khieman
10-18-2014, 04:28 AM
.
Công Án trong nhà Thiền là gì ?
Có câu hỏi:
– Đọc sách Thiền, tôi thường thấy những câu chuyện người này hoặc người kia, sau khi nghe một câu nói, một tiếng hét, một cái tát, hoặc nhìn thấy một sư kiện gì đó, thí dụ sao Mai mọc, hoa đào nở, cánh cửa xập, bèn Ngộ, có vẻ như chuyện Ngộ đạo quá dễ dàng, phải không ạ?
Đáp :
Thiết nghĩ rằng những câu chuyện trong các sách Thiền đã bị hiểu lầm rất nhiều.
Tại sao vậy?
Tại vì ở đó chúng ta chỉ được thấy phần kết quả của cả một quá trình tu hành tự thanh lọc tâm của người hành giả, tạm dùng thí dụ như chúng ta tham dự lễ ra trường của ông Tiến Sĩ, chỉ nghe có tiếng gọi tên là ông Tiến Sĩ lên lãnh bằng cấp, áo mũ, mà không hề nhìn thấy những năm dài đằng đẵng giùi mài kinh sử của người học trò, để có thể đạt được kết quả trên.
Có lẽ quý vị khi đọc các sách Thiền cũng nhận thấy một điều là các nhân vật trong đó khi ra mắt thiền sư đều khai danh tính và xuất thân từ chùa này hoặc tu viện nọ. Điều đó nói lên rằng hầu hết họ đều đã có một quá trình tu học, trước khi đi hành cước tìm thày.
Có câu “thiền môn nghiêm tịnh”, chùa chiền và tăng ni ngày xưa giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm, chặt chẽ. Như thế có nghĩa là những hành giả đi tìm thày như vậy là đã trải qua giai đoạn tự thanh tịnh hóa tâm, xả bỏ tham sân si được một chừng mực nào đó, nay bước vào giai đoạn chót của cuộc đời chuyên tu, mục đích là Kiến Tánh để ra khỏi sinh tử.
Thiền sư Hám Sơn, một người đã Kiến Tánh, nhục thân còn lưu tại chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông, đã dạy rằng:
…”…Nếu luận về đại sự nhân duyên này thì Phật Tánh ai ai cũng sẵn có đầy đủ, tơ hào chẳng thiếu .
Song le, do từ kiếp vô thủy đến nay, gốc rễ ái dục, vọng tưởng, tình lự, thói quen ô nhiễm sâu dầy, nên ánh sáng diệu kỳ của Tự Tánh hoàn toàn bị che khuất đi .
Rồi vì chẳng được thọ dụng chân thật, nên cứ khư khư bám víu nơi thân tâm, thế giới, bóng dáng, vọng tưởng, kết cuộc là trôi lăn phiêu dạt biển sinh tử.
Phật và chư Tổ ra đời, với trăm ngàn lời lẽ, đủ thứ phương tiện, nói Thiền, giảng Giáo, không ngoài tùy thuận căn cơ, dựng lập, phá chấp, nguyên lai nào có “pháp thật” nào để dậy người đâu!
Tu tức là tùy thuận Tự Tâm, tịnh trừ vọng tưởng, tập khí, rác rưởi . Cứ theo đây mà ra sức thì gọi là Tu . Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ. Nào phải lìa khỏi tâm này, mình mới tu, mới ngộ…”…
Xin lưu ý câu:
“Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ…”…
Như thế, người Ngộ Đạo không phải là Ngộ câu nói hay hành động gì đó xảy ra lúc đó, mà là do sự kiện xảy ra lúc đó tác dụng vào tâm người hành giả vốn đã chín mùi, khiến cho chuỗi tư tưởng triền miên bỗng nhiên ngưng đọng lại, trong một thoáng dòng thường lưu suy tư ngưng bặt, Thực Tại hiển lộ.
Thực Tại đây chính là Phật Tánh, Giác Tánh, Buddha Nature, Buddha Mind, Tri Kiến Phật, vân vân …
Và sự Ngộ Đạo là kết quả của quá trình tự thanh lọc, khiến cho tâm đã thành khối, cũng giống như trái cây đã chín mùi, nên câu nói của bậc thày lúc đó chỉ tương đương với việc rung cây cho trái rụng mà thôi.
Điều quan trọng là bậc thày phải là người đã thấu suốt, biết được trò kẹt ở đâu, để chỉ nói một câu, làm một hành động nào đó là trò bừng tỉnh. Vì thế, hành động của bậc thày trong hoàn cảnh này còn được gọi là "tháo đinh nhổ chốt".
Câu hỏi thứ hai:
– Thế nào là công án trong sự tu Thiền ?
Đáp :
Công án trong nhà Thiền là thuật ngữ đặc biệt, để chỉ một phương cách hành trì khiến cho người tu Tổ Sư Thiền có thể Kiến Tánh, cũng tức là Ngộ Đạo.
Trong phần trả lời câu hỏi trước, trong lời dạy của thiền sư Hám Sơn, có câu:
- “Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ…”…
Ngộ tức là Kiến Tánh, là mục tiêu cốt tủy của Tổ Sư Thiền.
Nhà Phật cho rằng vì một niệm vô minh bất giác khiến cho trùng trùng duyên khởi, “Tự Tâm trở lại buộc Tự Tâm, không phải Huyễn mà thành pháp Huyễn”, tự Tâm cũng nghĩa là Bản Tâm, bỗng bị cuốn vào cơn xoáy của vọng tâm sinh diệt liên tục gọi là dòng thường lưu suy tư luân chuyển không lúc nào ngưng.
Nay muốn Ngộ lại Bản Tâm, còn gọi là Kiến Tánh, thì dòng thường lưu tư tưởng phải chợt ngưng bặt, dù chỉ trong một khoảnh khắc, đó là lúc Bản Thể Chân Tâm tự hiển lộ, điều mà tu viện Thiền Tào Động trên núi Shasta gọi là manifest itself.
Vào thời gian đầu của Tổ Sư Thiền, người tu chưa cần tới công án. Các bậc thày chỉ nói lên một câu nào đó rất là khó hiểu, dường như không thể giải đáp được, khiến cho người đệ tử cứ thắc mắc hoài, đi đứng nằm ngồi không buông ra được, thí dụ một nhà sư hỏi Triệu Châu:
- ” Muôn pháp về một, một về chỗ nào?”.
Triệu Châu trả lời:
- ” Khi ở Thanh Châu, tôi có may được cái áo nặng bảy cân”.
Câu trả lời không ăn nhập gì với câu hỏi, rất bất ngờ này, là cơ xảo của bậc thày, hoàn toàn ra ngoài dự đoán của người nghe. Nó có thể gây nên sự sửng sốt khiến cho vọng tâm sinh diệt của đương cơ đang miên man trôi chảy bỗng khựng lại, hoặc nếu tâm hành giả chưa chín mùi thì câu trả lời vô nghĩa cũng gây nên một khối nghi, hành giả ôm khối nghi đó trong tâm cho đến khi ngưng bặt tâm ý thức, rồi nếu có một đột biến nào xảy ra, thí dụ tiếng sỏi chạm, ly bể, sét đánh, vân vân, hành giả sẽ bỗng nhiên bừng tỉnh.
Sau này, dường như các cơ xảo không còn khiến cho người nghe cảm thấy ngạc nhiên, ngơ ngác nữa, cho nên chư Tổ Sư mới phải chế ra những câu hỏi vô nghĩa, không thể dùng tâm ý thức mà trả lời được, thí dụ:
- “Con trâu chui qua cửa, đầu và thân đều lọt, tại sao cái đuôi không lọt?”.
Câu hỏi vô lý như thế nhưng do một bậc thày đáng kính hỏi, người đệ tử không thể coi là trò đùa, và cứ thế mà nghiền ngẫm. Trong khi nghiền ngẫm như vậy thì tâm ý thức giảm hoạt động dần, cho đến khi thành khối, gọi là nghi đoàn, rồi khi tình cờ gặp một đột biến nào đó, khối nghi tan rã, hành giả bừng tỉnh, tức là Kiến Tánh, là Ngộ.
Để quý vị có thêm tài liệu về công án trong sự tu Tổ Sư Thiền, xin gii thiệu một đoạn trích trong cuốn Thiền Luận bộ Trung, nguyên tác ''Essays in Zen Buddism'', do tiến sĩ Daisetz Teitaro Suzuki biên soạn và thượng tọa Thích Tuệ Sỹ dịch ra Việt ngữ.
…”… Đại Huệ là một đại luận sư về công án của thế kỷ XII. Một trong những công án lừng danh của sư là VÔ của Triệu Châu, nhưng sư cũng có một công án riêng của mình. Sư thường mang cây gậy trúc ngắn đưa ra trước chúng tăng và bảo:
- “Nếu các ngươi gọi đây là cây gậy, hãy nói là phải. Nếu các ngươi không gọi nó là cây gậy, hãy nói là không phải. Ngoài cái phải và không phải, các ngươi sẽ gọi nó là gì?”.
Trong trích dẫn sau đây rút ra từ các bài pháp của ngài nhan đề Đại Huệ Phổ Thuyết, ngài còn nêu lên một công án khác cho vị tăng thị giả của mình là Tịnh Quang.
- “Pháp không do kiến văn giác tri mà thấu triệt. Nếu pháp do kiến văn giác tri mà thấu triệt, thì đấy chỉ là kiến văn giác tri mà thôi, hoàn toàn không phải là cầu pháp. Bởi vì pháp không ở nơi những cái mà người ta nghe từ kẻ khác hay học tập bằng thế trí.
Bây giờ, ngươi hãy bỏ đi những gì thấy, nghe và suy nghĩ, mà thấy những gì trong chính ngươi. Chỉ có chân không, vô vật, không thể bắt nắm được, không thể nghĩ tưởng đến được. Tại sao? Bởi vì đó là nơi siêu việt giác quan. Nếu giác quan mà với tới nơi này được, thì đó là cái có thể nghĩ tưởng có thể bám víu, và như vậy, nó nằm trong vòng sống chết.
Điều cốt yếu là khép chặt các giác quan, và biến tâm thức thành như một khúc cây. Khi khúc cây này đột nhiên trỗi dậy và khua vang, ấy là ngươi như sư tử cất tiếng rống tự do, tự tại không ai quấy phá, hay như một con voi vượt qua sông, chẳng e dè dòng nước chảy xiết. Đấy là lúc không còn dao động, không còn tạo tác, không có gì hết. Trưởng lão P’ing T’ien nói :
Trời trong không mây mù
Đạo thường tồn miên viễn
Ai bước vào cửa này
Không học, không luận biện
Nhà ngươi phải biết rằng do kiến văn giác tri mà bước vào đạo và cũng do kiến văn giác tri mà không bước vào được. Nếu ngươi muốn mình là một vị thầy tự tại của chính mình, hãy dứt bỏ kiến văn giác tri, hãy kềm lại cái tâm leo trèo như vượn, đừng để làm bậy, hãy bắt nó đứng yên, hãy kiên quyết chú tâm vào bất cứ những gì ngươi đang làm – đi đứng hay nằm ngồi, im lặng hay nói năng; hãy giữ tâm ngươi như một sợi dây căng thẳng; đừng để nó vuột khỏi tay mình. Ngay khi nó vuột khỏi vòng câu thúc, ngươi sẽ thấy nó lao đầu vào nơi kiến văn tri giác.
Học Thiền phải đi đến chung cùng là Chứng Ngộ. Các bậc tôn túc của Thiền cũng vậy; bởi vì chúng ta chỉ biết rõ sự thành đạt đích thực của Thiền khi nào chúng ta Chứng Ngộ. Hãy nghĩ nhớ công án dù đang làm bất cứ việc gì, dù là ngày hay đêm.
Một thầy tăng hỏi Triệu Châu “Con chó có Phật tính không”. Triệu Châu nói Vô. Hãy chú tâm vào chữ Vô này và hãy nhìn xem cái gì nằm trong đó.
Đến lúc tâm đã định, ngươi sẽ thấy công án chẳng có mùi vị gì hết, nghĩa là chẳng có đường lối phân biệt nào để dò vào trong lòng của nó.”
Nơi khác, Đại Huệ nói: “Hãy kiên trì công án trong suốt cả bình sinh. Nếu một niệm khởi lên, đừng cố ý dẹp xuống, mà cứ cố giữ công án hiện tiền với tâm. Dù khi đi khi đứng hay nằm ngồi, chú tâm không gián đoạn. Đến khi bắt đầu thấy nó không còn hương vị gì hết, ấy là lúc thời cơ quyết định đang đến, đừng để nó vuột mất. Đến khi một vật đột nhiên chớp lên trong tâm ngươi, ánh sáng của nó sẽ sáng rực cả vũ trụ…”…
Trên đây là lời dạy của thiền sư Đại Huệ. Chúng tôi cũng xin trình với quý vị lời dạy của thiền sư Thích Duy Lực, như sau:
… “…Công án là một chuyện tích chẳng thể dùng bộ óc để lý giải, làm cho thiền giả cảm thấy thắc mắc mà phát khởi nghi tình, gọi là công án.
Mục đích của Phật và chư Tổ khi sử dụng công án là cốt để đương cơ ngay đó hoát nhiên trực ngộ. Nếu ngay đó chưa ngộ được, thì tất nhiên phát ra nghi tình, rồi do nghi tình đó, sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải muốn người nghe hiểu theo lời nói văn tự. Nếu hiểu theo lời nói văn tự là trái ngược với ý chỉ của Thiền tông, lại đóng bít cửa ngộ của người hành giả, vĩnh viễn không thể chứng ngộ.
Nay xin hành giả tham thiền khi đọc đến chỗ không hiểu chớ nên dùng ý thức để nghiên cứu tìm hiểu. Cần phải ngay chỗ không hiểu phát khởi nghi tình, và luôn luôn giữ mãi cái nghi tình đó thì sẽ được “từ Nghi đến Ngộ”, đúng như lời Phật dạy vậy….”…
Thiền sư Thích Duy Lực là một trong số các bậc tôn túc hoằng truyền Thiền Đốn Ngộ. Thày dạy về tham công án và thoại đầu. Thày dạy rằng mặc dầu có tới 1700 công án, nhưng không phải giải được nhiều công án là sẽ giác ngộ. Trái lại, chỉ càng làm cho tâm ý thức hoạt động thêm, càng xa đạo mà thôi.
Thày dạy rằng nếu tham một công án hoặc thoại đầu mà tâm thành khối, rồi do một cơ duyên nào đó mà chợt bừng tỉnh, Kiến Tánh, thì sẽ thấy rằng mục tiêu của tất cả các công án cũng đều giống nhau, cũng để chặn đường đi của ý thức, tâm viên ý mã mà thôi.
Tuệ Đăng
Nguồn: http://phuongkhanhdo.wordpress.com/2013/07/13/bai-15-cong-an-la-gi/
Công Án trong nhà Thiền là gì ?
Có câu hỏi:
– Đọc sách Thiền, tôi thường thấy những câu chuyện người này hoặc người kia, sau khi nghe một câu nói, một tiếng hét, một cái tát, hoặc nhìn thấy một sư kiện gì đó, thí dụ sao Mai mọc, hoa đào nở, cánh cửa xập, bèn Ngộ, có vẻ như chuyện Ngộ đạo quá dễ dàng, phải không ạ?
Đáp :
Thiết nghĩ rằng những câu chuyện trong các sách Thiền đã bị hiểu lầm rất nhiều.
Tại sao vậy?
Tại vì ở đó chúng ta chỉ được thấy phần kết quả của cả một quá trình tu hành tự thanh lọc tâm của người hành giả, tạm dùng thí dụ như chúng ta tham dự lễ ra trường của ông Tiến Sĩ, chỉ nghe có tiếng gọi tên là ông Tiến Sĩ lên lãnh bằng cấp, áo mũ, mà không hề nhìn thấy những năm dài đằng đẵng giùi mài kinh sử của người học trò, để có thể đạt được kết quả trên.
Có lẽ quý vị khi đọc các sách Thiền cũng nhận thấy một điều là các nhân vật trong đó khi ra mắt thiền sư đều khai danh tính và xuất thân từ chùa này hoặc tu viện nọ. Điều đó nói lên rằng hầu hết họ đều đã có một quá trình tu học, trước khi đi hành cước tìm thày.
Có câu “thiền môn nghiêm tịnh”, chùa chiền và tăng ni ngày xưa giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm, chặt chẽ. Như thế có nghĩa là những hành giả đi tìm thày như vậy là đã trải qua giai đoạn tự thanh tịnh hóa tâm, xả bỏ tham sân si được một chừng mực nào đó, nay bước vào giai đoạn chót của cuộc đời chuyên tu, mục đích là Kiến Tánh để ra khỏi sinh tử.
Thiền sư Hám Sơn, một người đã Kiến Tánh, nhục thân còn lưu tại chùa Nam Hoa tỉnh Quảng Đông, đã dạy rằng:
…”…Nếu luận về đại sự nhân duyên này thì Phật Tánh ai ai cũng sẵn có đầy đủ, tơ hào chẳng thiếu .
Song le, do từ kiếp vô thủy đến nay, gốc rễ ái dục, vọng tưởng, tình lự, thói quen ô nhiễm sâu dầy, nên ánh sáng diệu kỳ của Tự Tánh hoàn toàn bị che khuất đi .
Rồi vì chẳng được thọ dụng chân thật, nên cứ khư khư bám víu nơi thân tâm, thế giới, bóng dáng, vọng tưởng, kết cuộc là trôi lăn phiêu dạt biển sinh tử.
Phật và chư Tổ ra đời, với trăm ngàn lời lẽ, đủ thứ phương tiện, nói Thiền, giảng Giáo, không ngoài tùy thuận căn cơ, dựng lập, phá chấp, nguyên lai nào có “pháp thật” nào để dậy người đâu!
Tu tức là tùy thuận Tự Tâm, tịnh trừ vọng tưởng, tập khí, rác rưởi . Cứ theo đây mà ra sức thì gọi là Tu . Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ. Nào phải lìa khỏi tâm này, mình mới tu, mới ngộ…”…
Xin lưu ý câu:
“Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ…”…
Như thế, người Ngộ Đạo không phải là Ngộ câu nói hay hành động gì đó xảy ra lúc đó, mà là do sự kiện xảy ra lúc đó tác dụng vào tâm người hành giả vốn đã chín mùi, khiến cho chuỗi tư tưởng triền miên bỗng nhiên ngưng đọng lại, trong một thoáng dòng thường lưu suy tư ngưng bặt, Thực Tại hiển lộ.
Thực Tại đây chính là Phật Tánh, Giác Tánh, Buddha Nature, Buddha Mind, Tri Kiến Phật, vân vân …
Và sự Ngộ Đạo là kết quả của quá trình tự thanh lọc, khiến cho tâm đã thành khối, cũng giống như trái cây đã chín mùi, nên câu nói của bậc thày lúc đó chỉ tương đương với việc rung cây cho trái rụng mà thôi.
Điều quan trọng là bậc thày phải là người đã thấu suốt, biết được trò kẹt ở đâu, để chỉ nói một câu, làm một hành động nào đó là trò bừng tỉnh. Vì thế, hành động của bậc thày trong hoàn cảnh này còn được gọi là "tháo đinh nhổ chốt".
Câu hỏi thứ hai:
– Thế nào là công án trong sự tu Thiền ?
Đáp :
Công án trong nhà Thiền là thuật ngữ đặc biệt, để chỉ một phương cách hành trì khiến cho người tu Tổ Sư Thiền có thể Kiến Tánh, cũng tức là Ngộ Đạo.
Trong phần trả lời câu hỏi trước, trong lời dạy của thiền sư Hám Sơn, có câu:
- “Khi một niệm vọng tưởng chợt ngưng, liền thấu suốt Tự Tâm xưa nay viên mãn quang minh chói lọi, thật là thanh tịnh bổn nhiên, chẳng dính vật gì, thì khi đó gọi là Ngộ…”…
Ngộ tức là Kiến Tánh, là mục tiêu cốt tủy của Tổ Sư Thiền.
Nhà Phật cho rằng vì một niệm vô minh bất giác khiến cho trùng trùng duyên khởi, “Tự Tâm trở lại buộc Tự Tâm, không phải Huyễn mà thành pháp Huyễn”, tự Tâm cũng nghĩa là Bản Tâm, bỗng bị cuốn vào cơn xoáy của vọng tâm sinh diệt liên tục gọi là dòng thường lưu suy tư luân chuyển không lúc nào ngưng.
Nay muốn Ngộ lại Bản Tâm, còn gọi là Kiến Tánh, thì dòng thường lưu tư tưởng phải chợt ngưng bặt, dù chỉ trong một khoảnh khắc, đó là lúc Bản Thể Chân Tâm tự hiển lộ, điều mà tu viện Thiền Tào Động trên núi Shasta gọi là manifest itself.
Vào thời gian đầu của Tổ Sư Thiền, người tu chưa cần tới công án. Các bậc thày chỉ nói lên một câu nào đó rất là khó hiểu, dường như không thể giải đáp được, khiến cho người đệ tử cứ thắc mắc hoài, đi đứng nằm ngồi không buông ra được, thí dụ một nhà sư hỏi Triệu Châu:
- ” Muôn pháp về một, một về chỗ nào?”.
Triệu Châu trả lời:
- ” Khi ở Thanh Châu, tôi có may được cái áo nặng bảy cân”.
Câu trả lời không ăn nhập gì với câu hỏi, rất bất ngờ này, là cơ xảo của bậc thày, hoàn toàn ra ngoài dự đoán của người nghe. Nó có thể gây nên sự sửng sốt khiến cho vọng tâm sinh diệt của đương cơ đang miên man trôi chảy bỗng khựng lại, hoặc nếu tâm hành giả chưa chín mùi thì câu trả lời vô nghĩa cũng gây nên một khối nghi, hành giả ôm khối nghi đó trong tâm cho đến khi ngưng bặt tâm ý thức, rồi nếu có một đột biến nào xảy ra, thí dụ tiếng sỏi chạm, ly bể, sét đánh, vân vân, hành giả sẽ bỗng nhiên bừng tỉnh.
Sau này, dường như các cơ xảo không còn khiến cho người nghe cảm thấy ngạc nhiên, ngơ ngác nữa, cho nên chư Tổ Sư mới phải chế ra những câu hỏi vô nghĩa, không thể dùng tâm ý thức mà trả lời được, thí dụ:
- “Con trâu chui qua cửa, đầu và thân đều lọt, tại sao cái đuôi không lọt?”.
Câu hỏi vô lý như thế nhưng do một bậc thày đáng kính hỏi, người đệ tử không thể coi là trò đùa, và cứ thế mà nghiền ngẫm. Trong khi nghiền ngẫm như vậy thì tâm ý thức giảm hoạt động dần, cho đến khi thành khối, gọi là nghi đoàn, rồi khi tình cờ gặp một đột biến nào đó, khối nghi tan rã, hành giả bừng tỉnh, tức là Kiến Tánh, là Ngộ.
Để quý vị có thêm tài liệu về công án trong sự tu Tổ Sư Thiền, xin gii thiệu một đoạn trích trong cuốn Thiền Luận bộ Trung, nguyên tác ''Essays in Zen Buddism'', do tiến sĩ Daisetz Teitaro Suzuki biên soạn và thượng tọa Thích Tuệ Sỹ dịch ra Việt ngữ.
…”… Đại Huệ là một đại luận sư về công án của thế kỷ XII. Một trong những công án lừng danh của sư là VÔ của Triệu Châu, nhưng sư cũng có một công án riêng của mình. Sư thường mang cây gậy trúc ngắn đưa ra trước chúng tăng và bảo:
- “Nếu các ngươi gọi đây là cây gậy, hãy nói là phải. Nếu các ngươi không gọi nó là cây gậy, hãy nói là không phải. Ngoài cái phải và không phải, các ngươi sẽ gọi nó là gì?”.
Trong trích dẫn sau đây rút ra từ các bài pháp của ngài nhan đề Đại Huệ Phổ Thuyết, ngài còn nêu lên một công án khác cho vị tăng thị giả của mình là Tịnh Quang.
- “Pháp không do kiến văn giác tri mà thấu triệt. Nếu pháp do kiến văn giác tri mà thấu triệt, thì đấy chỉ là kiến văn giác tri mà thôi, hoàn toàn không phải là cầu pháp. Bởi vì pháp không ở nơi những cái mà người ta nghe từ kẻ khác hay học tập bằng thế trí.
Bây giờ, ngươi hãy bỏ đi những gì thấy, nghe và suy nghĩ, mà thấy những gì trong chính ngươi. Chỉ có chân không, vô vật, không thể bắt nắm được, không thể nghĩ tưởng đến được. Tại sao? Bởi vì đó là nơi siêu việt giác quan. Nếu giác quan mà với tới nơi này được, thì đó là cái có thể nghĩ tưởng có thể bám víu, và như vậy, nó nằm trong vòng sống chết.
Điều cốt yếu là khép chặt các giác quan, và biến tâm thức thành như một khúc cây. Khi khúc cây này đột nhiên trỗi dậy và khua vang, ấy là ngươi như sư tử cất tiếng rống tự do, tự tại không ai quấy phá, hay như một con voi vượt qua sông, chẳng e dè dòng nước chảy xiết. Đấy là lúc không còn dao động, không còn tạo tác, không có gì hết. Trưởng lão P’ing T’ien nói :
Trời trong không mây mù
Đạo thường tồn miên viễn
Ai bước vào cửa này
Không học, không luận biện
Nhà ngươi phải biết rằng do kiến văn giác tri mà bước vào đạo và cũng do kiến văn giác tri mà không bước vào được. Nếu ngươi muốn mình là một vị thầy tự tại của chính mình, hãy dứt bỏ kiến văn giác tri, hãy kềm lại cái tâm leo trèo như vượn, đừng để làm bậy, hãy bắt nó đứng yên, hãy kiên quyết chú tâm vào bất cứ những gì ngươi đang làm – đi đứng hay nằm ngồi, im lặng hay nói năng; hãy giữ tâm ngươi như một sợi dây căng thẳng; đừng để nó vuột khỏi tay mình. Ngay khi nó vuột khỏi vòng câu thúc, ngươi sẽ thấy nó lao đầu vào nơi kiến văn tri giác.
Học Thiền phải đi đến chung cùng là Chứng Ngộ. Các bậc tôn túc của Thiền cũng vậy; bởi vì chúng ta chỉ biết rõ sự thành đạt đích thực của Thiền khi nào chúng ta Chứng Ngộ. Hãy nghĩ nhớ công án dù đang làm bất cứ việc gì, dù là ngày hay đêm.
Một thầy tăng hỏi Triệu Châu “Con chó có Phật tính không”. Triệu Châu nói Vô. Hãy chú tâm vào chữ Vô này và hãy nhìn xem cái gì nằm trong đó.
Đến lúc tâm đã định, ngươi sẽ thấy công án chẳng có mùi vị gì hết, nghĩa là chẳng có đường lối phân biệt nào để dò vào trong lòng của nó.”
Nơi khác, Đại Huệ nói: “Hãy kiên trì công án trong suốt cả bình sinh. Nếu một niệm khởi lên, đừng cố ý dẹp xuống, mà cứ cố giữ công án hiện tiền với tâm. Dù khi đi khi đứng hay nằm ngồi, chú tâm không gián đoạn. Đến khi bắt đầu thấy nó không còn hương vị gì hết, ấy là lúc thời cơ quyết định đang đến, đừng để nó vuột mất. Đến khi một vật đột nhiên chớp lên trong tâm ngươi, ánh sáng của nó sẽ sáng rực cả vũ trụ…”…
Trên đây là lời dạy của thiền sư Đại Huệ. Chúng tôi cũng xin trình với quý vị lời dạy của thiền sư Thích Duy Lực, như sau:
… “…Công án là một chuyện tích chẳng thể dùng bộ óc để lý giải, làm cho thiền giả cảm thấy thắc mắc mà phát khởi nghi tình, gọi là công án.
Mục đích của Phật và chư Tổ khi sử dụng công án là cốt để đương cơ ngay đó hoát nhiên trực ngộ. Nếu ngay đó chưa ngộ được, thì tất nhiên phát ra nghi tình, rồi do nghi tình đó, sau này sẽ được ngộ. Chứ không phải muốn người nghe hiểu theo lời nói văn tự. Nếu hiểu theo lời nói văn tự là trái ngược với ý chỉ của Thiền tông, lại đóng bít cửa ngộ của người hành giả, vĩnh viễn không thể chứng ngộ.
Nay xin hành giả tham thiền khi đọc đến chỗ không hiểu chớ nên dùng ý thức để nghiên cứu tìm hiểu. Cần phải ngay chỗ không hiểu phát khởi nghi tình, và luôn luôn giữ mãi cái nghi tình đó thì sẽ được “từ Nghi đến Ngộ”, đúng như lời Phật dạy vậy….”…
Thiền sư Thích Duy Lực là một trong số các bậc tôn túc hoằng truyền Thiền Đốn Ngộ. Thày dạy về tham công án và thoại đầu. Thày dạy rằng mặc dầu có tới 1700 công án, nhưng không phải giải được nhiều công án là sẽ giác ngộ. Trái lại, chỉ càng làm cho tâm ý thức hoạt động thêm, càng xa đạo mà thôi.
Thày dạy rằng nếu tham một công án hoặc thoại đầu mà tâm thành khối, rồi do một cơ duyên nào đó mà chợt bừng tỉnh, Kiến Tánh, thì sẽ thấy rằng mục tiêu của tất cả các công án cũng đều giống nhau, cũng để chặn đường đi của ý thức, tâm viên ý mã mà thôi.
Tuệ Đăng
Nguồn: http://phuongkhanhdo.wordpress.com/2013/07/13/bai-15-cong-an-la-gi/