gioidinhhue
11-08-2010, 12:14 PM
Ni về chỗ tu hnh, r rng khng phải chỗ để chng ta l luận sung, m mỗi người phải ra sức nỗ lực thực tập. Bởi v đạo Phật l đạo thực hnh, chứ khng phải đạo của gio điều. Bản thn chng ti c duyn đi tu từ thuở nhỏ, đến by giờ đ bạc đầu, thế nhưng những vọng động, loạn tưởng vẫn cn dấy khởi, tuy nhin chng đ giảm bớt nhiều so với ngy xưa. Nn biết căn bệnh ny của chng sinh khng phải dễ trị.
Về cch trị vọng tưởng khng phải l qu kh, qu sức mnh nhưng điều quan trọng l chng ta c chịu trị hay vẫn cứ ủ bệnh? Việc ny ty mỗi người. C người biết bệnh rồi nhưng trị từ từ, khng nn nng vội v, tới đu hay tới đ. Đy l khuyết điểm m người tu chng ta đừng để bị vướng. Muốn được định, muốn c tr tuệ phải trị được bệnh vọng tưởng sớm chừng no tốt chừng ấy, nếu khng ni l phải trị gấp, trị một cch quyết liệt, v v thường đu c cho mnh hẹn.
Vọng tưởng l g? L những dấy tưởng lăng xăng, suy tư toan tnh trong chng ta. Nhưng lạ một điều, mnh biết n np chỗ no? Ở mi ở mắt ở bụng ở tim gan chẳng biết ở đu, nhưng c cơ hội l n hiện ra. Chng ta khng ai muốn n hiện ra, nhưng n vẫn cứ hiện, mnh chẳng lm g được n. V dụ khi ngồi thiền, mnh đu muốn những vọng tưởng lăng xăng dao động, nhưng gần như suốt thời ngồi thiền ta cứ lơ mơ suy nghĩ, toan tnh min man, khng dừng lại được. By giờ lm sao để trị bệnh ny, nếu khng trị, khng bao giờ ta vo được định. Khng vo được định th khng pht sinh tr tuệ Bt-nh. Chnh tr tuệ ny mới gip chng ta ra khỏi mọi sự tri buộc, được giải thot an vui.
Nếu hiện thời ngồi đy, chng ta lm chủ, khng để vọng tưởng dẫn đi đu hết, như vậy l dng được tr tuệ bản hữu của mnh. Ngược lại ta khng dừng những dấy niệm tơ tưởng, lao theo n, bị n cuốn dẫn, đ l mnh đang sử dụng thức hiểu biết dựa trn những kiến thức thu thập từ bn ngoi. Đy khng phải l tr tuệ bản hữu, m l tr tuệ vay mượn, khng chn thật, khng đưa đến giải thot an vui. Với người tu, tr tuệ bản hữu hay cn gọi tr tuệ v sư quan trọng v cần thiết hơn. Tr tuệ thu thập từ sự học hỏi bn ngoi cũng cần nhưng chỉ cần giai đoạn đầu, sau đ phải hướng đến triển khai tr tuệ bản hữu, để vo Niết-bn hon ton an ổn triệt để.
Tr tuệ v sư c năng lực trị được vọng tưởng, cắt đứt những dy mơ rễ m trầm thống trong chng ta. Một khi tr tuệ chn thật hiện tiền th khng c bng dng của phiền no đảo đin. Tr tuệ ny tuy l bản hữu nhưng v chng ta để bụi bặm v minh phủ lấp từ nhiều đời nn n khng tự hiển hiện, m phải tu tập, đặc biệt l từ cng phu thiền định pht sng. C những giờ chng ta muốn an ổn hết sức, nhưng c an ổn được đu! Như giờ nghỉ lm cng tc, giờ tọa thiền, tụng kinh chng ta cần dẹp bỏ triệt để mọi dấy niệm tạp nhạp, để tm yn định, nhưng c hon ton được như đu! Vừa yn một cht th vớ vẩn chuyện ny chuyện khc, hết chuyện trong cha tới chuyện ngoi xm, rồi tỉnh ny tỉnh nọ, nước ny nước kia, năm trn năm dưới, qu khứ tương lai cứ di di ra đ. Bị ko li như vậy Phật ch l người bị vọng tưởng đin đảo.
Chng ta tu hnh m lầm lũi theo những thứ đ hoi, Phật ni bị v minh dẫn, người yếu đuối khng c năng lực nn đnh để cho nghiệp tập ko li. Ci g thnh thi quen, n c năng lực v gọi l nghiệp. Cho nn chữ nghiệp l năng lực, việc đ do lm nhiều thnh thi quen, lu dần tch luỹ nn c năng lực. Năng lực l sức dẫn. Nếu hiện tại chng ta lao theo cng việc no hoi, n sẽ c năng lực dẫn mnh đi, d ta c cầu cứu đến Phật Bồ-tt, cũng kh ko trở lại. Điều ny giới tăng sĩ cần phải suy gẫm kỹ. Phải biết năng lực của nghiệp c sức mạnh v song, một khi đ bị n dẫn đi, kh c cch g ha giải ngoi tr tuệ Bt-nh.
Chư vị Bồ-tt như ngi Qun Thế m, Đại Tr Văn-th, Đại Hạnh Phổ Hiền v.v... nguyện đi vo mọi ng ngch của cuộc đời. Nơi no chng sinh bị khổ đau, cc ngi hiện đến cứu gỡ, bằng cch nhắc lại nguyện xưa, rằng chng sinh cũng c tnh Phật, by giờ nhớ v sống lại với tnh ấy của mnh th hết khổ, chứ khng hề đưa tay vớt mnh ra khỏi chỗ đ. Đạo Phật ch trọng đến tự lực nhiều hơn tha lực. Tuy trn bước đường tu hnh, chng ta rất cần đến tha lực, nhưng tự lực vẫn mang tnh quyết định cho kết quả gic ngộ giải thot của hnh giả. Người pht huy được tự lực th sớm thấy chn trời tịnh thanh, Phật đạo sng ngời ngay trước mắt. Người khng pht huy được tự lực th d c tha phương tm cầu thiện hữu tri thức vẫn chỉ ở ngoi da, trọn khng được lợi lạc cứu knh.
Trở lại vấn đề phiền no, chng ta khng biết n ở đu, nhưng gặp duyn bn ngoi tc động th phiền no bn trong vọt ra. Chỗ ny thiền sư ni giống như một ngi nh c su cửa, bn trong c nhốt một con khỉ. Khi nghe cc con khỉ bn ngoi ku cho cho, con khỉ bn trong cũng đp lại cho cho. Chng ta cũng vậy, con khỉ bn ngoi khng hề biết con khỉ bn trong đang ở đu, ngồi cửa lớn hay np nơi cửa nhỏ, n cứ đi vng vng ku, con khỉ bn trong liền đp lại. Bn trong bn ngoi ứng đối nhau thnh một trường khỉ đột. Chng ta l người tu hnh, cố gắng bảo vệ như thế no để con khỉ bn trong ngủ yn, con khỉ bn ngoi ku ro thế no, con khỉ bn trong cũng khng thm đp lại. Riết rồi con khỉ bn ngoi cũng chn, khng ku nữa. Chừng đ ta c đầy đủ năng lực, giải quyết được mọi việc trong cuộc đời của mnh. Đ l kết quả từ sự tu tập m ra.
xem day du tai day :
http://www.thuongchieu.net/index.php?option=com_content&task=view&id=744
Về cch trị vọng tưởng khng phải l qu kh, qu sức mnh nhưng điều quan trọng l chng ta c chịu trị hay vẫn cứ ủ bệnh? Việc ny ty mỗi người. C người biết bệnh rồi nhưng trị từ từ, khng nn nng vội v, tới đu hay tới đ. Đy l khuyết điểm m người tu chng ta đừng để bị vướng. Muốn được định, muốn c tr tuệ phải trị được bệnh vọng tưởng sớm chừng no tốt chừng ấy, nếu khng ni l phải trị gấp, trị một cch quyết liệt, v v thường đu c cho mnh hẹn.
Vọng tưởng l g? L những dấy tưởng lăng xăng, suy tư toan tnh trong chng ta. Nhưng lạ một điều, mnh biết n np chỗ no? Ở mi ở mắt ở bụng ở tim gan chẳng biết ở đu, nhưng c cơ hội l n hiện ra. Chng ta khng ai muốn n hiện ra, nhưng n vẫn cứ hiện, mnh chẳng lm g được n. V dụ khi ngồi thiền, mnh đu muốn những vọng tưởng lăng xăng dao động, nhưng gần như suốt thời ngồi thiền ta cứ lơ mơ suy nghĩ, toan tnh min man, khng dừng lại được. By giờ lm sao để trị bệnh ny, nếu khng trị, khng bao giờ ta vo được định. Khng vo được định th khng pht sinh tr tuệ Bt-nh. Chnh tr tuệ ny mới gip chng ta ra khỏi mọi sự tri buộc, được giải thot an vui.
Nếu hiện thời ngồi đy, chng ta lm chủ, khng để vọng tưởng dẫn đi đu hết, như vậy l dng được tr tuệ bản hữu của mnh. Ngược lại ta khng dừng những dấy niệm tơ tưởng, lao theo n, bị n cuốn dẫn, đ l mnh đang sử dụng thức hiểu biết dựa trn những kiến thức thu thập từ bn ngoi. Đy khng phải l tr tuệ bản hữu, m l tr tuệ vay mượn, khng chn thật, khng đưa đến giải thot an vui. Với người tu, tr tuệ bản hữu hay cn gọi tr tuệ v sư quan trọng v cần thiết hơn. Tr tuệ thu thập từ sự học hỏi bn ngoi cũng cần nhưng chỉ cần giai đoạn đầu, sau đ phải hướng đến triển khai tr tuệ bản hữu, để vo Niết-bn hon ton an ổn triệt để.
Tr tuệ v sư c năng lực trị được vọng tưởng, cắt đứt những dy mơ rễ m trầm thống trong chng ta. Một khi tr tuệ chn thật hiện tiền th khng c bng dng của phiền no đảo đin. Tr tuệ ny tuy l bản hữu nhưng v chng ta để bụi bặm v minh phủ lấp từ nhiều đời nn n khng tự hiển hiện, m phải tu tập, đặc biệt l từ cng phu thiền định pht sng. C những giờ chng ta muốn an ổn hết sức, nhưng c an ổn được đu! Như giờ nghỉ lm cng tc, giờ tọa thiền, tụng kinh chng ta cần dẹp bỏ triệt để mọi dấy niệm tạp nhạp, để tm yn định, nhưng c hon ton được như đu! Vừa yn một cht th vớ vẩn chuyện ny chuyện khc, hết chuyện trong cha tới chuyện ngoi xm, rồi tỉnh ny tỉnh nọ, nước ny nước kia, năm trn năm dưới, qu khứ tương lai cứ di di ra đ. Bị ko li như vậy Phật ch l người bị vọng tưởng đin đảo.
Chng ta tu hnh m lầm lũi theo những thứ đ hoi, Phật ni bị v minh dẫn, người yếu đuối khng c năng lực nn đnh để cho nghiệp tập ko li. Ci g thnh thi quen, n c năng lực v gọi l nghiệp. Cho nn chữ nghiệp l năng lực, việc đ do lm nhiều thnh thi quen, lu dần tch luỹ nn c năng lực. Năng lực l sức dẫn. Nếu hiện tại chng ta lao theo cng việc no hoi, n sẽ c năng lực dẫn mnh đi, d ta c cầu cứu đến Phật Bồ-tt, cũng kh ko trở lại. Điều ny giới tăng sĩ cần phải suy gẫm kỹ. Phải biết năng lực của nghiệp c sức mạnh v song, một khi đ bị n dẫn đi, kh c cch g ha giải ngoi tr tuệ Bt-nh.
Chư vị Bồ-tt như ngi Qun Thế m, Đại Tr Văn-th, Đại Hạnh Phổ Hiền v.v... nguyện đi vo mọi ng ngch của cuộc đời. Nơi no chng sinh bị khổ đau, cc ngi hiện đến cứu gỡ, bằng cch nhắc lại nguyện xưa, rằng chng sinh cũng c tnh Phật, by giờ nhớ v sống lại với tnh ấy của mnh th hết khổ, chứ khng hề đưa tay vớt mnh ra khỏi chỗ đ. Đạo Phật ch trọng đến tự lực nhiều hơn tha lực. Tuy trn bước đường tu hnh, chng ta rất cần đến tha lực, nhưng tự lực vẫn mang tnh quyết định cho kết quả gic ngộ giải thot của hnh giả. Người pht huy được tự lực th sớm thấy chn trời tịnh thanh, Phật đạo sng ngời ngay trước mắt. Người khng pht huy được tự lực th d c tha phương tm cầu thiện hữu tri thức vẫn chỉ ở ngoi da, trọn khng được lợi lạc cứu knh.
Trở lại vấn đề phiền no, chng ta khng biết n ở đu, nhưng gặp duyn bn ngoi tc động th phiền no bn trong vọt ra. Chỗ ny thiền sư ni giống như một ngi nh c su cửa, bn trong c nhốt một con khỉ. Khi nghe cc con khỉ bn ngoi ku cho cho, con khỉ bn trong cũng đp lại cho cho. Chng ta cũng vậy, con khỉ bn ngoi khng hề biết con khỉ bn trong đang ở đu, ngồi cửa lớn hay np nơi cửa nhỏ, n cứ đi vng vng ku, con khỉ bn trong liền đp lại. Bn trong bn ngoi ứng đối nhau thnh một trường khỉ đột. Chng ta l người tu hnh, cố gắng bảo vệ như thế no để con khỉ bn trong ngủ yn, con khỉ bn ngoi ku ro thế no, con khỉ bn trong cũng khng thm đp lại. Riết rồi con khỉ bn ngoi cũng chn, khng ku nữa. Chừng đ ta c đầy đủ năng lực, giải quyết được mọi việc trong cuộc đời của mnh. Đ l kết quả từ sự tu tập m ra.
xem day du tai day :
http://www.thuongchieu.net/index.php?option=com_content&task=view&id=744