ở đâu, biết làm chi? Dân mũi lõ như Tây ấy. Nó đã phát cuốn sách Vài nét đan thanh về nước Mỹ, mày không đọc à?

- Đêm qua, tao xé mấy tờ đi ỉa rồi! Mày có đọc không?

- Tao gói đường đen cả. Tổng thống sẽ ngọt lắm. Hình ông ấy ướp đường.

- Nó cho mỗi người một khúc vải à?

- Sẽ hỏi.

Người ta cười nói ồn ào, thắc mắc nghẹn họng, quanh chiếc xe Viện Trợ Mỹ, chờ đợi giờ giấc nhân viên làm việc. Xe Viện Trợ Mỹ đậu ở đầu phố chính. Phát đủ số quà viện trợ, xe sẽ xuống cuối phố. Những người đi lĩnh viện trợ, đa số nghèo và không được học, nóng ruột lắm rồi. Mỹ tặng họ trò chơi one, two, three. Oẳn tù tì cho cái gì cho cái này. Họ muốn nhìn thấy sữa bột, phó mát và vải vóc Mỹ. Thuốc DDT họ không cần. Càng trông đợi, thì giờ càng dài ra. Đến nỗi, người ta quên cả đợi. Nửa tiếng đồng hồ sau, nhân viên Việt Trợ Mỹ khiêng cái bàn tới, kê trên vỉa hè. Hai nhân viên ngồi trên ghế. Máy phóng thanh loan tin tức:

- Đồng bào thân mến! Sáng nay, Viện Trợ Mỹ sẽ trao một trăm phần quà tặng đồng bào. Buổi chiều Viện Trợ Mỹ sẽ trao tặng quà tiếp. Xin đồng bào xếp hàng, ghi tên trật tự. Không đồng bào nào thiếu quà cả...

Người ta chen nhau xếp hàng trên hết. Cảnh hỗn loạn xẩy ra mất tình nghĩa. Người ta đấm đá nhau, xô đạp nhau, chửi bới nhau. Ở đâu, lĩnh đồ phước thiện tập thể cũng giống nhau cả. Đầu tiên trong cuộc đời lam lũ, nhận quà Mỹ viện trợ, con người bỗng hết làm con người. Mỹ viện trợ hay Mỹ mua rẻ bản chất của con người?

- Đồng bào trật tự, trật tự tối đa. Nếu đồng bào mất trật tự, Viện Trợ Mỹ không phát quà được...

Máy phóng thanh tung ra một câu đe dọa. Hiệu nghiệm trăm phần trăm. Người ta thôi chen lấn, thôi đấm đá, thôi xô đạp, thôi chửi bới nhau. Trật tự hoàn toàn.

- Đồng bào sẽ mỗi người nhận một kí lô sữa bột, một kí lô phó mát, một kí lô DDT, hai thước vải đen may quần, hai thước vải trắng may áo. Đồng bào mua đường cát trắng về pha với sữa, mua bánh mì ăn với phó mát...

Có nhiều tiếng thở dài.

- Thưa đồng bào, sữa và phó mát rất cần thiết cho sức khỏe con người...

Cửa sau xe Viện Trợ Mỹ đã mở. Hai nhân viên phụ trách thu giấy ghi tên, địa chỉ người nhận quà, và phát quà. Quà Viện Trợ Mỹ gồm bốn món, đựng chung vào một cái túi, dán chặt lại. Túi làn bằng giấy dầu, in chữ đen. Hàng chữ thứ nhất: Mỹ quốc viện trợ. Bức hình duy nhất: Hai bàn tay, nắm chặt lấy nhau, trên cờ sao sọc. Bên dưới hình vẽ, hàng chữ thứ hai: Nhân dân Mỹ quốc thân tặng. Hàng chữ thứ ba: Để dùng, không được bán.

- Mỗi người đại diện mỗi gia đình, mỗi gia đình lãnh quà đựng trong một cái túi...

Lại nhiều tiếng thở dài.

- Thưa đồng bào, Mỹ giầu có và nhân đạo, văn minh nhất thế giới...

Người ta chán nghe tuyên truyền Mỹ rồi. Tất cả sự giầu có, nhân đạo, văn minh nằm gọn trong cái túi Viện Trợ Mỹ bịp bợm. Dân Thái Bình đã lợm giọng chuyện người Mỹ và nước Mỹ. Những người đã to lời suy tôn Mỹ lúc nãy, giở túi quà bố thí bốn món, hạ bệ Mỹ lúc này.

- Mỹ giầu thật. Giầu theo kiểu trọc phú. Cơm thiu thối nó mới cho người nghèo. Một bát thì nói mười bát.

- Đểu như Mỹ mà.

- Cho cứ nói là cho, còn bầy đặt viện trợ.

- Mỹ nó bố thí sữa bột lại bắt mình mua đường pha với sữa. Mà đường trắng cơ. Đường đen đíu được. Mình mẩu dẩu xìn, sữa bột Mỹ chỉ cho chó uống. Chưa chắc chó đã uống. Chó măng giê ca ca sướng hơn sửa bột, Mỹ lôi ở vũng lầy ra viện trợ.

- Phó mát của Mỹ vàng khè, trông phát tởm. Phó mát phải ăn với bánh mì. Dân nghèo đói, tiền Mỹ viện trợ không có, lấy đâu ra mua bánh mì?

- Phó mát của Mỹ còn thua phó mát Tây quăng một trời một vực. Phó mát của lính Tây trắng và thơm.

- Này, vải của Mỹ cho, nhìn kỹ mà xem, nó hồ bột kỹ quá. Vải này may quần mặc một lần đã nhão, phí tiền may, công may.

- Phải, tôi đã nhúng vải của nó xuống nước, vò sơ sơ đã thấy bột tan dần 1.

- Đây, ông ngắm vải Mỹ.

- Giá nó chỉ cho mình gạo và nước mắm mới thức thời.

- Ở với Pháp thì sướng, ở với Mỹ chỉ uống sữa bột không đường!

Buổi chiều, xe Viện Trợ Mỹ đậu ở cuối phố chính. Đến nhận quà tặng loe ngoe mấy người. Viện Trợ Mỹ thất bại. Đau đớn..

Thị xã vốn hiền lành. Từ xưa, vẫn êm đềm dưới chân đê sông Trà Lý. Cầu Bo thân mến làm chứng cho mộng ước đơn sơ của dân Thái Bình. Là không muốn đổi thay, suốt đời cứ sống cuộc đời bình thản tiêu cực. Thời đại nào cũng giống nhau. Thời đại sau còn tệ mạt hơn thời đại trước. Những đổi thay nhanh chóng quá và bất chợt. Người ta chưa kịp thay đổi đã, bất chợt, có đổi thay. Nhiều tin không vui đã đến thị xã.

Tin buồn nhất là lính Bùi Chu - Phát Diệm sang Thái Bình. Lần đầu tiên trong lịch sử, Giáo hội công giáo Việt Nam có đạo nghĩa binh võ trang tân kỳ. lính Bùi Chu - Phát Diệm chỉ qua đây án ngữ nhiều nơi để cách mạng giảm bớt khí thế, dân chúng vô tội đỡ chết thê thảm vì chiến tranh. Thì được. Lính Bùi Chu - Phát Diêm qua đây đánh thuê cho Pháp, tàn sát cách mạng, làm khổ cực dân lành ngoại đạo. Thì không được. Bởi vì, chưa hề có thánh chiến ở Việt Nam. Người ta không nghĩ lính Bùi Chu - Phát Diệm của linh mục Hoàng Quỳnh, mà nghĩ Giáo hội công giáo Việt Nam. Điều đẹp nhất, cao thượng nhất, đáng ca ngợi nhất là linh Bùi Chu - Phát Diệm biến thành lực lượng trung gian giữa Pháp và cách mạng. Trọng tâm của Bùi Chu - Phát Diệm là cố gắng làm hai bên chống đối nhau ngồi xuống hòa đàm trong tư thế nhường nhịn lẫn nhau. lính Bùi Chu - Phát Diệm còn cấm trại. Họ sang Thái Bình chưa biết hành động ra sao. Người ta chờ đợi họ.

Tin buồn ngoại hạng, Viện Trợ Mỹ đã đổ vỡ ở thị xã. Thái Bình đang đánh nhau với Pháp, sẽ không có một chiến thắng nào ngoạn mục như sông Lô, sông Đà, sông Đuống... Hồ Chí Minh đã tiên đoán, năm xưa, tại sân vận động thị xã: Pháp về Thái Bình là có thái bình. Thái Bình trở thành vùng đất đáng sợ. Ngày tiêu thổ kháng chiến, cách mạng để lại thị xã khẩu hiệu: Thái Bình là mồ chôn thực dân Pháp.

Pháp ơn ớn, không chiếm gọn như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh... năm 1946, phải đợi đến năm 1950 mới tràn qua Thái Bình, cách nhau dòng sông Hồng. Giá Thái bình dễ nuốt như bên đây Trà Lý, vấn đề đã khác. Bên kia Trà Lý làm Pháp mắc nghẹn. Pháp không biết Vệ quốc quân tiểu tư sản đã bị giải tán. Cách mạng mới thành lập Quân đội nhân dân, lính giai cấp nông dân. Có lẽ Pháp biết mà kinh thường. Lính nông dân chiến đấu dũng cảm trường kỳ, khác hẳn lính tiểu tư sản dũng cảm có giai đoạn. Lính tiểu tư sản biết suy tư, chỉ hại cho cách mạng. Lính nông dân không biết suy tư, chỉ chết vì cách mạng. Quỳnh Côi, Phụ Dực... lính nông dân đã tham trận. Và, Pháp phải thuê lính Bùi Chu - Phát Diệm can thiệp.

Thái Bình gây băn khoăn cho Mỹ. Có lẽ, Mỹ băn khoăn đến ngày nào Thái Bình đánh tan giặc Pháp, ngày nào ba kỳ thống nhất. Mấy năm trước, Mỹ đã không chiến với Nhật trên vùng trời Quỳnh Côi. Một chiếc máy bay Mỹ tan xác, cũng đủ làm thành tích viện trợ sữa bột, phó mát vàng khè cho dân thị xã Thái Bình. Mỹ đã lộ nguyên hình Mỹ. Thái Bình chê bai Viên Trợ Mỹ. Chẳng bao giờ Mỹ được phép viện trợ cho Thái Bình. Khi Thái Bình đã trở nên địa linh nhân kiệt, không còn ai sợ nữa.

Tin buồn đi qua, tin vui thoáng đến. chắc chắn tin vui không làm dân thị xã phiền muộn: Sinh viên Trường Sĩ Quan Nam Định sẽ đấu giao hữu với thanh niên thị xã một trận bóng tròn tuyệt vời. Pháp đưa sinh viên sang. Tòa tỉnh trửng phải thuê người dọn dẹp sân vận động vài hôm nay. Còn hai tuần lễ nữa mới gặp mặt sinh viên Trường Sĩ Quan Nam Định. Dân thị xã vẫn nôn nóng trông đợi, tự bây giờ...

--------------------------------
1 Mỹ viện trợ sữa bột hết chất béo cho dân gầy và phó mát vàng chòe, đúng như người Thái Bình nhận định. Hai thứ này không được bán trong thị trường thương maị. Vải vóc càng tệ hơn, mặc hai lần là vất đi.

giavui
10-16-2015, 06:49 PM
7

Sáng nay, Luyến chống nạng đi dạo phố rất sớm. Với tiếng lọc cọc, nỗi buồn vang theo. Luyến không thích bất cứ tin tức vui buồn đổ xuống thị xã nữa. Dưới bầu trời phiền muộn, chỉ đôi mắt bị mù, đôi tai bị điếc, cái mồm bị câm mới không biết nghịch cảnh xẩy ra và nín thít, chẳng biết nói chi. Nhưng. Luyến không thích mạ sầu trong đồng lúa cứ ngoi lên theo thời đại. Luyến là người theo thời đại, phải chấp nhận thời đại, bỏ chất đắng cay trong trái cây vàng ửng.

Từ khi vĩnh biệt tuổi thơ và từ khi bị mất một chân, Luyến suy tư mòn óc. Chả được gì qua những suy tư. Mà, Luyến vẫn suy tư, kể cả suy tư trong niềm nhớ.

Luyến nhớ thằng Vũ, thằng Côn, Thằng Vọng, thằng Long, thằng Lộc kinh khủng. Bao giờ chúng nó về nhỉ? Chúng nó cứ về thị xã, bất kể thời đại nào, chúng nó chiến thắng hay chiến bại. Được tất. Cầu xin cho chúng nó lành mạnh, không mất chân tay, không què quặt. Thời buổi chiến tranh khó mơ ước. Ta cứ mơ ước, nếu còn có thề mơ ước. Luyến cố gắng lội về dĩ vãng, tìm kiếm cái êm dịu của bạn bè. Nó chỉ thấy những trận bóng An Tập đấu với lớp nhì 1 của nó. Đó là những ngày vui bốc và buồn tênh. Vui buồn không thước nào đo nổi. Nghĩ lại, vui buồn của tuổi thơ đều trong vắt như sương trên ngọn cỏ ban mai. Nụ cười hay giọt nước mắt ấu thời không nhìn thấy ngày vàng tháng xanh của tuổi ngọc. Luyến tự cho rằng, nó và các bạn nó đã mãn nguyện rồi. Bây giờ, bạn bè có gặp oan trái thì oan trái sẽ chìm đi khoảnh khắc, khi quá khứ thần tiên của chúng vọt lên.

Thằng Vũ ngang tàng. Ở đâu, bạn nó bị bắt nạt, thầy nó bị ức hiếp, là nó lao vào, dù nó lao vào chỗ khốn khó. Ngang tàng nổi tiếng trường Monguillot, thế mà nay, Vũ chịu nổi kỷ luật của cách mạng. Thằng Côn tính nết đài các, phong lưu mã thượng. Nó ghét cay ghét đắng những thằng thích khoe khoang mình tài giỏi và chơi trịch thượng. Cách mạng không thiếu những người trịch thượng và nói hay về mình. Côn còn sống trong bộ đội đến bao giờ? Thằng Vọng thì tự ti mặc cảm. Đừng hành hạ nó quá thôi, còn thì bảo sao nó làm vậy. Vọng tốt lắm. Thằng Long và thằng Lộc, đứa hay phá thối, đứa hay khôi hài cười cợt, liệu chúng nó có thay đổi tâm hồn để đồng hóa với lính giai cấp nông dân? Luyến nghĩ rất khó khăn cho Vũ, Côn, Long, Lộc. Cho nên, Luyến vẫn mơ hồ, hôm nào, bạn nó sẽ về thị xã hết. Bạn nó chưa về hay bạn nó không về, Luyến đổ vạ cho số phận. Số phận của thời đại đã bắt Luyến tinh nghịch phải mất một chân, phải về thị xã sớm nhất, để hứng tất cả nỗi buồn đổ xuống thị xã.

Luyến đi gần tới cầu Bo. Những lính Pháp, Pác ti dăng, Bùi Chu - Phát Diệm đứng đầy trên xe cam nhông qua cầu Bo, sang mặt trận bên kia sông Trà Lý. Sao lính đi nhiều vậy? Luyến hỏi người lính pác ti dăng già:

- Lính hành quân huyện nào đấy, bác?

Người lính già đáp:

- Cậu không biết à?

- Dạ, không biết.

- Ở thị xã đã khối người biết. Pạc ti dăng cho vợ biết, vợ cho thiên hạ biết. Này cậu, Pháp mở cuộc hành quân Trái Chanh đấy, vĩ đại ra phết. Lính pạc ti dăng đi hết. Tớ trong hỏa đầu quân, tức là nấu cơm, được ở lại. Cả tụi lính Bùi Chu - Phát Diệm cũng hành quân. Xe cam nhông chạy từ sáng tinh mơ, còn vài chuyến nữa sẽ hết.

- Hành quân Trái Chanh bao nhiêu ngày, hở bác?

- Xem chừng cả tháng ấy.

- Lính đến đâu ạ?

- Xa đây lắm. Tớ chỉ biết có thế thôi.

- Lần này bắt tù binh kỹ, bác nhỉ?

- Hẳn rồi.

- Bác biết giam tù binh ở đâu không?

- Trong khu vực Pháp.

- Có nhà?

- Nhà quái gì, lều là sướng rồi. Này, tớ nói thật, tớ yêu Việt Minh và ghét Pháp. Chúng tớ pạc ti dăng, nhiều đứa căm lính Bùi Chu - Phát Diệm điên người lên. Bọn lính đánh thuê sẽ biết tay chúng tớ.

- Bác định làm gì họ?

- Phơ!

- Giết họ à?

- Như tụi Bùi Chu - Phát Diện phơ Việt Minh ấy.

- Ghê quá.

- Dân thị xã không sao cả. Chúng tớ phơ tụi Bùi Chu - Phát Diệm, chúng tớ chịu.

- Phơ họ chả được ích chi.

- Sao lại chả ích? Phơ, chúng nó sợ, cút ngay về Bùi Chu - Phát Diệm. Cho ăn kẹo cũng không dám bén mảng sang Thái Bình.

Người lính già hỏa đầu quân pạc ti dăng vỗ vai Luyến, rồi bước đi nhanh. Luyến đứng lại trông đợi xe cam nhông qua cầu Bo. Một lúc lâu, xe hết ra phố chính sang bên kia sông Trà Lý. Đúng là chuyến cuối cùng.

Nếu Pháp hành quân ở Quỳnh Côi, Phụ Dực, xe phải chạy quốc lộ số 10. Dù đường sá sửa sang, xe cam nhông cũng chỉ chạy đến cầu Nghìn sập đổ, quân Pháp xuống ở Đồng Bằng. Căm nhông chạy trên đê, qua nhà thờ Sa Cát, chắc Hưng Nhân, Tiên Hưng, Đông Hà, Thái Ninh chịu cuộc hành quân Trái Chanh rồi. Mỗi cuộc hành quân của Pháp ở hậu phương gọi là cuộc càn quét. Cuộc hành quân Trái Chanh do Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp nghĩ ra chiến thuật và chiến lược, Pháp ở Thái Bình chỉ thi hành. Cuộc hành quân nào cũng đem về tù binh, bắt đúng hay bắt lầm, dân chúng bị thương nheo nhóc, bị giết tàn bạo, nhà cửa bị đốt cháy, đàn bà con gái bị hiếp dân tã người... Thành tích về hôi đồ, cướp tiền không báo cáo lên Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp.

Luyến nghĩ tới những vùng sắp chịu hành quân Trái Chanh, những vùng sắp ăn no đạn, những vùng sắp hứng mọi hình phạt, những vùng sắp cởi tung quần áo, lĩnh đủ nghịch cảnh. Chị kia đang nằm trên giường rặn đẻ, đau đớn làm sao! Bà nọ mệt mỏi, ôm đứa con vừa sinh. Súng hành quân của Pháp giúp chị kia dứt đau đớn và em nhỏ không bao giờ ra khỏi lòng mẹ mà khóc ba tiếng chào đời. Súng hành quân của Pháp giúp bà nọ dứt mệt mỏi và đứa con không biết cám ơn người đã hóa kiếp sớm sủa cho nó về đất làm giun dế! Ông này đang uống trà, ngâm thơ Phạm Thái: Sống ở dương gian đánh chén nhè, Chết về âm phủ cắp kè kè, Diêm vương phán hỏi mang gì đó, Be... Súng hành quân của Pháp giúp ông này về âm phủ thật. Súng hành quân của Pháp còn giúp ông tránh câu hỏi của diêm vương. Bà ấy cầu kinh sớm tối. Bà tin chắc Phật sẽ thấu lòng bà, ban phúc cho dân hưởng thái bình. Súng hành quân của Pháp trúng ngay tim bà ấy. Thế là bà lên cõi Phật... Cảnh đời trong chiến tranh nói không hết. Chiến tranh và kẻ gây chiến tranh tội lỗi khác đi nhiều. Không biết phát xít Đức có hành quân kiểu Pháp bên nước Pháp? Cuộc đời vốn ích kỷ, không muốn ai làm khổ cực cho mình, mình sẵn sàng làm người khác khổ cực.

- Anh Luyến...

Luyến quay lại. Khoa hớt hải:

- Em tìm anh mãi.

- Anh ra đây từ sớm.

- Pháp hành quân Trái Chanh sang bên kia sông, anh biết chưa?

- Rồi. Không hẹn mà gặp xe căm nhông chở lính hành quân. Chuyến xe cuối, em ạ. lính Bùi Chu - Phát Diệm bị cấm quân mãi, nay mới hành quân.

- Anh nghĩ gì về họ?

- Họ hoàn toàn mất tích trong ý nghĩ tốt đẹp của anh. Họ quả nhiên đánh thuê cho Pháp.

- Họ đi hành quân?

- Ừ.

- Hành quân Trái Chanh?

- Ừ, sẽ vắt quả chanh hết nước. Cuộc hành quân này rùng rợn lắm.

- Mình đi lên cầu Bo, em kể chuyện đệ tử của quan ba Vương Văn Chừ cho anh nghe!

Hai đứa đi dốc, leo lên cầu, đứng trong hành lang. Luyến vừa quay mặt ngó nước sông Trà Lý mùa hạ, thì đại bác gần nhà thương câu đi. Hàng chục khẩu đại bác khạc đạn sang bên kia sông. Luyến và Khoa nhìn rõ lính Pháp phóng những viên đạn và nghe rõ những tiếng phơ của họ. Cầu Bo có xa bệnh viện là mấy. Lính Pháp rất bình tĩnh nhả lửa. Họ không sợ phản pháo. Pháp thừa biết, ở Thái Bình, cách mạng còn yếu kém vũ khí, chưa có đại bác xung trận, nói chi cách mạng pháo kích vào trại Pháp. Đại bác hướng phía huyện Hưng Nhân, Tiên Hưng, và tiếng nổ nghe lớn. Luyến ngậm ngùi:

- Dân mình lại chết oan như rạ!

- Sao người Pháp bảo: Quỳnh Côi, Phụ Dực ra tro cơ mà.

- Sẽ ra tro. Xe cam nhông chạy trên đê, qua nhà thờ Sa Cát. Hôm nay thì Hưng Nhân, Tiên Hưng ra tro. Đại bác câu như mưa, ai mà chịu nổi!

Đại bác bắn liên tục một giờ liền. Khi nó vừa ngưng, hai chiếc phi cơ Spitfire từ Nam Định bay sang, tham dự cuộc hành quân Trái Chanh. Spitfire đen thùi thũi. Đứng trên cầu Bo, trông rõ lắm. Hai chiếc tới địa điểm oanh tạc, lượn hai vòng. Chiếc thứ nhất chúi xuống, thả bom, bay lên, và lại lượn. Chiếc thứ hai cũng chúi xuống, thả bom. Tiếng bom nổ nghe rõ mồn một. Thấy khói đen bốc cao. Không thấy lửa cháy. Thời đại đến đúng. Lúc này, người Pháp cho nhân dân Việt Nam ăn bom napalm rồi. Thái Bình đang ứa nước mắt gặm napalm. Bỏ hết bom, Spitfire ria đạn. Trên không, nhìn xuống dưới, lũ người như lũ chó chạy, cả làng trốn chạy. Phi công hào hoa Pháp cứ ngăm mà khạc đạn. Tận diệt cách mạng. Người nào cũng giống Việt Minh. Khạc đạn và khạc đạn.

Khói bốc như mây mùa thu, đứng một chỗ xây thành, chứ không bay đi. Khói tu lại, biến chỗ hành quân thành vùng trời phiền muộn. Vùng trời ấy có thề nhận vơ là vùng trời thị xã. Ngày xưa, vùng trời thị xã u buồn, thấy đảo chính Nhật hành hạ Pháp, không cho Pháp đi giầy và uống nước. Nhiều người Pháp đã trốn Nhật. Vùng trời tha thiết bảo vệ thị xã hãy cho lén nước người Pháp trong cơn khát rã họng, hãy giúp người Pháp trốn Nhật. Ngày nay, vùng trời thị xã đau khổ, thấy người Pháp đền ơn bằng đại bác, bằng bom!

Bỏ hết bom lên đầu dân Việt Nam, bắn hết đạn vảo ngực dân Việt Nam, bình yên vô sự, phi công Pháp đã làm một phi vụ danh dự cho người Pháp. Và bay về Nam Định.

- Anh ơi, Spitfie là khạc lửa, phải không?

- Ừ.

- Spitfire tiếng Anh, máy bay của Mỹ!

- Mỹ viện trợ cho Pháp.

- Mỹ đểu thật! Viện trợ cho dân thị xã sữa bột, phó mát, hôm qua, viện trợ máy bay cho Pháp giết dân Thái Bình, hôm nay.

- Thôi, đừng nhắc tới Mỹ nữa. Lúc nãy, em hứa kể chuyện đệ tử của Ba Chừ cho anh nghe cơ mà.

- Vâng, em sẽ kể...

giavui
10-16-2015, 06:49 PM
8

Chúng đứng trong hành lang, nhịp cầu thứ ba, trông xuôi về phía cống Đậu, gió thổi mát rượi và đôi mắt chớp mau. Còn một tháng nữa hết mùa hạ, bên kia cầu Bo sẽ dâng hoa quả làng mình cho dân chúng đi qua. Làng Bo cũng như cầu Bo, tiếng tăm nhờ trái ổi. ổi Bo ngon nhất miền Bắc. Giống hệt trái lê, vỏ dầy, ruột ít, ổi Bo kén đất sống khôn tả. Cùng ở Thái Bình, người ta đem hạt giống ổi Bo qua Kỳ Bá, An Tập trồng trọt, săn sóc kỹ lưỡng, ổi Bo mọc lớn, nhưng trái bé nhỏ, thiếu hẳn mùi Bo. Ngay Bồ Xuyên, cách làng Bo một con đường mòn, vẫn không thích hợp với ổi Bo, nữa là. ổi Bo chung thủy với làng mình. Tâm sự của nó giống hệt người Việt Nam du sơn du thủy, lâu rồi chán nản, tìm về làng mình và xao xuyến nói: Chỗ quê hương là đẹp hơn cả. Nơi nào con người cũng biến đổi tâm hồn, sống sinh cõi tạm, tựa kiếp phù du, chả muốn nghĩ đến tương lai vời vợi. Quê hương mình mới là chỗ bất diệt, những khi oan khiên, đau khổ; những lúc vui tươi, hạnh phúc. Người ta biết chết cho ai, sống vì ai. ổi làng Bo, chẳng hạn.

Ngày xưa, đến mùa ổi, người từ Hải Phòng về Nam Định, người từ Nam Định sang Hải Phòng, đều bắt xe hàng ngừng lại ở bên kia cầu Bo để mua ổi làm quà. Sáng và đêm, ổi Bo thức và ngủ với cầu Bo. Ngày xưa, thích thật. Dân thị xã ngủ cả đêm, trong hành lang, trên cầu Bo. Dạo ấy, không có giới nghiêm, không có cấm đoán một ai tới vùng bất khả xâm phạm. Vùng nào là vùng bất khả xâm phạm, thời thái bình? Thời thái bình, nhà thường bỏ ngỏ. Người ta thường tụ tập trên cầu Bo, tránh oi nồng mùa hạ.

Vẫn trên cầu Bo, người ta lo sợ con nước lũ chẩy xiết dưới chân cầu. Đêm khuya, nghe tiếng giận dữ của nước xiết, trái tim người ta muốn đứt tung. Nước lũ đỏ ối, tự rừng xa xôi, vượt suối về đồng bằng, đe dọa lụt lội. Người ta kinh hoàng lụt lội sẽ phá tan bao nhiêu mộmg ước đã vun trồng. Và, người ta hướng những cặp mắt xuống cây cột sắt dưới sông báo hiệu mức nước lên. Gần ngập đê sông Trà Lý. Ở trên cầu Bo, nghe tiếng trống canh đê ban đêm như nghe tiếng trái tim xúc động mãnh liệt. Từ xa vọng lại, tiếng trống ngũ liên dồn dập hai bên đê. Trống im là đê đã vỡ. Đê vỡ thì người ta không còn gì.

Bây giờ đến mùa ổi, xe Hải Phòng-Nam Định, Nam Định-Hải Phòng, vì chiến tranh, không qua cầu Bo nữa, ổi Bo không nhiều người ăn với lòng ngưỡng mộ, đâm ra hờ hững, buồn tẻ. Dân thị xã chỉ được đứng trên cầu Bo, từ 8 giờ sáng, đến 7 giờ tối. Ai đến sớm hơn, về lâu hơn, sẽ bị lính Bảo chính gác cầu bắt giữ. Bây giờ, cầu Bo nhạt nước vôi, nhạt phếch, nhiều nhịp rêu đã xanh um, người ta hết cảm hứng đứng trên cầu mơ mộng. Cầu Bo là cây cầu lịch sử, làm chứng cho dân Thái Bình, sống với nó, chết với nó, gửi bao nhiêu kỷ niệm vào nó, ném bao nhiêu ước nguyện vào nó, hạnh phúc vì nó, thống khổ vì nó, tự ngày xây dựng nó lên. Cầu Bo nằm giữa hai miền phủ huyện, có quê hương Trần Lãm, Lê Quý Đôn, Phạm Thái sang sông Trà Lý, sẽ đi vào trường giang tiểu thuyết của văn sĩ lỗi lạc, ngày mai.

- Anh em mình ở đây, đến trưa mới về nhà, em cứ kể chuyện Ba Chừ, xem nó có đi vào tiểu thuyết được chăng?

- Anh ngắm kỹ, hai thanh sắt ngang của nhịp cầu thứ hai đi.

Luyến thả mắt trông nhịp cầu Khoa nói. Hai thanh sắt bị cưa gẫy, bẻ gục về một bên. Người đàn ông to lớn có thể chui qua, rơi xuống sông.

- Pháp bẻ hai thanh cầu làm gì?

- Pháp đâu có bẻ.

- Vậy ai?

- Đệ tử của Ba Chừ, làm theo lệnh ông ấy!

- Ba Chừ là người thế nào?

Khoan đứng sát Luyến, nói đủ nghe. Ba Chừ là đại úy Bảo Chính Đoàn, quân đội nòng cốt của chính phủ Bảo Hoàng. Trước đây, Vương Văn Chừ thuộc lính khố xanh, đeo lon thượng sĩ. Cách mạng nổi lên, dùng nhiều lính khố xanh lắm. Đưa họ vào bộ đội. Vương Văn Chừ không theo cách mạng. Đợi tới năm 1947, ông đi phò Pháp tại Hà Nội. Pháp cho ông lên cấp bậc trung úy ngay. Ông đã đóng quân ở Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, tỏ ra mẫn cán. Được lên đại úy. Hết cấp bậc cho Bảo Chính Đoàn. Chứ không, Vương Văn Chừ đã leo lên tá. Và, tương lai thành tướng.

Vương Văn Chừ cưỡng bức một thiếu nữ, lấy làm vợ bé trong cuộc hành quân Hưng Yên. Chẳng hiểu sao, ông oán ghét cách mạng đến trời xanh. Đâu có Việt Minh, đó có Ba Chừ mài dao giết. Việt Minh thật, Việt Minh giả, cũng là Việt Minh. Ông sang Thái Bình làm mưa làm gió với người Việt Nam, đồng bào của ông. Pháp chỉ bắt tù binh cách mạng chiến đấu giữa mặt trận. Còn thộp cổ cách mạng chung quanh thị xã là quyền của công an, Bảo Chính, mỗi nơi một nhà tù riêng biệt, bí mật.

Vương Văn Chừ có thằng đệ tử tên Woòng A Tâm, người Thổ, khát máu giống hệt sư phụ của mình. Trông thấy Woòng A Tâm, nên cúi đầu mà đi, kẻo nhìn đôi mắt đỏ ngầu long lanh thù hận lúc mào cũng muốn thọc cổ người ta, sẽ chết ngất.

Luôn luôn, Woòng A Tâm gần Vương Văn Chừ, cả khi tra tấn đến lúc thủ tiêu cách mạng. Hầu như, ngày nào cũng xẩy ra. Vương Văn Chừ có thủ đoạn giết người lừng lẫy trong quân đội Bảo Hoàng. Mặc kệ nước sông Trà Lý trong hay đục, lớn hay cạn, Vương Văn Chừ cứ sai Woòng A Tâm dẫn cách mạng ra cầu Bo, đẩy nó xuống. Không phải chôn lấp lôi thôi. Theo lệnh sư phụ, Woòng A Tâm sáng tạo chỗ giết người rùng rợn. Bẻ hai thanh sắt, trong hành lang một nhịp cầu, Woòng A Tâm nửa khuya lấy xe jeep chở cách mạng Thái Bình lên cầu Bo. Nó bắt người ta ngồi dựa lưng vào hành lang, trói hai tay vào song sắt. Rồi, nó nhét đầu người ta chui qua, gối cổ trên một thanh sắt hụt hẫng. Nó đấm một trái quyết liệt. Người ta hét lên đau đớn. Đó, đúng lúc, nó đâm dao găm vô họng người ta. Nó rút thuốc lá Cotab, châm lửa, rít một hơi đẫy đà. Người ta rên siết, muốn chết ngay mà không được chết. Nó cắm đầu điếu thuốc còn cháy vào mồm người ta. Người ta giẫy giụa và ú ớ. Nó cắt đứt hai sợi dây trói tay, rút dao găm trong miệng người ta, cầm đôi chân, đẩy người ta xuống sông. Một tiếng kêu dưới nước, nó cười, lau dao găm đầy máu và lên xe jeep về ngủ.

- Câu chuyện đệ tử của Vương Văn Chừ đó, anh.

- Dã man không tưởng tượng nổi.

- Chỗ giết người ở nhịp cầu thứ hai, bên phải.

- Vương Văn Chừ đáng tội.

- Em tưởng Woòng A Tâm.

- Woòng A Tâm chỉ là tay sai của Vương Văn Chừ.

- Vương Văn Chù là tay sai của ai?

- Bảo Đại.

- Bảo Đại cũng là Bảo Hoàng à?

- Ừ, Bảo Đại làm quốc trưởng chính phủ Bảo Hoàng.

- Bảo Đại dã man.

- Lịch sủ sẽ ghi tội lỗi của ông ta.

- Nếu lịch sử không biết chuyện giết người trên cầu Bo?

- Thì tiểu thuyết sẽ viết truyện cầu Bo.

- Ai sẽ viết tiểu thuyết ấy?

- Em hay anh, chẳng hạn.

- Tiểu thuyết khó lắm. Em không viết được đâu.

- Ai mà biết tương lai của mình. À, sao em biết chuyện này?

- Anh thượng sĩ, phòng 2 Bảo Chính Đoàn, uất ức Vương Văn Chừ và Woòng A Tâm giết người tàn nhẫn. Anh ta kể với bạn anh ta. Bạn anh ta kể với bố em.

- Bố em kể với em, hả?

- Vâng.

- Anh thượng sĩ đâu rồi.

- Dào ngũ lên Hà Nội.

- Anh ta muốn làm người, một người đầy tâm hồn, trong thời lửa đạn.

Chuyện Khoa vừa kể khiến Luyến lại ưu tư. Thái Bình nằm dọc sông Trà Lý, cả đôi bờ, chẩy tới tận cửa biển, vốn xưa thật hiền lành, chất phác. Có lẽ thù hận đến Thái Bình từ năm 1945. Nhật nó xui Thái Bình căm hờn Pháp. Nó lại đảo chính hất chân Pháp. Ở với Nhật ít tháng, Thái Bình nhận thấy Nhật tồi tệ gấp ngàn lần Pháp. Dễ hiểu thôi, Nhật da vàng, mũi tẹt. Da vàng, mũi tẹt có yêu nhau bao giờ. Tổng khởi nghĩa cách mạng đuổi Nhật và ve vuốt Thái Bình căm thù Nhật. Pháp trở lại xâm lăng Việt Nam, cách mạng muốn Thái Bình vùng lên căm thù Pháp. Căm hờn, căm thù, căm phẫn, riết rồi chỉ thấy thống khổ bủa xuống Thái Bình. Cách mạng thù hận Pháp. Pháp hận thù cách mạng. Tưởng chỉ có căm thù hai phía.

Bây giờ, thù hận nhiều phía. Bảo Hoàng hận thù cách mạng. Cách mạng thù hận Bảo Hoàng. Bùi Chu - Phát Diệm hận thù cách mạng. Cách mạng hận thù Bùi Chu - Phát Diệm. Những thù hận dội lên đầu Thái Bình oan uổng. Biết thù hận quanh mình đã khốn nạn, chịu thù hận, mang no thù hận đời mình thì khốn nạn đến kiếp nào? Thị xã trốn tránh cái thù hận bên ngoài, lại gặp cái thù hận bên trong. Thù hận bên ngoài nó lãng đãng, mơ hồ; thù hận bên trong nó in đậm, rõ nét. Như nạn Vương Văn Chừ, Woòng A Tâm, chẳng hạn.

Tự thâm tâm, Luyến hiểu rằng, mình chả làm gì để xoá tan thù hận, kể cả thù hận vô duyên cớ. Đã theo thời đại, Luyến cũng đành để thời đại nó xoay vần. Luyến tin, thời đại sẽ xoay vần đến thời kỳ rực rỡ, thanh bình. Lúc ấy, ta sẽ ôn lại những thù hận đã qua với tấm lòng vị tha của ngưòi viết sử. Luyến không ôm mộng viết lịch sử. Vừa nói với Khoa, mình sẽ viết tiểu thuyết, và một tiểu thuyết duy nhất mà thôi. Tự nhiên, Luyến yêu cây cầu Bo bắc ngang sông Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Cầu Bo đã chứng kiến nhiều nghịch cảnh của thời đại. Nó sẽ là nhân chứng của những ai muốn biết Thái Bình trải qua một trăm năm.

- Anh Luyến, trưa rồi, về chứ?

- Về thì về.

giavui
10-16-2015, 06:50 PM
9

Mẹ Luyến dịu dàng:

- Luyến này, nhà con Ngọc đã hồi cư. Cả bà cả Hồng nữa đấy. Tại sao bác Thụy muộn về? Con Thúy dạo này chắc lớn lắm. Mẹ lại mong thằng Vũ, thằng Côn... Chúng nó đi kháng chiến như thằng Ái nhà mình. Biết còn sống không?

Luyến cười:

- Mẹ chỉ lo vớ vẩn. Con cam đoan với mẹ chúng nó còn sống. Thằng Vọng chết chưa, mẹ?

Mẹ Luyến bình thản:

- Nó đã chết đói năm Ất Dậu!

Luyến lắc đầu:

- Vọng chưa chết, mẹ ạ! Tên mới của thằng Vọng là Kỳ Bá. Nó làm chính ủy trung đội, đóng ở làng em Khoa. Thầy Nguyễn Công Hoan cứu nó và mang nó đi xa, dạy nó thành người cách mạng.

Mẹ Luyến tặc lưỡi:

- Gớm, con chỉ muốn biết một mình. Chẳng cho mẹ hay.

Luyến bẻ bão tay:

- Cho mẹ biết ích lợi chi? Mỗi đứa bây giờ có một cuộc đời riêng biệt. Khi nào chúng nó về đây, vẫn chào bố mẹ lễ pháp và thăm hỏi bố mẹ ân cần, thế là đủ.

Mẹ Luyến ôn tồn:

- Mẹ biết đề mẹ mừng cho chúng nó.

Luyến hài hước:

- Mẹ lại phải xuống Đoan Túc lễ chùa và cầu nguyện cho chúng nó, chứ gì?

Mẹ Luyến đứng dậy:

- Ừ, chiều nay mẹ đi lễ, sẽ cầu nguyện cho thằng Vọng. À, con Ngọc...

Luyến tiếp:

- Mới hồi cư...

Mẹ Luyến âu yếm:

- Nó muốn tới nhà thăm con.

Bà bước ra cửa:

- Quá trưa, con Ngọc tới đó.

Luyến ngạc nhiên, tự hỏi sao Ngọc lại đến thăm mình. Ngày xưa, Luyến cũng chơi thân với Ngọc, với Thúy, nhưng không thân như Côn, như Vũ. Luyến thích nghịch ngợm. Nó gặp Thúy, Ngọc ở đâu là chọc cho hai đứa phát khóc mới thôi. Thúy và Ngọc đều ghét Luyến. Nhớ đêm chơi tam cúc ăn đẹt, hồi Vũ lên Hà Nội học, Luyến đã không nịnh đầm giống Côn. Thằng Côn thắng con Thúy hai đẹt. Con Thúy cầu khẩn xin khất nợ. Thằng Côn cao thượng, bằng lòng ngay. Thằng Côn tưởng vắng thằng Vũ, con Thúy sẽ cần thiết nó, sẽ đi ăm kem cầu Bo với nó, sẽ quý mến nó... Côn ta đã lầm. Con Thúy vẫn nhớ thằng Vũ. Thằng Côn bị con Thúy chê lên, chê xuống, khi biểu diễn xe đạp xiếc Tạ Duy Hiển. Con Ngọc bênh thằng Côn. Cái gì của thằng Côn, con Ngọc cũng khen. Thế mà, thằng Côn lại ghét Ngọc, thích con Thúy. Các chuyện tuổi thơ nó trớ trêu làm sao!

Thằng Luyến thắng con Ngọc hai đẹt. Con Ngọc xin khất nợ. Luyến ta không khất khung gì hết. Được thì hãy ăn cái đã. Hễ ván sau thua, giơ mũi cho làng đẹt. Con Ngọc cáu lắm. Thằng Côn cho con Thúy nợ. Thằng Luyến nó cười khà khà, không chịu cho con Ngọc nợ. Nó khoái chí đẹt mũi con Ngọc. Con Ngọc nhăn nhó. Đến lượt Luyến thắng con Thúy, nó đòi ăn đẹt ngay tút xuýt. Thằng Côn tìm cách gỡ cho con Thúy khỏi ăn đẹt. Thằnng Côn cù nhầy hòa cả làng, lúc thằng Luyến bỏ ngang về. Thằng Luyến bảo không chơi với thằng Côn nữa, vì ăn gian cho con Thúy.

Luyến chỉ nhớ con gái đêm tam cúc, thuở học trò Monguillot. chả biết Ngọc còn nhớ không? Bây giờ, Luyến đã xa thời nghịch ngợm, ghét con gái. Bây giờ, Ngọc đã lớn lên, đã hiểu thế nào gọi là yêu. Luyến có cảm giác bâng khuâng. Từ ngày chớm mùa tình tự, Luyến chưa yêu ai và cũng chưa ai yêu Luyến. Nó nhìn xuống. Một chân bị mất. Thiếu nữ nào yêu Luyến? Thời đại này, thời đại loạn ly chiến trường nuốt hết mộng mơ của con người. Thời đại cực thịnh lãng mạn, bồng bế và quyến rũ đã chết. Tìm đâu ra những thiếu nữ say đắm Hàn Mạc Tử? Luyến không phải là thương binh được nhạc sĩ cách mạng đưa danh dự lên chót vót mà đòi con gái yêu, con gái tôn sùng thương binh hào kiệt như người tình lý tưởng của cuộc đời lửa đạn:

... Chàng về

chàng về nay đã cụt tay

Máu đào đã tưới trên thây

trên thây bao nhiêu quân thù

U hù

từ ngày, từ ngày chinh chiến mùa thu...

Luyến không đi chinh chiến mùa thu, mất một chân, chứ không cụt một tay. Sự mất một chân của Luyến vô tích sự. Nhờ mất một chân, máu đào không tưới trên thây quân thù, được hồi cư bằng cam nhông. Con gái thời đại chiến chinh yêu thế nào được người cụt chân trong chiến tranh không phải là thương binh. Khi cái chất lãng mạn nó bay đi mất tích, chỉ còn cái thực tế phũ phàng, Luyến khó mà tìm ra người yêu. Luyến bâng khuâng nghe tin Ngọc đến thăm mình. Băn khoăn thôi. Không rạo rực.

Mới xế trưa. Luyến thấy mình nôn nóng. Như thể chờ đợi một cái gì quan trọng. Nó lại thắc mắc y như đã thắc mắc. Tại sao Ngọc đến thăm mình? Con gái ông trưởng ty bưu điện thị xã Thái bình, vụt một cái, cơ hồ trái bóng rót dầu, tuổi hoa niên của Ngọc đã bay đi, biến thành một thiếu nữ hai mươi. Người ta bảo tuổi hai mươi khác với hai mươi tuổi. Khác ở chỗ nào? Ngọc hai mươi tuổi hay tuổi hai mươi? Gặp Ngọc, sẽ có câu trả lời. Quá trưa, Ngọc sẽ đến. Quá trưa là mấy giờ? Bây giờ đã xế trưa. Những hẹn hò của tình nhân thường oái oăm như vậy. Ngọc đâu phải là tình nhân của Luyến? Và, Luyến chẳng hy vọng gì có tình nhân!

Đến trưa, cha Luyến về nhà ăn cơm. Rồi lại đến sở ngay. Mẹ Luyến đi lễ ở chùa làng Đoan Túc. Còn mình Luyến nằm nhà. Mong Khoa tới, nói chuyện đến lúc quá trưa cho vui, cho đỡ suy nghĩ bâng quơ. Khoa chẳng tới sớm làm gì. Luyến chống nạng đi loanh quanh trong phòng khách. Nó ngồi trên ghế. Rót hai chén nước. Đổ vào ấm. Lại rót. Uống một hớp. Hai, ba hớp. Đứng dậy. Chống nạng ra ngoài cửa. Vào nhà. Ngọc chưa tới. Luyến sốt ruột rồi. Luyến chẳng hy vọng gì có tình nhân. Mà sao sốt ruột? Có lẽ Ngọc gặp Luyến để hỏi tin tức về Côn. Nó thích Côn và nay yêu Côn. Phải, Côn đáng yêu lắm chứ! Cháu nội cụ Hào Điển, Đặng Đình Điền, thủ quỹ Việt Nam quốc dân đảng, thời Nguyễn Thái Học. Nó chơi với bạn chiều bạn hết chỗ nói.

- Anh Luyến có nhà không?

- Ai đó?

- Ngọc đây, Vũ Cẩm Ngọc đây.

Luyến mở cửa. Biết chắc là Ngọc, còn hỏi ai đó! Luyến choáng váng cả người.

- Anh lạ lắm hả, anh Luyến?

Luyến rúng động thân thể, mãi mới nói được:

- Ngọc...cô Ngọc, ngồi chơi xơi nước...

Ngọc cười lớn:

- Dạo này anh Luyến khách sáo quá, nhỉ?

Luyến cười theo:

- Bố tôi di làm, mẹ tôi...

Ngọc nói giùm Luyến:

- Mẹ anh đi lễ chùa Đoan Túc với mẹ em và bác cả Hồng. Hẹn nhau từ sáng nay đấy, anh ạ!

- Thế à?

- Vâng.

- Cô Ngọc...

- Anh cứ gọi em là em đi, cho thân mật. Anh lớn hơn em một tuổi.

Luyến ngồi im. Nó không nói năng gì nữa, chỉ bàng hoàng ngắm Ngọc.

- Anh lạ lắm, hả?

Ngọc hỏi lại câu đó.

- Lạ lắm, cái gì?

- Về em.

- Không.

- Để em nói, anh hết lạ. Em hồi cư vào Hải Phòng, đầu năm 1950, hôm người Pháp tới Phụ Dực quê ngoại em. Bố em được làm ngay. Em phi dê tóc, ăn mặc kiểu thành phố, anh phải lạ lắm, chứ?

- Vâng.

- Anh đừng vâng, em giận đó.

- Ừ, lạ lắm.

- Sao anh bảo không lạ?

- À...

Ngọc tự rót lấy nước uống. Nó mặc chiếc áo dài mầu xanh da trời, chiếc quần đen. Khuôn mặt nó phơn phớt chút phấn hồng. Đôi môi nó tô nhẹ làn son đỏ. Nó xách cái bóp nhỏ. Trời nắng, nó mang nón theo. Luyến chiêm ngưỡng nhan sắc của Ngọc. Mới ngày nào, còn thích chọc ghẹo Ngọc, nó không thấy Ngọc đẹp tuyệt vời như hôm nay. Từ con bé nhỏ ưa ăn vòi, nó biến sang gái chanh cốm. Ngọc đẹp thật, dưới mắt nhìn của Luyến. Thằng Luyến chỉ biết con Ngọc đẹp não nùng, chứ không tơ hào gì cả.

- Ái theo kháng chiến không về hả, anh?

- Ừ.

- Anh Vũ cũng không về?

- Ừ.

Luyến đợi Ngọc hỏi tới Côn, Ngọc không hỏi.

- Bố em xin đổi bề Thái Bình. Người ta đồng ý ngay, vì thị xã thiếu trưởng ty bưu điện. Nhà em còn ở nhờ bác Đông tài chính, sẽ làm nhà lại, anh ạ!

Luyến hỏi:

- Cô có thích về thị xã không?

Ngọc nhăn mặt. Đôi mắt Ngọc đã nẩy vài tia giận dỗi. Luyến thấy ngay. Nó hỏi lại:

- Em có thích về thị xã không?

Ngọc cười, nụ cười thơm ngát:

- Em thích ghê.

- Tại sao?

- Thị xã, quê mẹ em, to hơn nhà băng Đông dương, nơi em gửi hết kỷ niệm tuổi thơ, kỷ niệm bạn bè, kỷ niệm trường lớp, tại sao em không thích? Anh Vũ có Thúy yêu thương. Anh Côn nhạt nhẽo lắm. Nhớ anh là để nhớ anh, những gì xa xôi nữa, em không lưu ý.

- Với tôi, thì què quặt!

- Mẹ anh đã cho em biết. Vì anh què quặt, em mới tới thăm anh, trước nhất.

- Em thương hại anh què?

- Đừng nghĩ đến chuyện què, anh ạ! Anh vẫn là anh của em. Nghĩ xem, trên đời này, biết bao nhiêu người đủ tay chân mà vẫn sống vô tri giác. Người ta hơn nhau ở đầu óc. Không đầu óc, chân tay để làm gì nhỉ?

- Ai dạy em nói thế?

- Em dạy em. Tuổi tác lớn, suy nghĩ lên cao.

- Anh thiếu đầu óc, em ạ!

- Thôi đi, Luyến nghịch ngợm! Lê Huy Luyến thiếu đầu óc, ai có đầu óc?

Tự nhiên, Luyến sung sướng vô cùng. Ngọc đã nói lên điều Luyến chưa nghĩ tới. Cám ơn Vũ Cẩm Ngọc! Luyến thấy có thể nói đủ thứ chuyện với Ngọc rồi. Ngọc đáng kính mến. Nó không quên dĩ vãng tốt đẹp của mình.

- Em có ghét anh không?

- Ghét lắm, nếu anh cứ bảo anh thiếu đầu óc.

- Vẫn đầu óc.

- Đầu óc thì ghét sao nổi.

- Đầu óc giữ kỷ niệm.

- Thì nhất.

- Anh nhớ một kỷ niệm về em đây.

- Nói di, anh!

Luyến thuật lại canh tam cúc, năm xưa. Có Luyến. Có Côn. Có Thuý. Có Ngọc. Bốn người. Luyến bỏ ngang về, dọa không chơi với Côn nữa. Hòa cả làng.

- Em hãy còn nhớ.

- Anh đẹt mũi em, đau không?

- Đau lắm.

- Bây giờ, anh đền em.

- Đền gì?

- Cho em đẹt mũi anh tơi bời.

- Bấy giờ, anh đã đền em rồi.

- Đâu?

- Anh thắng Thúy, từ chối cho chịu. Anh Côn bênh Thúy, phá đám cuộc chơi, Thúy hết bị anh đẹt mũi.

Ngưng một lát, Ngọc buồn rầu nói:

- Anh Côn yêu Thúy, Thúy không yêu anh Côn. Em yêu anh Côn, anh Côn không yêu em.

Ngọc quên buồn rầu rất nhanh, nhìn Luyến đăm đăm và vui vẻ:

- Người nào lấy anh, người ấy sẽ hạnh phúc suốt đời.

Tâm hồn Luyến bay trong mơ lãng đãng:

- Hạnh phúc hay khổ đau?

Ngọc bám chặt vào giấc mơ:

- Hạnh phúc toàn diện. Lấy chồng cụt chân, chồng không bị đi lính, ở bên chồng suốt đời...

Luyến lặng thinh và Ngọc cũng lặng thinh. Để nghe trời nói những lời tình tự. Chỉ mải nghe trời nói, Luyến quên không hỏi Ngọc: Em hai mươi tuổi hay tuồi hai mươi...

giavui
10-16-2015, 06:50 PM
10

Luyến và Ngọc đứng trên cầu Bo, nhìn nước lũ xuống dần, và chẩy chậm lại. Nước lũ không còn hung hăng như mấy hôm trước. Mới vỡ đê năm 1945; muốn vỡ đê, phải đợi vài chục năm nữa. Người ta vẫn sợ nước lũ, tuy nước lũ mang về cho nông dân bao nhiêu nguồn trù phú. ruộng đồng đầy mầu mỡ. Ao ngòi vô số cá tôm.

Nước lũ đe dọa nỗi vỡ đê. Mà, vỡ đê là niềm lo sợ truyền kiếp của dân mình. Nhãn năm nay mất mùa. Đê không thể vỡ được. Nhãn được mùa, người ta hồi hộp đến tận rằm tháng bảy âm lịch. Nếu rằm tháng bảy, nước lũ không lên, người ta mới thở ra, sung sướng. Hết lụt lội, người ta ngại bão táp. Vụ tháng mười, nhiều đường vất vả lám. Chờ tháng chín tới, bão táp không làm lúa gẫy cổ, gục xuống, người ta mới biết chắc được mùa. Để chuẩn bị ăn tết.

Nhà quê nó liên hệ gắn bó với thành phố. Nhà quê hạnh phúc, thành phố hạnh phúc. Nhà quê bất hạnh, thành phố bất hạnh luôn. Ở thị xã, ngoài cái liên hệ thương mại, học đường gắn bó lấy nông thôn, còn mật thiết về gia đình, họ hàng, người cùng quê hương yêu dấu. Cho nên, bất kể chuyện gì xẩy ra ở nông thôn mình, thị xã cũng bồi hồi tấc dạ. Luyến và Ngọc xem nước lũ xuống dần, đâu phải cho riêng hai đứa chẳng có miếng đất nào ở thôn quê. Chúng nó biết vì người Thái Bình, tất cả.

- Về thôi, Ngọc!

Luyến ngó đồng hồ.

- Mấy giờ rồi, anh?

- 5 giờ.

- Tháng chín dương lịch mà vẫn còn oi bức. Mùa thu đấy, giữa thu chứ! Các ông thi sĩ toàn bịa cả.

Luyến mỉm cười:

- Em đã lớn lên vì thơ rồi chăng?

Ngọc vuốt tóc đang bay theo gió:

- Có lẽ, anh ạ!

Luyến tán tỉnh:

- Cho anh nghe một bài đi!

Ngọc hơi xấu hổ:

- Một bài mùa thu thi sĩ bịa nhé?

Luyến không trả lời. Hai đứa cùng ngó xuống sông. Nước chẩy rầm rĩ dưới gầm cầu. Ngọc khe khẽ đọc.

- Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng



Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rủa mầu xanh

Những buồn run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh



Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò



Mây vẩn từng không chim bay đi

Khí trời u uất hận chia ly

ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì

Nước vẫn chẩy rầm rĩ dưới gầm cầu. Nước quyện lấy thơ. Nước im lặng như thôi chẩy. Thơ tắm trong nước. Nước và thơ chỉ còn là hơi thở man mác.

- Hay quá, buồn thu.

- Anh thấy ông Xuân Diệu bịa mùa thu chưa? Nóng nung người, ông lại tả Đã nghe rét mướt luồn trong gió.

- Em đang đứng trên cầy Bo, thị xã Thái Bình, trách móc thi sĩ Xuân Diệu. Mình biết Xuân Diệu làm Đây mùa thu tới ở chỗ nào? Hà Nội hay Ba Vì, Hải Phòng hay Bắc Cạn. Thôi, cứ đọc thơ ngưòi ta là đủ. Cần gì thơ bịa hay không bịa. Bịa là không bịa. Không bịa là bịa. Thi sĩ mà, em.

- Anh thích không?

- Xuân Diệu bài nào anh cũng thích. Em biết hát không nào?

- Biết.

- Em hát Thu bên sông đi!

- Không biết bài này. Của ai thế, anh?

- Việt Lang.

- Thời Xuân Diệu, hả?

- Thời kháng chiến. Việt Lang lạ lắm. Anh ta đã làm Đoàn quân đi, Mùa không biên giới, sau anh ta chán nản làm Thu trên sông. Anh hát chả ra cái gì cả, cứ hát cho em nghe, nhé!

- Anh hát đi, anh!

Ngọc im lặng. Tiếng hát của Luyến bay lên trời:

- Nắng phai dần đồi nương áng mây

gợi nhớ

Thu tịch liêu bóng chiều về

tương tư gió

Ngồi đây nâng phím đàn

xao xuyến đường tơ

Đã bao mùa thu chín trái mong chờ

Ru đời thu mộng du ướt át

tình thu vàng mơ bát ngát

Đất trời say thu đó chăng



Ru đời ta quặn đau chất ngất

tình ta nằm sâu đáy đất

Chớm thu hồn đã phai tàn

Buồn trăng nước

gió lùa bên song lá vàng bay tung

sầu mênh mông đàn khóc trong đêm

lửa thiêng nghiêng bóng

Gọi người nhớ ai

Thu năm xưa muốn còn tìm tới

Em xa anh đôi miền đất xa trời

Thu cô liêu và tôi cô liêu

Thu úa héo tôi là tiếng thông reo

Mùa thu chết sắp qua

xót xa nỗi mình bão táp mưa sa

Đi là mang sầu thương bến nước

về muôn trùng dương nỗi ước trường giang

Nhạc đã tắt. Âm thanh còn rung động sông nước.

- Nhạc Việt Lang tuyệt vời.

- Có ngôi thứ trong kháng chiến đấy.

- Mai anh dạy em, nhé!

- Sẽ dạy em tất cả nhạc kháng chiến lãng mạn. Từ Nhớ thành Tô của Tô Vũ, đến Ba Vì của Huy Du. Anh sẽ học chơi đàn Y pha nho đệm cho em hát.

- Anh thấy chưa? Người ta phải tổ chức đêm thơ, đêm nhạc, hát ngâm cho nhiều người nghe. Thị xã có cầu Bo để em và anh hát và đọc thơ cho chúng mình nghe. Thơ mộng chưa, Luyến nghịch ngợm!

- Hết được nghịch ngợm rồi.

- Luyến đầu óc nhé!

- Không, Luyến cụt chân!

Hai đứa phá ra cười.

- Mấy giờ rồi, anh?

Luyến vén ống tay áo:

- 5 giờ 30. Mình về thôi, em!

Hai đứa về, vừa đi vừa trêu nhau. Đến đầu cầu, bắt đầu từ con dốc, Ngọc chạy lên đi trước. Con bé đi giật lùi. Để Luyến có vấp ngã, Ngọc kịp nâng lên. Hạnh phúc đang đến với hai đứa. Niềm vui bảng lảng khắp nơi. Chợt, môt chiếc xe cam nhông từ cầu Bo, chạy xuống phía hai người. Rồi, hai, ba, bốn, năm chiếc theo sau. Pháp chở tù binh cách mạng bị bắt trong cuộc hành quân Trái Chanh. Xe để trần, vì trời nóng. Mỗi chiếc chở chừng 30 tù binh, tay bị trói cánh khuỷu. Người nào người ấy, há hốc miệng, thè lưỡi ra, khát lắm. Chắc họ bị bắt từ sáng sớm, chưa được ăn uống gì. Họ ngồi tập trung một chỗ, phơi nắng suốt ngày. Ngồi trên xe căm nhông chật chội như nhét vào hộp, bị nắng thiêu đốt, thèm uống nước đến chết. Tù binh cách mạng toàn mặc quần đùi, áo cánh nâu, nhiều người không mặc áo, ở trần. Trông tận mắt, thấy cảnh tượng con người đối với con người ghê tởm quá, Luyến nổi giận:

- Em về nhanh trước đi, Ngọc.

- Không, em đứng bên anh.

- Làm gì?

- Để đưa anh về. Mắt anh ngầu đỏ, đang long lanh cơn phẫn nộ.

Năm chiếc xe tù binh và ba xe jeep lắp đại liên hộ tống, không vào khu quân đội Pháp đồn trú. Mà chạy quẹo tới bệnh viện. Từ hôm, bắt đầu cuộc hành quân Trái Chanh, Luyến chưa hề thấy Pháp bắt tù binh. Hôm nay, Luyến mới chứng kiến tận mắt, và tin rằng Pháp đã bắt nhiều cách mạng, giam hết chỗ, đành đem ra chỗ bắn đại bác, đối diện bệnh viện, tạm nhốt vài hôm.

- Tù binh không còn là con người nữa, em ạ!

- Họ bị khát ghê quá.

- Bị khát thè lưỡi như chó, khiến con người mất hết phẩm cách làm người. Đã đói chưa đủ, khát chưa đủ, còn trói con người, đầy ải cho nắng thiêu con người. Những bài học L'Amour de l'humanité người Pháp dạy anh, ngày xưa, đáng xé đi là vừa. Anh đến bệnh viện đây.

- Cho em theo.

Luyến ngạc nhiên. Khu pháo binh đặt đại bác câu đi đã di chuyển. Hàng rào ba lớp dây thép gai mới làm xong. Tù binh bị dồn vào. Chung quanh, lính da đen canh gác. Mấy khẩu tiểu liên sẵn sàng khạc đạn. Người ta cấm không cho dân thị xã đến gần. Luyến và Ngọc phải đứng ở thềm nhà, đằng xa. Tù binh đã xuống xe. Họ ngồi một chỗ. Không có nhà, có lều ở nơi đây. Đêm nay, họ sẽ sống ngoài trời. Sáu giờ chiều, dân thị xã biết gần hết. Dân mang nước, bánh đến cho tù binh. Lính da đen đuổi đi hết. Tù binh vẫn há hốc miệng, thè lưỡi như chó khát.

Bên cạnh tù binh ngồi, cách một con đê cao, là sông Trà Lý. Con sông nước ngầu dỏ đang chảy ra biển. Tù binh chỉ được uống nước sông ngát phù sa đã tỉnh và, dần dần, biết mình còn làm người. Sự thèm khát khiến con người còn một chút ước mơ, cũng không bao giờ ước mơ tới.

Bây giờ, con người khát lè lưỡi ra, dẫu được uống nưóc ao tù, nước cống hay nước tiểu cũng say sưa. Cái say sưa của người hết làm người. Tù binh không được uống một thứ nước gì! Lính da đen canh gác, thỉnh thoảng, uống hộp nước ngọt, một cách bình thường. 6 giờ 30, một xe jeep tới, mang lệnh của Hành dinh Pháp, cởi trói cho tù binh.

Luyến cố nhớ lại ngày Nhật đảo chính Pháp ở thị xã Thái Bình. Nhật hành hạ Pháp, bắt Pháp kéo xe bò chở đá, lột giầy chân không, cho khát rã họng, thè lưỡi như chó. Pháp không thể trả thù Nhật. Phát căm giận phát xít Đức, Nhật. Đành trả thù dân Thái Bình, những người đã lén Nhật, đem nước cho Pháp uống ở bên kia cầu Bo.

- Pháp cởi trói cho mình kìa.

- Vẫn bắt khát.

- Bắt người ta khát làm gì nhỉ?

- Cho hết theo cách mạng chống Pháp.

7 giờ. Trời đang nóng nực, bỗng trở nên oi nồng. Tiếng sấm đã nổi dậy. Gió bắt đầu thổi. Muốn mưa hay sao ấy. Tự nhiện, Luyến biến thành trẻ con. Nó cầu mưa. Lạy trời mưa xuống, lấy nước tù binh uống.

- Cầu mưa đi, em.

- Vâng, em đang thầm cầu.

- Cầu to để trời nghe thấy. Chỉ có trời mới làm con người hết khát, lúc này.

- Anh tin trời à?

- Tin.

Gió thổi mạnh. Sấm vang lừng. Chớp chiếu những tia an ủi. Một lát, trời mưa. Luyến nhìn về chỗ nhốt tù binh căng mắt. Mưa ầm ầm đổ. Nước xối xả rơi. Tù binh được cởi trói, nằm ngửa cả ra, há mồm rộng hứng nước mưa từ trên trời đổ xuống. Nơi tạm nhốt tù binh là khu đất phẳng phiu, không có lỗ chứa nước được, tù binh chẳng nằm sấp uống mà đành nằm ngửa. Nằm ngửa, nước không đủ đánh tan cơn khát, tù binh phải cởi áo hứng nưóc mưa. Tù binh nào mình trần, cởi luôn quần đùi hứng nước. Lính da đen dã mặc áo đi mưa, canh phòng kỹ hơn. Tù binh hứng ướt áo quần bèn vắt nước vào miệng. Cơn khát xuống dần. Trời vẫn mưa to không ngớt. Những ông nhà văn viết L'Amour de l'humanité, có thể, xem cảnh bắt khát của lính Pháp, viết lại tình yêu nhân đạo.

Luyến bị lính Pháp bắn gẫy chân, chở vể bệnh viện săn sóc và an ủi khi Luyến lành bệnh . Luyến đã mang ơn Pháp. Bây giờ, Luyến lại ghét Pháp. Thì ra, Luyến đã quên cái thiện cho riêng mình, chỉ nhớ cái ác cho đồng bào Luyến. Thời chiến chinh, cái thiện đến rất ít, cái ác đến rất nhiều. Cái thiện làm theo cảm hứng, cái ác làm theo mệnh lệnh. Người ta không lường nổi.

- Đi về, em!

- Trời đang mưa lớn.

- Anh muốn lê nạng gỗ dưới mưa.

- Để làm gì?

- Làm người Việt Nam bần tiện, thấy đồng bào mình thống khổ, vẫn thản nhiên quay đi.

Ngọc chiều ý Luyến. Hai đứa bước trong mưa tầm tã. Quần áo bó lấy thể xác. Ướt như chuột. Tiếng gầm của sấm sét làm át tiếng nạng khua.

giavui
10-16-2015, 06:50 PM
11

Tháng 10, chấm dứt các cuộc hành quân Trái Chanh, Trái Quít. Lính đã về đóng đầy thị xã. Nhiều hiệu ăn uống mở cửa. Ở bến ô tô, quán Sông Trà bán chè sen ngon lắm. Lính ra vào kín mít. Chỉ còn thiếu cao lâu của người Trung hoa. Tù binh trong cuộc hành quân, Pháp tách ra làm ba loại: Loại dân chúng bắt lầm, Pháp thả về ngay; loại dân quân, du kích, Pháp giữ ít ngày dọn dẹp trại, rồi cũng thả về; loại bộ đội chính quy, không người thân thích bảo đảm, Pháp đưa sang Nam Định, giam giữ lâu, chờ thời gian trao đổi tù binh. lính Bùi Chu - Phát Diệm vẫn ở lại Thái Bình. Còn nhiều cuộc hành quân khác. Trái Chanh, Trái Quít đã thành công. Hưng Nhân, Tiên Hưng, Đông Hà coi như đã ổn dịnh tình hình. Bộ đội chính quy tiêu tan trong cuộc hành quân này. Lính pác ti dăng đóng quân nhiều nơi, không còn ngại cách mạng nữa.

Lình Bùi Chu - Phát Diệm tản bộ trên đường phố thị xã. Bây giờ, dân chúng mới gặp đích thực sức mạnh của linh mục Hoàng Quỳnh. Họ phần đông là nông dân hiền lành, chất phác, những con chiên ngoan đạo nhất của nhà thờ Bùi Chu, Phát Diệm. Hoàng Quỳnh đem tiền bạc và thế lực của mình tuyển họ vào lính, giữ gìn an ninh vùng tự trị. Thì họ vào, vì tiền bạc. Họ không vì thù hận cách mạng, Hoàng Quỳnh bảo họ đi dẹp cách mạng. Thì họ đi, vì lệnh cấp chỉ huy. Hoàng Quỳnh bảo họ sang Thái Bình. Thì họ sang. Dân thị xã không ghét Hoàng Quỳnh, thù hận Hoàng Quỳnh. Mà lại ghét lính Bùi Chu - Phát Diệm, thù hận lính Bùi Chu - Phát Diệm.

Bên này phố Lê Lợi, hai người lính Bùi Chu - Phát Diệm tha thẩn bước. Họ đeo cả thánh giá vào cổ. Ra trận cũng như đi chơi. Họ dễ thương không ngờ, nói năng ngọng nghịu đến thương hại. Tiền lương Pháp trả họ, Hoàng Quỳnh ăn hết một nửa. Họ không dám vào hiệu ăn uống, mua sắm ít quà Thái Bình đem về cho vợ con. Họ chỉ nhìn và thèm thuồng. Đằng xa, toán lính pạc ti đăng đi lại, vây chặt hai người lính Bùi Chu - Phát Diệm.

- Ê mày, lính gì vậy?

- Thưa anh, lính Bùi Chu - Phát Diệm.

- Đi hành quân Trái Chanh, Trái Quít giết nhiều Việt Minh không?

- Nhiều.

- Được thưởng chưa?

- Ai thưởng hở, anh?

- Bố Pháp!

- Chưa.

- Vậy hả? Bố Pháp quên lính Bùi Chu - Phát Diệm thì Pác ti dăng nhớ. Đây lĩnh tiền thưởng!

Toán lính pác ti dăng hùa nhau đấm đá hai người lính Bùi Chu - Phát Diệm. Pác ti dăng đánh họ rất đau. Những trái đấm nhằm mắt họ. Những trái đá nhằm bụng họ. lính Bùi Chu - Phát Diệm không kịp đỡ. Họ tối tăm mắt mũi:

- Sao lại đánh tôi?

- Về hỏi thằng Hoàng Quỳnh.

- Lạy các anh, tha chúng tôi...

- Cút về Bùi Chu - Phát Diệm của chúng mày ngay! Rừng nào cọp ấy, đất Thái Bình của chúng tao, nghe chưa?

Pác ti dăng vẫn đấm đá lính Bùi Chu - Phát Diệm. Lính Pháp ngồi trên jeep phóng qua, thấy lính Việt Nam ẩu đả với lính Việt Nam, lờ đi, chẳng can thiệp. Lính da đen mặc kệ, còn mải tìm y tá chữa bệnh lậu. Bảo chính đoàn lỉnh sang phố khác. Tòa tỉnh trưởng không dám lên tiếng. Pác ti dăng cứ việc tự do hành hung lính Bùi Chu - Phát Diệm. Linh mục Hoàng Quỳnh không biết. Những vết thương trên thân thể hai người lính Bùi Chu - Phát Diệm biết, không nói được. Những lính pác ti dăng yêu Việt Minh, ghét Pháp, thù Bùi Chu - Phát Diệm, đánh hai người lính Bùi Chu - Phát Diệm rã người, gục xuống.

- Các ông tha chết cho chúng mày. Lúc tỉnh hãy nhớ: Các ông không muốn nhìn lính Bùi Chu - Phát Diệm ở Thái Bình ngày nào nữa.

Toán lính pác ti dăng bỏ đi, tìm lính Bùi Chu - Phát Diệm khác, để mặc hai nạn nhân khốn nạn đang lồm cồm bò dậy. Dân thị xã không một chút tình thương cho họ. Dân thị xã quả quyết rằng, năm xe căm nhông chở tù binh cách mạng bỏ đói, bỏ khát hôm nọ, lính Bùi Chu - Phát Diệm đóng góp nhiều công lao vào. Cái thù này đẻ ra cái thù khác, chẳng bao giờ hết được. Bên kia phố Lê Lợi, lính pác ti dăng cũng đang hỏi tội lính Bùi Chu - Phát Diệm. Ở các phố nhỏ giống phố chính, người ta đang truy nã nhau. Cùng đánh Việt Minh, một số lớn pác ti dăng lại yêu Việt Minh ghét Pháp và thù Bùi Chu - Phát Diệm. Phải chăng, Việt Minh đã lũng đoạn lính pác ti dăng?

Tin lính pác ti dăng đánh lính Bùi Chu - Phát Diệm vang động cả thị xã. Dân chúng hả hê lắm. Người buồn tênh là Lê Huy Luyến. Luyến không trách móc, không tỏ vẻ cay cú lính Bùi Chu - Phát Diệm. Luyến chỉ khinh bỉ thái độ của Hoàng Quỳnh, chở căm thù thêm vào vùng trời Thái Bình. Những người lính Bùi Chu - Phát Diệm bị đánh oan sẽ không hiểu tại sao mình bị đánh. Họ đã bị hận thù theo rõi. Hận thù đón mọi ngả để thanh toán mọi người, trên quê hương Việt Nam. Một ngày, hàng chục lính Bùi Chu - Phát Diệm bị xử tội công khai, bị tra tấn công khai, dưới mắt giả vờ mù của Pháp, dưới mắt thông manh của Bảo Hoàng. Người lính già pác ti dăng hỏa đầu quân đã dọa không sai. Mới đánh, chưa phơ.

Sáng hôm sau, mở cửa quét hè, người làm của ông chủ hiệu sách Đông A phát giác có máu chẩy từ cái bảng hiệu trên mái nhà, đầy hè. Ông Đông A đi trình cảnh sát. Cảnh sát tới, bắc thang leo lên. thấy ba cái đầu lâu nằm sau bảng hiệu. Cảnh sát bê từng chiếc đầu lâu xuống, bầy trên vỉa hè. Tin loan mau lẹ, thị xã biết hết, kéo nhau đến xem.

- Khiếp quá!

- Sao lại chỉ có đầu lâu?

- Dân thị xã hay Việt Minh?

- Lính thanh toán nhau đấy mà.

- Lính nào với lính nào?

- lính Bùi Chu - Phát Diệm bị giết.

- Ai giết?

- Không biết.

Cảnh sát viên nói:

- Họ bị giết vào khoảng nửa đêm. Thân thể họ cũng gần đâu đây thôi. Mà sao lại chơi ác thế? Giết một nơi, cắt đầu lâu đem bỏ một nơi.

Một người dân:

- Họ nhè ông Đông A đổ nợ, lạ thế?

Người dân khác:

- Ông Đông A thân thiết với cha Chỉnh.

Chưa biết đâu vào đâu, một người đã hớt hơ chạy tới hiệu Đông A:

- Ông Bình An cũng đi trình cảnh sát.

- Việc gì?

- Hai cái đầu lâu dính sau bảng hiệu.

- Bình An người Lạc Đạo. Tới xem đi.

Chuyện trở nên quan trọng. Đến nỗi ông tỉnh trưởng phải đến, đại úy quân đội Pháp phải ra để điều tra. Luyến đã biết ai giết ai rồi. Phơ, chúng nó sợ, cút ngay về Bùi Chu - Phát Diệm, cho ăn kẹo cũng không dám bén mảng sang Thái Bình. Người lính già hỏa đầu quân pạc ti dăng đã nói thế. Lính pác ti dăng bỏ đầu lâu trên bảng hiệu Đông A là cảnh cáo Đông A thân thiết với linh mục Nguyễn Văn Chỉnh, trên bảng hiệu Bình An là răn đe dân Lạc Đạo. Có Việt Minh dúng tay vào nên lính pác ti dăng mới chơi đẹp mắt.

Một tiếng đồng hồ sau, cảnh sát tìm ra năm cái xác trần truồng như nhộng. Quân đội Pháp chở hết vào bệnh viện dã chiến của họ. Tòa tỉnh trưởng ra lệnh nghiêm cấm kẻ nào nhắc tới chuyện này. Không ai dám nói.

lính Bùi Chu - Phát Diệm được lệnh phải rút quân về. Từ đó, lính Bùi Chu - Phát Diệm không sang Thái Bình nữa.

Khoa học lớp đệ tứ, niên học 1951-1952, trường trung học tư thục Trần Lãm. Cậu Trần Khoa chuẩn bị thi trung học, năm nay. Em gái cậu, cô Cẩm Tú, học lớp đệ lục, cô Chi Mai, học lớp đệ thất, trường trung học công lập Nguyễn Công Trứ. Anh trai cậu, Trần Vũ, còn trong bộ đội chống Pháp. Thời đại cứ xoay và mọi người cứ sống...

giavui
10-16-2015, 06:51 PM
12

Hôm nay, sinh viên Trường Sĩ Quan Nam Định sang đá bóng giao hữu với thanh niên thị xã Thái Bình. Họ đến lúc 10 giờ sáng để về lúc 5 giờ chiều cho phà Tân Đệ dễ dàng làm việc. Sinh viên toàn là trí thức. Họ đẹp giai, sáng sủa, khiến con gái thị xã mê mệt. Quân phục của sinh viên khác hẳn quân phục của Pác ti dăng, Bảo chính. Họ đi lại khắp phố, ngắm thị xã tiêu thổ kháng chiến. Mọi người ra xem họ, đều tặc lưỡi khen thầm. Sinh viên tuổi còn trẻ, ăn nói lịch sự, lễ phép. Cả thị xã xặc mùi tiểu tư sản, cái mùi quyến rũ làm sao! Họ thích trò chuyện, dân thị xã cũng thích chuyện trò với họ. Đây là tinh hoa của miền Bắc. Họ gặp gỡ nhau ở thành phố Nam Định. Họ đang đi học, Pháp động viên họ, chứ họ không muốn đi lính. Bùng bình trong thời đại, phải theo thời đại. Họ trốn tránh cách mạng, vào vùng quân Pháp tạm chiếm đóng. Họ không thể chạy ra hậu phương sống với cách mạng, đành nương Pháp và theo Pháp. Sinh viên sĩ quan có tâm sự ê chề, khó nói. Kiến thức của họ đem phục vụ Pháp, họ đau đớn lắm!

Khoa theo sinh viên sĩ quan tới trưa, họ đi ăn cơm, Khoa mới về. Tiếc hùi hụi. Họ đồng dạng với bộ đội tiểu tư sản. Bây giờ, bộ đội tiểu tư sản không còn trong Quân đội nhân dân nữa. Tiểu tư sản là sản phẩm của thành phố. Lính giai cấp tiểu tư sản trong thành đánh lính giai cấp vô sản ngoài thành.

Tiểu tư sản ăn dứt hết, chỉ thua vô sản một điều: chính nghĩa. Cả nước đang chống Pháp, bảo vệ tự do, dân chủ. Ai nghi ngờ? Người tiểu tư sản chui vô rọ nô lệ, Pháp sai đi diệt nhân dân đang chống Pháp tưng bừng, mọi nơi, trên đất nước Việt Nam. Sự thực của người tiểu tư sản nói không ai chịu nghe. Cũng đành, mặc áo gấm, đem theo thế động viên, đi đêm buồn bã, phản bội đất nước.

Khoa nhớ rằng Vọng rất tiếc nhớ bộ đội tiểu tư sản và tim vẫn hé mở để lính tiểu tư sản đồn trú. Lính tiểu tư sản vẫn ở với kháng chiến không được kháng chiến và lính tiểu tư sản về tề, theo Pháp, bắn giết cách mạng khác nhau rõ rệt. Liệu Vọng, con người công nhân nghèo khổ, học trường Monguillot, bạn thân của Vũ, Côn, Luyến, có lòng mãi mãi không? Vọng là lính giai cấp vô sản, trái tim không được phép mở tự do. Đảng của Vọng sẽ nhét xi măng cốt sắt vào trái tim Vọng. Vọng sẽ phải tuân lệnh Đảng, bắn bỏ lính tiểu tư sản như lính tiểu tư sản, sẽ phải tuân lệnh thực dân Pháp, bắn bỏ lính giai cấp vô sản. Lúc này, Khoa cũng nhớ câu nói của Vọng, câu nói mà Luyến cho là bậc thầy, lúc này, gặp sinh viên sĩ quan tiểu tư sản hồn nhiên, Khoa lại càng nhớ: Một mai, em sẽ oán trách người này, bênh vực người nọ. Rồi, em sẽ ân hận, vì oán trách sai, bênh vực sai nốt. Con người này chống đối con người nọ, không phải con người thích chống con người. Mà, hoàn cảnh nó dìu đi. Hoàn cảnh nào? Khoa không biết nổi. Để lát nữa, gặp Luyến ngoài sân vận động, sẽ hỏi Luyến.

- Khoa có làm quen cậu sinh viên sĩ quan nào không?

- Thưa mẹ, có

- Họ giỏi lắm à?

- Vâng.

- Họ đi lính là thằng Vũ theo kháng chiến đến già cũng chẳng về được. Con xem, người ta hồi cư tấp nập. Ông Tân Y ở phố Lê Lợi đang xây nhà hai tầng. Người ta sẽ xây lại nhà hết. Dần dần, có nước máy, có điện...

- Nhờ sinh viên Trường Sĩ Quan Nam Định chăng?

- Có họ, lính sẽ hết nham nhở như Pác ti đang, Bảo chính.

- Rất tiếc, mẹ ạ!

- Tiếc gì?

- Họ cũng là lính pác ti dăng!

- Sĩ quan mà.

- Sĩ quan chỉ huy lính pác ti dăng, mẹ ơi!

- Mẹ không tin.

- Thì chỉ huy Pháp vậy! Mẹ đừng tưởng họ sung sướng đâu. Bị Pháp động viên, họ khổ sở, không dám than vãn đấy thôi. Một anh sinh viên đã nói với con như vậy.

- Để bố mày ở Nam Định về, sẽ hiểu rõ. Đi ăn cơm, còn xem đá bóng.

- Con no rồi, không muốn ăn. Con ra bãi bóng đây.

Khoa lững thững bước. 3 giờ đấu giao hữu, l giờ rồi, vẫn chẳng có ai ngoài sân cỏ. Đấu giao hữu thì chán phèo. Đấu tranh cúp mới sôi nổi. Khoa chả còn thích thú xem đá bóng nữa. Nếu sinh viên sĩ quan Nam Định không sang thị xã, Khoa đã rửng rưng. Ngày học lớp ba, Khao chỉ mê đội ban lớp nhì 1. Vì có anh Vũ cú rót dầu, anh Côn cú ngả bàn đèn, anh Vọng cú xuyên chỉ qua kim, anh Luyến bắt bóng như tay quết nhựa michelin. Bốn người đó đã làm đội ban lớp nhì 1 vô địch của trường. Đi xem đội bóng nhà, đến sân thật sớm, cổ võ khô cả cuống họng. Đội nhà thắng, nhẩy múa muốn sập bãi, vỗ tay đến xưng vù lên. Có lẽ, các đội ban tiểu học chơi hay nhất thế giới, mới có khán giả học trò lỳ lợm nhất thế giới, về cách hoan hô, đả đảo. Và, khóc hết nước mắt, khi đội nhà thua.

Khoa nhìn ra sân cỏ. Cỏ đã chết hết, từ độ vào hạ. Hai khung thành mới làm bằng tre bương, đằng sau không dăng lưới. Chung quanh sân quét vôi trắng. Quét vôi luôn ở khu vực của thủ môn với chỗ sút cú việt vị. Chả biết người ta có dọn dẹp sạch sẽ không, chắc chắn còn khá nhiều gạch đá. Chẳng có khán đài nào cả, dù danh dự hay bình dân. Chốc nữa, người ta sẽ mang ghế cho người Pháp và ông tỉnh trưởng ngồi. Khán giả bắt đầu tới. Luyến vẫn chưa tới.

Khoa lại nghĩ về các anh sinh viên sĩ quan Nam Định. Thật sự, Khoa yêu các anh ấy như yêu bộ đội năm xưa. Cái gì đầu tiên vào tâm hồn mình, khó mà quên. Cái gì đầu tiên ấy là một bài hát lãng mạn. Khoa không biết lãng mạn, cứ học bừa. Và, anh bộ đội cũng dạy bừa. Anh bảo, Việt Lang, bạn của anh, làm bài này. Sau khi vất vả phá tan biên cương loài người, Việt Lang tìm kiếm Những hình bóng qua. Anh bộ đội Hưng Yên bảo Khoa: Cứ hát đi, em sẽ tìm hình bóng qua, ngày mai.

Đàn thu trầm dâng khúc ca sông hồ

Mấy đường tơ biếc rung lời năm xưa

Mùa trăng hàng dương liễu xanh đôi bờ

Ai về cho nhắn một vài ý thơ

Tà áo nhuốn bao mầu thời gian

Buồn xa vắng nghe chiều than van

Từng đôi mắt nụ cười yêu đương

Trên bến đời say ngát muôn đường

Tầm ngược xuôi khuất bao hình bóng

Phấn hương tình cuốn bay chiều hoang

Và nơi đây lãng quên ngày tháng

Hồn nương theo cánh chim bạt ngàn

Còn đêm nao dấu môi mộng mơ

Ý xuân nồng đã dâng mùa qua

Chạnh tương tư gió reo gọi lá

Sầu lây lưa úa phai mầu hoa

Năm xưa nhắc nhở lá vàng cuốn

phiêu du

một trời thắm gió

tới năm canh đường đời

gót phong sương bao lần

đợi chờ hình bóng ai

Khoa chưa lớn để hiểu những hình bóng qua tâm sự những gì. Có điều, anh bộ đội tiểu tư sản Hưng Yên đã bị đào thải. Hôm nay, Khoa gặp lại anh, qua vóc dáng người sinh viên sĩ quan tiểu tư sản đang được nuông chiều. Các anh ấy sẽ sang Marrakech học lái máy bay. Và, sẽ bay trên vùng trời này, oanh tạc kháng chiến. Các anh ấy sẽ bỏ bom tan xác Vũ, Vọng, Côn. Vũ, Vọng, Côn, có thể, hạ rơi máy bay của các anh ấy. Khoa sẽ không oán trách người này, bênh vực ngưòi nọ như Vọng nói chăng?

- Khoa, Khoa!

Luyến đã lê nạng tới.

- Ra bãi lâu chưa?

- Từ lúc chưa có ai.

- Khán giả lơ thơ nhỉ? Đá bóng nhằm vào ngày phô trương lực lượng cứu hỏa, ít người xem lắm.

- Chiều nay, Lực lượng phòng hỏa và cứu hỏa mít tinh tuần hành hả anh?

- Ừ, 5 giờ.

- Đá bóng hết trước 5 giờ.

- Hai đội bóng chưa ra nhỉ?

- Vâng.

- Đứng xem, anh chịu không nổi, sẽ về sớm.

Tiếng máy bay trực thăng ở cầu Bo vọng lại. Rồi, trực thăng tới sân vận động đáp xuống. Chong chóng quay nhanh, khiến gió thổi mạnh vào khán giả. Người ta chạy ra đường. Vừa lúc, chiếc xe ăm buy lăng xuất hiện, phóng về chỗ trực thăng. Một chiếc jeep chở mấy người lính Pháp tới, đuổi hết khán giả bóng tròn đi. Trực thăng vừa đậu, đã bay lên. Trực thăng khác xuống...

Khoa và Luyến đã bước khỏi sân vận động. Trên đường về nhà mình, Luyến nói:

- Đánh nhau lớn ở Tiên Hưng, Đông Hà rồi. Lính Pháp bị thương rất nhiều.

Khoa hỏi:

- Đến nay, cách mạng mới trả đũa cuộc hành quân Trái Chanh, Trái Quít hở, anh?

- Loài chó, đánh không để chỗ cho nó chạy, nó còn biết quay lại cắn loài người nữa là. Pháp tàn sát cách mạng, phải nhận lễ cách mạng xứng đáng.

- Pháp gục ngã cả bầy.

- Ý vậy.

- Ngày mai, Spitfire sẽ đảo lộn dài dài.

- Và, đại bác không chịu câm họng.

- lính Bùi Chu - Phát Diệm sang thêm nữa không?

- Chưa biết.

- Chỉ buồn cho đội bóng Trường Sĩ Quan Nam Định. Chắc họ lên căm nhông về rồi, không kịp từ biệt khán giả ái mộ!

- Họ thấm thêm nỗi đau nữa.

- Vâng. Còn tỉnh trưởng?

- Cứ việc an thân kiếp tôi mọi bù nhìn.

- Buổi trưa, em nghĩ về sinh viên sĩ quan tiểu tư sản, nghĩ về câu nói của anh Vọng, em định hỏi anh trên sân cỏ: hoàn cảnh dìu ta đi là hoàn cảnh nào. Thôi, anh ạ, em không hỏi nữa, để em tự tìm ra.

- Đúng.

Vừa lúc ấy, nhiều người xách thùng, ống bương lấy nước cứu hỏa chạy tứ tán. Chỗ tập trung mít tinh làm cản trở xe cứu thương của Pháp. Họ điên lên, khi một sĩ quan bị thương nặng chết, vì chậm trễ mấy phút. Lực lượng phòng hỏa và cứu hỏa của thị xã tan hàng trong sợ hãi.

Mấy hôm trước, Tòa tỉnh trưởng đã làm quan trọng cho lực lượng này. Ông Phó tỉnh trưởng không được đọc diễn văn. Lực lượng tự do giải tán. Toà tỉnh trưởng chằng can thiệp, chẳng phản đối gì. Một ngày ảo não cho dân thị xã dưới chế độ Bảo Hoàng.

- Mình chia tay, Khoa nhé!

giavui
10-16-2015, 06:51 PM
13

Luyến ngồi trong phòng riêng của nó. Trên chiếc bàn gỗ đơn sơ, bừa bãi sách vở. Cái gạt tàn thuốc lá đã đầy, và gói Cotab mới mở còn nhiều. Khoa nhìn hai ngón tay phải của Luyến vàng khè chất ni cô tin, lắc đầu:

- Anh hút thuốc là từ bao giờ?

Luyến cười:

- Từ hôm, chị Ngọc khuyến khích. Chị ấy mua Cotab cho anh.

- Chị Ngọc xúi anh nghiện?

- Nghiện thuốc lá, chả sao. Nghiện vì mê gái, càng tốt. Anh thấy chị Ngọc nhận xét về anh rất đúng.

- Chị Ngọc nói sao?

- Chị ấy bảo anh là người què không giống những người què khác. Chị ấy bảo anh là người có đầu óc khác nhiều người còn đủ chân tay. Chị ấy bảo đầu óc thì phải suy nghĩ. Lúc suy nghĩ trong cô đơn, thuốc lá là bạn thân của mình, hút thuốc vào phổi, ý nghĩ luồn tim, phóng ra ngoài. Những suy nghĩ của mình sẽ đúng đắn.

- Bây giờ, với anh, chị Ngọc nhất rồi, cái gì cũng đúng. Chị ấy có khuyên anh học tiếp không?

- Không. Anh ghét trí thức khoa bảng lắm, chỉ thích đọc sách thôi. Khoa bảng ở nước mình kiến thức chuyên môn thì có, kiến thức ngoài chuyên môn thì rỗng tuếch. Anh lấy hai người làm thí dụ. Ông Nguyễn Mạnh Thường, tiến sĩ cả dàn, trí thức bên Pháp nể nang, về nước, ông chẳng được tích sự gì. Cụ Hồ Chí Minh không mảnh bằng nhét túi, cả thế giới suy tôn, về nước vẽ lối cho bầy tiến sĩ đi. Chẳng lạ, cụ Hồ phiêu bạt năm châu bốn biển, biết đến tậm tim đen khoa bảng, nên cụ coi thường trí thức khoa bảng. Trí thức khoa bảng ham quyền lực và sợ người có quyền lực. Họ răm rắp phục vụ cụ Hồ! Anh không thích khoa bảng, bằng lòng cái trung học phổ thông thôi, em ạ!

Luyến tránh chuyện chính trị, hỏi Khoa:

- Em học được ba tháng rồi nhỉ?

Khoa đáp:

- Vâng. Thì giờ nhanh thật.

- Việt văn đệ tứ có Truyện Kiều của Nguyễn Du đấy.

- Vâng.

- Anh đã suy nghĩ một chút về Truyện Kiều.

- Cho em nghe đi.

- Nghe rồi quên, đừng viết trong luận văn đi thi, nhé!

- Em nghe để biết mà.

- Câu đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du hé mở tác phẩm của mình: Trăm năm trong cõi người ta, chữ TÀI chữ MệNH khéo là ghét nhau. Nếu cứ để tài mệnh tương đố nhau, anh nghĩ, nó sẽ tròn vẹn tác phẩm. Đằng này, đoạn kết Truyện Kiều, Nguyễn Du viết: Chữ TÀI liền với chữ TAI một vần, Đã mang cái nghiệp vào thân, Cũng đừng oán trách trời gần trời xa, Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI. Chữ TÀI cùng với chữ TAI không phải là một vần. Mà chung một số phận. Theo kinh nhà Phật, có TÀI hơn nhiều người khác là một cái tội, có nhiều TÀI hơn người khác thì tội muôn vàn. Cũng vẫn được. Tự nhiên, Nguyễn Du nói chữ TÂM, không ăn nhằm chi đến TÀI và MệNH. Chữ TÂM trong con người, khó ai biết. Nó lênh đênh giữa đại dương bát ngát hay bay bổng trên núi vút cao. Tìm nó chưa nổi, bắt nó để đo lường sao được. Chữ TÀI thỗn thễn hiện nguyên hình, trình diễn không mệt mỏi, tóm cổ nó mà đo lường, rất dễ. Thế mà, Nguyễn Du bắt được chữ TÂM, hành hạ nó tơi bời, đo lường nó bằng thích, rồi bảo chữ TÂM kia mới bằng ba chữ TÀI. TÂM bằng ba TÀI, và có thể bằng ba triệu TÀI, cũng đáng vất TÂM đi!

- Ô, lạ quá, anh nhỉ?

- Có lẽ phải nhuận sắc những sách vở tam sao thất bản của ta. Anh thấy cổ tích hay nhất của nước ta là Thạch Sanh - Lý Thông, gồm đủ Chân, Thiện, Mỹ. Mà người mình không thích bằng Tấn Cám. Thạch Sanh không biết trả thù, dẫu kẻ thù đã hành hạ mình sống lên, chết xuống, đã cướp công lao của mình. Để Trời xử tội ác Lý Thông. Thạch Sanh cho nó về tự do. Khác hẳn thời nay, chỉ trả thù và thù hận, rồi thù hận và trả thù...

- À, thù hận và trả thù, em quên chưa báo tin anh hay cụ Hào Điển bị cách mạng giết rồi!

Luyến im lặng, rút Cotab để lên môi, bật diêm, châm lửa. Nó hít một hơi đẫy đà, rồi ngửa mặt, nhả khói lên trần nhà. Cụ Hào Điển bị cách mạng giết rồi. Tại sao cách mạng lại xuống tay với người già cả, mù lòa?

Cụ Đặng Đình Điển, một hào trưởng, ở tổng Ô Mễ, thuở còn trẻ, hăng say những chuyện bất bình. Cụ gia nhập Việt Nam quốc dân đảng và ngừng hoạt động từ ngày đảng trưởng Nguyễn Thái Học bị hành quyết. Cụ công khai nói với Pháp: Nguyễn Thái Học là thần tượng của cụ, bây giờ thần tượng đã chết, mang trọn vẹn lý tưởng của Việt Nam quốc dân đảng chết theo; cụ không còn là đảng viên nữa, về quê làm ruộng.

Người Pháp kính trọng cụ, để cụ về Ô Mễ. Cụ đã sống những tháng năm bình thản ở quê nhà, không giao du với bất cứ chính trị gia nào. Cụ làm việc cần mẫn, làm gương cho nông dân Ô Mễ. Cụ mở một cái cống lấy nước sông Trà Lý đổ vào cánh đồng Ô Mễ, bằng tiền của mình. Cái cống mang tên: Cống Hào Điển. Ngày tổng khởi nghĩa, cụ thoát khỏi vòng đảng tranh. Hai năm độc lập, cụ đã già nua và bị mù lòa, đi đâu con cháu phải chở cụ trên chiếc cáng.

Cụ Hào Điển là thân phụ của ông Đặng Xuân Rư. Mấy trăm mẫu đất cụ cho, ông Rư bán dần để ăn tiêu, hát cô đầu và đánh bạc. Ông Rư không cần làm gì cả, sống phong lưu, lãng tử. Tiêu thổ kháng chiến, ông Rư về Ô Mễ. Nhà ông là quán ăn sang trọng không trả tiền của cán bộ cách mạng cao cấp. Tố Hữu đã về Ô Mễ, Thái Bình, thượng khách của ông Rư. Ngâm thơ, Tố Hữu đã cho Ô Mễ một kỷ niệm khó quên. Các nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ ghé Ô Mễ trên đường công tác đều chọn nhà ông địa chủ phong lưu mã thượng Đặng Xuân Rư làm quán trọ. Ca sĩ đếm không hết. Cô Ngọc Dậu hát bài Trường ca sông Lô của Văn Cao với đàn ghi ta đệm tuyệt với của Canh Thân hay không thể tả.

Ruộng cứ bán không tiếc, ông địa chủ lãng tử Đặng Xuân Rư mời gánh hát cải lương Phụng Khánh, Sĩ Tiến về hát cả tuần ở chợ Ô Mễ cho dân làng đi xem. Rồi ông làm bầu gánh Thống Nhất với kép độc Mộng Tần. Ông Rư có bao nhiêu ruộng, ông không biết. Chỉ biết bán cho phỉ chí. Khi Mộng Tần chết, gánh hát rã đám. Ông muốn tặng đào kép một món tiền. Bán ruộng, ruộng hết rồi. Ông địa chủ lãng tử Đặng Xuân Rư biến thành bần cố nông trắng tay.

Tháng l năm 1950, ông Rư hồi cư sớm nhất. Ở thị xã non tuần lễ, ông vù lên Hà Nội, để mặc cụ Hào Điển sống tàn tạ trong tổng Ô Mễ. Hiện thời, con trai ông là Đặng Xuân Côn may ra đã tốt nghiệp Trường lục quân Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây.

Cụ Hào Điển không đi khỏi Thái Bình, không tiếp xúc ai. Đàn em của cụ như Vũ Hồng Khanh, Phạm Phan Côn... đã ra cộng tác với Bảo Đại, làm tới chức bộ trưởng, giám đốc..., cụ không thèm biết. Một đêm mùa đông mưa dầm rả rích, cách mạng lén về Ô Mễ, bắt cụ, cho vào rổ xề khiêng đi. Cả nhà ngơ ngác. Nửa tháng sau, cách mạng báo tin cụ Hào Điển đã chết, xác ỡ giữa đồng Ô Mễ. Con cháu ra ôm cái rổ xề, mang xác cụ về nhà tẩm liệm, rồi đem chôn.

Luyến dập điếu thuốc vào gạt tàn, chớp mắt lia lịa:

- Đoạn cuối đời của cụ Hào Điển bi thảm quá.

Khoa cúi đầu:

- Anh Côn giờ ra sao?

Luyến buồn rầu nói:

- Không hề biết chuyện gì, Côn sẽ sung sướng; biết chuyện cụ Hào Điển, Côn sẽ đau khổ. Cách mạng giết ông mình mà mình suy tôn cách mạng, phục vụ cách mạng, mình sẽ phản ứng ra sao. Đó là trường hợp của Côn.

Khoa hằn học:

- Tại sao cách mạng lại giết ông nội anh Côn?

Luyến lắc đầu:

- Anh không biết.

Khoa nghiến răng:

- Vô nhân đạo, vô nhân đạo.

Chợt, Khoa nhớ nhời Vọng dặn trước khi chia tay ở Tường An. Nó nói để gỡ tội cho cách mạng:

- Anh Vọng đã tâm sự với em: Bộ đội mới có thể sai chính sách của Đảng, thi hành lầm lẫn. Gia đình em chắc sẽ gặp nhiều điều oan trái. Vậy, anh còn ở đây ngày nào, gia đình em nên vào thị xã ngay. Đó, cách mạng mà còn biết cách mạng sẽ sai lầm.

Luyến đốt điếu thuốc lá mới:

- Chỉ riêng Vọng có lòng thôi.

Nhả khói thuốc, Luyến dịu dàng:

- Hôm nay, anh em mình nhận được một tin rất buồn làm đau nhói tim. Đợi Côn về, Côn phải về, cho biết thật sự thái độ của Côn. Anh em mình sẽ nghe Côn nói và không có ý kiến gì. Bây giờ còn sớm. Em có anh Vũ theo cách mạng. Anh có em Ái theo cách mạng. Chúng ta không thể ghét cách mạng vì cái chết của cụ Hào Điển. Yêu nhau hay ghét nhau đâu có dễ dàng, trong một ngày chưa kịp suy nghĩ. Chúng ta hãy hiểu rằng, cụ Hào Điển sống với nông dân Ô Mễ, rất đẹp, cách mạng đã làm cụ chết, rất xấu.

Khoa đứng dậy, lễ phép xin Luyến cho về. Khoa đi rồi, còn mình Luyến ngồi trong phòng đơn độc. Luyến dập thuốc tắt, hai tay ôm lấy đầu, hơi cúi xuống mơ mộng...

Người Luyến gặp trước nhất, là Vọng, người lính vô sản không một mặc cảm nào. Chàng chiến đấu hào hùng, sống cho giai cấp, chết cho giai cấp. Chàng sống nghèo khổ, thuở làm học trò trường Monguillot. Cha chàng cu ly nhà máy điện thị xã. Mẹ chàng gánh xôi chè, bán hàng rong. Tội ác thực dân: giết cha chàng vì bệnh ho lao. Tội ác phát xít: giết mẹ chàng vì bệnh đói. Kẻ thù, chàng nhìn rõ, thấy rõ. Người cộng sản cứu chàng, đưa hai tay cho chàng bám và dẫn chàng vào cách mạng. Lòng tốt của cộng sản đi thẳng vào trái tim chàng. Khi người cộng sản cần gì ở chàng, chàng sẽ báo ân đến chết. Vì, chàng đã thành cộng sản. Chàng đấu tranh giai cấp để bảo vệ giai cấp của chàng. Không ai được phép bình phẩm chàng. Rất may, chàng đã chơi với trẻ con tiểu tư sản, thời ấu thơ. Chàng là người cộng sản có tâm hồn tiểu tư sản, là người có lòng. Chàng đang súng lên đạn, ngoài kia.

Người Luyến gặp thứ hai, là Vũ, người lính tiểu tư sản không một mặc cảm nào. Chàng chiến đấu ngoạn mục, sống vì người yêu, chết vì người yêu. Chàng nhập cuộc chiến chinh này cốt để xây dựng thị xã bị tiêu thổ kháng chiến, trồng lại hàng hồi hai bên dẫy phố chính và sống bên cạnh người yêu trọn đời. Chàng không bao giờ mơ ước làm anh hùng và trở về với vòng hoa chiến thắng đeo quanh cổ. Chàng lăn xả vào binh lửa, chẳng phải vì giai cấp này, giai cấp nọ. chàng nổi giận quân thù là bởi dân tộc. Có mang tiếng phục vụ giai cấp vô sản, cũng chẳng sao. Cái mục đích giải phóng thị xã Thái Bình mới cần thiết. Chàng sẽ giã từ vũ khí để nịnh bợ người yêu. Người lính tiểu tư sản ấy coi tất cả như một cuộc chơi. Lúc rã đám, chẳng cần tiền về đường. Chàng vẫn chơi chiến tranh và vẫn hát nhạc lãng mạn kháng chiến. Hình như, thời binh lửa, lá cũng ngập ngừng thương hoa, tại sao người không ngập ngừng thương người nhỉ? Người lại cố tình đá con người ra khỏi vòng chiến. Chàng đang bôn ba, ngoài kia.

Người Luyến gặp thứ ba, là Côn, người lính địa chủ lãng tử, không một mặc cảm nào. Chàng chiến đấu tuyệt vời, sống cho dân, chết cho dân. Bây giờ, chàng còn học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Chàng thuộc bài thơ Đôi mắt người Sơn Tây của lính tiểu tư sản Trần Quang Dũng, phiền muộn hơn cả bao giờ:

Em ở thành Sơn chạy giặc về

Tôi từ chinh chiến cũng ra đi

Cách biệt mấy lần quê Bất Bạt

Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì 1



Vầng trán em mang trời quê hương

Nắt em vời vợi buồn Tây Phương 2

Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm

Em có bao giờ em nhớ thương



Mẹ tôi em có gặp đâu không

Những xác già nua ngập cánh đồng

Tôi cũng có thằng em nhỏ bé

Bao nhiêu rồi xác chết trôi sông



Từ độ thu về loang bóng giặc

Điêu tàn thôi lại nối điêu tàn

Đất đá ong khô nhiều máu lệ

Em có bao giờ lệ chứa chan



Đôi mắt người Sơn Tây

U uẩn chiều luân lạc

Buồn viễn xứ khôn khuây



Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn

Về núi Sài sơn ngắm lúa vàng

Sông Đáy chậm buồn qua Phủ Quốc

Sáo diều vi vút giữa đêm trăng



Bao giờ ta gặp em lần nữa

Ấy lúc thanh bình chắc nở hoa

Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ

Còn có khi nào em nhớ ta

Tâm hồn chàng ướp chất lãng mạn. Chàng đi chinh chiến chỉ vì lãng mạn. Chànng đang phiêu hốt, ngoài kia.

Luyến thấy ba người bá vai nahu, cởi trần, vui vẻ bước đi...

--------------------------------
1 Tên một ngọn núi.
2 Tên một ngôi chùa ở Sơn Tây.

giavui
10-16-2015, 06:52 PM
14

Tháng 2, 1952, thị xã có điện. Mọi người thích thú. Không có công tơ riêng. Nhà máy điện cấp cho mỗi gia đình một ngọn 60 watts. Ai muốn dùng máy vô tuyến truyền thanh, báo cho nhà máy điện hay, nhà máy điện sẽ gắn thêm chỗ cắm điện. Nhà máy điện mở đèn lúc 7 giờ tối và tắt đèn lúc 11 giờ 30 đêm, vào lúc giới nghiêm. Dân thị xã bằng lòng lắm. Cái gì nó cũng từ từ đến. Mai này, gắn công tơ riêng, muốn thắp bao nhiêu ngọn đèn thì thắp, miễn là đủ tiền nộp nhà máy điện.

Nước máy còn lâu mới có. Phải ăn uống nước sông Trà Lý vài chục năm nữa. Nhà cửa đã bắt đầu xây dựng lại. Phố chính nhà gác hai ba tầng mọc lên nhiều. Tình hình an ninh đã sáng sủa. Những cuộc hành quân Trái Chanhm, Trái Quít thắng lợi lớn. Bên kia sông ổn định xong cả. Chỉ còn những trận đánh lác đác. Cách mạng thất bại. Quân Pháp thành công. Mười hai phủ, huyện đã đổ về thị xã buôn bán tấp nập. Dân thị xã vẫn để ước mơ vào kháng chiến, tuy kháng chiến đã chừng bước ở khắp nơi, thua lả tả. Lính Pháp, lính lê dương đã tung tăng ngoài phố. Lính da đen vẫn đông hơn, đi tìm y tá tiêm pê ni xi lin, chữa bệnh lậu, bệnh giang mai. lính Bùi Chu - Phát Diệm đã hồi hương nên chấm dứt cảnh lính đánh nhau giữa phố. Sĩ quan và hạ sĩ quan pác ti dăng do Pháp động viên, ở Hà Nội, Quân khu 4 của tướng Nguyễn Văn Vận, điều về Thái Bình khá đông. Ban tác động tinh thần của Quân khu 4 được ghé thị xã, đàn đúm, xướng ca cho lính pác ti dăng nghe. Nhìn bề ngoài, người ta thấy vùng tự do mờ dần, vùng tạm chiếm sáng lên, và thị xã Thái Bình khởi sắc. Ô tô Con Voi của ông Lê Văn Định, chạy đường Thái Bình-Hải Phòng, đã đến Đống Năm rồi; chạy đường Thái Bình-Tân Đệ không bị ăn trái mìn nào. Cứ xem hành trình ô tô hàng là biết rõ an ninh vùng tạm chiếm.

Đọc thông cáo của nhà máy điện, những hiệu buôn ở phố Lê Lợi sang Nam Định ồn ào, chở máy truyền thanh về thị xã để nghe nhạc và tin tức. Ném những máy hát quay cót đi. Cứ phải thay kim, trở mặt đĩa luôn, thấy mệt. Máy vô tuyến truyền thanh bắt được các Đài Sàigòn, Đài Pháp Á, Đài Hà Nội, và cả Đài Cách Mạng nữa. Đài Hà Nội phát thanh tin tức, bình luận trực tiếp Đài Sàigòn, chỉ các chương trình văn nghệ mới tự do.

Luyến đã nghe hết các đài phát thanh. Về tin tức quân sự, hầu như không có gì. Mặt trận Thái Bình nặng hay nhẹ, chỉ người Thái Bình biết, dân torng nước ù ù cạc cạc. Báo chí thì đăng Thông cáo của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp. Vô tuyến truyền thanh thì đọc Thông cáo của Bộ tối cao chỉ huy quân đội liên hiệp Pháp. Chính phủ Bảo Hoàng không được phép loan tin chiến sự, dẫu là quân Bảo Chính!

Về văn nghệ, yếu ớt, chỉ chơi những vở kịch của các tác giả viết trước 1945. Hôm qua, gần tết, Đài Hà Nội diễn vở Lên đường của Hoàng Cầm. Nếu Pháp biết Bên kia sông Đuống, Đêm liên hoan của Hoàng Cầm, chắc đóng cửa Đài Phát Thanh Hà Nội! Về âm nhạc, toàn hát những bài lãng mạn tiền chiến. Những Văn Cao, Tô Vũ, Nguyễn Văn Tý, Lê Thương, Nguyễn Văn Thương, Dzoãn Mẫn... bê ra dùng liên tiếp, chán tai thính giả. Những bản nhạc kháng chiến, tác giả vào tề, đổi hết lời ngay. Rõ ràng, họ phản bội kháng chiến 1946-1950. Phản bội có mầu sắc tuyên truyền không công cho cách mạng. Nghe nhạc cũ, lời mới, dân chúng vẫn nhớ lời cũ chống Pháp tưng bừng. Và, dân chúng vẫn vọng về cách mạng mùa Thu. Nhạc mới lời mới thì quê hương cháy ngút trời. Ai làm cho quê hương mình cháy? Nhạc sĩ vùng tề sợ Pháp, không dám nói.

Ai qua miền quê binh khói

Nhắn giúp rằng nơi xa xôi

Tôi vẫn mơ tùm tre xanh ngát

Tim sắt se cảnh xưa hoang tàn

Bao nhiêu ngày vui thơ ấu

Bao nhiêu lều tranh yêu dấu

Theo khói binh lều tan tre nát

Theo khói binh lòng quê héo tàn

Ôi quạnh hiu ôi quạnh hiu

Làng quê khô héo

Luyến tình quê luyến tình quê hẹn sẽ trở về

Về quê xưa để sống êm đềm giấc mơ

Về quê xưa tìm bóng những ngày đã qua

Và say sưa cuộc sống bên ngàn lũy tre

Xa lánh cuộc đời khắt khe

trăm đau ngàn thương

Nhạc mới lời mới cũng học lãng mạn. Thời tiết, khí hậu, không gian, thời gian, con người không lãng mạn, nhạc khó mà lãng mạn.

Ngày nào một giấc mơ

Đây những đêm trăng mờ ai ngóng chờ

Khi áng mây thành thơ nhẹ gió đưa

Theo tiếng đàn thuyền mơ tìm bến xưa

Một chiều thu chiến chinh

Xuân ngát hương thanh bình say mối tình

Khi ánh trăng về vui đời thắm xinh

Bên dáng huyền thầm mơ lúc tuổi xanh

Nhớ những phút sống say sưa đêm nào

Trăng quyến đôi tâm hồn dìu về đâu

Nhớ những tiếng hát say sưa êm đềm

tuy vắng xa nhưng lòng còn xao xuyến

Nghẹn ngào niềm nhớ nhau

thương xót ai trăng sầu bên mái lầu

Hay đớn đau vì câu chờ kiếp sau

Trăng úa mầu lệ dang ướt ngàn sao

Ta đã có lãng mạn tiền chiến, lãng mạn cách mạng, lãng mạn kháng chiến. Mỗi thời đại, lãng mạn nó tỏa ra, bốc lên lãng đãng trên trời, dưới đất. Văn nghệ phản ảnh chính xác. Lãng mạn vùng tề là giả vờ lãng mạn. Luyến không chịu nổi văn nghệ vùng tề, cái thứ văn nghệ sợ hãi, khiếp nhược. Thì đành vặn Đài Pháp Á, nghe ca sĩ Ngọc Hà hát tiếng Nam, cũng như đọc văn sĩ Thanh Thủy viết văn giọng Nam.

- ... Mùa thu dzàng rơi là mùa lá dzàng tới

Mà lá dzàng tới khi tình thu dzừa khơi

Nhặt lá dzàng rơi

xem màu lá coòng tươi

Nghe chừng như đây màu tê tái...

Chán đài Bảo Hoàng, Luyến dò Đài Cách Mạng. Tin chiến sự thì ta thắng, địch thua. Không bao giờ ta thua, địch thắng. Thỉnh thoảng, địch rất đông, ta rút lui có trật tự. Pháp và cách mạng giống nhau. Nhạc chỉ rặt đấu tố địa chủ ác ôn, cường hào ác bá. Đâu rồi thuở lãng mạn kháng chiến, những bài hát như Quê hương anh bộ đội:

Nơi ấy có cánh đồng tắm nắng vàng tươi

bờ tre nhà tranh vách mới

Nơi ấy có cánh đồng mênh mông ngát hương

mùa lúa chín ngất tiếng ca khắp đường

Nhà anh có đàn em mắt ngây thơ má hồng

Những chiều cùng vui hát trên đường quê

em bé dắt trâu về

gia đình làng mạc yên ấm

tăng gia cầy cấy đời đời thanh bình

Nhà anh hai nếp vừa xinh

Đêm trăng lên cao và chiếu sáng mặt sân

góc vườn vẳng nghe tiếng hát vang lên

từ xóm giếng làng bên

vượt qua vườn dâu bãi mía

Em gái bên láng giềng đêm đêm kéo tơ

vụt nhớ đến phút mến thương

anh chàng xinh trai

Mùa thu một năm nào

em gái tiễn chàng trai ra đi

cầm tay mà không nói

Chân quay đi nhưng lòng vấn vương

nhìn xa xăm bao dặm đường

Ai đi lên đường

Ai ra sa trường

mắt quay về xóm cũ làng bên

chiều lên mờ trong khói súng

Nơi ấy nay vẫn còn mênh mông ngát hương

Đang chờ ngày về chiến thắng 1

Luyến nghĩ mình đã sống trong thời đại bất hạnh. Tin người? Không. Tin đời? Không. Tin báo chí? Không. Tin đài phát thanh? Không. Người nói dối, Đời nói dối. Báo chí nói dối. Đài phát thanh nói dối. Vì, chiến tranh. Chiến tranh là con thuồng luồng dữ dằn nhất. Nó đảo tung đất trời, làm thiện sang ác. Già cả bệnh hoạn, như cụ Hào Điển, còn bị tia sáng cực mạnh của thời đại khốn nạn nó chiếu vào, không từ một ai. Luyến mất một chân, chẳng hy vọng gì thời đại khốn nạn nó buông tha. Sống ngày nào, hãy biết ngày ấy. Như hôm nay, biết thị xã có điện, có vô tuyến truyền thanh, là mừng rồi. Ngay mai, có thể, thị xã có nước máy hay tiêu thổ kháng chiến lần nữa. Lại vui rồi lại buồn. Cứ như thế mà sống. Sống trong chiến tranh là sống tạm bợ. Cái cõi tạm không nói tương lai.

Luyến vừa hay tin gia đình Long hồi cư. Còn Long người bạn đá bóng của Luyến chết rồi. Long phá thối chết trận ở Duyên Hà. Nó gia nhập bộ đội năm 1949, đánh nhau hung hãn. Chỉ vì hung hãn, nó leo lên xe tăng bỏ lựu đạn xuống, bị ăn một tràng đại liên nát bét ngực. Hai tin chết chóc rủ nhau đến tìm Luyến. Một: Cụ Hào Điển, ông nội của Côn. Hai: Thằng Long. Cụ Hào Điển chết sầu thảm. Long chết vinh quang. Luyến an ủi phần nào, vì Long chết cho tổ quốc. Luyến có bạn đã hy sinh cho tổ quốc. Chết dần chết mòn, hòa bình còn những ai? Năm năm, biết bao thay đổi. Bạn bè Luyến bốn phương lưu lạc. Luyến què chân về thị xã, hứng cho bạn tất cả nỗi buồn trùm kín Thái Bình. Luyến đã ngồi im lặng hàng tiếng đồng hồ, hút thuốc lá, tưởng mộ Vũ Nhất Long. Con rồng thứ nhất bay vào hư vô rồi, con rồng tiếp nối là ai?

Luyến còn may chán. Ngọc yêu nó thuở nó không còn biết chờ đợi ai. Bất chợt, tình yêu tới. Như những câu thơ của cậu học trò Đào Sinh Sắc diễn tả:

Có một sớm con chim xanh tình ái

Vào hồn tôi trong giây phút đăm chiêu

Tôi cảm thấy lòng tôi đau tê tái

Vì từ nay tôi đã bắt đầu yêu

Luyến khác tâm sự Đào Sinh Sắc một chút. Lòng nó không đau tê tái, và nó cảm thấy lòng nó dạt dào thương mến.

- Anh Luyến, anh Luyến ơi!

Khoa tất tả bước vào, giọng nói ngập xúc động:

- Anh Côn đã... đã về...

Luyến ôm ghì lấy Khoa:

- Ở đâu, ở đâu?

Khoa cuống quýt:

- Ở nhà em. Anh Côn chờ anh đấy!

--------------------------------
1 Tử Phác, bộ đội tiểu tư sản. Năm 1950 bị loại ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Năm 1956, Tử Phác gia nhập Nhân Văn giai Phẩm, chống Đảng và Nhà Nước cộng sản. Ông chết năm 1986.

giavui
10-16-2015, 06:52 PM
15

Ngày xưa còn bé, có lần tôi đã nói với Vũ trong cách mạng đang sôi nổi rằng: Tao chán mít tinh, biểu tình, hội họp, ca hát rồi. Tao chán nhi đồng, chán bác Hồ, chán hết cả rồi. Tao chán thằng Luyến nghịch ngợm, chán thằng Lộc pha trò nhạt phếch, chán thằng Long chuyên phá thối. Tao chán cả mày luôn.

Nếu cái chán của tôi, trừ đi tất cả, còn giữ lại chán mít tinh, chán biểu tình, chán hội họp, chán bác Hồ, thì mọi đổ vỡ của đời tôi sẽ không xẩy ra, hôm nay. Nhưng mai, tôi chán bao nhiêu, rồi lại thích bấy nhiêu. Thế mới chết hết mộng ước của mình! Có lẽ, thời đại cuốn xoáy nghiệt ngã, đến nỗi những nhà đại trí thức còn lao đao, còn u mê nghiệp chướng, nữa là thằng nhóc như tôi. Cả nước say mê mít tinh. Cả nước say mê biểu tình. Cả nước say mê hội họp. Cả nước say mê gọi Hồ Chí minh bằng bác. Bác Hồ. Cụ già hơn Hồ Chí Minh ba bốn chục tuổi cũng Bác Hồ. Trẻ em cũng Bác Hồ. Người du học bên Pháp trở về như thạc sĩ Huy Thông, như tiến sĩ Nguyễn Mạnh Tường... hoan hỉ gọi Hồ Chí Minh là Bác. Bác Hồ vĩ đại của dân tộc. Nhạc sĩ nào biết Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại ra sao mà ca ngợi Cha Hồ:

Hoàn cầu vang danh Cha chúng ta Hồ Chí Minh

Một đời gian khó hy sinh luôn đấu tranh

Hận thù nung gan im máu sôi đời nổi trôi

Nhìn xa xăm mắt đăm đăm trông phía trời

80 năm qua trong lầm than sông núi ơi

Dưới ách nô vong thắt tâm can vì non nước

Tấm than cô đơn phong trần bôn ba khắp nơi

Tự do vinh quang chung lòng vun cho giống nòi

Thu nao Cha về

Hoa sao rừng người

Hồng vàng tươi thắm nước Nam reo vui

Dân tin Cha Hồ

Kính yêu muôn đời

Con thuyền Việt Nam phó trong tay Người...

Thi sĩ nào biết Hồ Chí Minh làm cách mạng ra sao mà ca ngợi mặt Người như nước Việt:

Hồ Chí Minh mặt người như nước Việt

Thấm thía mang một sức sống phi thường

Vừng trán rộng Trường Sơn trong sớm biếc

Mắt tinh anh sâu thẳm Thái Bình Dương

Và hồn Người hồn Việt Nam thuần túy

Ôi đơn sơ lời nói cảm rung sao

“Bởi không muốn làm tên dân nô lệ

Nên tôi làm cách mạng bấy nhiêu lâu

Lũ chúng tôi ít nhiều đều đứt rễ

Mang nỗi buồn thế hệ ở trong tâm

Dân tộc tôi đã từng phen ngạo nghễ

Ngoảnh mặt lên cao trời lệch đất gầm”

Và Người đó Hồ Chí Minh bề thế

Vẫy vùng bơi giữa biển cả gian nan

Hồ Chí Minh chỉ Người là có thể

Đưa con thuyền tổ quốc đến vinh quang

Nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ đua nhau suy tôn Hồ Chí Minh, từ ngày Cha già mới về. Trí thức trong nước, trí thức ngoài nước khiêng Hồ Chí Minh, thổi bong bóng lên tận trời xanh. Tôi chán, rồi lại không chán. Tâm hồn tôi hồi đó dễ mở rộng, đón nhận bất hạnh và hữu hạnh, khác hẳn bây giờ, khép kín mít những phản bội vào thêm lần nữa. Các bạn có phẫn nộ khi bị công khai lừa dối không? Để chuyện phản bội lại, tôi sẽ kể sau. Tôi mê độc lập khi thực dân Pháp chiếm miền Nam Bộ. Chắc Luyến còn nhớ, những đêm thị xã thức trắng, Vũ thổi ác mô ni ca và chúng ta hát những bài với địa danh xa lạ tận miền Nam để căm thù giặc Pháp.

Pháp chiếm miền Nam, chúng ta còn căm thù buốt ruột, huống chi nó chiếm miền Bắc, chúng ta căm thù nó dường nào?

Mất thủ đô Hà Nội, dân chúng phải tản cư về nông thôn. Hồ Chí Minh, sau khi tàn sát các đảng phái, hô hào toàn dân đoàn kết kháng chiến chống thực dân Pháp. Các bạn nghe rõ sáu chữ toàn dân đoàn kết kháng chiến và nhớ kỹ. Hồ Chí Minh nhờ có Pháp thực dân, nổi vun vút như một lãnh tụ chống xâm lăng vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến vì yêu nước quá, vì muốn trở thành Stalingrad, quê hương Nga xô viết của Hồ Chí Minh. Tôi chưa hiểu quê hương Liên xô và Hồ Chí Minh, lúc ấy.

Các nhạc sĩ, thi sĩ, văn sĩ, họa sĩ và trí thức chưa hiểu nổi chăng? Và, mù tịt chuyện Khái Hưng 1 bị chết dìm trên sông, Lan Khai 2 bị cho vào rọ thả trôi dưới nước! Bởi chưa biết, hay bọn trí thức hèn hạ, bọn nghệ sĩ nham nhở vào hùa tâng bốc Hồ Chí Minh, lừa dối chúng ta, những trẻ dại khờ, chưa biết gì thật sự. Chúng nó coi Hồ Chí Minh như Chúa Giê xu.

Phạm Duy ngon cái miệng... Khi ngừng chờ gió đến, Bên bờ dòng nước trong. Ôi, tường chừng đây đó, Cha Già vọng trời Đông. Nó Cha Già khắp nơi... Bên đây là phía tự do, vẫn được Cha Già làm toàn dân ấm no. Còn nhiều nữa. Khi chúng ta rõ công ty bịp bợm Hồ Chí Minh làm chủ, và trí thức, nghệ sĩ làm công nhân; chúng ta nghĩ sao đây?

Tiêu thổ kháng chiến xong, tôi về Ô Mễ sống nồng nhiệt hơn năm tổng khởi nghĩa. Bố tôi là một địa chủ lãng tử, không biết có bao nhiêu ruộng và bán bao nhiêu, còn lại bao nhiêu. Bố tôi, một tay ăn chơi ở thị xã, chẳng phiền chi ai. Dạo thầy Trần Cao Đàn bị Nhật bắt hụt, bố tôi thận trọng yêu nước. Đến ngày tản cư về làng, bố tôi bị ăn bùa mê cháo lú của Cách Mạng hay sao ấy, bố tôi bốc đồng, biến căn nhà ba tầng thành quán trọ của cán bộ Chính phủ dân chủ cộng hòa. Tôi có dịp gặp nghệ sĩ nổi tiếng Hà Nội. Và, cán bộ cấp cao. Tố Hữu, chẳng hạn. Chính Tố Hữu đã khuyên tôi đủ tuổi vào Trường lục quân Trần Quốc Tuấn trên Sơn Tây mà học. Học lớp sĩ quan cho hách. Ba năm trời tiếp đã cán bộ, không biết bay đi bao nhiêu mẫu ruộng, bố tôi chẳng để ý. Người ta khuyến khích bố tôi nâng đỡ nghệ sĩ cải lương. Bố tôi bèn làm chủ gánh hát Thống Nhất, đi lưu diễn khắp vùng. Tôi có dịp sang Đống Năm gặp Luyến chuyện trò. Luyến nhớ chứ? Tôi thấy Luyến mê học, không thích nói về cách mạng, không ham vào bộ đội. Tôi bất bình. Bạn thân Monguillot của tôi như Vũ đã đi liên lạc viên, như Long, Lộc đã gia nhập bộ đội. Người nào cũng hiểu trách nhiệm của mình trong buổi chống thực dân xâm lăng. Lê Huy Luyến nghịch ngợm đã hết nghịch ngợm, trở nên ông cụ non thích triết lý vặt. Hình như, thời đại này, bước chân của chúng ta như bước chân phù thủy, đi rất xa và bước rất nhanh. Bây giờ, tôi hiểu triết lý sống của Luyến vững chắc vô cùng. ít ra, Luyến chẳng bị cách mạng phản bội.

Cuối 1949, trước khi đi Sơn Tây, tôi có đến Tường An thăm gia đình em Khoa. Bấy giờ, tôi hơi sợ. Các bạn biết tôi sợ gì không? Tôi sợ bạn bè xa nhau, xa thật lâu, và lớn lên, lớn thật mau, chắc sẽ ngỡ ngàng, lạnh nhạt. Không ngỡ ngàng, lạnh nhạt gì cả. Tôi mừng lắm.

Vừa mới tới Sơn Tây, tôi được tin Pháp chIếm Thái Bình. Bố tôi nói, hôm gặp lại tôi, bố tôi hồi cư thị xã, hai tuần sau, cả gia đình tôi vào Hà Nội. Bố tôi nhục nhã, không dám ở Thái Bình hồi sa sút nữa. Bố tôi ôn lại dĩ vãng, chợt tỉnh ngộ, vì biết cách mạng cho vô tròng. Cách mạng đã rút hết ruộng đất của bố tôi, biến địa chủ lãng tử thành bần cố nông tay trắng mà vẫn bị đấu tố vì quá khứ của mình.

Ông nội tôi đã khuyến cáo, bố tôi không nghe. Các bạn hãy tưởng tượng xem, thằng Tố Hữu đã nghĩ gì khi ăn uống ê hề ở nhà tôi? Chắc nó cười mục mả bố tôi?

À, tôi nói về đi học Trường lục quân Trần Quốc Tuấn cho các bạn nghe... Đầu năm 1950, trường mở khóa mới. Tôi đến đúng dịp. Số đen đến với tôi, không học lục quân mà học đấu tranh giai cấp. Trước khi đấu tranh giai cấp, tôi phải phân loại giai cấp trong xã hội Việt Nam. Có tưng đây giai cấp: Giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp vô sản, giai cấp tư sản, giai cấp tiểu tư sản.

Có một Đảng ra đời để lãnh đạo giai cấp đấu tranh, gọi là Đảng lao động, thực ra, chính nó lả Đảng cộng sản do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Các bạn khỏi gọi nó là cách mạng, là Việt Minh nữa. Cứ gọi đích danh là CộNG SẢN.

Phân loại giai cấp xong, tôi phải nhặt thành phần mà định giai cấp của nó. Thợ nhà máy điện, thợ sửa ô tô, thợ nhà máy nước, thợ làm gạch ngói... thuộc giai cấp công nhân. Phú nông, trung nông, bần cố nông thuôc giai cấp nông dân. Không có nghề nghiệp, học hành, tiền bạc thuộc giai cấp vô sản. Tỉ phú, triệu phú, trọc phú, buôn bán giầu có, địa chủ ác ôn, cường hào ác bá thuộc giai cấp tư sản. Trí thức tiêu cực, trí thức làng nhàng thuộc giai cấp tiểu tư sản. Trí thức tích cực, trí thức yêu nước không có giai cấp riêng biệt, có thể cho vào giai cấp vô sản. Công nhân vốn ít hơn nông dân nên gộp chung giai cấp công nhân và giai cấp nông ndân thành giai cấp công nông. Công nông với vô sản là một, nên gọi là giai cấp vô sản. Giai cấp vô sản là cộng sản đấy!

Quê hương của người cộng sản không phải nước Đức của Karl Marx và nước Anh của Friedrick Engels, mà là Liên xô của Vladimir Ilttch Lénine và Joseph Staline. Quê hương của người cộng sản Hồ Chí minh không phải nước Việt Nam. Bởi thế, Hồ Chí Minh mới ra lệnh tiêu thổ kháng chiến thị xã Thái Bình, biến thị xã thành Stalingrad để nịnh hót Liên xô.

Các bạn biết tôi, Đặng Xuân Côn, thành phần gì, giai cấp nào? Thưa các bạn, tôi thành phần địa chủ ác ôn, giai cấp tư sản! Giai cấp của tôi là kẻ thù không đội trời chung với giai cấp vô sản.

Giai cấp vô sản có Đảng công sản đầy đủ pháp luật và thừa thãi vũ khí, tàn sát giai cấp tư sản chỉ có nước chết. Ôi, các bạn nghĩ xem, từ bốn nghìn năm nay, có ai chia rẽ tình người một cách thâm hiểm như cộng sản? Chúng ta sinh ra để sống hòa thuận với nhau, dù hạnh phúc hay không hạnh phúc. Cuộc đời chỉ có hạng giầu và hạng nghèo. Giầu vì được Trời thương và chăm chỉ làm việc. Nghèo vì chưa được Trời thương và lười biếng làm việc. Oán ức thì nhìn lên Trời than vãn. Trời phán một câu: Ai giầu ba họ, ai khó ba đời. Nghèo đã thỏa mãn rồi, chăm chỉ làm việc, Trời sắp cho giầu đến nơi. Cộng sản muốn hơn Trời, khác Trời. Cộng sản phán: Này, anh chị em bần cố nông thân mến, tại sao anh chị em nghèo khổ, không có cơm mà ăn, không có áo mà mặc, không được làm người vậy? Đó là bọn địa chủ gian ác đã bóc lột anh chị em, năm này qua tháng nọ. Nó không bóc lột hiện tại, đã bóc lột quá khứ. Phải thẳng tay đánh đập chúng nó, của ta làm ra phải trở về ta. Bần cố nông không thích đấu tố địa chủ, cộng sản bắt phải đấu tố, phải học đấu tố.

Nhạc, thơ và chính trị ngày nào cũng nhét vào lỗ tai bần cố nông. Riết rồi, họ căm thù địa chủ thật sự. Người này thù người nọ. Người nọ thù người kia. Cả nước thù lẫn nhau. Vì giai cấp. Cộng sản sinh giai cấp và bắt thù hận. Giai cấp, nói theo Vũ thuở tiểu học, là cái củ thìu biu. Thời đại có cộng sản nó đẻ ra gian dối và hận thù. Chúng ta đã chiến đấu cho công sản, chứ không cho dân tộc. Cộng sản đã loại bỏ Vệ quốc đoàn, thành lập Quân đội nhân dân đấy, các bạn ạ! Lính giai cấp tiểu tư sản đã bị lính giai cấp vô sản đá cái vèo. Thế mà Hồ Chí Minh gian dối bảo là toàn dân kháng chiến.

Hồ Chí Minh mong mỏi từ ngót năm năm phải có ngày được tuyên bố cuộc kháng chiến này của riêng cộng sản và chỉ cộng sản mới lãnh đạo thành công. Toàn dân ra rìa. Cộng sản dã dọn trước một lối đi. Giảo quyệt thật. Chúng ta sẽ hứng chịu chia rẽ và hận thù. Anh em mình chơi với nhau thân thiết, biết giai cấp là gì! Cộng sản còn tuyệt đối cấm con người yêu thương gia đình. Tôi đã đọc báo Văn Nghệ, tường thuật lễ mãn khóa lớp chỉnh huấn, và tôi bất bình giùm thi sĩ Yên Thao. Các bạn đọc bài thơ Nhà tôi chưa nhỉ? À, còn nhiều thì giờ chán, tôi đọc cho các bạn nghe:

Tôi đứng bên này sông

Bên kia vùng địch đóng

Làng tôi đầy xạm đen mầu huyết đọng

Tre cau buồn ủ rũ ướt mưa sương

Mầu trắng vôi lồm lộp mấy khung tường

Nếp đình xưa người hỡi đau gì không

Tôi là anh lính chiến

Rời quê hương từ độ máu khơi dòng

Buông tay gầu mơ lại thuở bình Mông

Ghì nấc súng nhớ ôi ngày đắc thắng

Chân chưa vẹt trên nẻo đường vạn dậm

Áo nào không phai bạc chút mầu xưa

Đêm hôm nay tôi trở về lành lạnh

Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa

Tôi có người vợ trẻ đẹp như thơ

Tuổi chớm đôi mươi cưới buổi dâng cờ

Má trắng mịn thơm thơm mùa lúa chín

Ai ra đi mà chẳng từng bịn rịn

Rồi chia ly nào đã mấy ai vui

Em lặng buồn trong giây phút chia phôi

Tôi mạnh bước mà nghe hồn nhỏ lệ

Tôi còn người mẹ

Tóc đã ngả mầu bông

Tuổi già non thế kỷ

Lưng còng chĩu nặng kiếp long đong

Nắng mưa từ độ tang chồng

Tơ tằm rút mãi cho lòng héo hon

Thôi xa rồi mẹ ơi

Cơ chừng chợt tỉnh đêm vơi

Nghe ròn tiếng súng nhớ lời chia ly

Mẹ ơi con mẹ tìm đi

Bao giờ hết giặc con về mẹ vui

Đêm nay lành lạnh

Sông sâu buồn lấp lánh sao lưa thưa

ống quần nâu đã vá mụn giang hồ

Chắc tay súng tôi mơ về Nguyễn Huệ

Làng tôi đó bên trại thù quạnh quẽ

Trông im lìm như một nấm mồ ma

Có còn không em hỡi mẹ tôi già

Những người thân yêu khóc buổi tôi xa

Tôi là anh lính chiến

Theo đoàn quân về giải phóng quê hương

Mái đầu xanh bụi viễn phương

Bước chân đất đạp xiêu dồn lũy địch

Này anh đồng chí

Người bạn pháo binh

Đã đến giờ chưa nhỉ

Mà tôi nghe như trại giặc tan tành

Anh rót cho khéo nhé

Kẻo nhằm trúng nhà tôi

Nhà tôi ở cuối thôn Đoài

Có giàn thiên lý có người tôi yêu 3

Tố Hữu, cái thằng ăn dầm ở dề nhà tôi ấy mà, người cộng sản chống tiểu tư sản đã đành, còn chống luôn tình cảm tiểu tư sản, văn nghệ chiều hướng tiểu tư sản, nhãn quan tiểu tư sản. Tình cản của người tư sản đơn giản thôi. Có biết yêu làng mới biết yêu đất nước mình. Có biết yêu nước mình mớ1 biết yêu thế giới. Có biết yêu cha mẹ mình, vợ con mình, đồng bào mình mới biết yêu nhân loại. Như thế, khác hẳn người cộng sản Tố Hữu không yêu ai, không yêu cái gì, mà chỉ yêu quốc tế, làm nghĩa vụ quốc tế. Bởi vì, người cộng sản không cha mẹ, không vợ con, không anh em, cao thượng một cách giả hình:

Tôi đã là con của vạn nhà

Là em của vạn kiếp phôi pha

Là anh vạn mái đầu em bé

Không áo cơm cù bất cù bơ 4

Người cộng sản Tố Hữu là con của vạn nhà bất lương, là em của một vạn con đĩ, là anh của một vạn thằng ăn cắp, móc túi. Tố Hữu đã mượn uy thế lãnh đạo văn nghệ để phê bình Yên Thao cạn tầu ráo máng. Không nhắc tới tình thương mẹ, tình yêu vợ của Yên Thao, Tố Hữu chỉ đem Nhà tôi đánh nát tình cảm tiểu tư sản. Anh sợ đạn rớt lầm nhà anh thôi à? Còn nhà nhân dân, nhà giai cấp vô sản, nhà cộng sản, anh không thèm chú ý. Rõ là thi ca tiểu tư sản ích kỷ và xa rời tình tự giai cấp!

Các bạn của tôi ơi, tôi đã ghê tởm cộng sản, tôi nhìn đâu cũng toàn cộng sản giả hình. Tôi đang nói chuyện của tôi, lại quàng sang chuyện văn nghệ, đọc thơ Yên Thao. Có lẽ thù hận làm tôi điên rồi! Tôi tiếp tục nốt chuyện tôi. Các bạn cảm phiền nhé!

Đến đâu rồi nhỉ? À, học tập chia giai cấp và xếp thành phần, tôi biết tôi là địa chủ ác ôn! Lính giai cấp nông dân không chấp nhận sĩ quan địa chủ. Tôi cảm thấy sắp rắc rối to, vội trốn về Hà Nội ở với ông bác. Tôi gặp bố tôi ở đây.

Bị sốt rét rừng, Tôi nằm chữa bệnh mất mấy tháng. Tôi định không bao giờ trở lại Thái Bình khi mình mẩy sưng lên những mụn thất bại. Ông tôi đã bị cộng sản sát hại ghê tởm. Ông tôi chết thảm không phải địa phương làm sai đâu, mà nằm trong chính sách của Đảng cộng sản. Tại sao cộng sản đi bắt một ông già mù lòa nằm trong cái rổ xề để ông ấy đói khát chết dần? Tại sao? Tại sao? Truy nguyên ra, ông tôi đảng viên cao cấp của Việt Nam quốc dân đảng, thời Nguyễn Thái Học. Khi Nguyễn Thái Học và các dồng chí lên đoạn đầu đài, ông tôi chán nản, vì tinh hoa của Việt Nam quốc dân đảng chết hết cả rồi. Ông tôi ngưng hoạt động, tuyên bố công khai về quê làm ruộng và quên hết chuyện đời. Mọi người đều tin thế. Cộng sản không tin thế. Với cộng sản, đã là Việt Nam quốc dân đảng, sẽ mãi mãi là Việt Nam quốc dân đảng. Đảng viên của bất cứ một đảng nào ở Việt Nam, chỉ thanh trừng, không có hồi hưu! Cộng sản chưa giết ông tôi vì chưa muốn giết. Thế thôi. Thời đại tranh tối tranh sáng, Vũ Hồng Khanh trốn về Hà Nội làm Bộ trưởng thanh niên, cộng tác với Bảo Đại; Phạm Phan Côn làm tới chức vụ Giám đốc... Họ đều là Việt Nam quốc dân đảng, đàn em của ông tôi. Cộng sản giết ông tôi để cảnh cáo Việt Nam quốc dân đảng sắp ùn ùn cộng tác với Bảo Đại.

Chao ôi, giết một người già nua, mù lòa trong cái rổ xề, phơi giữa cánh đồng, cộng sản vẫn nhận là tinh hoa của loài người. Thế đấy. Cộng sản quên những tháng năm ăn dầm năm dề ở nhà con trai người già nua, mù lòa! Vô nhân đạo, vô nhân đạo. tội ác của cộng sản múc hết nước sông Trà Lý rửa không sạch. Bố tôi được tin ông tôi bị cộng sản sát hại, mang tiếng bất hiếu, không dám về Ô Mễ.

Tôi phải về. Về tận Ô Mễ. Ôm lấy huyệt mộ ông tôi. Cho hận thù ngập trái tim. Tôi, bây giờ, những người không kháng chiến là bạn tôi; những người kháng chiến cho cộng sản là kẻ thù tôi, đồng lứa cộng sản. Lập trường dứt khoát. Cộng vản đưa tôi vào con đưòng máu duy nhất. Là chiến đấu tiêu diệt cộng sản...

--------------------------------
1 Khái Hưng, nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến. Vencuzenđơ bị Việt Minh thủ tiêu năm 1946.
2 Lan Khai, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử, bị học trò Việt Minh thủ tiêu 1946, vì Vencuzenđơ.
3 Yên Thao làm có bài Nhà tôi. Trong cuộc chỉnh huấn 1950, bị lãnh đạo văn nghệ Tố Hữu phê bình sát ván, Yên Thao không thèm làm thơ nữa.
4 Tố Hữu, lãnh tụ văn nghệ hồi Hồ Chí Minh còn sống. Bốn câu thơ trên trích trong tập thơ Từ ấy. Năm 1986, Tố Hữu bị thanh trừng.

giavui
10-16-2015, 06:52 PM
16

Luyến, Ngọc và Khoa ngồi im lặng hàng tiếng đồng hồ. Không cắt ngang câu chuyện, không thắc mắc điều chi. Cứ mặc Côn diễn thuyết trước ba người thân yêu. Nói dài. Nói lung tung. Kệ Côn. Luyến im lặng, kính trọng nỗi đau khổ của Côn. Luyến hiểu đang cùng cực trong nỗi khổ, Côn cần phải nhả ra cho vơi bớt những phiền tủi, đau đớn chứa chất trong lòng. Côn có tâm sự cay đắng. Sự cay đắng làm vàng võ một đời người. Luyến vẫn để dành những giọt nước mắt cho Côn. Nếu nó bị cuộc đời xua đuổi. Côn đã bị cách mạng xua đuổi. Côn đã bị cộng sản, theo ý Côn, xua đuổi. Năm năm trời, Côn cũng giống Vũ, giống Long, giống Lộc, đem hết nhiệt tình dâng cách mạng. Khốn nỗi, cách mạng lại dối gạt Côn, lừa đảo niềm tin của Côn. Để bây giờ, Côn đâm ra thù hận cách mạng. Chẳng có cách mạng cách mung, Việt Minh việt meo gì hết. Cách mạng giả hình đã hiện nguyên hình cộng sản. Côn nghĩ thế. Có lẽ đúng. Cuộc đời bao la. Công sản bé nhỏ. Cuộc đời chưa xua đuổi, không xua đuổi Côn. Luyến vẫn để dành những giọt nước mắt khóc Côn.

Từ ngày về thị xã, Luyến trải thân mình rộng ra như tấm da thú, chịu đựng bao nhiêu mũi tên tẩm thuốc độc oan nghiệt bắn vào. Những mũi tên đó, Luyến tưởng đã là khủng khiếp của thời đại chiến tranh. Nó bị xóa mờ đi, khi Côn đề cập giai cấp trong chủ nghĩa cộng sản. Phân chia giai cấp để chia rẽ tình người, để con người thù hận con người, để dân tộc chém giết nhau. Và ly tán. Chả biết đấu tranh giai cấp có lợi gì cho cộng sản? Chỉ biết con người đã nghi kỵ con người, đã căm phẫn con người, đã đề phòng con người. Vì, sắp có đấu tranh giai cấp, máu sẽ như nước lũ, ào ạt chẩy tự rừng núi xuống đồng bằng. Giai cấp là trò chơi khốn nạn nhất của cộng sản.

Dân Thái Bình đã chết đói cơ man, đã chết bom đạn vô số, lại sắp chết giai cấp đấu tranh, nếu cộng sản giải phóng Thái Bình. Chưa thấy bần cố nông đấu tố địa chủ ác ôn. Đã thấy con địa chủ hốc hác, già đi, tưởng chừng quên thời tuổi vàng hoa mộng vì học tập chia giai cấp, phân loại thành phần và hiểu mình thuộc thành phần nào, giai cấp nào. Luyến không ác cảm với cộng sản, nhưng phân chia giai cấp, Luyến phẫn nộ. Và thương Côn.

Chiều tối hôm qua, Luyến đến nhà Khoa gặp Côn. Luyến bàng hoàng thấy Côn già đi nhiều quá. Đặng Xuân Côn hôm nay khác hẳn thằng Côn năm xưa. Năm xưa, thằng Côn thắc mắc độc lập là gì, thực dân là gì, phát xít là gì, Việt gian là gì, thì thằng Luyến đíu thắc mắc, cứ nằm một chỗ chơi; rủ đi nghịch ngợm, thằng Luyến đi liền. Thằng Côn chê thằng Luyến nhút nhát, sợ hãi Nhật lùn. Bẩy năm rồi, Côn mới tiếc giá như Luyến. Mỗi người có một đời. Côn tiếc làm chi. Luyến kể chuyện thị xã những tháng năm vắng Côn, Vũ, Long, Lộc. Nó khôi hài mất một chân. Côn cười. Luyến không quên nói với Côn những gì xẩy ra cho nó và Ngọc. Hai đứa yêu nhau và sẽ cưới nhau. Côn không xúc động, chúc Luyến và Ngọc hạnh phúc suốt đời. Chỉ muốn làm cho Côn ngạc nhiên, nên còn dấu thằng Vọng ghẻ tầu. Luyến dặn Khoa đừng nhắc gì tới Vọng, cả cha mẹ Khoa nữa. Cứ để mặc Côn tưởng Vọng đã chết đói năm Ất Dậu.

Sáng nay, Luyến mời Côn về nhà mình. Có Ngọc và Khoa.

- Nói nữa đi, anh Côn! Nói nhiều cho ẩn ức nó trào ra, mình sẽ hết ẩn ức.

Ngọc tha thiết đề nghị.

- Nhiều ẩn ức lắm, Ngọc ạ! Chẳng bao giờ hết nổi. Họa khi nào cộng sản chết hết.

Côn buồn rầu trả lời.

- Ai cũng có niềm ẩn ức. Anh Luyến ẩn ức hơi nhiều. Nhờ anh chịu suy nghĩ và viết lên giấy, ẩn ức của anh vơi đi. ẩn ức trong cuộc đời còn mãi. Anh Côn biết không, từ Luyến nghịch ngợm đến Luyến cụt chân, bây giờ anh ấy định cư ở Luyến tiểu thuyết.

Ngọc vui vẻ nói.

- Mày viết văn đấy hả, Luyến?

Côn hỏi.

- Đang tập viết.

Luyến đáp.

- Anh Luyến đinh viết cuốn Cầu Bo trầm lặng. Cầu Bo, chứng tích lịch sử của Thái Bình.

Khoa nói.

- Có thể, mày sẽ hay hơn các nhà văn nổi tiếng tiền chiến. Chưa ai dám nghĩ viết cuốn tiểu thuyết lịch sử về tỉnh mình đâu, Luyến ạ!

Côn nói.

- Luyến cụt chân hết làm Luyến nghịch ngợm, tất phải năng suy nghĩ. Luyến bây giờ làm việc bằng đầu óc. Làm việc bằng đầu óc không ai bì nổi, dẫu họ có trăm ngàn tay chân.

Côn nói.

- Anh thấy chưa, Luyến. Em nói có sai đâu. Anh Côn cũng bảo Luyến đầu óc mà...

Ngọc thích chí khoe.

- Biết viết văn là nhất rồi. Mình có thể bỏ tù Hồ Chí Minh vạn vạn năm. Trong tù, Hồ Chí Minh sẽ than: Bầy trò phân chia giai cấp là hèn, đốn mạt. Người ta sinh ra để được sống no ấm bên nhau, chứ đâu phải để thù nhau, ghét nhau.

Côn nói.

- Thời đại sẽ xoay vần, nghiến nát cộng sản. Chúng ta nên chờ đợi, vì chúng ta chống sao nổi thời đại. Cộng sản, tư bản đang chiến tranh lạnh. Cả hai đều là những con ốc của thời đại được dịp múa may quay cuồng. Hết dịp thì chỉ là sắt vụn rỉ, chả ai thèm biết tới. Thử nghĩ xem, ai mạnh bằng Mông Cổ Thành Cát Tư Hãn, chiếm từ Á sang Âu. Người thù của mặt trời Thành Cát Tư Hãn đi tìm mặt trời để giết, vì mặt trời cứ tối, làm quân Mông Cổ phải dừng chân nghỉ ngơi, không tung vó ngựa đi chinh phục được. Sau Thành Cát Tư Hãn là gì? Một miếng đất cằn cỗi, thiếu nước, nghèo khổ cho dân Mông Cổ. Thời đại nó xoay, ai ngờ được. Ai mạnh bằng đế quốc Babylone, La Mã? Thời đại nó xoay, Babylone chìm xuống biển, La Mã bị lãng quên, không biết tên nước nữa. Ấy đó, thời đại luôn luôn xoay vần. Ai giỏi hơn Hitler, ai khỏe hơn phát xít Đức, Nhật? Thế mà cũng tiêu. Cộng sản đang ở chu kỳ rực rỡ, nó sẽ leo cao tuyệt đỉnh, rồi sẽ xuống đất đen. Cần gì phải bỏ tù Hồ Chí Minh?

Luyến nói.

- Mày là nhà văn, mày có quyền nghĩ xa xôi, làm việc xa xôi. Tao là chiến sĩ, chỉ nghĩ đến chuyện trước mắt. Và, trước mắt tao đang lù lù mấy thằng cộng sản. Giết nó đi, khỏi chờ thời đại xoay vần.

Côn nói. Rồi im lặng. Luyến đốt thuốc lá. Côn cũng vậy. Hai đứa cùng nhả khói và nhìn nhau, cùng cười.

- Giá, có thằng Vọng nhỉ?

Luyến nói.

- Nó chết rồi. May cho nó. Nếu nó còn sống, nó sẽ là kẻ thù của tao. Bố nó công nhân. Chết vẫn để lại giai cấp! Mẹ nó người bán hàng rong. Vọng thuộc giai cấp vô sản. Tao thành phần địa chủ ác ôn, giai cấp tư sản. Hai giai cấp đánh nhau. Phần chết sẽ về tao.

Côn nói.

- Khi nó chơi với chúng mình, nó có biết giai cấp là gì không? Thằng Vũ, con ông buôn bán hàng chuyến giai cấp gì? Thằng Long, con ông bán hàng sắt, giai cấp gì? Thằng Lộc, con ông chủ hiệu xe đạp, giai cấp gì. Mày giai cấp gi? Tao giai cấp gì? Mà vẫn chơi với nhau khắng khít.

Luyến nói.

- Dạo ấy, chưa có cộng sản.

Côn nói.

- Mày nghi oan cho thằng Vọng rồi, Côn ạ!

Luyến nói.

- Không oan, nếu nó còn sống.

Côn nói.

- Anh Vọng vẫn còn sống, anh ạ!

Khoa nói.

- Nó chết rồi mà.

Côn nói.

- Tháng 11, 1950, anh ấy còn đóng quân ở làng em. Bây giờ, chắc anh ấy đã đổi đi nơi khác.

Khoa nói.

- Vọng còn sống, lạ nhỉ.

Côn nói.

- Không lạ đâu. Khoa kể chuyện anh Vọng cho anh Côn nghe đi.

Luyến nói.

Khoa thuật từ đoạn Vũ, Côn, Luyến, Long, Lộc đem cơm bánh đến cứu Vọng. Lần này, không bị người đói cướp giật. Vào đến nhà, không có Vọng, chỉ thấy mẹ Vọng đã chết. Tất cả đều cho là Vọng chết giúi ở chỗ nào. Thực ra, cách đấy ba ngày, thầy Nguyễn Công Hoan sai người đến cứu Vọng, đem Vọng xuống Tiền Hải. Từ đó, Vọng học làm cách mạng. Vì bận nhiều việc, Vọng không về thị xã. Cho đến tháng 9, 1950, Vọng về Tường An, làm chính ủy trung đội và khuyên gia đình Khoa vào thị xã, càng nhanh càng tốt. Nếu gia đình Khoa ở lại, Vọng đi khỏi, bộ đội mới về, có thể sai chính sách, thi hành lầm, gia đình Khoa sẽ gặp nhiều oan trái. Khoa nói ba người thương Vọng nhất trên đời là Vũ, Côn, Luyến. Vọng đã khóc. Vọng bắt Khoa kể chuyện đá bóng năm xưa, hỏi Vũ, Côn, Luyến ở đâu, làm gì. Vọng mừng khôn tả. Vọng có tên mới: Kỳ Bá. Vọng bảo Khoa muốn gọi là Vọng hay Kỳ Bá cũng đưọc. Khoa vào thị xã cuối năm l950. Vọng từ biệt Khoa và hứa gặp Khoa ngày giải phóng thị xã.

- Thầy Nguyễn Công Hoan dạy Vọng làm cách mạng à?

Côn hỏi.

- Vâng.

Khoa đáp.

- Nguyễn Công Hoan là tổ sư cộng sản, dạy thằng Vọng làm tổ sư cộng sản. Nó đi lính tới chức chính ủy, nó phải vào Đảng cộng sản. Phải không, em Khoa?

Côn chua cay hỏi.

- Vâng, anh ấy là đảng viên Đảng cộng sản.

Khoa bình tĩnh đáp.

- Giai cấp vô sản lại đảng viên Đảng cộng sản, thôi Khoa, anh không muốn nghe chuyện thằng ghẻ tầu nữa. Quên nó đi. Anh hết thương nó rồi. Cả ông Nguyễn Công Hoan. Bây giờ, gặp cộng sản ở đâu, chỉ có đạn bắn trúng tim chúng nó. À, anh còn trả thù cho thầy Đàn nữa. Thầy đã bị cộng sản thủ tiêu rồi. Như Khái Hưng, Lan Khai...

Côn nói rất tàn bạo. Khoa há miệng chưng hửng. Ngọc ngạc nhiên. Luyến nhìn Khoa, thầm bảo Khao đừng nhắc Vọng lúc này. Luyến hiểu côn căm thù cộng sản muốn phát điên. Ai ở trong trường hợp Côn cũng giống Côn hết. Mắt Côn đỏ lên, long lanh thù hận:

- Không thể Bạn và Thù lẫn lộn được. Chúng ta cứ để Thù là Bạn chúng ta mãi, ngày kia, Thù sẽ cắt cổ chúng ta. Chúng ta lớn rồi, hiểu biết rồi, chúng ta là Quốc Gia. Thằng Vọng lớn rồi, khôn gấp bội chúng ta, thủ đoạn gian manh đầy người, thằng Vọng là Cộng Sản. Lời nói của cộng sản chỉ là đãi bôi. Nước mắt cộng sản chỉ là nước mắt cá sấu. Các bạn tin vào lời nói của thằng Vọng ư? Các bạn tin vào nước mắt của thằng Vọng ư? Tôi không tin, ngàn lần không tin thằng cộng sản đó. Với tôi, chỉ có sống hay chết trong chiến đấu diệt cộng sản.

- Côn ơi, mày và tao lên cầu Bo chơi. Tao sẽ nói tại sao tao muốn viết văn.

Luyến nháy mắt. Ngọc đứng dậy xin phép về đi chợ. Khoa nói có hẹn với thằng bạn sang Bồ Xuyên, sáng nay. Luyến đã chống nạng.

- Ừ, lên cầu Bo.

Côn và Luyến bước trên phố chính. Hai đứa không nói năng gì. Sự im lặng, một bước dài heo hút, ngăn cách giữa hôm qua và hôm nay. Hôm qua vui vẻ, hồn nhiên và yêu đương ngập tràn. Hôm nay buồn bả, cô đơn và hận thù kín lối. Luyến thương Côn quá. Người bạn ngày xưa, từ cách mạng tới giờ, thấm thoát bẩy năm,.thay đổi toàn bộ nhân sinh quan. Ở miệng Côn thở ra căm thù và căm thù. Thái Bình, quả thật, đã trải qua cuộc dâu biển tàn bạo. Lâu lắm rồi, kể tự sứ quân Trần Lãm dấy binh, đến Đinh Bộ Lĩnh làm yên đất nước, Thái Bình chỉ biết chịu đựng thù hận, không nói đến hận thù. Thời đại nó đẩy người Thái Bình đến chỗ phải biết hận thù và kiếm cách trả thù hận. Cách mạng, chiến tranh, hay cộng sản?

Tiếng nạng gỗ của Luyến nghe buồn tênh ...

giavui
10-16-2015, 06:53 PM
17

Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta

mau mến yêu giống nòi

yêu mến muôn giống người

Ngoài kia công nhân ơi

Quốc tế đang giơ tay đón mời bầy con đoàn kết

Từng nhớ những phút chiến thắng

tiền phong đua tranh bao năm

lầm than đau thương trong khốn cùng

Giải phóng thống nhất tiến tới

Việt Nam ra công chen vai

cùng thế giới mới sẽ sống chung

Tranh đấu cuối cùng là đời sống với giang sơn

Công nhân Việt Nam tiến tới

Cùng sống tập đoàn

toàn thế giới công khai

và kiến thiết xã hội ngày mai

Lúc đế quốc đang sắp tan rã dần

Ta tiền phong tiến tới

Sức chiến đấu đi tới miền Đông Nam

Lúc đế quốc đã tàn

- Mày thấy giai cấp công nhân của thằng Vọng đáng sợ chưa?

- Bài hát mày thuộc ở đâu?

- Sơn Tây.

- Tên gì?

- Công nhân kiến thiết xã hội.

- Chỉ có công nhân biết kiến tiết xã hội thôi à?

- Công nhân là xương sống của cộng sản. Thiếu nó, cộng sản đâu còn gọi là cộng sản. Cộng sản phải dùng giai cấp nông dân vì công nhân ít người. Giai cấp công nông, chứ kh6ng giai cấp nông công. Mày chú ý xem, cờ cộng sản vẽ Búa Liềm vàng trên nền đỏ máu. Búa đè trên Liềm. Và, Búa to hơn Liềm, mạnh hơn Liềm. Cộng sản dùng giai cấp nông dân, nhưng ghét giai cấp này nhất hạng.

- Tại sao?

- Mày viết văn nên chỉ dọc văn chương, triết lý, sử địa là cùng. Tao chiến sĩ chống cộng sản, thành thử tao tìm sách báo viết về cộng sản để đọc. Mấy tháng chữa bệnh sốt rét rừng, tao đọc vô số sách chống cộng và thân cộng. Tao đọc sách của cộng sản viết nữa. Cộng sản đã giết hàng triệu nông dân Kiev bên Nga. Trùm Staline bán lúa mì cho Tây Âu để dân Kiev chết đói. Người Nga đi đếm xác chết như dân Thái Bình năm Ất Dậu.

- Chỉ ghét nông dân mà bắt nông dân chết đói?

- Tao nghĩ xa hơn. Giai cấp công nhân không có của chìm, chẳng có của nổi. Nhà máy thì của... nhân dân, nhà nước cộng sản quản lý. Nhà ở cộng sản cũng quản lý luôn. Công nhân có tư hữu gì đâu, mà đòi làm chủ tư hữu của mình? Cơm ăn, áo mặc cộng sản lo giùm hết. Quyền sống, công nhân không cần lo. Công nhân mới là người nghèo nhất nước. Giai cấp nông dân khác hẳn. Mảnh vườn, cái ao, thửa ruộng là tư hữu của nông dân. Quốc hữu hóa, nông dân đòi quyền tư hữu đến nơi đến chốn. Thế thì giai cấp nông dân giống hệt giai cấp tiểu tư sản. Cái Búa phải to hơn cái Liềm. Khi cần, cái Búa sẽ đập cái Liềm nát bấy.

- Nông dân có biết chính mình là tiểu tư sản không?

- Không.

- Tách nông dân tiểu tư sản ra khỏi nông dân, cộng sản hết làm ăn.

- Ý kiến hay.

- Như thế là đấu tranh chính trị. Tư tưởng chống cộng sản tiêu diệt tư tưởng cộng sản. Tao cho như thế mày mới thắng cộng sản, không cần đổ máu. Cái cung cách chống cộng sản của Bảo Hoàng, tao thấy chỉ làm cho cộng sản vươn lên.

- Mày thấy Bảo hoàng chống cộng sản ra sao?

- Vu dân vô tội là cộng sản, tra tấn họ và làm tiền họ. Rồi chống cộng sản bằng mồm. Đả đảo cộng sản. Đả đảo riết, rồi chết. Cộng sản vẫn sống nhăn răng.

- Ở Hà Nội, toàn những thằng chống cộng sản kiểu ấy.

- Tao không chống cộng sản và thân cộng sản. Tao rửng rưng chuyện thiên hạ. Mày đã biết tao theo thuyết... đợi thời đại xoay vần. Côn ạ, mày phải làm lãnh tụ chống cộng.

- Tao làm lãnh tụ?

- Tại sao không? Đã lãnh tụ Hồ Chí Minh, phải lãnh tụ Đặng Xuân Côn. Người cộng sản, người chống cộng sản.

- Mày giúp tao không?

- Không.

- Tao làm một mình à?

- Engels viết bài Tuyên ngôn đảng cộng sản có một mình. Khi ấy, Marx chết rồi. Engels hô hào Vô sản trên thế giới hãy vùng lên cũng một mình. Đặng Xuân Côn, dân Thái Bình, năm 1952, hô hào Tiểu tư sản trên thế giới hãy vùng lên xem sao. Mày nên nhớ rằng, tiểu tư sản đông kinh khủng, ăn đứt tư bản và cộng sản về kiến thức, tài năng. Buồn một nỗi, tiểu tư sản chuyên làm nô lệ cho tư bản và cộng sản, bị tư bản và cộng sản khinh bỉ. Mày nghĩ cách làm cho tiểu tư sản đoàn kết lại. Ấy là mày giải quyết cả thế giới, không riêng gì Việt Nam.

- À, mày đọc sách chính trị, hả? Thế mà tao dám chê mày!

- Thỉnh thoảng. Vớ được quyển nào, đọc quyển đó. Què cụt chỉ còn thú đọc sách thôi, mày ạ!

- Tiểu tư sản là vấn đề ăn nhất, cộng sản sẽ điên cuồng, bấn loạn.

- Mày phải làm lãnh tụ cơ.

- Để tao nghĩ.

- Trong khi mày nghĩ có làm lãnh tụ hay không, tao góp chút ý kiến.

- Nói đi.

- Thằng Vũ đang theo kháng chiến, thằng Lộc đang theo kháng chiến. Hhư chúng ta, chúng nó chỉ mơ ước Pháp thua sớm, trở về thị xã, xây dựng lại căn nhà cũ. Giấc mơ thật đơn giản. Chúng nó chiến đấu vì thị xã, nơi chúng nó sinh ra, lớn lên, hưởng trọn tuổi vàng hoa mộng. Chúng nó mong về để chết với thị xã. Bảo chúng nó đánh nhau cho cộng sản, tội nghiệp chúng nó. Thiên hạ đã chia rẽ nhau, thù hận nhau, chúng nó gây chi nên tội mà chúng ta phải chia rẽ chúng nó? Thằng Vọng gần chết đói, có người đến cứu nó và dạy nó thành người cộng sản. Chuyện rất thường. Nếu chúng ta đến sớm ba ngày, Vọng sẽ theo chúng ta. Vọng ở rất xa chúng ta bằng giai cấp. Lời nói của nó thì rất gần, êm ái như thuở Monguillot. Thằng cộng sản Vọng đã nói một câu, khiến thằng què cụt Luyến phải tôn nó lên làm bậc thầy. Côn ạ, hôm nay, mày cần nghĩ xa cuộc chiến đấu tiêu diệt cộng sản bằng tư tưởng của mày, để ý chi đến súng đạn và máu, để ý chi đến thằng Vọng, thằng Vũ, thằng Lộc, những ngươi bạn thân yêu của mày...

Côn kh6ng trả lời. Nó lái sang bài hát Công nhân kiến thiết xã hội.

- Cộng sản Việt Nam đã hé mùi quốc tế cho người ta sợ nó. Nó đòi sống tập đoàn với thế giới cơ! Đế quốc Mỹ sắp tan rã. Khi nó chiếm được các nước vùng Đông Nam Á, là đế quốc Mỹ tàn lụi. Còn nằm trong hang đá, cộng sản đã mơ đô hộ Thái lan, Mã lai, Tân gia ba...

Luyến không thích nghe chuyện đàm tiếu người cộng sản của Côn nữa. Nó nói:

- Đến cầu Báng rồi. Dừng xe ăn một cái bánh chưng. Lâu lắm không được ăn bánh chưng cầu Báng.

Người lái xích lô ngưng lại. Hai đứa bước vào quán. Hôm qua, Côn rủ Luyến về Ô Mễ thăm mộ cụ Hào Điền. Luyến không cuốc bộ được sáu cây số liền một lúc, đi xe đạp chưa quen. Côn thuê chiếc xích lô, bao nửa ngày để chở khứ hồi. Con huyện lộ số 24 đã lấp hết hố chữ chi, sửa sang bằng phẳng. Cầu Báng bị phá sụp đổ, quân Pháp phải bắc chiếc cầu mới kế cận, xe cộ nhà binh mới lưu thông dễ dàng.

Cây cầu Báng của làng Đồng Thanh. Làng này nổi tiếng nhờ bánh chưng ngon. Vì hai quán bánh chưng bán cho người đi qua đường sát cây cầu, nên không ai gọi bánh chưng Đồng Thanh. Mà, bánh chưng cầu Báng. Miền Bắc, mỗi địa danh thường cung cấp cho con người một món ăn đặc biệt. Như bánh gai ở Ninh Giang, cá rô ở đầm Sét, ổi ở cầu Bo... Nhiều người biết tiếng nó quá, nó đi vào vè. Bánh chưng cần Báng chẳng hạn:

... Tương Bần Yên Nhân

Nước mắm Vạn Vân

Bánh chưng cầu Báng...

Cầu Báng không bao giờ làm bánh chưng tết, hình vuông, kiểu bánh chưng báo hiếu của Lang Liêu, hoàng tử thứ 16, con vua Hùng Vương thứ 6. Có lẽ, bánh chưng để bán, cầu Báng làm khác đi. Một người ăn một chiếc, vẫn còn thòm thèm, ăn hai chiếc thì hơi no. Chiếc bánh chưng cầu Báng như chiếc bánh giò, to hơn và gói bằng lá de.

Là de lạ lắm. Khi luộc bánh, người ta tính thì giờ vào cây hương đốt. Cầu Báng khỏi cần hương, chỉ cần thói quen. Bánh chín, lá de đổi mầu sắc bên ngoài, thành mầu lá cây mùa thu. Bên trong, lá de như một cặp môi ngậm đầy sữa, hôn lên bánh đều đặn, khiến bánh xanh từng hạt nếp bìa. Bánh chưng ai chẳng tẩm đỗ với thịt? Thịt và đỗ cầu Báng mới ngon! Bánh chưng cầu Báng ngon tất cả. Toàn diện.

Luyến và Côn đã ăn bánh chưng xong. Tự thị xã tới Đồng Thanh phải qua Đoan Túc, Tri Lai, Thắng Cựu. Ngồi trên xích lô, xe chạy tới làng Chành, đến Ô Mễ.

- Cây đa làng Chành sống lâu lắm, Luyến ạ! Lụt năm 1945, nước phủ trắng xóa đến nửa tháng, nó không chết.

Luyến nhìn cây đa lành Chành. Nó nghĩ rằng cây cổ thụ sống lâu đã thành thần thánh rồi. Nó cần sống lâu thêm nữa. Để xem thời đại xoay vần.

- Mình xuống đây.

- Phải băng qua con đường mòn này à?

- ừ. Ngắn thôi. Đồn Pháp đóng ở chợ, mất lối vào cổng chính của mình.

Côn dặn người phu xích lô đậu tại gốc cây đa làng Chành chờ đợi. Hai đứa vào con đường mòn. Côn đi trước, Luyến chống nạng theo sau. Một lúc, hai đứa vào làng Ô Mễ. Nhà Côn xây ba từng, rộng rãi thênh thang. Bây giờ càng rộng rãi. Luyến cảm tưởng cảnh đìu hiu đã trùm kín căn nhà. Con chó nằm ỳ một chỗ, chẳng chạy ra mừng chủ về, không sủa thấy khách lạ tới. Đó là dấu hiệu của sự đi xuống thảm bại. Người nhà tíu tít hỏi thăm Côn. Lát sau, dân làng kéo tới, và trẻ con lũ lượt đến xem mặt chú Côn có khác ngày xưa không. Côn vẫn được cụ Hào Điển che chở trong tình thương dân làng. Côn bảo họ hàng mang khăn tang cho Côn quấn để Côn ra lễ ông nội ngoài mộ.

Đứng trước ngôi mộ cụ Hào Điển, Côn khóc rưng rưng. Nó thầm nguyện cầu những gì, Luyến không biết. Khi về, Côn lau nước mắt, nghiến răng, và giọng nó chứa đầy phẫn nộ:

- Cháu sẽ trả thù cho ông, từng đứa một. Không gì cản nổi cháu, cản nổi mối huyết thù của cháu.

Côn nhìn họ hàng:

- Mọi người nhớ cho kỹ, kẻ thù của chúng ta là cách mạng, kháng chiến, cộng sản. Ba thứ đó đều một phường khốn nạn!

Luyến và Côn trở lại căn nhà tiêu điều cũ. Côn chỉ cho Luyến cái rổ xề cộng sản bắt nhốt cụ Hào Điển trong đó và trả tự do về huyệt mộ, cũng trong đó. Nó là chiếc rổ lớn, đựng bèo đã giã nhỏ cho lợn ăn. Con người ví với con vật. Luyến hỏi:

- Tao muốn ngắm cống Hào Diển, được không?

Côn đáp:

- Nó ở ranh giới giữa làng Ô Mễ và làng Thụy Bình, xa lắm, mày không đi được.

Luyến nói:

- Không ai để gì cụ thể cho nước non, dân tộc cả. Chỉ cụ Hào Điển để lại cái cống Hào Điển cho dân Ô Mễ là cụ thể nhất thôi. Chả ai nhớ những người đã xưng hùng xưng bá làm hay cho dân tộc cả. Cụ Hào Điển thì khác. Chỉ một cái cống cho dân Ô Mễ. Đời đời, kiếp kiếp, nông dân Ô Mễ còn cần nước sông Trà Lý, còn nói tới cống Hào Điền. Cụ sống với nông dân mãi mãi, cụ có chết đâu?

Côn mỉa mai:

- Cụ có chết trong rổ đựng bèo cho lợn đâu!

Luyến không nói năng gì nữa. Hai đứa về thị xã. Đến cây đa làng Chành, chỗ người phu xích lô đang neo xe đợi, Côn bảo Luyến:

- Mày về trước nhé! Sáng mai, tao sẽ có mặt ở nhà mày. Tao còn một số việc cần giải quywết với họ hàng. Có một điều tao nói riêng với mày: Trường Sĩ Quan Nam Định di về Thủ Đức, miền Nam. Tao tình nguyện học ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Tao nản Thái Bình lắm rồi.

Côn trở lại con đường mòn. Một mình Luyến ngồi trên xích lô, nghĩ ngợi về bạn mình. Côn không thể làm lãnh tụ đối nghịch với lãnh tụ Hồ Chí Minh được. Chẳng phải riêng Côn, mọi người, kể cả trí thức khoa bảng, đều nghĩ như Côn. Không ai dám làm lãnh tụ. Đi làm nô lệ phục vụ cho lãnh tụ sướng hơn. Cho nên, chỉ một người xưng mình là lãnh tụ duy nhất trên đất nước khốn khó này. Mọi sự chống đối của thiên hạ, lãnh tụ coi thường và khinh thường. Côn rồi cũng bị lãnh tụ cộng sản khinh thường thôi. Mỗi người có một cuộc đời. Côn xoay xở lấy cuộc đời của nó. Bằng thù hận.

giavui
10-16-2015, 06:53 PM
18

Côn không ghé Luyến, không ghé Khoa. Từ Ô Mễ, nó vào thị xã sớm, mua vé xe Con Voi lên Hà Nội. Côn chẳng muốn liên hệ gì với Thái Bình nữa thì phải.

Ở Thái Bình, Côn gặp lại Luyến, thấy Luyến đã què quặt, tâm hồn hơi hướng về bên kia vì có em kháng chiến, Côn chán nản. Còn bốn thằng bạn: Long đã chết trận, Vũ và Lộc đang chiến đấu trong hư vô, Vọng thì cộng sản đứt đuôi con nòng nọc. Những thằng bạn còn sống đã là cộng sản hay đổ máu cho cộng sản, đều là kẻ thù của Côn. Cộng sản chia xã hội Việt Nam thành từng giai cấp để hận thù nhau. Côn không hạ cộng sản bằng chống chia giai cấp để thương yêu nhau. Côn ghim thù hận trong máu, làm mau, nếu mình có thể, chứ không chịu đợi lâu. Chống đối tư tưởng, người ta mất hàng trăm năm. Côn ngỡ tư tưởng nó lòi lên, cứ chém là đứt, là thành công. Thù hận làm lóe mắt Côn. Luyến vẫn yêu Côn. Vì, Côn chỉ là một con người yếu đuối.

Côn bỏ thị xã Thái Bình ngót ba tháng rồi, chẳng nhận được bức thư nào của nó. Sắp nghỉ hè. Khoa chuẩn bị sang Nam Định thi trung học phổ thông. Hôm qua, Luyến gặp Khoa, nó tâm sự với Luyến đủ thứ chuyện. Những chuyện về Côn, Luyến để trong lòng, Khoa cũng biết.

- Anh đã khôn khéo khuyên anh Côn đừng thù hận anh Vọng, anh Vũ, anh Lộc, chứ gì!

- Sao em biết?

- Nhìn ở đáy mắt anh.

- Em nghĩ về anh Côn còn đẹp như ngày xưa không?

- Anh Côn bao giờ cũng tốt, cũng đẹp. Em thương anh ấy lắm. Vì thù hận, anh Côn mất trí. Vì mất trí, anh ấy mất suy nghĩ. Anh ấy giống những nhân vật đi tầm thù trong truyện kiếm hiệp. Bố mình bị nó giết, tìm nó trả thù. Con nó thấy bố chết, tìm mình tuyết hận. Cháu mình thấy ông chết, tìm con nó... Cứ đi tìm suốt đời nọ sang đời kia mà trả thù. Đời sống chỉ vậy sao?

- Em nghĩ thật đi, mình phải làm gì, Khoa?

- Bố em bị cường quyền giết, mình không thể trả thù nổi. Cường quyền đông lắm và khỏe lắm. Mình đành im lặng. Bố em bị người tầm thường giết, mình tha thứ. Sẽ không có thù hận đời sau. Có vẻ Quốc văn giáo khoa thư, anh nhỉ?

- Không, cuộc đời lắm chứ.

- Anh Côn chẳng nghe ai đâu. Anh thường bảo mỗi người có một cuộc đời, anh Côn có một cuộc đời thù hận, anh ấy sẽ sống bằng thù hận, cô đơn vô tả. Em lại thương anh ấy thêm lên.

- Khoa, em là thằng bé đi hia bẩy dặm.

- Nhờ anh chỉ dạy.

- Em đang nghĩ gì?

- Về một chuyện tình...

Khoa nhớ con Liên từ lâu, từ ngày hồi cư thị xã. Nếu Khoa về thị xã, cố xin bố mẹ, cho lên Hà Nội chơi, nhé! Nhà Liên ở số 42, phố cửa Bắc. Liên đã nói với Khoa thế. Nó đã về thị xã, ngay cả một bức thư viết dễ dàng, nó cũng không viết. Cha nó đi Hà nội luôn, nó chả thèm nhắn lời hỏi thăm Liên. Hỏi thăm Liên, nó phải cho cha nó địa chỉ của Liên. Cha mẹ nó tưởng nó đã quên con Liên rồi, chuyện hai đứa quen nhau, chơi với nhau, hồi tản cư.

Khoa đâu có quên Liên. Nó yêu say đắm, yêu Liên còn hơn Vũ yêu Thúy. Thời đại của Vũ náo động và sôi nổi thật, song thua hẳn thời đại của Khoa lãng mạn và tình tự. Thời đại của Khoa có trống đồng thôi thúc dân gian đừng quên giặc Pháp xâm lược sẽ đến; có trận giả làm những đứa bé biết mơ thành người sông Lô; có bao nhiêu bộ đội tiểu tư sản ở Hà nội, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định về dạy thiếu nhi học, thiếu nhi hát; có những đêm kịch ve vuốt tài năng tuổi ngọc; có những lớp Bình dân học vụ, biến bà nội, ông ngoại, dì cô, chú bác thành học trò của Khoa, của Liên, xui Khoa và Liên cảm động như đĩa đèn dầu lạc thắp bấc long lanh những giọt nước mắt... Thời đại Vũ làm gì có. Vũ đã theo kháng chiến, xa hẳn tuổi thơ bồng bế để lại cho Khoa những ngày vàng hoa mộng.

Khoa quen Liên trong thời đại ấy, rực rỡ dân tộc của chu kỳ đất vỡ chiêm bao. Khoa đã đưa Liên về đường mòn thấm ướt trăng sao, những đêm tập kịch. Mùa đông, hai đứa đi sát bên nhau, tay đứa này trong túi đứa nọ, móc lạc rang nhai cho trời hết lạnh. Khoa đã đeo lên tai nhụy hoa mẫu đơn cho Liên, bắt Liên đừng quên hoa ngâu. Trời ơi, Khoa còn rủ Liên ngồi trên cầu Chờ chờ đợi một nỗi niềm gì đó; lên quán Nghỉ, hẹn hò người bâng quơ...

Làm sao Khoa có thể quên Liên? Nó nhớ Liên âm thầm. Đã nhiều lần, Khoa muốn viết thư cho liên. Rồi, tự lòng nó đã nói: Gượm đã. Khoa lại sợ Liên quên hết chuyện Tường An, nghèo xơ nghèo xác. Ở Tường An đi chơi với cu khoa được, ở Hà Nội thì không. Khoa sợ hãi tiếng không ghê lắm. Sợ hãi rồi ngờ vực. Chả biết Liên Hà Nội đã thay đổi gì chưa! Đời có nhiều mùa. Mùa vào tuổi lớn, Khoa cáu ghét cái mùa vào tuổi; và Khoa cảm thấy nhớ âm thầm, yêu âm thầm là để yêu người không bị thất vọng. Điều đau khổ nhất trên đời, Là yêu người mãi mà người chẳng yêu. Ai đã nói thế? Có phải vậy không?

Luyến tủm tỉm cừi:

- Tình yêu đến, tình yêu đi, ai biết?

Và nói tiếp:

- Tình yêu chỉ đến với em thôi. Em là người hạnh phúc, đụng tới đâu, hạnh phúc trào ra tới đó. Đẹp giai, học giỏi, giai cấp... cao thượng, con gái mê mệt, vất đi không hết, tội gì đau khổ nhất trên đời.

Khoa bịn rịn:

- Em yêu Liên như thời hoa mộng của em, đánh mốc chu kỳ rực rỡ của dân tộc. Chu kỳ ấy có bốn niên. Nếu sống thêm nhiều tháng năm buồn nhạt, bây giờ chẳng hạn, đổi lấy bốn năm huy hoàng, em đổi ngay. Em đã yêu Liên vào lúc đó.

Luyến thở, khói thuốc lá bay:

- Em đã nói yêu Liên chưa?

Khoa bẻ bão tay:

- Chưa.

Luyến hít đẫy đà thuốc Cotab:

- Em đã cảm giác yêu Liên và Liên đã mơ hồ yêu em. Tình yêu thế mới gọi là thơ mộng. Lúc nào tình em yêu Liên, tình Liên yêu em cũng bảng lảng. Em đừng sợ hãi mùa vào tuổi nữa. Mùa ấy làm Liên yêu em hơn, dù xa cách. Tháng chín, năm nay, em lên Hà Nội học ban tú tài, tìm Liên còn sớm chán.

Khoa hơi cúi đầu:

- Em đỗ trung học, sẽ bỏ đệ tam, nhẩy đệ nhị, anh ạ!

Luyến nhìn Khoa:

- Tùy ý em. À, anh chưa biết Liên họ gì?

Khoa cười:

- Nguyễn. Nguyễn Kiều Liên.

Luyến khen:

- Hay quá, tên nàng hay qua, chàng ạ!

Khoa sung sướng quá, im lặng. Đó, tâm sự của Khoa, tâm sự tình yêu đẹp hơn thơ của nó.

Luyến vẫn nhớ đến Côn nhiều hơn. Đường như Côn là nỗi ám ảnh của Luyến. Mỗi người có một cuộc đời. Cuộc đời của Côn không bình thường, cuộc đời Côn bị thù hận mới định cư. Tưởng chừng nó đồn trú trong tim Côn từ đời nào. Khoa nhận xét đúng, Côn đã mất trí. Côn mất trí, cuộc đời Côn sẽ lạc hướng. Côn xa Luyến, xa Vũ, xa Vọng, xa Lộc vĩnh viễn. Luyến thở dài: Chiến trnanh và chủ nghĩa! Chiến tranh làm con người xa nhau, rồi làm con người gần nhau, dù con người có mù, quẻ, câm, điéc hay chết mất tích, chết thảm thương. Vẫn không xa nhau. Chủ nghĩa làm con người đoạn tuyệt con người. Là người không theo chủ nghĩa, không chống chủ nghĩa, biến thành nạn nhân của chủ nghĩa, Luyến đấy. Chính Côn đã xa lìa Luyến. Chính Luyến đã lìa Côn. Không phải vì bất đồng chính kiến. Mà vì không có chính kiến.

Thời đại này oái oăm thật. Những người mơ thị xã Thái Bình sống êm đềm bên sông Trà Lý, có cầu Bo thơ mộng, hàng hồi phố chính tỏa hương thơm ngát, chắc chắn sẽ tuyệt vọng. Nước lũ không chẩy xiết gầm cầu vào tháng Bẩy. Nước lũ chẩy quanh năm. Mỗi ngày. Luyến ngồi im. Suy nghĩ...

giavui
10-16-2015, 06:54 PM
19

Khoa thi đỗ trung học phổ thông bên Nam Định, hạng Bình. Nó về thị xã lĩnh phần thưởng của Tòa tỉnh trưởng, nghỉ vài hôm rồi lên Hà Nội học ngay. Sang năm, Khoa thi tú tài 1. Phần thưởng của Khoa toàn sách giáo khoa tiếng Pháp và những quyển tự điển Pháp-Việt, Anh-Pháp. Đẹp nhất là Petit Larousse illustré 1951. Khoa đem hết tự điển biếu Luyến, đền ơn Luyến kèm dạy.

Khi đã tìm được nhà trọ và trường học ưng ý, Khoa mới viết thư cho Luyến... Anh Luyến ơi, em thỏa mãn lắm rồi. Kiều Liên của Trần Khoa vẫn như ngày xưa, vẫn yêu em say đắm. Nàng trách móc em đã vào thị xã gần hai năm, hôm na, mới về cửa Ô xưa. Em phải nói em đâu có đi kháng chiến, em theo giặc thì về năm cửa Ô sao được. Em sắp đến ở nhà Liên. Bố mẹ nàng muốn thế. Ở nhà Liên, em có thể kèm Liên học với các em nàng. Năm nay, Liên học đệ tứ Trưng Vương. Em học nhẩy nên không được học Chu Văn An. Anh Luyến ạ, đời sống gia đình ấm cúng lắm. Em sẽ ở bên Liên suốt đời. Em chán Thái Bình rồi, chỉ giành nhau thù hận. Họ cứ việc thù hận nhau. Em ngoảnh mặt lên Hà Nội tìm yêu thương. Mặc kệ cuộc đời, em không mơ chiến đấu nữa...

- Nghĩ gì đấy, nhà văn Luyến? Ngọc hỏi.

- Thằng Khoa. Luyến đáp.

- Khoa dễ mến lắm.

- Nó khác với Vũ nhiều. Nó hơi giống anh, không nói tới thời đại, có vẻ theo thời đại. Nó mơ ước đơn giản như Vũ, suốt đời sống bên người mình yêu. Không biết Vũ có bỏ Thái Bình không, chứ Khoa coi như đã giã biệt Thái Bình.

- Khoa viết thư cho anh, hả?

- Đọc thư nó hay ghê!

- Đã gặp Liên chưa?

- Rồi.

- Như ngày xưa còn bé, chứ?

- Như. Khoa thật hạnh phúc. Nếu Trời bắt tội nó, cho Liên lấy chồng khác, không nhớ gì tới ngày xưa, Khoa sẽ thay đổi hẳn. Cái hận thù của Côn khác cái hận thù của Khoa, song đều là hận thù. Anh không ngờ nó yêu Liên âm thầm vậy. Âm thầm càng lâu, nổ tung càng dữ dội. May thay, Khoa có hạnh phúc thực sự.

- Còn anh, có hạnh phúc không?

- Anh hả? Tất cả con gái trên đời này đều tránh xa thằng cụt chân. Chỉ một người dám yêu anh. Là...

Ngọc hôn Luyến một cái hôn thật dài. Về sau, nếu cuốn sách tiểu thuyết lịch sử Cầu Bo trầm lặng của Lê Huy Luyến nổi danh, phải nói có sự khích lệ của Vũ Cẩm Ngọc. Ngọc yêu Luyến, đòi lấy Luyến bằng được, đã là chuyện lạ. Lại bảo Luyến làm việc bằng trí óc, đừng nghĩ tới chân tay què cụt. Càng lạ hơn. Ngọc đúng là người đàn bà miền Bắc, thời xưa.

- Mấy giờ, đám rước Hội Đền Mẫu khởi sự, hả anh?

- 10 giờ.

- Thế mà anh gọi em sang sớm quá.

- Để em chuẩn bị. Một là, chúng ta đứng cửa, ngắm đám rước đi qua. Hai là, chúng ta lội ngược đám rước.

- Cả hai thứ: Ngắm và lội!

Hôm nay, Hội Đền Mẫu thường niên vào rằm tháng 5 âm lịch, nhằm ngày 7-6 tây lịch. Hội Đền Mẫu long trọng nhất Thái Bình, không những chỉ riêng thị xã, mà toàn tỉnh. Phủ huyện trong tỉnh đều có đền Mẫu. Người ta không gọi đền Mẹ, cứ đền Mẫu. Chính ra, đền thờ Đức Mẹ mới đúng.

Có một bà khi sống thì ban phát công đức, lợi lộc cho muôn nơi, khi chết thì linh thiêng ngút ngàn nên dân chúng Thái Bình lập đền thờ bà, coi bà như Mẹ. Bà là người Việt Nam, không phải Trung hoa hay Ấn độ. Đền Mẫu - đền Mẹ - sơ khởi, là nơi cúng lễ nghiêm trang. Riết rồi nó biến thành chỗ đồng bóng, xin xâm... Như đền Đúc thánh Trần Hưng Đạo. Hồi Pháp đô hộ, hễ ngày Hội Đềm Mẫu tới, dân chúng mười hai phủ huyện có bổn phận đóng góp công sức và tiền tài, làm sao cho ngày hội ở thị xã thật lộng lẫy, huy hoàng. Mỗi phủ huyện mang người xuống tỉnh tuần lễ trước để lo kiệu thánh Mẫu và tổ chức ngày hội.

Ngày Hội Đềm Mẫu, thị xã nhộn nhịp hẳn lên. Dân chúng mười hai phủ huyện nô nức kéo nhau về tỉnh, phố xá chất ních những người và người. Một năm mới có một lần đức Mẹ vào hạ. Từ ngày tiêu thổ kháng chiến, dân chúng nhớ ngày Mẹ gọi, cách mạng không cho vào, mẹ buồn lắm. Hai ông hộ pháp đứng canh trước đền, đã bị bọn thằng Vũ vặt trụi râu ria, lại bị cách mạng quên lãng đèn hương, hai ông gần chết đói. May mắn, dân thị xã hồi cư sớm, đền Mẫu đã có hương đèn. Và, hai ông hộ pháp được cúng hoa trái. Hai ông chỉ còn một nỗi buồn. Là canh gác đức Mẹ, canh gác cả phòng thông tin cho Bảo Hoàng! Năm kia và năm ngoái, tình hình chưa an ninh, người trong tỉnh về thị xã ít. Năm nay, nhờ có hai cuộc hành quân Trái Chanh và Trái Quít, tình thế ổn định rồi, những người Quỳnh Côi, Phụ Dực cũng về tỉnh dự Hội Đền Mẫu. Bộ tối cao chỉ huy quân đội Pháp cứ nhìn Hội Đền Mẫu, ra thông cáo chính xác về tin chiến sự Thái Bình.

- Trống đánh rồi đấy, anh ạ!

- Ừ. Lâu lắm mới nghe trống hội.

- Ta đứng cửa xem, nhé! Hội khởi hành ở trung tâm phố chính, tiến lên ngã tư Vũ Tiên-Thị Xã, trở ngược lại, qua Trưng Trắc, đến bệnh viện, ra cầu Bo, về đền Mẫu. Chúng ta coi hết, rồi đi tới đền. Mẹ anh, mẹ em, mẹ Khoa và mẹ anh Long bê cầu vồng đấy. Bác cả Hồng lo sắp xếp trong đền.

- Chờ lên đồng chứ gì?

- Sao anh biết rõ thế?

- Dạo học lớp nhì 1, bọn anh đã cớp hết tiền lộc thánh của bác ấy.

Ngọc nhéo Luyến một cái. Đau điếng. Tiếng trống ngày hội đến gần. Luyến hớn hở như một trẻ thơ mừng hội lớn.

Đi đầu, một chiếc trống thật lớn. Hai người khiêng và một người biểu diễn tài đánh trống. Họ mặc quần áo lính thú ngày xưa, ngang lưng thắt bao vàng. Người nào cũng đội nón sơn đẹp và vẽ dấu quân. Khi người biểu diễn múa hai cái dùi trống, bao nhiêu khán giả đứng hai bên đường đã tấm tắc khen tài. Mấy ông sĩ quan Pháp chụp hình liên miên. Người biểu diễn múa dùi, cơ hồ người làm xiếc ném những cây gỗ ngắn lên không trung rối bắt nó, chẳng rơi xuống đất bao giờ. Người làm xiếc phải tập luôn cho quen tay. Người biểu diễn không hề tập. Anh ta trình diễn đâu lấy tiền. Nông thôn làm gì có thì giờ tập. Múa dùi chừng một phút, anh ta lượn trên mặt trống. Tiếng trống nghe hùng tráng, sôi nổi như thúc giục quân binh tiến lên chiến trận. Tiếng trống đổi điệu. Bây giờ, nó dồn dập, say sưa như tiếng đao gươm rút ra chém giết. Một lúc, tiếng trống trở nên êm đềm, lắng dịu như đã chiến thắng trở về khải hoàn môn. Danh tài Hội Đền Mẫu chỉ có vậy thôi.

- Em biết trống trận đời nào không?

- Không. Anh hỏi em, sao em biết?

- Anh đoán thôi nhé!

- Đoán đi.

- Trần Lãm, người Thái Bình, sứ quân giỏi nhất. Đây là trống trận Kỳ Bố, nơi đóng quân của Trần Lãm. Không có trống trận Kỳ Bố, Đinh Bộ Lĩnh dẹp sao nổi 11 sứ quân?

- Thôi mà, xem đi anh.

Đi sau cái trống trận, hai hàng dài hai bên đưòng, các cô gái đồng trinh tuổi từ 16 đến 18. Toàn các cô thị xã, cô nào cô ấy đẹp như thơ và thơm mùi chanh cốm. Các cô mặc đồng phục áo dài xanh da trời, quần trắng. Các cô đi dép mầu trắng. Mỗi cô bê một bó hoa huệ. Các cô cười tươi như hoa. Hội Đền Mẫu bầy ra chỗ cho các cô đi rước chỉ để các bà mẹ, các ông cha xem mặt cho con trai mình, cô nào sẽ làm con dâu ông bà. Cũng là dịp các cậu tốn tiền mua phim và mua ảnh các cô.

- Sao lại chọn rặt con gái đồng trinh?

- Chắc đức thánh Mẫu còn trinh tiết.

- Nhỡ cô gái 18 đồng trinh mất trinh rồi thì sao?

- Bậy!

Theo sau những cô gái đồng trinh, là giàn trống ngũ lôi của các đồng tử. Mấy chú bé này trông dễ thương lắm. Tuổi từ 13 đến 15. Các chú mặc quần áo xanh, vàng, đỏ bó chẽn vào người. Cái quần lại ngắn tới đầu gối. Các chú đội nón nhỏ, từa tựa nón lính thú đời xưa. Những chiếc bao tím đánh đai lấy lưng các chú. Điều hơi lạ, các chú đi đất. Bốn chú đánh rống nhỏ. Một chú đánh trống lớn. Ngũ lôi mà. Chiếc trống lớn phải hai người khiêng. Hai người này không thuộc giàn trống. Trống nhỏ đánh lên từng câu ngắn. Trống lớn giữ nhịp, ở cuối câu, một tiếng thôi. Các chú chơi trống nhỏ chạy chậm tròn vòng quanh mình biểu diễn trống. Chỗ này thích thú và nghệ thuật vô cùng. Nó quyến rũ khán giả. Sĩ quan Pháp tốn nhiều cuộn phim. Người ta yêu mến giàn trống ngũ lôi, vì giàn trống chỉ có năm đồng tử chơi bay bướm. Lúc các chú đánh dùi vào thân trống để đợi nhịp dẫn đi xa mới ngoạn mục. Những tiếng lắc cắc hòa với tiếng thùng thùng sao mà tuyệt diệu thế!

- Trống đồng của Khoa chỉ sôi nổi một thuở thôi. Trống ngũ lôi mới sôi nổi muôn thuở. Người ta đã quên dân tộc rồi. Bây giờ, quê hương nhớ dân tộc, Thái Bình tự ý sống với phong tục tập quán rất xưa của dân tộc Việt Nam. Chẳng phải Bảo Hoàng hối thúc. Người Pháp thì kính trọng Hội Đền Mẫu tuyệt đối. Em xem xe căm nhông và xe jeep của lính Pháp không dám chạy trên đường phố chính, hôm nay.

- Nhà văn hơi cảm xúc rồi đó. A, này anh xem, các bà mẹ đi bưng cầu vồng...

Kế tiếp giàn trống ngũ lôi, các bà mẹ Thái Bình bưng cầu vồng. Ở hậu phương kháng chiến, các bà đã là mẹ bộ đội. Một khúc lụa dài vẽ hình chiếc cầu vồng, mầu sắc đã nhìn thấy trên trời sau những cơn mưa vừa tạnh. Các bà đi hàng đôi, tay phải và tay trái nắm lấy cầu vồng. Người ta muốn lên Trời - Thiên đàng của Ky tô giáo, Niết bàn của Phật giáo - cuộc sống dưới Đất phải lương thiện, không được gian dối, ác đức... Nêú người ta thích sống bất lương, man trá, độc ác... người ta sẽ về cõi Chết, đau đớn vô cùng. Phải leo cầu vồng dưới cõi Chết - Địa ngục của Ky tô giáo, Âm ty của Phật giáo - Dưới gầm cầu bao nhiêu ác quỷ, chó ngao chờ mình rơi xuống, xé xác mình! Bưng cầu vồng ở Hội Đền Mẫu mang ý nghĩa thế. Các bà mẹ Thái Bình vừa đi vừa cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho chiến tranh sớm chấm dứt, để những đứa con về cùng mẹ.

- Mẹ em kia kìa...

- Mẹ anh đâu?

- Kia kìa, đó đó...

- Ừ nhỉ, mẹ Khoa nữa, mẹ Long nữa... Các bà vui ra phết!

Đến những chàng đi khoeo sau lưng các bà mẹ. Đây là dân miền biển. Họ ăn mặc chững chạc, chứ không cởi trần đánh chiếc quần đùi. Khoeo của họ làm bằng khúc cây tre già, cao hơn họ. Quá nửa khúc cây, họ lấy hai miếng gỗ gọt đẽo vừa chân họ, gắn vào khúc cây. Trên ngọn khúc cây, họ máng hai sợi dây cột chân họ. Cái khoeo thật đơn giản. Leo lên nó mà đi là cả một công trình. Với dân biển, đi khoeo, với cây đèn bão, họ đứng chờ cá thấy ánh sáng chiếu xuống nước đến tìm mổi ăn, họ lấy vợt bắt từng con dễ dàng quá. Về thị xã, họ để hai cây khoeo một chỗ, giữ cho khoeo đứng thẳng, họ cho chêm cao lên. Và buộc dây họ đi khoeo, còn nhanh hơn người ta đi giầy. Trên đường phố, họ vui vẻ đùa giỡn nhau, làm cho Hội Đền Mẫu tươi lên.

- Anh không thích đi khoeo.

- Không hấp dẫn à?

- Đi khoeo một chân mới hấp dẫn!

- Luyến nghịch ngợm có khác

Các bà vừa lấy chồng theo chân những chàng đi khoeo. Các bà cũng mặc đồng phục quần đen, áo dài mầu gụ, đi guốc. Mỗi bà cầm một giỏ đủ các sắc hoa ngâu, hoa mẫu đơn, hoa ngọc lan... Các bà nổi lắm. Nhất là một con. Gái một con trông mòn con mắt. Khán giả đã cổ võ các bà nhiệt liệt.

- Giá em đi với các bà này, nhỉ?

- Anh sẽ ghen.

- Không, anh sẽ... đả đảo em!

Bây giờ mới đến đoạn rùng rợn. Bốn tay xuyên lình đi bốn hướng. Họ mặc bốn mầu áo: xanh, đỏ, tím, hồng. Ông nào mặc áo dài xanh, khăn xanh và thắt lưng xanh luôn. Ông áo đỏ cũng vậy... Quần của bốn ông mầu trắng. Họ mang dép Gia Định. Họ đúng là dân đồng bóng. ỏn ẻn và nũng nịu khiếp đời! Mỗi ông cầm hai cây lình bằng thép, tròn như ngón tay trỏ và sắc như nước. Cán lình là chỗ các ông cầm trên tay, tựa cán dao.

Ông xanh nhẩy múa một lát, nhìn khán giả, cười tủm. Rồi ông vung lình bên trái, xuyên lình má trái sang má phải. Không một giọt máu chầy ra. Ông lại vung lình bên phải, xuyên lình má phải sang má trái. Vẫn không giọt máu nào chẩy ra. Người ta đứng tim xem ông xanh biểu diễn xuyên lình. Sĩ quan Pháp vừa chụp hình vừa kinh ngạc. Ông xanh bịp chăng? Ông đỏ trả lời ngay. Ông xuyên lình má phải sang má trái. Để lình đứng im. Ông chạy ra chỗ sĩ quan Pháp bảo họ rút cái lình ra, bằng tiếng Tây chỉ trỏ. Người Pháp đã chứng kiến tận mắt. Ông đỏ gật đầu cám ơn. Ông vung lình tay trái, xuyên lình má mình. Ông tím, ông hồng... Các ông đua nhau xuyên lình, ròng rã hai ba tiếng đồng hồ. Không có máu chẩy.

- Y học chịu thua xuyên lình.

- Họ sẽ nghiên cứu, chứ anh?

- Từ lâu lắm rồi, khoa học đã chịu thua. Xuyên lình đặt ra vấn đề huyền bí. Mà huyền bí không tài nào nghiên cứu nổi.

- Giàn nhạc tới rồi...

Những ông nhạc sĩ sử dụng đàn tranh, đàn nguyệt, đàn chầu văn, nhị, trống cơm. Họ mặc áo the thâm, quần trắng. Nón đội trên đầu. Họ vừa đi vừa tấu cổ nhạc Việt Nam. Thỉnh thoảng, họ hòa tấu bình bán, lưu thủy... Tay nhị có dịp biểu diễn đơn độc với trống cơm. Trống cơm đi với kèn đám ma thì bất hủ. Giàn nhạc dân tộc, ngoài đình đám hội hè, còn chơi ở gánh hát chèo, ở hát ả đào, ở lên đồng... Thiếu đàn bầu, hôm nay. Đàn bầu, thứ đàn lãng mạn nhất loài người. Chì có một dây thôi. Mà nó làm rạo rực tâm hồn ta. Ca dao phải viết về nó: Đàn bầu khéo gẩy thì nghe, Làm thân con gái chớ mê đàm bầu. Nhạc chơi ở Hội Đền Mẫu chỉ có tính cách trình diễn tượng trưng. Không thể tìm chất nghệ sĩ chốn này.

Sau giàn nhạc, bốn bà đồng bóng diện đồ Thượng Hải, sắm vai bốn ông hoàng tử đi hộ tống đức thánh Mẫu. Bà nào bà nấy đeo kiếm bên người oai phong, lẫm liệt. Một tay đỡ vỏ kiếm, một tay sửa soạn rút kiếm ra.

Rồi đến kiệu rước thánh Mẫu. Uy nghi và kính trọng. Kiệu to, cao, rộng, dài, trên đó không có tượng thánh Mẫu. Thánh Mẫu bàng bạc, mơ hồ trong lòng ta. Ngài chỉ là những dòng chữ tạ ơn tự mấy ngàn năm sau của những người thọ ơn. Trên kiệu có những dòng chữ đó, viết bằng chữ Hán. Bốn mươi người khiêng kiệu đức thánh Mẫu. Hai mươi chiếc đòn, mỗi bên mười chiếc và hai mươi người, trong và ngoài, tay trái và tay phải, khiêng kiệu rước thánh Mẫu thăm thú thị xã tiêu thổ kháng chiến. Bốn mươi người mặc áo dài mầu xanh nhạt, quần trắng, đầu đội khăn đen, lưng quấn bao đỏ, đi chân đất. Họ cung kính thánh Mẫu, cho rằng khó lòng mới được khiêng kiệu thánh Mẫu.

- Nghe lính đánh trống trận, anh nghĩ đức thánh Mẫu là con cháu Trần Lãm.

- Cứ nghĩ Mẹ là người Việt Nam đã đủ hãnh diện rồi.

Theo sau kiệu, hàng dài dài những người mưòi hai phủ huyện. Có điều đáng chú ý. Hội Đền Mẫu không ai cầu kinh, không ai lần tràng hạt. Dân tộc hoàn toàn. Kiệu lễ qua nhà Luyến mất hai tiếng đồng hồ. Bây giờ, 12 giờ trưa. Luyến bảo Ngọc:

- Buổi chiều hãy lượn, em nhé!

Ngọc nói:

- Có lẽ chỉ tới đền Mẫu thôi. Em chắc anh đã biết thừa. Toà tỉnh trưởng Bảo Hoàng tạm dẹp phòng thông tin vài ngày. Bên trong toàn đồng bóng, khói hương làm cay mắt, chịu không nổi đâu. Thôi lượn nhé, anh nhé!

Luyến lại thở dài:

- Có Côn dự lễ Hội Đền Mẫu năm nay, chắc chắn nó sẽ nguôi ngoai thù hận.

Ngọc không nói gì, ôm lấy Luyến đi vào nhà...

giavui
10-16-2015, 06:54 PM
20

Vũ nằm ở bệnh viện dã chiến của quân đội Pháp đã hai tuần. Hôm đầu tiên về đây, Vũ mê man chẳng biết gì. Những viên đạn bắn vào ngực, vào bụng, vào tay Vũ ra nhiều máu quá và Vũ thiếp đi giữa trận chiến. Hôm nay tỉnh táo, Vũ mới hiểu mình còn sống.

Lính Pháp không nương tay, khi mình còn là ciến sĩ cách mạng đương đầu họ. Khi mình bị thương nằm xuống, lính Pháp lại tận tâm lo chữa cho mình. Y sĩ quân đội Pháp, mỗi ngày bốn lần, thăm bệnh của Vũ diễn tiến đến đâu rồi. Những vết thương ở ngực, ở bụng còn băng kỹ. Vết thương tay trái, người ta phải băng bột, dùng sợi dây vải, đeo cổ nâng lên.

- Anh nói tiếng Pháp khá đấy.

Người y sĩ nói.

- Thưa bác sĩ, tàm tạm thôi.

Vũ thành thật trả lời.

- Anh may mắn lắm. Tôi đã gắp hai viên đạn ra. Một viên nằm cách phổi một xăng ti mét, viên kia cách tim hai xăng ti mét. Những viên khác chỉ gây thương tích xoàng. Tay trái anh gẫy đốt xương nhỏ, tôi đã băng bột, chỉ sử dụng được 50 phần 100. Mười lăm hôm nữa anh về.

Người y sĩ nhìn Vũ, cười tự nhiên.

- Cám ơn bác sĩ, tôi nhớ ơn bác sĩ suốt đời.

Vũ nói.

- Không phải cám ơn, bổn phân của tôi mà. Nhờ chính anh, anh thoát chết, chẳng phải nhờ tôi đâu. Anh có biết cái gì không?

Người y sĩ hỏi.

- Không, thưa bác sĩ.

Vũ đáp.

- Nhờ anh nói tiếng Pháp. Tiếng nước Pháp đã cứu anh!

Vũ nhớ lại, trong trận đánh ở Thụy Anh, Vũ trúng đạn nhiều quá, nó liều lĩnh kêu lớn: Sauvez-moi, sauvez-moi, s'il vous plait! Người y tá Pháp chạy khỏi lằn đạn tới chỗ Vũ. Ông ta nâng Vũ ngồi dậy. Vũ thiếp đi, từ lúc ấy.

- Người ta vào máu cho anh, chở anh lên trực thăng về bệnh viện.

Ngừi y sĩ vui vẻ.

- Trước 1950, ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, tôi gặp bất cứ thương binh nào của Việt Minh, họ cũng đều nói tiếng Pháp giỏi cả. Sau 1950, họ không biết nói tiếng Pháp. Tại sao thế? Họ bị cấm nói tiếng Pháp, hả?

Vũ mỉm cười:

- Không ai cấm họ nói tiếng Pháp cả. Ngày trước bộ đội Việt Minh toàn những người trí thức thành phố, bây giờ, bộ đội là lính nông dân, họ chỉ biết đánh người Pháp, chứ không biết nước Pháp.

Người y sĩ ngạc nhiên:

- Anh là lính nông dân à?

Vũ lắc đầu:

- Tôi không phải nông dân, không phải trí thúc. Mà là học sinh thị xã, lớn lên tôi vào bộ đội.

- Thị xã nào?

- Thái Bình.

- Anh ở thị xã này?

- Vâng.

- Anh học lớp mấy, trường nào?

- Lớp nhất, trường Monguillot, nổi tiếng nghịch ngợm. Năm 1945, nước tôi độc lập, tôi học trung học gần hai niên. Thị xã Thái Bình bị tiêu thổ kháng chiến, vì người Pháp đe dọa chiếm đóng. Tôi thôi học, trốn nhà đi làm liên lạc viên quân đội, chờ đến tuổi vào bộ đội chiến đấu với Pháp.

- Không phải nhiệm vụ của tôi, tôi thấy anh kỳ lạ và độc đáo, tôi có sung sướng được hỏi anh vài câu không?

- Thưa bác sĩ xin bác sĩ cứ hỏi.

- Thái Bình đã yên, sao anh không về?

- Đã yên đâu? Chúng tôi vẫn đánh Pháp khắp nơi. Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Anh, Duyên Hà là nơi xẩy ra những trận đánh lớn, bác sĩ đã biết. Nhiều huyện lỵ Pháp chiếm đóng, tình hình có vẻ yên lặng. Yên lặng để nổi sóng gió, thưa bác sĩ. Yên lặng không phải là dấu hiệu đầu hàng Pháp.

- Thả anh về, anh nghĩ sao?

- Tôi tìm đại đội của tôi tiếp tục đánh Pháp.

- Để làm gì, sau đó?

- Giải phóng Thái Bình như ước mơ của tôi.

- Làm gì nữa?

- Hưởng cuộc đời xưa. Giã từ vũ khí, tôi xây dựng lại căn nhà cũ của tôi, trồng hai hàng hồi thơm hăng hắc, và sống với những người thân yêu.

- Chỉ có thế?

- Vâng. Chỉ có thế.

- Anh sẽ thành tựu ước mơ của anh, vì anh không phải chiến đấu chống Pháp nữa.

- Sẽ thành tựu ước mơ?

- Đúng lắm. Anh đã thành kẻ tàn phế trong chiến tranh. Pháp không sợ anh, Việt Minh không dùng anh. Anh yên thân trở về. Cá nhân tôi rất cảm phục anh. Anh càng có sức chiến đấy, tôi càng mừng. Những vết thương trên thân thể anh không cho phép tôi nói anh đã bình phục hoàn toàn. Chứng chỉ của anh khi xuất trại sẽ ghi rõ: Thương binh tàn phế 100 phần 100.

- Tàn phế!

- Đừng buồn. Can đảm lên. Anh nằm xuống. Anh tốt lắm. Tôi sẽ gặp lại anh.

Người y sĩ đi khỏi, Vũ mới bần thần khôn tả. Cuộc đời chiến đấu của Vũ chấm dứt từ đây, ở bệnh viện dã chiến quân đội Pháp, nơi đã hết mình cứu sống Vũ. Nó đi chinh chiến năm năm, bây giờ, trở về với tấm thân tàn phế. Thái Bình chưa giải phóng, nó đã buồn bã hồi hương. Thái Bình sẽ được giải phóng, nó tủi hận quê hương không cần đến nó. Vũ đứng ở một góc phố, nhìn trộm người, lớp lớp đi qua trong niềm vui long trời lở đất của thị xã. Giá Vũ chết trận tại Thụy Anh, đã được vinh dự: Chết vì tổ quốc. Cái vinh dự đó, Vũ không hưởng trong cõi hư vô. Cha nó, dì nó và các em nó phải ngạo nghễ với đất trời. Một kẻ không thích sống hèn, đã sống hèn. Vũ là chàng thương binh Pháp bắt trong chiến trận sôi sục, cứu chữa những vết thương và ghi vào hồ sơ tù binh: Trần Vũ, tàn phế 100 phần 100. Kẻ thù hết sợ Vũ, cách mạng hết cần Vũ, có kiếp sống nào hèn mọn hơn? Từ sống hèn đến chết vinh, chẳng qua một câu Sauvez-moi, sauvez-moi. s'il vous plait. Lính nông dân chỉ biết chết vinh, không biết sống hèn. Vì không biết nói tiếng Pháp.

Vũ hình tưởng ngày xưa, Vũ trốn nhà đi làm liên lạc viên cho đại đội 4, trung đoàn 44. Vũ sung sướng vô cùng. Nó trở nên hữu ích cho tổ quốc. Cha nó tìm kiếm khắp nơi, Vũ rõ chuyện, nhất định không về. Nó coi gia đình như chiếc lá bay. Đất nước mới là cây cổ thụ treo leo giữa trời. Nó thù thực dân Pháp tự ngày thực dân Pháp chiếm Nam Bộ. Rồi, thực dân Pháp tiến chiếm thủ đô Hà Nội và các thành phố, các tỉnh lỵ Bắc Bộ.

Thái Bình bị đập phá hết nhà cửa, dinh thự. Nhìn thấy rõ quê hương mình tàn phá vì thực dân đe dọa sẽ xâm chiếm, Vũ căm thù thực dân Pháp còn thẫm nét hơn. Pháp đã sang Thái Bình, năm 1947. Rút ngay. Hồ chủ tịch quyết định Thái Bình là đồng không, nhà trống, sau đó. Vũ đã mong tuổi nó lên vội vàng. Để vào Nam tiêu diệt Pháp. Lại mong để vào bộ đội.

Vũ đã vào bộ đội. Vẫn đại đội 4, trung đoàn 44, dưới sự dẫn dắt của các anh trí thức thành phố. Trung đoàn 44 luôn luôn chiến thắng. Ở Hưng Yên. Ở Hải Dương... Trung đoàn 44 chưa biết thua trận. Các anh lính trí thức thành phố đánh Pháp thật hiên ngang, thật rạng rỡ. Cuối năm 1949, trung đoàn 44 dưỡng quân tại làng Thư Điền, Tiền Hải. Đầu năm 1950, Pháp chiếm Thái Bình và Vệ quốc quân bị giải tán. Thay đổi cấp chỉ huy hàng loạt. Trung đoàn 44 biến tích. Các anh lính trí thức thành phố đáng yêu đi đâu hết.

Bây giờ, Vũ là lính trong Quân đội nhân dân. Đảng lao động ra đời. Đảng sẽ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Vũ chẳng cần chi tới Đảng lao động, tới quân đội nhân dân, các văn nghệ sĩ học tập lớp chỉnh huấn, tới những bài hát suy tôn Liên xô, Trung hoa, tới giai cấp đấu tranh. Và, lính đánh Pháp, nông dân thay thế trí thức thành phố. Quân đội nào cũng được, lính nào cũng được, đảng nào lãnh đạo cũng được, miễn là làm cho Thái Bình mau mau giải phóng.

Một hôm, chính ủy của đại đội 14 - chính trị viên của đại đội 4 cũ - gọi Vũ nói chuyện:

- Đồng chí có hiểu tại sao bộ đội trí thức bỏ ra đi không?

- Không. Tôi kh6ng cần hiểu.

- Phải hiểu chứ, đồng chí!

- Thưa đồng chí chính ủy, xin đồng chí giảng nghĩa cho.

- Bộ đội trí thức thành phố là giai cấp tiểu tư sản, không thích hợp cho cuộc chiến đấu hôm nay và cho cuộc chiến đấu mai sau. Đảng đã gạt giai cấp tiểu tư sản ra ngoài cuộc kháng chiến chống Pháp.

- Thưa đồng chí, đồng chí cũng là trí thức mà!

- Tôi đã đầu hàng.

- Đồng chí đầu hàng ai?

- Giai cấp vô sản!

- Tôi không chú ý tới giai cấp, vì giai cấp nào cũng đánh Pháp. Tôi hằng mong Pháp đại bại ở Thái Bình, tôi trả súng ống cho Đảng, về sống với gia đình, chẳng màng gì vào cuộc chiến đấu mai sau nữa.

- Đồng chí có thể về với gia đình tự bây giờ.

- Thưa đồng chí, tôi đi từ liên lạc viên đến bộ đội, ngót nghét năm năm, không cấp bậc và cũng không cần cấp bậc. Năm năm chịu đựng gian khổ, tôi vẫn trung kiên giữ lời thề: Giải phóng thị xã Thái Bình. Nếu tôi bị Đảng gạt ra ngoài thì đành chịu. Bằng không, đồng chí cứ để tôi chiến đấu với lính nông dân đến ngày thị xã Thái Bình được giải phóng.

- Phải giữ đồng chí lại chứ. Đồng chí nên hiểu giai cấp của mình, chiến đấu càng đầy nghị lực.

- Thưa đồng chí, tôi ở giai cấp nào?

- Bố đồng chí là lái buôn hàng chuyến, chứ?

- Vâng.

- Thuộc thành phần trung thương, như trung nông ấy.

- Vâng.

- Đồng chí nằm trong giai cấp nông dân! Đó là giai cấp lính.

- Tôi được chiến đấu?

- Hãnh diện là khác.

- Tôi chiến đấu ở Thái Bình?

- Đồng ý. Chiến đấu tới ngày giải phóng thị xã.

Từ đấy, Vũ chiến đấu tại tỉnh Thái Bình, các mặt trận bên kia sông Trà Lý. Vũ làm liểng xiểng Pháp ở Quỳnh Cội, Phụ Dực, Thụy Anh, Duyên Hà. Một năm đầu, Pháp đại bại. Lính nông dân mơ làm anh hùng Nguyễn Thị Chiên, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn... cứ nhẩy vào lửa, xông lên tiêu diệt địch quân. Pháp đã rùng mình kinh sợ.

Hai cuộc hành quân Trái Chanh, Trái Quít làm giảm cường độ chiến đấu của ta. Bây giờ, thế trận thay đổi, Pháp không chạy nữa, quân ta chạy dài dài. Pháp bắt được quân ta, lại thả ra vì là nông dân. Ta là người nông dân, mặc áo lính, Pháp không hiểu câu hát này, và có hiểu thì, nông dân thời chiến tranh có mặc áo lính bao giờ. Lính nông dân đi chân đất, đánh Pháp, người nông phu đi chân đất, cầy ruộng. Lính nông dân mặc áo cánh rách rưới, quần đùi, khi chạy Pháp, gói súng đạn vào ny lông, ném xuống sông ngòi, Pháp thộp cổ, nhìn những khuôn mặt hiền lành như... nông dân, Pháp thả ngay. Lính nông dân có lợi như thế đó. Phần đông ta đỡ hao hụt quân số.

Đến những cuộc hành quân đầy rẫy quy mô sau đó, cách mạng tan nát, kháng chiến rã bầy, bộ đội tán loạn. Tình hình ổn định, yên tĩnh khắp nơi, đấy là sự thắng lợi lớn của Pháp. Pháp chỉ tiễu trừ Việt Minh, không sát hại lương dân và thu lương dân về phía mình.

Cách mạng cho dân biết vẫn còn cách mạng. Thỉnh thoảng vài trận lớn xẩy ra. Trận mà Vũ tham dự ở Thụy Anh là trận đánh lấy tiếng cho cách mạng. Cuộc đời đãi ngộ Vũ thật nhiều, một lần không đãi ngộ, một lần thôi, làm chếnh choáng tâm hồn Vũ.

Vủ nằm xuống giường bệnh. Nước mắt nó ứa ra...

giavui
10-16-2015, 06:55 PM
21

- Tôi đã tháo băng trên mình anh. Những vết thương thành sẹo cả rồi. Có tắm rửa, anh nhè nhẹ kỳ cọ nhé! Kẻo những vết thương bị xước máu, làm độc.

- Thưa bác sĩ, vâng.

- Tay trái anh, tôi đã ghi rõ ngày tháng gỡ băng bột vất đi.

- Vâng.

- Đừng vì ngứa ngáy mà sốt ruột, nhé!

- Vâng.

- Bên quân đội đã cấp giấy tha anh chưa?

- Dạ, rồi ạ!

- Khoản tiền di chuyển nữa?

- Rồi.

- Chứng nhận bệnh tình của, tôi anh cất kỹ. Để anh xin việc làm được dễ dãi.

- Vâng.

- Cần gì tôi, anh cứ đến đây.

- Vâng. Tôi không quên ơn bác sĩ, suốt đời tôi nhớ bác sĩ.

- Anh nên nhớ rằng, mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Chúc anh can đảm.

Người y sĩ đưa tay bắt chặt tay Vũ. Vũ chia tay người y sĩ ra về.

Nó mặc bộ quần áo bệnh nhân, tay trái dùng sợi dây vải đeo cổ, nâng cao lên. Kẻ tàn phế đang bước những bước chân bi ai qua cổng quân đội Pháp tới nhà thờ. Nó nhìn vào sân giáo đường. Im vắng. Lúc ấy, 9 giờ sáng, ngày 10 tháng 4 năm 1953. Vũ đi trên hè phố Bùi Viện. Con phố này, từ phố Lê Lợi, dẫn vào nhà thờ. Những nhà cửa công chức kín mít, không thấy người nào ngoài phố.

Vũ bước thật chậm. Mà, đã đến Lê Lợi. Nó rẽ trái để về nhà nó. Thoạt tiên, Vũ nhìn lên cầu Bo. Lòng nó vấn vương trăm ngả. Nó nghĩ đến hàng hồi mộng tưởng. Nếu một mai, có người yêu dấu kỷ niệm, cố tìm hạt giống hồi đem về thị xã trồng, đứng dưới phố chính, chẳng nhìn thấy cầu Bo. Cầu Bo, Vũ lẩm nhẩm, nơi nó đã dắt con Thúy lên chơi, nó gặp thằng súc sinh Dương, con lão phó cẩm, trêu ghẹo người yêu của nó, nó đánh cho hộc máu mồm, lão phó cẩm bắt nó xin lỗi, nó không xin lỗi và bị đuổi học. Những mảng đời con Thúy dính líu những mảng đời thằng Vũ, lây lất suốt năm năm Vũ theo kháng chiến, không bao giờ Vũ quên Thúy. Từ ngày ông y sĩ quân đội Pháp bảo nó tàn phế, nó sợ hãi, không dám nhớ Thúy nữa. Chả phải sợ hãi riêng Thúy, còn sợ hãi tất cả những người chung quanh nó.

Vũ định rướn vài bước nữa, sẽ đến phố Lý Thường Kiệt. Qua hiệu phở Phớn, Vũ ghé vào ăn một bát. Tiền của quân đội Pháp cho đây, cứ việc ăn. Vũ đã thấy vài người thị xã quen biết cha dì nó, nhận nó không ra. Có ai tưởng một thằng đầu trọc lốc, mặc quần áo bệnh viện, tay trái què quặt buộc cao lên là thằng Vũ? Thằng Vũ của Monguillot, nghịch như phá, đủ thứ kiểu chơi của học trò.

Phở Phớn bấy giờ đang đông khách. Vũ tìm chỗ ngồi. Bao nhiêu năm kháng chiến không được ăn phở Phớn. Ngửi mùi nước dùng cũng đã thòm thèm rồi. Vũ gọi phở. Một lát, người bưng bát phở ra. Vũ hít hà mãi mới ăn. Ăn xong, Vũ gọi một bát nữa.

Lúc ấy, Luyến ngồi trong hiệu, cứ ngó Vũ chằm chằm. Khi nhận ra Vũ, Luyến để mặc Vũ ăn phở. Chừng Vũ trả tiền, Luyến chống nạng vội vã sang bàn của Vũ.

- Vũ!

Vũ giật mình. Nó nhìn Luyến.

- Luyến!

Và đứng dậy, ôm lấy Luyến bằng một tay. Nó quên nó tàn phế. Mà nghĩ tới bạn cụt một chân đi nạng gỗ. Hai đứa khóc suớt mướt. Luyến đã nói nó phải tiết kiệm nước mắt để dành khóc hai thằng bạn thân nhất trên đời này là Vũ và Côn, nếu chúng nó bị cuộc đời xua đuổi. Côn thì Luyến chưa khóc, vì cuộc đời mênh mông chưa xua đuổi Côn, cộng sản đã xua đuổi, cộng sản bé nhỏ sao so nổi với cuộc đời. Vũ thì Luyến lại khóc, chưa biết ai xua đuổi Vũ, Luyến có linh cảm cho rằng cuộc đời xua đuổi Vũ. Hai đứa vẫn khóc. Nước mắt đã thẫm ướt trên hai vai áo. Khách ăn phở nhìn hai đứa. Mặc kệ, tình cảm nó dâng lên phải để nó dâng lên.

- Về nhà tao đi.

- Tao muốn về nhà tao trước.

- Bây giờ, bố mày vắng mặt, con Tú, con Mai đang ở trường, thằng Khoa lên Hà nội học rồi. Đến tao, trưa mày về đúng nhất.

- ừ, về nhà mày.

Hai đứa ra khỏi hiệu phở. Trên hè phố chính, thằng mặc quần áo bệnh viện, tay trái què, đầu trọc lốc, đưa tay phải bá vai thằng cụt một chân chống nạng gỗ. Đó là cuộc đời mới nhất của hai thằng có mảng đời hoa niên lộng gió.

- Mày trong bệnh viện dã chiến ra, hả?

- Ừ. Sao mày biết?

- Tao cũng ở đấy.

- Bị bắt lúc bị thương như tao?

- Không, ở sân nhà tao, hôm quân Pháp sang chiếm Thái Bình. Tao thua mày xa, không đi liên lạc, tới tuổi, không vào bộ đội. Những năm tháng sống ở hậu phương, tao đi học, theo triết lý đợi thời đại xoay vần. Tao không theo kháng chiến, không chống kháng chiến, có cảm tình với kháng chiến, vì bạn tao, em tao đang kháng chiến. Thằng Ái say mê kháng chiến và biệt tích. Chị Nhi theo chồng về Hưng Yên. Anh Lưu theo vợ sang Hải Phòng. Còn mình tao, cụt một chân, sống với bố mẹ. Tao không vinh dự được bị thương vì tổ quốc, chẳng đóng góp xương máu chút nào cho giải phóng Thái Bình. Buồn chưa?

- Tao chịu đựng năm năm khổ sở cho cách mạng, chiến đấu rất hào hùng cho kháng chiến. Bây giờ, tao bị thương đến tàn phế, cách mạng chê bai, kháng chiến hết dùng, giặc Pháp không sợ, giải phóng thị xã mình ở cái khổ nào? Đời tao heo hút quá. Tàn phế rồi!

- Mày cụt tay, hả?

- Chưa cụt, chỉ sử dụng được 50 phần 100.

- Ngực mày nhiều vết thương, hả?

- Suýt chết.

- Mày vẫn đi được. Tao mới cụt chân, Vũ ơi! Tàn phế của mày nên nhường cho tao.

- Tao sầu đau vì thị xã chưa được giải phóng.

- Chắc mày thích vòng hoa chiến thắng đeo lên cổ mày và những tiếng hoan hô vang dội?

- Tao ham gì!

- Có những người, phần đông, không ích lợi cho cho giải phóng. Thế mà khi giải phóng thị xã, họ tung tăng trước đám đông, khoe khoang mình đã là người giải phóng. Có những người, rất ít, làm lợi ích cho giải phóng. Khi thị xã được giải phóng, họ âm thầm về nhà sống cô đơn như người thua trận. Người đáng yêu đó là mày, Vũ ạ! Mày quên tất cả chuyện kháng chiến đi, Giải phóng thị xã càng quên đi nữa, coi như cuộc chơi không tính toán nên hỏng bét. Phải, cuộc đời chỉ là cuộc chơi. Chơi cho tới cùng, tới lúc hết hứng. Mày vừa hết hứng, bỏ cuộc chơi vừa kịp thời. Cái tàn phế của mày, cái tàn phế của tao, cơ hội này, người ta đang chia rẽ giai cấp để giết nhau, chúng ta được bình yên đứng im nhìn thiên hạ tranh chấp. Thế thì tàn phế đâu có heo hút. Nó là cái may hiếm có...

Người y sĩ quân đội Pháp đã nói với Vũ: Mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Bây giờ, nghe Luyến nói, Vũ cảm thấy nỗi tuyệt vọng trong người nó bị đuổi ra ngoài. Luyến không an ủi suông đâu. Luyến chí tình. Vì Luyến cũng tàn phế như Vũ. Luyến nói những điều rất chí lý. Vũ đi kháng chiến chỉ có một niềm ao ước nho nhỏ. Diệt tan thực dân Pháp, Vũ sẽ lui về, không mong cái gì khác để ham muốn. Vũ là người quê hương Thái Bình, Vũ phải làm cho rõ mặt Thái Bình. Diệt tan giặc Pháp, cách mạng chẳng chịu cho Vũ lui về, bắt Vũ nắm một chút quyền bính ở thị xã, ngày cách mạng giải phóng hoàn toàn tỉnh lỵ Thái Bình thì sao? Vũ hết làm chiến sĩ vô danh, đẹp ngút ngàn trời đất. Đi chiến đấu mưu đồ một thứ quyền lợi nào đó, không phải đi chiến đấu. Vũ không dám từ chối, thì Vũ đâu còn là Vũ. Cuộc đời chỉ là cuộc chơi. Cuộc chơi gồm nhiều trò chơi. Trò chơi kháng chiến của Vũ không tính toán. Đến lúc thân thể tàn phế là lúc trò chơi hết hứng. Lại có trò chơi khác, Vũ không chơi nữa, đứng xem thiên hạ chơi.

- Tao mở cửa nhé! Lúc này, bố ta làm ở Ty công chánh, mẹ tao đang bận rộn chuyện đồng bóng với bác cả Hồng. Chúng mình sẽ tự do trò chuyện. Xuống phòng riêng của tao, nhé?

- Ừ.

Hai đứa vào nhà. Vũ nằm trên chiếc ghế xích đu. Luyến ngồi lên giường sát cạnh bạn. Nó rút gói Cotab cho Vũ, để gạt tàn thuốc gần đó:

- Hút đi. Không biết hút, hãy tập hút. Từ nay, người tàn phế phải hút thuốc lá, mày ạ! Hút thuốc giải buồn phiền và suy nghĩ trong cô đơn.

Vũ rút một điếu. Luyến bật diêm cho Vũ đốt. Nó cũng ngậm một điếu, mồi lửa:

- Có bao nhiêu chuyện anh em mình xẩy ra, từ ngày mày bỏ nhà theo kháng chiến, tao nói hết sáng nay, để mày nghe và hiểu. Sau đó, tao không nói nữa. Những chuyện mới sắp tới, sẽ tới và phải tới, làm chúng ta điên đầu. Thì giờ dùng cho nó. Thời đại vẫn xoay vun vút.

Vũ nhả khói thuốc:

- Nói chuyện thằng Khoa đi.

Luyến kể thằng Khoa theo gia đình hồi cư thị xã cuối 1950. Nó đã sống tiếp Vũ thời tuổi vàng hoa mộng ở Tường An. Nó quen con Liên, Nguyễn Kiều Liên, tản cư ở Hà Nội về Tường An. Nó yêu Liên. Khoa học rất giỏi. Nó đỗ trung học phổ thông và lên Hà Nội, nó bỏ đệ tam học nhẩy đệ nhị. Nó đã gặp Liên khắng khít như cũ. Hai đứa sắp lấy nhau. Thằng Khoa hoàn toàn hạnh phúc. Nó gặp thằng Vọng...

Vũ nhổm ngưòi lên:

- Vọng ghẻ tầu!

Luyến cười:

- Vọng chính ủy, bí danh Kỳ Bá. Chúng mình cứu đói nó chậm ba ngày. Thầy Nguyễn Công Hoan cho người đến mang nó đi và dạy nó thành người cộng sản. Nó là đảng viên Đảng lao động, tức là Đảng cộng sản. Nó tâm sự với thằng Khoa rất nhiều. Vọng đã khóc, vì chúng mình thương nó, cầu chúc chúng mình thành công và hẹn sẽ gặp ngày Thái Bình giải phóng. Chính Vọng nằn nì gia đình mày vào thị xã. Nó đã hỏi cô Thi nào đó ở Tường An làm vợ. Nó mong ước thấp hơn chúng mình, dẹp tan giặc Pháp, nó sẽ về Tường An sống với vợ, làm ruộng chắt chiu nhau. Nó bảo nó thương Vệ quốc quân và trái tim nó vẫn hé mở cho lính tiểu tư sản đồn trú. Nó nói những câu tao thuộc lòng, tao coi thằng Vọng là bậc thầy của tao...

Luyến gạt mẩu tàn thuốc lá quá dài. Nó say sưa kể chuyện, quên đi mất thuốc lá kẹp giữa hai ngón tay:

- Thằng Khoa thông minh nhất thiên hạ. Nó thuộc một câu dài của Vọng: Thời cuộc như ngọn gió heo may, trải dài trên ruộng lúa vào mẩy. Thị xã Thái Bình giống hệt nước Việt Nam. Nhật đảo chính Pháp. Chết đói. Chết no. Cách mạng làm cuộc tổng khởi nghĩa. Giết Việt gian. Lụt lội, Tầu tước võ khí Nhật. Tiêu thổ kháng chiến. Tản cư. Pháp sang Thái Bình... Vẻ buồn tỉnh lỵ cũng là vẻ buồn dân tộc. Em thấy chưa? Một mai, em sẽ oán trách người này, bênh vực người nọ. Rồi, em sẽ ân hận, vì oán trách sai, bênh vực sai nốt. Con người này chống đối con người nọ không phải con người thích chống đối. Mà, hoàn cảnh nó dìu đi. Thằng Vọng đấy, mày thấy sao?

Vũ dập điếu thuốc:

- Thằng Vọng là giai cấp vô sản chính gốc. Dù nó có là cộng sản đi chăng nữa, ước mơ và tư tưởng của nó cũng là ước mơ và tư tưởng tiểu tư sản. Vọng cộng sản có tâm hồn tiểu tư sản.

Luyến hít một hơi thuốc dài;

- Nó có làm hại ai được không?

Vũ châm điếu thuốc mới:

- Không đâu. Hoàn cảnh nó dìu Vọng đi. Đảng cộng sản dìu Vọng đi. Mỗi lời, mỗi việc, Vọng phải làm theo lệnh Đảng. Nó mất quyền tha thứ cho người phạm tội. Tao thương nó lắm.

- Mày là Vọng, người cộng sản cứu mày, đưa mày lên danh vọng, mày có theo cộng sản không?

- Vấn đề đó thuộ5c về ân nghĩa. Tao theo cộng sản, chứ!

- Có một bạn thân của chúng mình không chấp nhận điều đó.

- Ai?

- Đặng Xuân Côn.

Vũ lại rướn ngưòi lên:

- Côn đã về đây à?

Luyến buồn rầu nói:

- Côn về đây, năm ngoái. Gia đình nó hồi cư về Hà Nội. Nó đi học sĩ quan ở Sơn Tây trốn về. Cộng sản quy định nó giai cấp tư sản, thành phần địa chủ ác ôn. Cộng sản đã giết ông nội nó, cụ Hào Điển, một cách dã man. Nó tuyên bố sắt máu: Nó chống cộng sản, nó và cộng sản không đội trời chung. Nó ghét thằng Vọng thậm tệ. Mày, thằng Lôc, nó ghét luôn, vì chúng mày chiến đấu cho cộng sản. Tao khuyên nó, nó không nghe. Nó về Hà Nội và không viết bức thư nào. Có lẽ, nó đã đoạn tuyệt chúng mình.

- Thù hận làm Côn điên lên rồi. Thương nó quá.

- Thằng Khoa bảo nó mất trí.

- Trò chơi giai cấp của cộng sản đấy. Giai cấp, giai cấp cái củ thìu biu à?

- Côn cũng chửi thế.

- Tao chán nản chuyện phân chia giai cấp. Người ta chia thành phần tao và quy định giai cấp cho tao.

- Mày giai cấp gì?

- Nông dân! Giai cấp lính, bị bóc lột từ bốn nghìn năm! Vì giai cấp nông dân, tao thoát cảnh khu trừ như bộ đội trí thức tiểu tư sản. Tao không được chiến đấu, bị đuổi về, tao sẽ thù hận cộng sản. Y hệt thằng Côn. Vọng tiên tri đúng, hoàn cảnh khốn nạn của một thời điêu đứng nó chia rẽ con người, Chia rẽ Côn và chúng mình.

- Côn không bao giờ trở lại Thái Bình nữa. Nó học ở Trường sĩ quan trừ bị Thủ Đức miền Nam để chống đối cộng sản.

- Chúng mình đã mất Côn, mất vĩnh viễn.

Nước mắt Vũ trào ra, loang đầy khuôn mặt. Nước mắt Vũ quyến rũ nước mắt Luyến. Những giọt lệ hiếm hoi để dành khóc cho Côn, Luyến đã khóc. Một thằng cụt chân, một thằng thương tích đầy thân thể, khóc vì những thằng bạn bị cuộc đời xua đuổi.

- Còn thằng Long?

- Nó chết trận ở Duyên Hà.

- Thằng Lộc?

- Không tin tức. Gia đình nó chưa hồi cư.

- Hết rồi, hả?

- Ngọc tình nguyện lấy tao làm chồng.

- Mày ấm lòng, nhé!

- Con Thúy...

- Đừng nhắc nữa.

Vũ đứng dậy:

- Toàn chuyện buồn thảm. Tao đi kháng chiến giải phóng, chẳng được tích sự gì. Cộng sản, giai cấp, thù hận, chia ly, chết chóc. Kết luận của đời tao là tàn phế.

Luyến chống nạng đứng lên:

- Những chuyện đời buồn thảm mà tao đã chịu đựng ở thị xã không thiếu gì. Thôi, cứ im lặng chờ đợi thời đại vần xoay.

Vũ nói:

- Tao sợ gia đình chưa hồi cư, bước chân có vẻ hồi hộp đến phố nhà mình. Giờ thì chắc chắn rồi, tao về nhé!

Luyến hỏi:

- Mày có muốn thay bộ quần aó bệnh viện, đội cái mũ, đi đôi giầy không?

Vũ nhăn nhó:

- Tao thích bố tao, dì tao và các em tao ôm bụng rũ ra cười, tưởng chừng tao đã giang hồ cống Đậu!

Luyến đưa bạn một khúc phố. Vũ nhìn lại đàng sau. Nước mắt nó ứa ra.

giavui
10-16-2015, 06:55 PM
22

Trời xuống thấp cho quạnh hiu mộ phần.

Và khói lấp nên đời xa mờ dần.

Ôi mùa thu, mùa thu cuối lối.

Ôi mùa thu, hẹn nhau đã tới.

Có nghe chuông khua vang cáo phó hồn tôi?

Nhạc thiều hư không...

Dục gọi thân phận cát về kiếp mịt mùng.

Để nuối tiếc trăm năm làm người lẻ loi.

Để thông reo ngàn năm sám hối tội lỗi,

với vô thường lập lỏe ánh vỡ sao rơi.

Sầu đạo xưa tôi đến còn nhớ lại gì?

Rừng bí tích xui tôi lạc vào nẻo mê.

Mải rong chơi bỏ quên trái cấm...

Rồi nhạc thiều âm ty đưa tôi đi...

Giọt nưóc mắt rơi buồn tênh đường trần.

Sợi nắng úa soi thời gian ngại ngần.

Ôi mùa thu hẹn nhau đã tới.

Ôi mùa thu, mùa thu cuối lối.

Bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi...

Vũ thổi kèn ác mô ni ca bài Cuối thu đường đời của anh bộ đội tiểu tư sản, viết cả lời lẫn nhạc, gửi cho, trước khi bộ đội tiểu tư sàn bị gạt ra cuộc kháng chiến chống Pháp. Rồi anh ấy chết. Bấy giờ, Vũ chỉ thấy Cuối thu đường đời buồn thảm, không thích hợp với cách mạng hôm nay. Bây giờ, ôm những vết thương chiến địa, Vũ mới hiểu anh bộ đội tiểu tư sản gửi gấm tâm sự thật khéo léo vào bản nhạc. Cách mạng mùa Thu dẫn tới cuối thu đường đời, mùa thu cuối lối, tận cùng đường đi. Còn một chỗ nằm cho anh: Mộ phần hiu quạnh. Ôi, bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi, sao mà sầu heo hút thế! Xe tang lăn trên xác lá, đã sầu, lăn trên xác lá mồ côi, còn sầu gợn gai ốc. Vũ tin rằng, anh bộ đội hiểu, sẽ có lần, mình buồn muốn chết, khi tỉnh giấc chiêm bao cách mạng, nên tặng Vũ tâm sự của anh. Vũ không chiêm bao cách mạng. Nó chiêm bao giải phóng, mà giải phóng nhỏ bé thôi, giải phóng thị xã của nó. Nó đã buồn rồi.

Thấm thoát, Vũ trở về với gia đình được ngót bẩy tháng. Những vết thương ở bụng, ở ngực lành lặn cả. Tay trái của nó chỉ cầm những vật nhẹ. Tóc nó đã xanh um. Hè qua, thằng Khoa về Thái Bình chơi một tháng. Nó đã đỗ tú tái 1, ban toán. Khoa yêu Vũ vô cùng. Bao nhiêu thương nhớ Vũ từ lúc trốn nhà đi kháng chiến; bao nhiêu kỷ niệm ấu thời của nó, nó ôm Vũ vừa khóc vừa kể. Nó khoe mối tình của nó với Liên. Vũ sung sướng thấy Khoa no tròn hạnh phúc. Khoa nói nó đã tìm con đường đi mà cả bạn lẫn thù cùng kính trọng. Khoa sẽ học thuốc. Nếu gia đình không lo nổi, nó theo quân y. Vũ bằng lòng lắm. Đáng lẽ, cha Vũ viết thư cho Khoa bảo nó về ngay thăm Vũ. Vũ đã gàn cha để yên cho Khoa học thi, hè nó về, nó càng ngạc nhiên. Khoa ngạc nhiên thật. Thấy Vũ bị thương đến tàn phế, nó đã khóc dầm dề. Rồi nó theo triết lý Tái ông thất mã của Luyến an ủi anh nó. Khoa lên Hà nội đã ba tháng. Nó chăm viết thư cho Vũ, khuyến khích Vũ và hối thúc Vũ đọc sách cho nhiều. Đời sống của Vũ trở nên bình thường, như tất cả đều bình thường ở thị xã.

Tình hình mỗi ngày một khả quan. Không có súng nổ ở các huyện lỵ xa thị xã Thái Bình. Phụ Dực, Quỳnh Côi, Kiến Xương hay Tiền Hải đều yên tĩnh. Cái vẻ tiêu thổ kháng chiến vẫn còn thẫm nét. Cứ thế này mà sáng sủa thêm, mười năm nữa, nhà cửa sẽ xây dựng bằng xi măng cốt sắt, nước máy sẽ có tràn trề, điện sẽ dùng thả cửa, đình đám hội hè sẽ mặc sức làm. Cầu Nghìn ở Đồng Bằng sẽ bắc lại. Ô tô hàng Con Sóc, Con Ngựa Bay sẽ tiếp tục chạy Nam Định-Thái Bình-Hải Phòng và Hải Phòng-Thái Bình-Nam Định, cạnh tranh với Con Voi của ông Lê Văn Định. Bây giờ, Con Voi cứ tạm độc quền trên đường số 10. Vũ sẽ khoan khoái lắm, nếu hai hàng hồi được trồng, ở phố chính Lê Lợi.

Luyến thích triết lý theo thời đại. Nó khăng khăng phát ngôn theo thời đại, không phải theo thời. Theo thời, sống vương giả, một quãng đời nào thôi, khi thời đổi thay, sẽ khổ sở. Theo thời đại, chịu đựng luôn cả sự xoay vần của thời đại, xem thời đại, Luyến bảo mình đói khát tài năng, đành làm người theo thời đại. Thực ra, mình muốn làm người sáng tạo ra thời đại. Để thành Thành Cát Tư Hãn, Hitler, Lénine... Những kẻ theo Lénine là những kẻ theo thời đấy. Thằng cụt chân Luyến đã vẽ một con đường mà theo. Nó khẳng định theo thời đại, không chống đối kẻ theo thời nào. Cùng với thời đại vần xoay, những kẻ theo thời chết trước, đau đớn và nhục nhã. Nhưng mà, Luyến bảo, chẳng ai có quyền cấm đoán kẻ theo thời đại, bất mãn người và việc, hành động sai láo trong thời đại. Luyến muốn nói gì tự do nói.

Sáng nay, Vũ rủ Luyến và Ngọc xuống Đoan Túc ăn canh bánh đa nấu cá rô. Nó kê ngoài cửa hai chiếc ghế xích đu, một chiếc ghế dựa. Luyến trễ hẹn quá. Vũ chơi bài Cuối thu đường đời và suy nghĩ vẩn vơ mãi, Luyến vẫn chưa tới. Rút bao thuốc lá, Vũ hút cho đỡ sốt ruột. Chiếc ác mô ni ca này đã thổi Chiều quê của Hoàng Quý, cha cất nó kỹ. Vũ về mới có cây kèn kỷ niệm thổi nhạc. Vũ muốn khoe bản nhạc với Luyến. Tuyệt buồn. Kia rồi, Luyến và Ngọc đã tới. Tiếng nạng gỗ khua lọc cọc làm cả phố biết.

- Muộn thế?

Ngọc chỉ Luyến:

- Tại Luyến nghịch ngợm cãi với Ngọc, phải đứng lại một lúc, rồi trở lại nhà giở Việt Nam sử lược ra tra.

Vũ cười:

- Các bạn đấu tranh văn hóa, hả? Ngồi xuống đi, Ngọc! Thằng Luyến nằm xích đu.

Luyến nói:

- Tao bảo phố nhà mày cách mạng đặt tên mới Lý Thường Kiệt. Hồi Pháp đô hộ, nó vác thằng lái buôn Jean Dupuis nhét vào phố nhà mày. Jean Dupuis - Đồ Phổ Nghĩa - làm sao sánh nổi Lý Thường Kiệt, năm 1076, viết tuyên ngôn độc lập đầu tiên ở nước ta. Ngọc không tin. Ức quá, tao trở về nhà lôi Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim ra tra. Bèn đọc to: Nam quốc sơn hà Mam đế cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Ngọc chịu thua, cô nàng cứ bảo Hồ Chí Minh viết tuyên ngôn độc lập đầu tiên.

Vũ gạt tàn thuốc:

- Jean Dupuis đã sinh sự, hỗn láo với triều đình ta. Ta sinh ở phố Jean Dupuis nên đã sinh sự, hỗn láo với mọi người. Hai bạn chỉ vì Jean Dupuis mà sinh sự, kiện cáo nhau. Jean Dupuis đúng là thằng súc sinh, nó làm trễ hai bạn.

Cả ba đứa cười thích thú. Luyến lôi Cotab ra hút. Ngày xưa, Vũ hay rủ Côn xuống Đoan Túc ăn canh bánh đa cua đồng. Canh bánh đa cua đồng Đoan Túc ngon hơn thị xã. Cái mầu gạch cua phi với hành mỡ, nó vàng nháy, thơm vô tả. Bây giờ, Côn xa Vũ rồi, thù hận Vũ, Vũ mời Luyến và Ngọc. Để nhớ Côn. Con đường từ phố Lý Thường Kiệt đến Đoan Túc nào có xa xôi mấy. Vũ và Côn đi bộ mất hai mươi phút. Hôm nay, Luyến cụt một chân, chống nạng lê bước, cũng một tiếng là cùng. Vũ nhìn đồng hồ. 9 giờ. Còn sớm chán.

- Tao vừa nhớ bài Cuối thu đường đời của anh bộ đội tiểu tư sản tặng. Bản nhạc ôm tâm sự anh ta. Anh bộ đội đã chết, trước khi anh bị gạt ra khỏi cuộc kháng chiến chống Pháp. Buồn lắm. Tuyệt buồn.

- Hát đi.

- Tao hát trước, thổi ác mô ni ca sau, nhé!

- Ừ.

Vũ hát. Không hay. Nó diễn tả thật đúng tâm sự anh lính tiểu tư sản. Rồi nó thổi kèn. Tiếng kèn của Vũ bắt cả khu phố phải ra đường thưởng thức. Nó chơi chầm chậm. Nỗi buồn man mác đi vào lòng người nghe, từ từ thành một cơn đau quằn quại, tê buốt ruột gan. Vũ dừng lại. Cơn đau vẫn trải dài. Và nước mắt thẫm má nó.

Luyến và Ngọc khóc tự bao giờ không biết. Khán thính giả khu phố đứng dài buồn thiu.

- Anh lính ấy tên là gì?

- Vũ Thương Anh.

- Anh ấy trót mê cách mạng mùa Thu, bước đi lỡ trớn đời. Anh không quay lại được, phải chết, nhìn thấy xe tang của mình lăn trong cuộc đời khốn khó. Cách mạng mùa Thu đã anh bước đầu, dẫn anh đến cuối lối.

- Đúng đấy.

- Mày cũng trót mê cách mạng mùa Thu, đi mãi, thành người tàn phế. Ông Hồ Chí Minh không bao giờ tàn phế. Ông Phạm Văn Đồng, ông Võ Nguyên Giáp... không bao giờ tàn phế. Vì các ông ấy không mê cách mạng mùa Thu, chỉ nói về cách mạng mùa Thu, toàn những đất nước, tổ quốc, anh hùng, dũng sĩ, độc lập, tự do, dân chủ, chiến đấu, kháng chiến, thành công... Những thằng bạn tao đi kháng chiến, tao sợ chúng nó hy sinh tính mạng cho những người không mê cách mạng mùa Thu. Những thằng bạn tao không chết, như mày, Vũ ạ, trở về với gia đình, tao nói rõ tư tưởng của tao. Hiểu chưa?

- Hiểu rồi.

- Hiểu thôi, chúng mình không chống đối cộng sản, nhé! Cộng sản đã đến chu kỳ bão lửa, kẻ nào chống đối cộng sản là tự nguyên biến thành que củi ném vào bão lửa. Cộng sản sẽ chấm dứt chu kỳ bão lửa, sẽ thành tro nguội, chưa biết ngày nào. Thời đại chẳng báo trước bao giờ nó xoay vần.

Ngọc ngồi im, nghe hai người nói chuyện.

- Mày sẽ là nhân vật chính trong lịch sử tiểu thuwết Cầu Bo trầm lặng của tao.

- Cái mà người tàn phế sẽ được vinh dự ở trong tiểu thuyết?

- Chỉ người tàn phế như mày thôi.

- Bao giờ mày viết?

- Còn lâu.

- Đến bao giờ?

- Vừa đợi thời đại xoay vần, tao vừa nuôi dưỡng những nhân vật tiểu thuyết của tao, cho nó cứng cáp, có chiều sâu, chiều rộng.

Vũ đứng dậy, đút ác mô ni ca vào túi:

- Thôi, đi ăn bánh canh cá rô. Tháng này, hết cua đồng rồi.

Ba đứa đến ngã tư Vũ Tiên-Thị Xã, rồi rẽ phải, xuống Đoan Túc. Trời tháng 11, chưa lạnh mấy. Con đường đi rét mướt vì trống không nhà cửa, gió đông từ cánh đồng đã gặt lúa lùa lên. Chim én đã lác đác bay về. Vũ yêu con đường Đoan Túc như yêu kỷ niệm ấu thời của nó. Dạo ấy, hiệp sĩ Triều Dương Hiệp Vũ thường phóng phi tiêu cho hiệp sĩ Hà Nguyên Khánh, dặn cố xoay vài đồng, xuống Đoan Túc, chén canh bánh đa...

giavui
10-16-2015, 06:56 PM
23

Hôm nay, thanh niên thị xã làm cuộc biểu tình tuần hành, rất sôi nổi. Để bài trừ văn hóa nô dịch. Những băng đờ rôn, những pa nô viết những dòng chữ ngút lửa căm hờn. Tiểu thuyết, thi ca, âm nhạc, báo chí vùng tề, xuất bản từ 1947, bị liệt vào hạng văn nghệ nô dịch. Những nhà văn theo kháng chiến, về tề năm 1950, viết những tác phẩm không chống cách mạng, còn nói hay cho cách mạng, cũng chịu nhận danh từ cay đắng: Nhà văn nô dịch, tiểu thuyết nô dịch. Những người viết nổi danh như Ngọc Giao: Nhà quê, Đất, Mưa thu, Cầu sương; như hồ Dzếnh: Chân trời cũ, Quê ngoại, Ông lái đò; như Nguyễn Minh Lang: Trăng đồng nội, Hoàng tử của lòng em; như Hoàng Công Khanh: Trên bến Búng, Đất tân bồi, Bến nước Ngũ Bồ; như Sao Mai: Nhìn xuống; như Trúc Sĩ: Kẽm trống; như Triều Đẩu: Trên vỉa hè Hà nội... cùng chung một số phận. Báo chí, những tờ đáng kể, như Tiểu Thuyết Thứ Bẩy, Thế Kỷ, Phổ Thông đều bị di dưới chân cách mạng.

Đặc biệt, cuốn tiểu thuyết bằng thơ Đồi thông hai mộ của Vũ Đình Trung, thanh niên thị xã được lệnh phải tịch thu cho hết và đốt cháy ngay lập tức. Thanh niên thị xã vào từng nhà nói về sự nguy hiểm của văn hóa nô dịch, yêu cầu nhân dân tiếp tay, nhất là quyển thơ Đồi thông hai mộ.

Đứng nhìn thanh niên làm công tác cách mạng, Vũ hỏi Luyến:

- Mày đọc Đồi thông hai mộ chưa?

Luyến đáp:

- Rồi.

Và nói:

- Thơ song thất lục bát, xoành xĩnh lắm. Tao đọc mấy câu đầu, mày nghe xem nó nguy hiểm đến chừng nào! Anh Đinh Lăng giờ đây đâu nhỉ? Anh của em yêu quý nhất đời. Anh đi mù mịt xa khơi, Đại bàng tung cánh phương trời nào hay... Nó nguy hiểm chưa, nô dịch chưa?

Vũ lắc đầu:

- Chả nguy hiểm tí nào.

Luyến cười:

- Nguy hiểm và nô dịch ở chỗ hội Khai Trí Tiến Đức phát giải thưởng Văn học toàn quốc của Bảo Đại cho tác giả Đồi thông hai mộ. Mày thấy chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn cay cú quốc trưởng Bảo Đại. Chưa có giải thưởng Văn học toàn quốc của Hồ Chí Minh, mà Bảo Đại dám phát giải thưởng văn học à? Không mắng được Bảo Đại, đành tát ông Đồi thông hai mộ. Vui không, Vũ?

Vũ không ngờ kiến thức của Luyến sâu rộng thế. Hôm qua, đi xem thanh niên thị xã làm tổng vệ sinh với khẩu hiệu Nhà sạch nhà, phố sạch phố, Vũ có vẻ buồn bã, Luyến thì lại vui mừng. Vũ nhìn các cậu học trò mảnh khảnh kéo xe bò, các cô nữ sinh chân yếu tay mềm đẩy xe tới những nơi bẩn thỉu hốt rác và dọn dẹp chung với thanh niên lao động đạp xích lô, vác hàng bến xe, bán tôm cá ở chợ Vọng Cung. Và thấy các cô mặc nguyên quần áo, nhẩy xuống ao tù, vớt bèo tây lưu cữu hàng năm; các cậu xúc phân chó, phân người trong những góc phố bị bỏ quên lâu ngày. Các cô, các cậu mặt sũng ưu phiền. Vũ tiếc rằng không còn đủ sức chia miếng cay đắng với thanh niên thị xã. Luyến khác hẳn, thanh niên thị xã cần lao động cho quen, để biết giá trị của lao động. Chấp nhận giải phóng là chấp nhận con người. Con người bình đẳng với con người. Về lao động. Chỉ tiếc, rất tiếc, con người không bình đẳng với con người. Về tư tưởng. Đó mới khó thực hiện. Còn lao động bằng tay chân là thường, quá tầm thường. Vũ suy nghĩ. Và Luyến nhận xét đúng. Văn hóa nô dịch sẽ chẳng nô dịch chút nào, nếu Đồi thông hai mộ đừng được Bảo Đại phát giải thưởng văn học!

- Chúng mày say mê bài trừ văn hóa nô dịch lắm, hả?

Vũ quay mặt lại:

- Trời ơi, Lộc!

Luyến cũng quay mặt lại:

- Lộc pha trò nhạt phếch đã về đấy ư?

Lộc đưa hai tay nắm lấy tay hai đứa bạn:

- Tao bị tù, nay mới đưọc về. Mày kháng chiến ra sao mà cụt chân phải thế, Luyến?

Luyến vỗ vai Lộc:

- Vào trong nhà, nói chuyện nhiều...

Ba đứa xuống phòng Luyến. Khi đã ngồi xong xuôi, Luyến thẩy gói thuốc Du Kích mời bạn:

- Hết sạch Cotab ngoài chợ, bây giờ tao mời chúng mày hút thuốc Du Kích giải phóng.

Lộc pha trò:

- Hút thuốc giải phóng nó phỏng lung tung...

Luyến khen:

- Mày hết nhạt phếch rồi. Hút thuốc giải phóng không phỏng dế đâu.

Và mở đầu:

- Chúng mình xa nhau bẩy năm, vẫn nhớ nhau thuở Monguillot như thường. Sâu sắc hơn là khác. Chuyện thì chúng mình rất nhiều chuyện. Tao đã kể cho thằng Vũ nghe. Nó bảo rặt chuyện buồn, chia rẽ với phân ly, đừng nên kể nữa. Tao cũng không muốn kể nữa. Bởi vậy, tao tóm tắt cho mày hiểu.

Lộc gật đầu:

- Tao không có thì giờ, mày tóm tắt mau lên!

Luyến nói:

- Thằng Long chết trận ở Duyên Hà. Thằng Côn đã về thị xã, hiện nay, nó ở miền Nam. Thằng Vọng còn sống, nó đi kháng chiến, chưa về. Tao không kháng chiến kháng chung gì hết, bị Pháp bắn gẫy chân, hôm Pháp dánh chiếm Thái Bình.

Luyến nhìn Vũ. Hiểu ý, Vũ kể về nó:

- Còn tao, kháng chiến ồn ào nhất thiên hạ, bị thuơng ở trận Thụy Anh. Pháp khiêng vể chữa chạy và bảo tao đã trở thành người tàn phế. Pháp không sợ, cách mạng không dùng. Tao về nhà như một thằng đào ngũ. Trong những ngày giải phóng thị xã, tao cố tình mong cách mạng đến an ủi tao, cách mạng không đến, không bao giờ đến nữa.

Lộc hỏi Vũ:

- Gia đình mày bình yên chứ?

Vũ thở phào khói thuốc:

- Bình yên, bình yên lắm. Gia đình tao đã di cư vào Nam.

Lộc hỏi Luyến:

- Gia đình mày?

Luyến hơi cười:

- Di tản chiến thuật vào Sàigòn rồi.

Lộc đập điếu thuốc, xoa tay sung sướng:

- Chúng mày không phải họ Bôn 1, tao hoàn toàn vững bụng, có thể tăng thêm thì giờ, nói về tao... Ở đời, có nhiều bất ngờ, không thể tưởng tượng nổi. Tao đã, bất ngờ, thấy gia đình tao vào họ nhà Bôn, năm tao 18 tuổi. Cũng, bất ngờ, người ta không bảo ta là thằng pha trò nhạt phếch như thằng Côn đã chê tao. Họ nói tao pha trò đả kích cách mạng! Tao đả kích cách mạng thật, coi cách mạng là trò khôi hài rẻ tiền. Mà bố mẹ tao là cách mạng củ, anh chị tao là cách mạng rễ. Tối ngày họ chỉ lải nhải cách mạng, cách mạng và cách mạng. Tao pha trò: Cách mện, cách miệng và cắt một miếng!

Tự nhiên, tao biến thành con lươn phản động trong hang cách mạng. Bố mẹ tao ghét tao cay đắng. Đưa tao vào bộ đội để tao sớm hy sinh cho tổ quốc. Chao ôi, ông bà chủ hiệu xe đạp có lòng yêu nước tràn trề. Tiếc rằng, tao không đi bộ đội. Anh chị tao đẩy tao làm cán bộ. Tao không thích cán bộ. Chỉ nằm nhà, chạy giặc và ăn bám. Bố mẹ tao sợ tao vào tề, mất hết thành tích cách mạng, nên coi chừng tao như thằng tù giam lỏng. Hôm nay, tao tự do vào tề, vì thị xã giải phóngg rồi. Tao cho tại Trời cả. Trời bắt bố mẹ tao say mê cách mạng. Trời bắt tao phản cách mạng, phản kháng chiến, phản bội họ hàng nhà Bôn.

Tao không thù ghét tụi Bôn chính cống. Mà chỉ thù ghét những kẻ theo đuôi Bôn loe ngoe, hãnh diện theo đuôi voi gặm bã mía. Bố mẹ tao, tao cũng thù ghét. Tao đố chúng mày giải thích được hoàn cảnh của tao, của bố mẹ tao? Bố mẹ tao tưởng tao hết đường đi, lại trở về như cóc chết ba năm quay đầu về núi. Bố mẹ tao quên rằng còn đường di cư vô Nam. Đó, đời tao bất ngờ như thế đó.

Lộc rút điếu Du Kích, quẹt diêm châm thuốc. Vũ và Luyến thương Lộc biết bao. Chậm rãi, Vũ nói:

- Bất ngờ cả. Tao đi kháng chiến, chỉ mong ngày về giải phóng thị xã. Bất ngờ, tao bị tàn phế. Ngỡ rằng mình sẽ sống với bố mình mãi mãi. Bất ngờ, gia đình tao di cư vào Nam. Bất ngờ, bất ngờ, và bất ngờ nó thay đổi hẳn cả cuộc đời mình. Nhưng thôi, chúng mình còn yêu nhau là đủ rồi, Lộc ạ!

Luyến thêm:

- Bất ngờ, tao bị cụt chân. Bất ngờ, Ngọc lấy tao. Bất ngờ, không đám cưới, khi đã định tháng 9 này sẽ làm đám cưới, đông đủ cha mẹ, họ hàng, bạn bè. Bất ngờ, chúng tao ở lại Thái Bình. Bất ngờ, mày ra đi. Ôi, bất ngờ, tổng khởi nghĩa, bất ngờ, cách mạng, bất ngờ, đảng tranh, bất ngờ, chiến tranh, bất ngờ, kháng chiến, bất ngờ, cộng sản, bất ngờ, giai cấp, bất ngờ, chia ly... Thời đại nó xoay vần quê hương Thái Bình của chúng ta, nó biến đổi những thằng học trò nghịch ngợm Monguillot thành những thằng què cụt, tàn phế, phản động, hận thù... Mình chịu đựng những bất ngờ để chờ đợi một bất ngờ. Hơi đâu mà giải thích bất ngờ?

Lộc cảm động;

- Quả thật, gặp chúng mày, tim tao nồng ấm. Buồn thay, tao phải ra đi. Đi thật nhanh. Kẻo, bất ngờ, bố mẹ tao giữ lại, cầm tù tao, bắt tao nhận họ Bôn là thánh tổ, nhận phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Tiên Hưng của bố tao là to, chủ tịch Hội phụ nữ huyện Tiên Hưng của mẹ tao là lớn... Thì tao sẽ cắn lưỡi tự tử. Gặp chúng mày ít phút để nhớ chúng mày trọn đời, tao không mong gì hơn. Bây giờ, cho tao chút tiền còm, và có thể cho tao cái xe đạp thì nhất.

Vũ đứng lên:

- Có ngay cả hai điều mày muốn. Lên Hà Nội, mày ghé 42 Cửa Bắc, xem thằng Khoa đi chưa. Nếu nó chưa đi, mày sẽ vào Nam với gia đình tao. Ngồi đây chờ tao, tao về lấy xe đạp cho mày.

Một lát sau, Lộc nhận những thứ cần thiết xong, lên đưòng ngay.

Vũ dặn:

- Tới Nam Định, mày cứ theo quốc lộ số 10 mà đi. Đến Phủ Lý, có Pháp canh giữ, tự do vào Hà Nội.

Lộc khóc sướt mướt, chia tay Vũ và Luyến. Trở và nhà, nước mắt hai đứa ứa ra...

--------------------------------
1 Bolchevik.

giavui
10-16-2015, 06:57 PM
24

Nữ đồng chí Vương Viên Thúy đi vào trụ sở Ủy ban nhân dân thị xã. Nàng cắt tóc cao, đầu đội chiếc mũ y hệt mũ bộ đội, mầu xanh lá cây thẫm. Nữ đồng chí Vương Viên Thúy mặc cái áo nâu ngắn nhuộm gụ và quần đen. Chân nàng mang đôi dép Bình-Trị-Thiên, đế làm bằng vỏ bánh tầu bay, Trên vai nàng, túi xặc cột đeo lủng lẳng. Nếu Vương Viên Thúy đóng lớp quân phục đại quân, nàng sẽ giống nữ đồng chí Trung quốc. Nàng vô Ủy ban nhận dân để hỏi rõ nơi nào nàng sẽ phổ biến vài điệu nhẩy đoàn kết, hòa bình và văn nghê mới cho thanh niên thị xã, sáng nay.

Trước kia, Vương Viên Thúy cũng ở thị xã. Nhà nàng có hàng cây hồi thơm hăng hắc. Không một thành phố, tỉnh lỵ nào trồng cây hồi. Chỉ riêng thị xã Thái Bình bảng lảng mùi hoa hồi. Người thị xã hãnh diện về hoa hồi thơm ngát và yêu quê hương của họ muôn vàn.

Thuở còn bé, Vương Viên Thúy quen thân với anh chàng Trần Vũ và yêu chàng, trong tình yêu ngây dại ấu thơ. Nàng đã quên dĩ vãng, quên luôn cả chuyện ái ân sáng như trăng sao, mềm như nhung lụa. Quá khứ, đối với Vương Viên Thúy, cần đốt hết đi, phủi tay cho sạch. Vì nàng là cách mạng, là cộng sản. Hiện tại mới nghĩ tới. Để tương lai vút bay trong xã hội nàng mơ ước.

Nhà văn Nguyễn Tuân đòi hủy bỏ những văn phẩm rực rỡ của mình. Chúng là sản phẩm của dĩ vãng, trước năm 1945. Nhà thơ Xuân Diệu đòi hủy bỏ những thi phẩm kiệt hiệt của mình. Chúng là sản phấm của dĩ vãng, trước năm 1945. Dĩ vãng, trước năm 1945, những văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ lừng danh đem chôn sâu dưới huyệt mộ. Thì dĩ vãng của nàng, trước hay sau 1945, không đáng đếm xỉa. Vương Viên Thúy muốn mọi người nhìn nàng từ 1950 đến 1954 trở đi. Hôm nay của nàng đấy, sôi sục và nóng bỏng.

Tản cư về Trực Nội, Thái Ninh, hai năm sau, cha Vương Viên Thúy bệnh nặng chết sớm. Năm 1950, Trực Nội bị máy bay quân đội Pháp oanh tạc khủng khiếp, mẹ nàng ăn đạn đồng khắp mình mẩy, chết vì giặc Pháp dã man. Nàng thù hận giặc Pháp, tung mình bay theo kháng chiến. Người cộng sản âu yếm nàng, nâng đỡ nàng, chỉ dẫn con đường đi vào chủ nghĩa vô sản cho nàng. Nàng quên hết dĩ vãng, từ đó. Nhờ nàng thông minh, đầy người năng khiếu, nàng được kết nạp vào Đảng, đầu năm 1954. Và nàng lấy chồng hồi tháng hai. Chồng của Vương Viên Thúy chức tước cao: Bí thư Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, tỉnh Thái Bình

- Chào các đồng chí.

- Chào đồng chí.

- Đồng chí nào phụ trách thanh niên thị xã nhỉ?

- Thưa đồng chí, tôi ạ!

Vương Viên Thúy tự kéo ghế, ngồi xuống. Nàng tháo cái xặc cột ra.

- Lát nữa, tôi gặp họ ở đâu?

Đồng chí phụ trách thanh niên thị xã đáp:

- Thưa đồng chí, ở bến ô tô.

- Rộng không?

- Đủ chỗ đứng 200 người.

- Tập họp chưa?

- Bây giờ đồng chí đến là vừa.

- Ta đi thôi.

Vương Viên Thúy đứng dậy, máng xặc cột lên vai, rời khỏi trụ sở Ủy ban nhân dân. Nàng đi bên cạnh đồng chí phụ trách thanh niên thị xã. Hai người cuốc bộ một lát, tới bến ô tô. Thanh niên thị xã đã tập họp đông dủ. Họ vỗ tay hoan hô nữ đồng chí Vương Viên Thúy. Nử đồng chí Vương Viên Thúy cũng vỗ tay đáp lễ. Đồng chí phụ trách thanh niên thị xã giới thiệu:

- Các bạn thân thương. Hôm nay, tôi trân trọng giới thiệu với các bạn đồng chí Kiều Nhị, cán bộ cao cấp của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, Đồng chí Kiều Nhị phụ trách công tác toàn tỉnh, 12 huyện lỵ Thái Bình. Đồng chí Kiều Nhị về thị xã để phổ biến những điệu nhẩy đoàn kết, hòa bình và văn nghệ mới, nền văn nghê dân tộc miền Nam ra miền Bắc. Trước khi đồng chí Kiều Nhị phổ biến văn nghệ, tôi đề nghi các bạn hát một bài lấy khí thế. Hôm qua đồng tôi... Một... Hai... Ba...

Thanh niên thị xã hát vang:

Hôm qua đồng tôi lúa mùa lên bông

cháy ngụt trời

bom na pan

dấu xa càn còn vết trong lòng dân

Hôm qua vì bom của bọn thực dân

phá tan tành

gây đau thương

vết căm thù đời đời phơi trong nắng

Raymonde Dielle 1 chắn xe cho ngừng máu rơi

ngăn chiến tranh cho đời huy hoàng

Ta nhớ ghi tên người tươi sáng...

Đồng chí Kiều Nhị, bí danh của đồng chí Vươg Viên Thúy, vỗ nhịp tay theo bài Hôm qua đồng tôi, rồi khi tiếng hát dứt, đồng chí Kiều Nhị vỗ tay rân ran, cười rất tươi. Đồng chí Kiều Nhị nói:

- Các bạn thân thương. Hôm nay, tôi cảm động lắm. Nhân danh Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, tôi biểu dương các bạn đã hoàn thành những công tác vệ sinh thị xã, bài trừ văn hóa nô dịch, ngăn cản khéo không cho nhân dân vào miền Nam, theo lời thằng địch dụ dỗ...

Vỗ tay.

- Chúng ta sẽ nhẩy đoàn kết trước

Vũ Cẩm Ngọc, từ lúc đồng chí phụ trách thanh niên thị xã giới thiệu đồng chí Kiều Nhị, đã nghi nghi, đôi mắt không muốn rời Kiều Nhị. Đúng rồi, Kiều Nhị là con Thúy của thằng Vũ đây mà. Con Thúy già đi nhiều. Tóc nó cắt ngắn giống mụ Xẩm nghèo nàn. Nó mặc quần áo tã, đi dép Bình-Tri-Thiên, đội nón bộ đội, đeo xặc cột, khác hẳn con Thúy ngồi chơi rải gianh với Ngọc, chơi tam cúc với Luyến và Côn. Nó ăn nói sặc mùi cộng sản! Nó đấy ư? Con Thúy của thằng Vũ đấy ư? Nó lại làm cán bộ cao cấp của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình nữa! Ngọc muốn chạy về nhà, bỏ rơi tập họp, học nhẩy đoàn kết với hòa bình, báo cho Luyến và Vũ hay con Thúy đã về thị xã. Nghĩ sao, Ngọc lại ở lại. Vũ mà biết Thúy hôm nay, nó sẽ điên lên vì buồn. Để sẽ gặp Thúy, hỏi Thúy đã.

- Nhẩy đoàn kết đơn giản thôi. Đồng chí Kiều Nhị nói. Chúng ta xếp vòng tròn, càng đông bao nhiêu càng đoàn kết bấy nhiêu. Xích xa một chút. Bài hát thật ngắn. Chúng ta vỗ tay theo nhịp điệu mà hát. Bất kể câu ngắn hay câu dài. Cứ dứt câu, chân phải giơ lên. Vẫn vỗ tay. Rồi chân trái giơ lên. Hết bài. Chúng ta nhẩy vòng tròn. Hát, vỗ tay và giơ chân. Hết bài. Chúng ta nhẩy tại chỗ. Hết bài. Chúng ta nhẩy vòng tròn. Cứ thế nhẩy mãi. Nào, chúng ta nhẩy, nhé!

Thanh niên thị xã hát và nhẩy:

Chúng mình cùng đoàn kết tiến lên

Xây cuộc đời tươi mới hòa bình

Đời ta

bừng sáng

Nắm tay nhau cùng vui liên hoan

Đồng chí Kiều Nhị hồ hởi phấn khởi:

- Các bạn nhẩy có khí thế lắm. Có vẻ hơi hơi mệt. Để thay đổi không khí, tôi phổ biến văn nghệ mới. Rồi lại nhẩy hòa bình.

Ngưng vài giây, đồng chí Kiều Nhị nói:

- Văn nghệ của ta là văn nghê nhân dân. Nó bình dị như giai cấp nông dân. Ai cũng có thể tự biên tự diễn được. Các anh em trong Nam tập kết ra Bắc phổ biến hò lơ cho chúng ta. Chúng ta sáng tạo thêm cho nó dễ và văn nghệ chỗ nào cũng được. Ở đây, có anh em nào biết làm thơ lục bát không?

Thanh niên thị xã:

- Như Truyện Kiều chứ gì?

Đồng chí Kiều Nhị:

- Phải.

Thanh niên thị xã:

- Khó vô cùng.

Đồng chí Kiều Nhị:

- Mỗi bài hò lơ chỉ làm hai câu thôi. Thí dụ: Hôm qua, anh đi đánh Tây, Cửa nhà cậy có bu mày trông coi. Thế là xong, dễ mà.

Thanh niên thị xã:

- Giống ca dao, chúng tôi làm được.

Đồng chí Kiều Nhị nói về cách chơi hò lơ một chập, thanh niên thị xã hiểu rồi. Văn nghệ bắt đầu. Một người đọc thơ. Nhiều người hỏi làm sao, cái gì. Chấm dứt câu lục bát. Cả làng hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.

- Quê em mãi tận Thụy Anh

- Làm sao?

- Ngó anh du kích...

- Cái gì?

- ... Thái Bình diệt Tây.

- Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.

- Hành quân Trái Quít Trái Chanh

- Làm sao?

- Chanh chua Quít đắng...

- Cái gì?

- ... Pháp ăn nhầm thực dân...

- Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ.

Đồng chí Kiều Nhị vui vẻ khôn cùng. Văn nghệ nhân dân thật tuyệt tác. Nhân dân thị xã có thể sáng tác hàng vạn câu thơ hò lơ, nói lên tâm sự vùng tạm chiếm. Thanh niên thị xã tiến bộ nhanh, say sưa trong những câu lục bát xuất khẩu. Đồng chí Kiều Nhị giơ hai tay lên trời biểu dương thanh niên:

- Các bạn đạt chỉ tiêu hơn 12 huyện Thái Bình, thắng lợi lớn, đáng ghi vào thành tích. Các bạn hò lơ phấn khởi quá, vượt thời gian hạn định. Nhẩy hỏa bình đề đồng chí phụ trách thanh niên thị xã phổ biến cho các bạn. Tôi có công tác đột xuất, chiều nay phải rời thị xã. Tôi bế mạc cuộc gặp gỡ hôm nay và gửi các bạn lời chào thân thương.

Vỗ tay. Đồng chí Kiều Nhị ra về. Được một quãng, có tiếng gọi:

- Đồng chí Kiều Nhị!

Đồng chí Kiều Nhị quay lại.

- Thúy ơi, Vương Viên Thúy ơi, Ngọc đây mà...

Đồng chí Kiều Nhị cười:

- Vũ Cẩm Ngọc, có chuyện gì đấy?

Ngọc thấy xót xa câu hỏi của Thúy. Xa nhau rồi, vĩnh viễn rồi. Ngọc nghiêm trang nói chuyện như hai người quen nhau bình thường.

- Tôi muốn hỏi thăm bạn về hai bác.

- Bố tôi chết năm 1949, mẹ tôi chết luôn, năm 1950.

- Chị ở một mình?

- Không, tôi đi kháng chiến với nhiều người.

- Chị có gặp anh Vũ?

- Vũ nào?

- Vũ đánh thằng Dương hộc máu mồm bênh chị ấy mà. Anh Vũ cũng đi kháng chiến!

- Tôi quên hết mọi chuyện cũ, từ lâu. Đời sống phải nhìn thẳng về phía trước mặt, không bao giờ ngoái đầu lại, ngó sau lưng. Chỉ có bọn tiểu tư sản mới lạc lõng trong dĩ vãng của họ. Tôi đã có chồng. Chồng tôi là Bí thư Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình.

- Chức to ghê. Con gái nào không yêu anh ta là ngu!

- Tôi có công tác đột xuất, phải đi ngay. Chào chị Ngọc.

- Chào đồng chí Kiều Nhị!

Ngọc đứng ngây người ra. Nước mắt đùn lên, chẩy lênh láng trên khuôn mặt. Ngọc không thể tượng tượng người cách mạng như Thúy lại tàn nhẫn như vậy. Cái gì xa xưa của Thúy, đối với Thúy, là dĩ vãng thối nát, đáng phỉ nhổ, không thương xót, kể cả bạn rải gianh, bạn tam cúc, bạn tình ấu thơ.

Ngọc lững thững bước về.

--------------------------------
1 Nữ cộng sản Pháp nằm giữa đường ngăn cho xe lửa chở lính Pháp xuống Marseille sang chiến đấu ở Việt Nam không đi được.

giavui
10-16-2015, 06:57 PM
25

Vũ và Luyến nằm trên hai chiếc xích đu ở ngoài sân phố Lý Thường kiệt. Mỗi đứa một ý nghĩ riêng, im lặng suy tư, không nói năng gì với nhau. Thuốc lá đốt thật nhiều. Luyến thương Vũ lắm. Bạn Luyến còn hai đứa sống chết với Thái Bình. Vọng chưa về. Và Vũ nằm đây, hong những vết thương cách mạng.

Chiều qua, Ngọc kể chuyện Thúy cho Vũ nghe, linh hồn và thể xác. Linh hồn Thúy đã ứp men chủ nghĩa rồi, thở rặt những ngôn ngữ cộng sản và kết duyên cùng người cộng sản, luyến ái quan theo cộng sản. Thể xác Thúy đã ôm bí danh Kiều Nhị, cán bộ cao cấp của Đoành thanh niên Hồ Chí Minh Thái Bình, đã mang dép Bình-Trị-Thiên, đội mũ bộ đội, đeo xặc cột. Thúy đã lột xác hoàn toàn, không còn dính một chút nào của Thúy ngày xưa, bạn tình của Vũ.

Luyến đã đọc một bài thơ của người cộng sản vô danh làm lén lút và gửi lén lút tới độc giả. Thi sĩ cộng sản vô danh đã tiên tri luyến ái quan của Đảng mình.

Mảnh vườn xưa cây mỗi ngày mỗi xanh

Tóc mẹ già thì mỗi ngày mỗi bạc

Hai chúng ta ở hai đầu công tác

Có bao giờ trở lại mảnh vườn xưa

Hai chúng ta như trời nắng tránh trời mưa

Như sao Hôm sao Mai không cùng ở

Như mặt trăng mặt trời cách trở

Có bao giờ trở lại mảnh vườn xưa...

Rồi Thúy sẽ như trời nắng tránh chồng trời mưa, sẽ như sao Hôm không được ở với chồng sao Mai, sẽ như mặt trăng cách biệt chồng mặt trời. Thúy giống con phù du sắp lao mình vào ngọn lửa toan tính ác liệt. Mà Thúy không biết.

Ai biết sao nổi những bất ngờ nó đến đời mình. Lộc đã nói đúng. Phạm Huy Lộc, pha trò nhạt phếch, đã chẳng nhạt phếch tí nào, khi nhận xét cuộc đời. Ở đời, có nhiều bất ngờ không thể tưởng tượng nổi. Tao đã, bất ngờ, thấy gia đình tao vào họ Bôn, năm tao 18 tuổi. Cũng, bất ngờ, người ta bảo tao pha trò đả kích cách mạng. Bất ngờ, Lộc chống cộng sản, đi tuốt vào Sàigòn. Vũ thì bất ngờ đi kháng chiến, bất ngờ bị tàn phế... Còn Luyến, cũng bất ngờ cụt chân, bất ngờ lấy được vợ... Ôi, bất ngờ, tìm nó ở đâu để oán trách nó đã giáng xuống đời mình, bất ngờ phá nát tương lai mình dự tính, làm hư hỏng con người mình; khi mình biết, tại bất ngờ. Thúy đã bất ngờ thành đồng chí Kiều Nhị, bất ngờ là cộng sản trung kiên, bất ngờ làm vợ anh cộng sản. Thúy chưa hiểu bất ngở nó đùa giỡn mình. Khi Thúy hiểu mình lấy chồng như sao Hôm sao Nai không cùng ở, Thúy sẽ buồn thảm. Thì đã muộn. Như Luyến đã cụt chân. Như Vũ đã tàn phế. Khác với Ngọc, Luyến không ghét Thúy mà thương hại Thúy. Có ghét chăng, chỉ bất ngờ phạm tội!

Vũ không hề oán trách Thúy. Vũ đã xác định chỗ ngồi của mình trong cuộc đời, tự hôm người y sĩ quân đôi Pháp buồn bã nói Vũ đã tàn phế. Vũ đâm ra ngờ vực tất cả. Gia đình. Bằng hữu. Tình nhân. Vũ được hai thứ, đánh gục sự ngờ vực của Vũ. Gia đình và bằng hữu làm Vũ yên lòng mà sống lay lất. Còn tình nhân? Mỗi người có một số phận. Số phận nó tới lúc nào, mình không biết. Người y sĩ quân đội Pháp an ủi Vũ thế. Số phận của Vũ, Vũ đã mơ hồi cảm thấy. Chẳng bao giờ Vũ nhắc nhở Thúy, từ dạo Vũ bị những vết thương chiến tranh nó nhằm đúng tim Vũ đóng chặt. Oan nghiệt. Năn năm theo kháng chiến, chả khi nào Vũ quên Thúy, quên ngày vàng mộng tưởng, quên tình ái ngọc ngà, quên nụ cười sáng rực, quên nước mắt ngời vui. Y hệt thi sĩ Nguyễn Bính nhớ tình nhân. Nhớ nhất nước. Nhớ nhất thế giới. Nhớ nhất loài người. Nhất trời đất:

Trời còn có bữa sao quên mọc

Anh chẳng đêm nào quên nhớ em

Vũ hơn trời, hơn trăng, hơn sao, luôn luôn nhớ thương Thúy. Nhớ ngút ngàn. Nhớ nghiêng lệch. Nhớ trong chiến trận bừng bừng khói lửa. Nhớ ngoài hậu phương ngây ngất nhạc đời. Nhớ vào nhà em không rõ lối về. Hhớ ra đường phố mùi hồi thơm hắc.

Vũ nhớ Thúy vì trời sinh Vũ để nhớ nhung. Thúy quên Vũ vì trời sinh Thúy để quên lãng. Mấy người yêu tuổi thơ, kỷ niệm của mình mà chung thủy? Người ta tình cờ nghĩ tới thì nuối tiếc vu vơ, thì giật mình xấu hổ, thì mộng hoa niên trở lại để sống khác đi. Vũ thích dĩ vãng, bằng lòng lạc loài trong dĩ vãng. Như tiểu tư sản. Thúy không thích ngoái nhìn dĩ vãng, bẳng lòng ồn ã trong tương lai. Như vô sản. Đó là quyền sống của Thúy. Đã lớn khôn. Vũ không được phép trách móc Thúy như Thúy bảo Vũ đã vồ tiền ở đền Mẫu.

Thuở còn ngây dại. Vũ nhớ ghê lắm, thuở tình thơ với Thúy. Bắt đầu, Vũ bắt con chim khuyên bỏ túi quần xoóc, đem sang cho Thúy. Sau chót, Vũ hôn lên mắt Thúy và nói bằng hơi thở Anh sẽ về. Chúng mình sẽ trở về, bằng trái tim, anh sẽ chiến đấu để trở về, sống mãi bên em, bằng nước mắt, giã từ Thúy, Tạm biệt em hôm chia ly, sau ngày thị xã Thái Bình tiêu thổ kháng chiến. Vũ đã về giải phóng thị xã, Thúy đã về hạnh ngô Vũ. Hai người lấy nhau. Đất nước thanh bình. ồ, như vậy tiểu thuyết quá. Kim Trọng với Thúy Kiều quá. Lục Vân Tiên với Kiều Nguyệt Nga quá. Bất ngờ, Vũ bị thương tàn phế, về nhà giống gã đào binh hèn nhát, không giải phóng thị xã nổi. Bất ngờ, Vương Viên Thúy thành đồng chí gái Kiều Nhị, lấy chồng cộng sản và quên hẳn Trần Vũ. Như vậy mới là cuộc đời.

Cuộc đời hôm nay khốn nạn không chừng. Cách mạng và chiến tranh. Chiến tranh gây đổ vỡ, cách mạng xây dựng lại đổ vỡ. Những chỗ nào đổ vỡ, cháy tàn vì chiến tranh, cách mạng xây dựng lại hết. Một thành phố, những tỉnh lỵ chẳng bao lâu sẽ như cũ. Chiến tranh sát hại hàng triệu sinh linh. Là thường. Có chiến tranh nào không người chết? Cách mạng, chiến tranh và chủ nghĩa mới đáng hãi hùng. Cách mạng, có thể, tái tạo hạnh phúc cho con người do chiến tranh đã đốt phá. Cách mạng không đủ khả năng, không bao giờ có khả năng hàn gắn sự tan nát của tình yêu con người do chủ nghĩa dẫm nát dưới bàn chân thô bạo. Chủ nghĩa thừa thãi quyền năng. Con vật vô hình đó, nhiều chân tay, nhiều bí tích, nhiều cách sát nhân, nhiều lối rửa óc. Nó chỉ thiếu một trái tim. Như con người. Nó không biết rung động, cảm động, thương yêu. Dưới bàn chân thô bạo của nó là tình người. Tình người, vô tình, biến thành kẻ thù số một của chủ nghĩa.

Cách mạng bị chủ nghĩa dẫn dắt. Thị xã Thái Bình bị tiêu thổ kháng chiến, không đời nào kiến tạo như ngày xưa. Ngay cả những cây hồi hoa thơm hăng hắc cũng khó lòng trồng lại. Chủ nghĩa đã dầy đạp bao trái tim con người. Trái tim của Thúy đau đớn nhất, đau chẳng biết mình đau.

- Mày thuộc bài thơ tình nào hay nhất không?

Vũ hỏi.

Luyến mỉm cười, rướn thân hình lên:

- Buồn đấy.

Vũ nói:

- Thơ tình nào không buồn? Buồn mới bất hủ.

Luyến ngâm nga:

- ... Tình yêu đến tình yêu đi ai biết

Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt

Những hình xưa nay đoạn tuyệt dấu hài

Gấp đi em anh rất sợ ngày mai

Đời trôi chẩy lòng ta không vĩnh viễn...

Vũ khen:

- Tuyệt tác. Thơ vận vào đời tao.

Rồi, Vũ nói chuyện khác:

- Bắt đầu, khởi sự cách mạng mùa Thu. Từ cách mạng mùa Thu, đã thấy mùi chủ nghĩa. Khi mình biết chủ nghĩa hướng dẫn cách mạng, mình đã tàn phế rồi. Đàn anh chúng ta cũng không biết. Anh Vũ Thương Anh biết muộn màng. Anh ấy sắp chết, vẫn sợ chủ nghĩa. Đến nỗi, làm bản nhạc Cuối thu đường đời, anh ấy phải giấu giiếm tâm sự một mình, gửi người cùng tâm sự. Cách mạng mùa Thu chẳng phải cách mạng chống đối thực dân đâu. Theo tao, chỉ là cách mạng rơi vào tay chủ nghĩa. Để tiêu diệt tình người. Chấm hết.

Luyến không nói gì nữa. Vũ lặng im. Cả hai đứa hút thuốc lá, nhìn khói bay theo gió thu vào không gian mù khơi. Sắp sửa 19-8 rồi. Còn vài hôm nữa thôi, ngày tổng khởi nghĩa. Chín năm trước, thằng Vũ, thằng Côn, thằng Luyến, thằng Long, thằng Lộc còn chân sáo tung tăng Nhanh bươc nhanh nhi đồng, theo cờ đỏ sao vàng. Chín năm sau, Long chết trận ở Duyên Hà, Lộc, Côn vô Nam, Luyến mất một chân, Vũ tàn phế nằm giữa sân phố Lý Thường Kiệt, nói chuyện thất vọng cách mạng mùa Thu. Nghe đâu đây, tiếng kèn ác mô ni ca ray rút thổi bản nhạc sầu thảm. Và, giọng ai đó thổn thức hát.

... Giọt nước mắt rơi buồn tênh đường trần

Sợi nắng úa soi thời gian ngại ngần

Ôi mùa thu hẹn nhau đã tới

Ơi mùa thu, mùa thu cuối lối

Bánh xe tang lăn trên xác lá mồ côi...

Le Plessis Robinson
Noel, 1992
Duyên Anh