View Full Version : Chuyện xưa ... Nay mới nói ...
khieman
06-06-2014, 06:07 PM
.
Chuyện xưa ... Nay mới nói ...
Hội nghị lý luận phê bình Văn Học
Nhật Tuấn
Kỳ 1 và 2
Hội nghị Việt Bắc - 1951
http://3.bp.blogspot.com/-4edhHom9w8M/U4supeJzyfI/AAAAAAAAFgs/1colU7x6_zw/s1600/Ky+1.jpg (http://3.bp.blogspot.com/-4edhHom9w8M/U4supeJzyfI/AAAAAAAAFgs/1colU7x6_zw/s1600/Ky+1.jpg)
Nhà văn Kim Lân (ngồi, thứ 2 từ trái qua), Nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (đứng, thứ 2 từ phải qua)
cùng các văn nghệ sĩ tại một hội nghị Hội Văn nghệ VN, Việt Bắc 1951
Hơn nửa thế kỷ trước, vào tiết mùa thu, các nhà văn VN đi theo cách mạng đã họp ở Việt Bắc để “tranh luận văn nghệ” nhằm thúc đẩy nền văn học cách mạng “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc” trên con đường cách mạng.
Lẽ tất nhiên, ông trùm văn nghệ Tố Hữu phải “giáo đầu” trước:
“Không có tư tưởng mới thì không thể nào nhận định đúng cuộc đời và sáng tác do đó sẽ lạc hướng. Cảm xúc của ta phải là cảm xúc của quần chúng và cảm xúc của quần chúng phải được thể hiện trong văn nghệ…”.
Huấn thị của ông trùm lập tức đuợc các tên tuổi lớn trong làng văn VN nhao nhao hưởng ứng. Nhà văn Nguyễn Tuân “được” phát biểu trước :
” Cuộc họp tranh luận này nhằm thống nhất về đường lối tư tưởng , thống nhất về quan niệm đối với kỹ thuật sáng tác…”.
Oi chao, cứ như là sau khi đã “thống nhất” mọi thứ, tất cả các nhà văn đều trở thành thiên tài hết. Rồi ông nhà văn nổi tiếng “ngông” này thành khẩn :
” Tôi không những là tiểu tư sản mà còn là phong kiến nữa. Cuốn Vang Bóng Một Thời đủ chứng tỏ lời tôi nhận định. Trước kia tôi không tìm được giá trị cuộc sống, tôi phủ nhận cuộc đời. Tôi có một thái độ phản động. Cuộc kháng chiến tiếp theo cách mạng tháng Tám làm tôi nhận định rõ hơn.Tôi đã cách mạng tư tưởng …”.
Thành khẩn đến thế rồi mà sau này viết về giò chả, Nguyễn Tuân vẫn phải than :
” Giò tớ giã kỹ đến thế rồi mà nó vẫn còn “giã” lại…”.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi thì hùng hồn :
” Vai trò của giai cấp công nhân là đi đầu trong việc tạo ra một cách sống mới, nó không còn là cách sống của con người cũ của ta nữa…”.
Nữ thi sĩ Anh Thơ cũng véo von :
“ Trước tôi cũng đánh phấn, bôi nước hoa. Sau tôi cũng mặc quần áo nâu và được chị em yêu quý. Thơ văn phải dễ hiểu quần chúng mới thích…”.
Nhà thơ Thế Lữ cũng cao giọng :
“ Phải khác trước, muốn tiến bộ phải cải tạo mình…”.
Nhà văn Đoàn Phú Tư thì hồ hởi :
” Tôi thấy thích chủ nghĩa Mác vì mình chẳng…mất gì cả và tìm trong đó những hình ảnh tốt đẹp của ngày mai.. Tôi vuốt ve và mơ hình ảnh đó….” . Hoá ra gọi là “Hội nghị tranh luận” mà chẳng tranh luận cái gì hết, các nhà văn lớn chỉ tranh nhau coi ai nói cho khéo, cho lọt lỗ tai đồng chí Tố Hữu và nhất loạt hứa hẹn sẽ thực hiện cái bí kíp “ tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân tiểu tư sản, công nông hoá sáng tác” để quyết tâm xây dựng một nền văn học lớn leo lên đứng đầu thiên hạ.
Than ôi, hầu hết những người cầm bút dự “Hội nghị tranh luận văn nghệ” ngày đó, kể cả đồng chí Tố Hữu, người dẫn đường vĩ đại, nay đã ra người thiên cổ mà các nhà văn VN chưa ai giật được giải Nobel, chưa ai vượt được chính mình so với thời “đế quốc phong kiến” mà chỉ thấy nhà văn Nguyễn Minh Châu đọc “Ai điếu cho một nền văn học….”
Hơn nửa thế kỷ sau…
Hội nghị Tam Đảo - 2003…
Chẳng hiểu có phải vì văn học VN đang ốm nặng, cả chục năm nay Đảng và Nhà nước chi cho vài trăm tỉ đồng, vẫn chưa thấy xuất hiện tác phẩm nào “ ngang tầm thời đại”, sách báo ra cả tấn mà chẳng thấy cuốn nào “ đáng mặt văn chương”, ngay đến nhà nghiên cứu Nguyễn Thiện Đạo , ngàn trùng xa cách mãi tận bên Paris cũng phải than thở :
” đọc truyện Việt Nam thấy cứ như là có …mỗi một người viết” !
Và cũng chẳng hiểu có phải vì tiền Đảng chi cho Hội nhà văn VN trong năm 2003 còn dư nhiều quá, nếu không chi hết thì Bộ tài chính nó “cắt” nên cuối năm bận rộn thế mà tự dưng Hội lại đứng ra tổ chức cuộc họp đông tới hơn 200 nhà phê bình lý luận cũng vào tiết thu, chỉ khác trước ở chỗ không họp “dưới chân núi” mà lại kéo nhau lên đỉnh Tam Đảo ! Có lẽ từ ngày lập nước, chưa có cuộc “bắt mạch kê đơn” cho “nền văn học cách mạng” nào lại rầm rộ, đồ sộ đến thế.
Để ngăn ngừa các vị “lang băm” đến phá thối, đồng chí Chủ tịch Hữu Thỉnh đã gạt ra khỏi danh sách mời tất cả những thày lang nào “bảng hiệu chưa đăng ký”, hoặc coi giò coi cẳng thấy bốc mùi “tà khí”. Rào chắn kỹ càng như vậy mà vẫn chẳng mời được đồng chí Trưởng Ban tư tưởng Nguyễn Khoa Điềm, nhân vật sô 1 trong nền văn hoá văn nghệ cách mạng VN đến dự, chẳng hiểu có phải do đồng chí ấy bận công việc lãnh đạo hay là do cẩn thận tránh xa những nơi có thể xuất hiện lắm anh Chí Phèo chuyên đánh võ mồm dễ xúc phạm uy tín lãnh đạo.
Lạ một điều, trước cuộc Hội nghị, các thày đã thi nhau “bốc thuốc kê đơn” trên…báo Văn Nghệ. Chẳng hạn như “thày” Đỗ Văn Khang bắt mạch rằng :
“văn học VN sau thời kỳ lấy phương pháp hiện thực Xã hội chủ nghĩa làm phương pháp sáng tác chính thì đến nay vẫn chưa xác định được phương pháp sáng tác chủ yếu cho văn học đương đại…”
...và thày kê đơn rằng :
”phương pháp sáng tác văn học sáng giá nhất hiện nay là phương pháp …phản tỉnh”.
Ui cha, phản tỉnh cái gì ? Thày xui các nhà văn “phản tỉnh” các thứ do Đảng đã dày công giáo dục dậy dỗ các nhà văn VN chăng ? Thưa không, thày chỉ phán mơ hồ rằng :
” Văn chương phản tỉnh là văn chương của chiều sâu nhân văn- văn chương khám phá nghịch lý để soi sáng thuận lý- văn chương minh triết…”.
Mô Phật, thày kê đơn vậy thì đến chính thày cũng chẳng biết đằng mù nào mà bốc thuốc. Rồi các thày khác cũng đua nhau nhảy lên báo Văn Nghệ “bắt mạch kê đơn” cho nền văn chương VN, ấy thế mà khi tới phó hội Diên Hồng trên đỉnh núi Tam Đảo, các thày lại quay sang “bốc thuốc” cho nhau chứ chẳng ngó ngàng gì tới con bệnh “thập tử nhất sinh” đang nằm đó.
Thày Vũ Quần Phương đã chuẩn bị sẵn một bài “bắt mạch, kê đơn” nhưng rồi thấy các thày kia cứ túm tụm nhau vào nhỏ to, chẳng ai chú ý đến bài soạn sẵn của thày nên thày đành xếp nó vào túi và quay sang phàn nàn về những chuyện bê bối ở Ban chấp hành Hội Nhà văn trong những chuyện “chẳng văn chương tí nào” như chia chác nhau giải thưởng, móc ngoặc kết nạp hội viên, hoặc thái độ trịch thượng không nên có của một vài nhà phê bình vốn là giáo sư đại học.
Thày Trần Mạnh Hảo vốn đang nổi tiếng về sự “bặm trợn” mà vẫn dồi dào tính Đảng, ca cẩm về "một niềm vui, một nỗi buồn và một nửa niềm hy vọng" của cái nghề lang băm của thày.
Thày Nguyễn Duy Bắc phê các đồng nghiệp rằng :
”thay vì tập trung phân tích đánh giá văn học từ đổi mới đến nay, hoạt động phê bình trên báo chí văn học hầu như lại tập trung phê bình sự phê bình …cho sách giáo khoa ngữ văn" .
Thày Hoàng Minh Châu trách khéo hai thày Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ lăm le bỏ nghề bốc thuốc để chuyển sang nghề “làm thơ” với “làm nhạc” bỏ trống trận địa kiểm soát văn học.
Thày Phạm Xuân Nguyên bộc bạch 3 cái sợ của người hành nghề :sợ những lý luận quá cũ; sợ những thứ kê đơn bắt mạch chẳng có “ lý luận gì hết trơn”; sợ thứ lang y chỉ thăm bệnh bằng “chính trị” chứ không tuân thủ y thuật.
Bà lang trẻ Nguyễn thị Minh Thái thì chửi cả làng : "Các anh đang hành nghề một cách thiếu…triết học…” .
Ui da da…triết học Mác Lê bấy năm nay đã đầy đầu các thày rồi, giờ vẫn còn đòi …triết học nữa thì thử hỏi nhét nó vào đâu.
Lại có thày la lối rằng đã xuất hiện tình trạng đá lộn sân “ làm thơ thì chỉ biết làm thơ thôi chớ, nhảy sang phê bình văn học làm chi ?”.
Chắc thày muốn móc máy hai nhà thơ Trần Mạnh hảo và Trần Đăng Khoa cớ sao lại mò tới tranh ăn, tranh nói ở cái Hội nghị chỉ giành cho các thày lang phê bình này.
“ Nghịch lý “ là vậy, 200 thày tụ họp bắt mạch kê đơn cho văn học VN mà cấm thấy ngó ngàng tới con bệnh, chỉ thấy cấu chí, xỏ xiên, móc máy lẫn nhau để cho “Hội nghị đã thành công tốt đẹp” như lời tổng kết của Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh.
Nói cho ngay, cũng có một thày dòm ngó tới “con bệnh” , thày Trần Đình Sử , khi thày phân tích “ba giai đoạn của văn học cách mạng VN”. Tuy nhiên, thày “bắt mạch” theo kiểu Đảng ta phân tích “ ba dòng thác cánh mạng” nên cũng chẳng mấy ép-phê, nhất là thày chưa dám chỉ ra con bệnh đã có một thời “phục hồi sức khoẻ”, ấy là thời kỳ “văn học VN được đồng chí nguyên Tổng bí thư Nguyễn văn Linh cởi trói”. Trong có 3 năm ngắn ngủi ấy, văn học VN đã cho ra đời hàng loạt các tác phẩm có giá trị tới tận ngày hôm nay. Chỉ tiếc rằng cú “xả xú páp” quá ngắn ngủi, khi cái van đóng lại, khi giây trói lại quàng lên cổ các nhà nhà văn thì nền văn học VN ốm nặng trờ lại là điều đương nhiên rồi.
Có một điều vô cùng đơn giản, văn học VN bao năm nay khác nào con thiên nga bị buộc cánh, muốn cho nó bay, nó múa thì thả cánh nó ra . Bài thuốc dễ thế mà hơn 200 thày lang không thày nào chịu “bốc” cho ra. Ay cũng là vì cái bao tử của các thày nó đã chặn ngang họng của các thày . Sự đời chỉ có thế, vậy mà các thày cứ làm rối mù tăng tít khiến cho sương sớm trên đỉnh non Tản lại càng thêm dày đặc vậy…
Tính từ “ tranh luận văn nghệ Việt Bắc 1951” đến nay, hơn nửa thế kỷ mới có một cuộc “toàn quốc” lần thứ 2 như thế này?
Vì sao phải họp ? Họp những ai và để làm gì ? Cứ theo như lời Tiến sĩ “hữu nghị” Nguyễn thị Minh Thái phát biểu ở Hội nghị thì :
“Cấp báo, cấp báo, trong 16.000 bài thi văn vào các trường đại học Hà Nội chỉ có …1 bài được điểm 9, còn hàng ngàn bài khác càng đọc càng thấy …rùng rợn”.
Quả rùng rợn thật. Một bài thi phân tích câu “ sông dài, trời rộng, bến cô liêu”, có thí sinh tán rằng :
” Ở cái bến sông kia, có một cô gái tên Liêu theo trai, chửa hoang, bị cho rớt “cái bịch”, phải tự tử. Từ đó người ta đặt tên bến sông đó là…bến cô Liêu…”.
Hại thay cái kiểu “tư duy phân tích bến cô Liêu” như vậy lại phổ biến, rất phổ biến mới chết chớ.
Vậy thì Hội nghị LLBP VH toàn quốc nhằm nâng cao kiến thức văn học cho học sinh ?
Không hẳn thế, bởi nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đăng đàn nói rằng:
” Chúng ta đang ở trên núi cao, càng cao không khí càng loãng, càng có dịp cho chúng ta nhìn lại chính mình…”.
Vậy là Hội nghị sẽ kiểm điểm các quý vị có dính dáng tới “lý luận phê bình ?
Cũng không phải nốt, thôi thì đành nghe theo Ban tổ chức :
” Hội nghị này nhằm tổng kết đánh giá những thành tích, ưu khuyết điểm trong chặng đường vừa qua của ngành LLPB VH, từ đó thúc đẩy những bước mới đi lên đầy hứa hẹn…”
Câu văn này có thể dùng làm “câu mẫu” cho tất cả các Ban tổ chức các Hội nghị cấp toàn quốc từ Hội nghị xoá nạn mù chữ, Hội nghị chống muỗi sốt rét…cho tới Hội nghị nuôi trồng thuỷ sản , Hội nghị xây dựng gia đình văn hoá mới ở tổ dân phố….
Vậy thì đành phải hiểu là từ trên núi cao, quý vị đại biểu sẽ dễ dàng nhìn xuống bức dư đồ rách của nền văn học Việt Nam, đặc biệt là vùng chuyên canh “ lý luận và phê bình”.
Thành phần hội nghị đương nhiên gồm các quan chức Hội nhà văn, Ban văn hoá tư tưởng, các lãnh tụ văn nghề đã về hưu, các nhà phê bình lão thành và các nhà phê bình thế hệ chống Pháp, chống Mỹ và chống tàu, con số đại biểu phải lên trên 200, kín hết các khách sạn ở Tam Đảo, ấy thế mà “nhà phê bình đá lộn sân”, nguyên thi sĩ Trần Mạnh Hảo lại la hoảng rằng :
"Nền văn học đương đại VN sắp 'mồ côi' phê bình. Bởi trên văn đàn 10 năm qua, số người dám cả gan mon men làm cái việc 'mua dây buộc mình' nhiều lắm cũng không qua khỏi cơ số đếm của 2 ngón tay" “.
Nói như ông Trần Mạnh Hảo vậy tức là “nhà phê bình là bố các nhà văn” và các nhà văn sắp mồ côi…bố cả rồi, nguy thay, nguy thay.
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo , dường như chưa hết tơ lơ mơ vì bia Tiger, lại phân vân theo kiểu “ta hay sư, sư hay ta” khi ông cố nghĩ coi nhà phê bình văn học là cái thứ gì ? Ong phát biểu :
"Theo từ điển Hán Việt, chữ "phê" trong "phê bình" mang khá nhiều nghĩa: phê là "phán quyết, phân xử phải trái"; phê là "khởi lên một công việc"; là "chẻ ra từng mảnh", nhưng phê cũng có nghĩa là "lấy tay đánh vào mặt người khác". Thế nhưng tôi có cảm giác phê bình văn học VN gần đây có vẻ thiên về ý nghĩa "lấy tay đánh vào mặt người khác".
Thì ra ông nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo tưởng là say, hoá tỉnh nhất. Chỉ có điều không phải “phê bình văn học VN gần đây” mà ngay từ thủa lọt lòng, mới ngoe ngoe trong trong tã lót, phê bình văn học VN đã thiên về “ lấy tay đánh vào mặt người khác rồi”.
Thôi thì bỏ qua vụ nhà thơ Nguyễn Đình Thi bị “đánh” về tội “làm thơ khó hiểu với công nông” từ năm Hội nhà văn VN chưa lọt lòng, sau năm 1954 Đảng chính phủ vừa về tiếp quản Hà Nội, đã nổ ra vụ Nhân văn Giai phẩm, điển hình về việc chẳng những “lấy tay đánh vào mặt” mà còn cầm gạch củ đậu mà choang vào nồi cơm của người ta, đẩy người ta tới chỗ cải tạo tù đầy.
Đó là chiến thắng mở đầu, giòn giã của “phê bình văn học VN”, từ đó hàng loạt các vụ “ trùm chăn đánh người giữa chợ “ cứ liên tục nổ ra cho tới tận bây giờ cũng chưa hết. Hàng loạt người bị “đánh vào mặt”, tiêu biểu như Hà Minh Tuân với tiểu thuyết “Vào đời” dám mô tả cái đòn gánh trên vai cô gái Hà Nội tập lao động “quẫy lên như con rắn”, Nguyễn Công Hoan với “Đống rác cũ”, Nguyễn Đình Thi với “Con nai đen”, Kim Lân với “Con chó xấu xí”….Các bậc cao niên thì thế, còn “cây bút trẻ” hồi đó “bị đánh vào mặt “ lại càng đông hơn nữa . Vũ Thư Hiên với “Đêm không ngủ”, Hoàng Tiến với “Sương tan”, Phạm Tiến Duật với “ Vòng trắng”, Lê Bầu với “ Hòn đá lang thang”, Nguyễn Đỗ Phú với “ Đêm đợi tàu”, Hoàng Cát với “ Cây táo ông Lành” vân vân và vân vân…
Vì sao các nhà phê bình văn học VN lại thích đánh vào mặt người khác như thế ?
Như nhà phê bình văn học số 1 Việt Nam, Hoài Thanh :
“Nửa đời vị nghệ thuật
Nửa đời còn lại vị …người cấp trên…”
Đúng như thế, “đánh vào mặt người ta” chẳng qua các nhà phê bình văn học VN là “vì người cấp trên “ cả thôi.
Nhớ ngày xưa, nghe xì xầm nhà văn Vũ Trọng Phụng có móc máy một ông ký ga nào đó, hại thay, bố đồng chí Hoàng văn Hoan, Uỷ viên Bộ chính trị thời đó cũng là …ký ga.
Thế là trong cuộc họp phê phán Vũ Trọng Phụng, các nhà phê bình xúm lại “đánh vào mặt ông”, vu cho ông là trốt kít, là đệ tử của Freud, một cuộc họp đầy đủ các “gương mặt lớn” trong làng văn VN , vậy mà, như lời kể của nhà phê bình Như Phong kể lại, “Không ai, không một ai dám lên tiếng bênh vực Vũ Trọng Phụng lấy nửa câu…”.
Tại sao ? Tại sao tất cả những cây đa cây đề trong nền văn học VN hồi đó như Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Xuân Diệu, Chế Lan Viên , Kim Lân….lại “vì người cấp trên” như vậy ?
Bởi lẽ “người cấp trên” là người nắm giữ, ban phát đủ các thứ bổng lộc lớn bé trên đời. Chẳng thế mà sau vụ Nhân văn Giai Phẩm, vụ Hà Minh Tuân, khối anh vô tài bất tướng đã nhảy phắt lên các thứ ghế Viện trưởng, Trưởng khoa, giáo sư này nọ như Hoàng Xuân Nhị,Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức vân vân.
Tiến thân bằng con đường “ đánh vào mặt người khác” ngày nay được các thế hệ đi sau noi theo, sốt sắng, hăng say không thua gì các bậc cha anh.
“Nhà phê bình văn học” Nguyễn văn Lưu từ một anh thợ morrasse nhảy phắt lên ghế Gíam đốc NXB Văn Học, bằng cách “đánh” quyết liệt “Thiên đường mù” của Dương Thu Hương , với “tác phẩm” được giải thưởng Hội nhà văn với cái tựa thật sắt máu :“ Luận chiến văn chương ”, quan chức Hội nhà văn VN Lê Quang Trang cũng mở đầu “sự nghiệp” bằng viết bài trên báo Nhân Dân “đánh vào mặt” tiểu thuyết “ Lửa lạnh” của Nhật Tuấn, nhà báo Huỳnh Dũng Nhân chân ướt chân ráo vào nghề cũng “đánh vào mặt” cuốn “Niềm vui trần thế”, tiểu thuyết của Nhật Tuấn….Rồi thì các nhà báo văn hoá văn nghệ choai choai nghe ngóng có “vụ việc” gì là xúm vào đánh hôi để “lấy lòng cấp trên” mà ăn bổng lộc.
Than ôi, cái bức tranh của nền phê bình văn học Việt Nam nó sậm màu “đầu rơi , máu chảy” như thế mà đã leo lên tận núi cao Tam Đảo, hơn 200 quý vị đại biểu Hội nghị LLPB VH toàn quốc cũng chẳng dám mở to mắt ra mà nhìn mà chỉ dám nói năng luanh quanh như “kiến bò miệng chén”.
Nào là “...trình độ và năng lực cảm thụ tác phẩm của các nhà phê bình còn rất yếu, nhất là đối với thơ. Mặt khác, phê bình cũng bị coi nhẹ hơn sáng tác. Bằng chứng là các giải thưởng hàng năm của Hội Nhà văn, của Uỷ ban văn học nghệ thuật... thường ít chú ý tới các tác phẩm phê bình…” (Trịnh Thanh Sơn).
Nào là “ phê bình văn học phải là người bạn lớn của sáng tác” ( Nguyễn Trọng Tạo).
Nào là “phê bình hay lý luận gì cũng phải có ích…” ( Bùi Bình Thi) vân vân và vân vân. Tóm lại, toàn những lời lẽ “tát nước theo mưa’ để nhận phong bì và kỳ họp sau còn được…mời nữa.
Về phía Hội nhà văn VN, người đứng ra tổ chức Hội nghị, tất nhiên đã tổng kết Hội nghị theo cái cách “biết rồi khổ lắm” : Hội nghị đã thành công tốt đẹp”.
Chẳng biết trong hơn 200 nhà “phê bình lý luận”, lúc ra về, có ai nghĩ rằng rồi sẽ tới một lúc nào đó, họ – những nhà phê bình văn học VN sẽ phải sám hối trước “những linh hồn chết” mà họ đã “ăn theo”, đã “đánh thẳng vào mặt”.
N.T.
khieman
06-09-2014, 06:04 PM
(tiếp theo)
Kỳ 3
Hội nghị Hà nội – 3-2006
“Địch” đã đánh vào “tung thâm” rồi, sao còn ngồi yên ?
Sau hơn một tháng tổ chức lấy ý kiến rộng rãi đóng góp cho bản Dự thảo báo cáo chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận được khá nhiều ý kiến thẳng thắn thậm chí huỵch toẹt về sự cáo chung của chế độ ở Việt Nam. Đặc biệt giới cầm bút trong nước đã bớt hèn , đã dám “mở miệng”, nhất nhà thơ Trần Mạnh Hảo lớn lối, om sòm chửi bới Mác Lênin và cộng sản Việt Nam .
Theo thông lệ, hẳn sẽ có những bài viết phản công đánh phủ đầu, đánh cho chết những kẻ “dám có ý kiến khác “ như Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Dương Thu Hương… đăng trên báo Công an, báo Quân đội nhân dân như ngày xưa.
Vậy nhưng đã vài tháng trôi qua kể từ khi Trần Mạnh Hảo- Đỗ Minh Tuấn nhân tranh luận mà gọi Đảng bằng con c…, và nhất là sau cả chục bài “mắng mỏ” Mác Lênin và cộng sản Việt Nam của Trần Mạnh Hảo mà trên báo vẫn thấy im re, vẫn chưa thấy các “nhà văn của Đảng” nhảy ra “đao búa” diệt cho tan “chúng nó” để bày tỏ thái độ “bảo vệ Đảng” đến giọt máu cuối cùng .
Tạo sao thế ? Đã có chuyển biến mới rồi chăng ?
Các “đầu gấu của Đảng” sốt ruột sốt gan lăm lăm “tay gươm tay bút ” chỉ chờ có lệnh là xông ra “quyết chiến, quyết thắng’ bọn “thế lực thù địch”, bọn “phản bội “, bọn “diễn biến hoà bình”, bọn “lợi dụng các diễn đàn trên internet” chống phá cách mạng…
Dịp may cho các đồng chí tự nguyện làm “con đê chắn sóng cho Đảng ” bày tỏ lòng trung thành đã tới.
Trong 2 ngày 2-3 tháng 3 năm 2006, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận , phê bình văn học , nghệ thuật toàn quốc” có tới trên 250 đại biểu tham dự, đứng đầu là ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng văn hoá, Chủ tịch “Hội đồng lý luận, phê bình văn học nghệ thuật trung ương “ cùng các quan chức cao cấp trong ngành văn hoá nghệ thuật.
Hội nghị lý luận, phê bình văn học và nghệ thuật khai mạc rất long trọng trong lúc các diễn đàn trên internet, các cơ quan thông tấn, báo chí hải ngoại vẫn om sòm chửi bới , vạch trần chân tướng chủ nghĩa Mác-Lênin , đường lối xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là ”giả trá”, là vật cản, là nguồn gốc mọi tội ác cần phải loại bỏ khỏi đời sống dân tộc Việt Nam. Một khi “kinh Thánh” đã không còn thiêng, “giáo đường’ sẽ ra sao ? Diện mạo của Đảng sau đại hội X phải chẳng sẽ được lộ hé đôi chút qua Hội nghị này ?
Bởi thế Hội nghị lý luận phê bình văn học , nghệ thuật toàn quốc tuy vẫn diễn ra hàng năm, nhưng thời điểm này , nó được quan tâm đặc biệt của sĩ phu cả nước . Các cây bút hàng đầu trung kiên với đảng tất nhiên phải nằm đầu sổ trong danh sách mời dự và đọc tham luận. Chẳng thế mà ông Giáo sư Tiến sĩ Mai Quốc Liên gào lên trên diễn đàn:
” Bọn phản động đã đánh chúng ta tới tung thâm rồi rồi sao các đồng chí vẫn án binh bất động? “ .
Mai Quốc Liên đòi đảng ngay tức khắc phải lập lại trật tự , lấy lại thế chủ động tiến công trên mặt trận tư tưởng. Ông ta la lối cả “cấp trên” :
“ Những mặt tiêu cực như : lẩn tránh, rụt rè , e ngại khi bầy tỏ thái độ trước những luận điểm sai đã rõ ràng ; chuyển lập trường sang mầu sắc “cấp tiến cực đoan” , đối lập. “tự do”, công khai đứng về phiá đối lập. Còn những cơ quan, những người có trách nhiệm…thì không thấy nói gì ?”
“ Cơ quan” và “người có trách nhiệm” còn ai khác ngoài đồng chí Nguyễn Khoa Điềm kính mến và Ban tư tưởng văn hoá của đồng chí. Cái kiểu “trứng khôn hơn rận”, cấp dưới lại chỉ đạo cấp trên thế này xưa nay chưa từng thấy.
Mai Quốc Liên lấy thí dụ vụ “ Bóng đè” để chỉ điểm sự thờ ơ không chịu ra tay của các cơ quan “gác cửa” :
” Có người vẫn viết bài ca ngợi Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm nhưng đồng thời cũng viết bài ca ngợi “ Bóng đè”, một tập truyện ngắn “phản động” như vậy mà “ Nhà xuất bản Đà Nẵng in, Nhà xuất bản Hội nhà văn in tiếp, quảng cáo rất dữ dội…Hội thảo tại Hà Nội trong mưa rất đông và báo chí ủng hộ trong đó có cả báo chí cận vệ của Đảng , nhiều báo đăng ý kiến ca ngợi, tường thuật , trong đó có một số ý kiến của những nhân vật quen mặt …Không có một cây bút phê bình hàng đầu nào lên tiếng cả …” .
Rồi Mai Quốc Liên chất vấn :
“ Tôi không rõ lắm sự chỉ đạo của cấp trên. Có người nói với tôi : sắp tới đại hội rồi, bới thối ra làm gì ? Với lại lỡ rồi . Không biết bên trong thì các tờ báo đăng sai như thế , nhà xuất bản in sai như thế, có được cấp trên chủ quản hay Ban tư tưởng –văn hoá trung ương có thái độ gì không, hay lại “chín bỏ làm mười”.
Đòi thu hồi “Bóng đè” đốt sách, kỷ luật…chưa đủ, Mai Quốc Liên còn la lối :
“ Lực lượng phê bình, lý luận văn học có còn hoạt động nữa không hay là né trốn đâu. Và trên có chỉ đạo gì không ? “
Sau cùng Mai Quốc Liên lên giọng “huấn thị” nghe còn “sắt máu” hơn cả Ban tư tưởng văn hoá:
“ Giữ vững trận địa tư tưởng theo tinh thần nghị quyết bổ sung về công tác tư tưởng của Hội nghị Trung ương 12 là trong đó có công tác lý luận, phê bình văn nghệ là một việc lâu dài, khó khăn, cấp bách…”
Một “ông kễnh bảo vệ Đảng” ở Sàigòn là Phó GS TS Trần Trọng Đăng Đàn dịp này cũng lớn lối đề nghị Đảng phải giữ vững “định hướng xã hội chủ nghĩa trong cả…văn hoá”:
“Thật tỉnh táo trước những xáo trộn về lý luận vừa xảy ra mấy thập kỷ qua trên thế giới ; bám sát thực tiễn Việt nam để củng cố và xây dựng một hệ thống lý thuyết về văn hoá, văn nghệ Việt Nam giai đoạn đất nước phải thực hiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…”
Trong khi rất nhiều trí thức cả trong nước lẫn ngoài nước đòi xét lại cái vị trí “ duy ngã độc tôn” của Đảng cộng sản Việt Nam vốn gây ra bao tổn thất, đau thương cho dân tộc , thì ông Giáo sư công bộc của Đảng này lại yêu cầu :
“ Củng cố và bồi bổ thêm để có được một hệ thống lý luận về sự tất yếu Việt Nam ngày nay chỉ có một Đảng lãnh đạo là Đảng cộng sản Việt nam. Duy nhất đảng này có nhiệm vụ lãnh đạo đất nước về mọi mặt trên mọi lĩnh vực : Chính trị – tư tưởng ; kinh tế - xã hội ; văn hoá – văn nghệ”
Tiếng kèn lạc lõng của ông Trần Trọng Đăng Đàn còn rú lên như tiếng còi cảnh sát khi có phương tiện giao thông đi ngược chiều :
“ Định hình một hệ thống lý thuyết để khẳng định rằng sự phát triển của Việt Nam giai đoạn lịch sử này tất yếu phải theo phương hướng tư tưởng chủ đạo là triết học Mác- Lênin”
Chẳng hiểu ông Giáo sư có bao giờ lên mạng internet để đọc bao nhiêu là bài viết vạch trần những sai lầm cốt tuỷ của triết học Mác- Lênin, bao nhiêu bi kịch lịch sử, bao nhiêu mạng người chết oan vì cái triết học “dao búa” này mà còn bắt đất nước Việt Nam đau thương dưới chế độ cộng sản toàn trị này phải tiếp tục chịu sự chỉ đạo của triết học Mác – Lênin. Ông Giáo sư nói thật lòng hay chỉ giả vờ để được Đảng vứt cho khúc xương thôi đó. Rồi như sợ Đảng chưa hài lòng , ông Giáo sư còn “đi xa hơn nữa”, cố gắng ghép cả “bác Hồ” vào hai ông thánh Mác – Lênin thành bộ ba hù doạ trí thức Việt Nam:
“ Phát triển rộng, khai thác sâu thành tựu nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh để hình thành hệ thống lý luậnvề chủ nghĩa Hồ Chí Minh với khái niệm chủ nghĩa Mác – Lênin thành khái niệm ghép, bộ ba chủ nghĩa Mác—Lênin-Hồ Chí Minh…”
Ghê chưa, xưa nay “Đảng ta” vẫn chỉ dám rụt rè đưa ra khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” thôi, ông Giáo sư “bảo hoàng hơn cả nhà vua” này lại “cầm đèn chạy trước ô tô” tôn vinh tư tưởng Hồ Chí Minh thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” kia đấy.
Nhưng cái “chủ nghĩa Hồ Chí Minh “ ấy ra sao ? Chắc chỉ có mình Giáo sư Trần trọng Đăng Đàn nghiên cứu và nắm vững. Nhưng việc đó lớn lắm, nó cần phải được coi như một dự án. “Dự án nghiên cứu và phát triển chủ nghĩa Hồ Chí Minh ở trong nước và xuất cảng ra thế giới”.
Vì là dự án nên bao giờ cũng phải có tiền , nhất là phải có nhiều tiền , chục tỉ, trăm tỉ trở lên và chủ dự án chắc chắn phải là ông Trần Trọng Đăng Đàn rồi…
(còn tiếp)
khieman
06-10-2014, 12:14 AM
(tiếp theo)
Kỳ 4
Mấy năm qua chứng kiến sự sụp đổ của các thứ lý thuyết Mác Lênin trong văn hoá văn nghệ, của “ chủ nghĩa Mác và đề cương văn hoá Việt Nam” do ông Trường Chinh vạch ra làm “ kim chỉ nam” cho văn nghệ sĩ, sự tan rã của phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa với yêu cầu nghiêm ngặt về tính Đảng, tính giai cấp , tính dân tộc…ông Giáo sư đã la hoảng và gọi đó là một “sự khủng hoảng tổng thể”:” Mà khủng hoảng ở đây rõ ràng không chỉ trong lý luận về văn hoá , văn nghệ. Nó sẽ là khủng hoảng tổng thể”.
Ông Giáo sư lo rằng một khi xảy ra khủng hoảng tổng thể về lý luận thì tất yếu “sẽ làm xáo trộn thực tiễn - thực tiễn không chỉ của đời sống văn hoá – văn nghệ mà là thực tiễn xã hội…” Và ông lo lắng cảnh báo :” Xáo trộn thực tiễn xã hội sẽ đưa đến hậu quả gì ?”. Tất nhiên sẽ là một cuộc cách mạng “màu vàng”, “mầu da cam”…mà ông Giáo sư đã tiên đoán sẽ “ thấm đẫm không chỉ nước mắt, mồ hôi mà cả máu…”.
Tóm lại ông Giáo sư lo rằng “ kinh sách” một khi đã hết thiêng thì giáo đường bị đập phá và cha cố cũng sẽ bị đuổi cổ. Bởi thế ông mới kêu gọi :” Chặn đứng khủng hoảng lý luận . Đó là nhiệm vụ sống còn của của tất cả chúng ta hiện nay…”
Một nhà quán quân “bảo vệ Đảng” ở Sàigòn khác là GS Trần Thanh Đạm, người cách đây hơn một năm đã nổ phát súng đầu tiên vào uy tín chính trị của ông trùm văn nghệ Nguyễn Khoa Điềm cũng có tham luận đả phá nặng nề lý thuyết “ văn học tự vấn” của nhà văn Nguyên Ngọc :
“Tưởng là sản phẩm bột phát nhất thời của một sự đổi mới“ cực đoan, nông nổi trong văn học; cái gọi là “văn học tự vấn“ đã bị vứt vào sọt rác của sự lãng quên, giống như một thứ mốt“ được lăng xê“ vào các thời điểm khủng hoảng tinh thần của xã hội nay đã không còn hợp mốt“ nữa; song thời gian gần đây, tác giả của nó cùng với những người phụ hoạ theo hình như lại tìm cách làm sống lại cái thây ma lý luận đó, cốt làm cho bốc mùi“ cái không khí văn học vốn đã trở nên trong lành hơn từ khi bước vào đầu thế kỷ XXI…”
Ong Trần Thanh Đạm cho rằng ông Nguyên Ngọc đã làm cái việc
“các thứ văn học chuyên miêu tả cái ác, cái xấu, thậm chí cái tục tĩu, thô bỉ trong đời sống và cả trong lịch sử của chúng ta đều được xếp vào dòng văn học tự vấn“
và cáo buộc ông Nguyên Ngọc đã đưa ra quan điểm
“ đại khái xã hội ta, dân tộc ta (và trong thâm ý không dám nói ra của nhà bình luận này - cách mạng ta) vốn mắc nhiều tội lỗi, sai lầm, bê bối… cần bằng văn học, qua văn học mà “tự vấn“ lương tâm về những sai lầm của mình.“
Thực ra ông Nguyên Ngọc cũng chưa nói gì nhiều về luận thuyết “ văn học tự vấn” của ông, mà mới chỉ lớt phớt qua vài bài viết, nhất là về truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và “Bóng dè” của Đỗ Hoàng Diệu, vậy mà ông Giáo sư Nguyễn Thanh Đạm đã vội đao to búa lớn kết tội kết tội một cách tuỳ tiện :
“ nó chỉ thò lò hai mặt“ lấp lửng nửa nạc, nửa mỡ, nửa trắng, nửa đen cùng một dạng với các thủ đoạn chiến tranh tâm lý mà bọn thù địch của chúng ta ở nước ngoài trước nay vốn vẫn sử dụng, bây giờ lại chuyển giao kỹ thuật“ cho một số kẻ cơ hội và manh tâm ở trong nước…”
Từ chuyện văn chương, ông Trần Thanh Đạm trắng trợn đẩy sang chuyện chính trị và tới tấp úp mũ cối lên đầu nhà văn Nguyên Ngọc :
“Cứ nhìn xem những ai là kẻ phụ hoạ nó, khuyến khích, cổ vũ nó, thì có thể thấy ngay nó đến từ đâu và phục vụ cho ai. Thực sự thì nó không hề che giấu cái động cơ và mục tiêu chính trị của nó, khi tự nguyện làm một bè trong dàn đồng ca phản cách mạng, phản dân tộc, trong ngoài hô ứng lẫn nhau. Tác giả của thứ lý luận này đã từng công du“ đi tìm đồng minh ở hải ngoại. Không những anh ta thuyết giảng ở đó về văn học tự vấn“ của mình mà còn chịu khuất thân chịu tra tấn“ của những kẻ phỏng vấn mà có giọng điệu giống như một sĩ quan chiêu hồi của chế độ cũ, trước một kẻ cam tâm chiêu hồi trước đây, phải tự vấn“, tự thú“ về thân thế và thành tích ái quốc và cách mạng” trước ông chủ mới…”
Thật là một giọng điệu sắt máu chẳng khác gì mấy anh bồi bút Vũ Đức Phúc, Như Phong, Tô Hoài….đánh Nhân văn- Giai Phẩm ngày xưa. Chỉ riêng ba ông Giáo sư “ mác xít đến cùng” của TP Hồ Chí Minh cũng đủ thổi vào Hội nghị lý luận, phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc một không khí răn đe, khủng bố dễ làm nhụt tinh thần các nhà văn chết nhát.
Trong không khí phê phán chủ nghĩa Mác-Lênin nhân tháng góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng hiện nay, tất nhiên cũng có những ý kiến ngược lại, thoát ly hẳn lối “lý luận” xám xịt và cũ rích của phe bảo thủ.
Giáo sư Trần Đình Sử đã tách bạch “phê bình lý luận văn học” từ năm 1945 tới 1986 là “hệ hình mác xít”, “dựa trên lý thuyết phản ánh vốn là sản phẩm của thế kỷ XIX, trong đó văn học, nội dung, hình thức , phương pháp sáng tác, tính chân thực, thể loại …đều được xét …phù hợp hay không phù hợp theo một hệ thống thế giới quan nhất định. Chức năng văn học chủ yếu là nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ… Văn học là công cụ của đấu tranh xã hội …do đó nội dung tư tưởng chính trị quan trọng hơn cả tính nghệ thuật…chỉ có nhân vật chính diện , tiên tiến thuộc tầng lớp công nông binh mới là nhân vật chủ đạo của văn học thời đại”.
Kết luận về thứ lý luận phê bình “của Đảng” này, Giáo sư Trần Đình Sử huỵch toẹt :
“quan niệm lý luận về nội dung và hình thức như thế đã lỗi thời , không thấy được thực chất đặc trưng của văn học nghệ thuật…”
Thay thế cho “hệ hình macxít” đó, ông Giáo sư nới tới hệ hình “đổi mới” từ sau năm 1985, trong đó “ văn học trước hết là biểu hiện và tưởng tượng sáng tạo…Nội dung văn học không đóng khung trong quan điểm chính trị mà thể hiện trong toàn bộ kinh nghiệm sống, bao gồm mọi mặt văn hoá xã hội tâm linh, vô thức, lý tính và phi lý tính…”.
Ong Giáo sư còn đi xa hơn khi gán cho vai trò làm tan rã một ý thức hệ của văn học :
“văn học có một nguồn năng lượng bất kham có thể làm rạn nứt hệ thống hình thái ý thức đã có và góp phần kiến tạo hệ ý thức mới…”
“Hình thái ý thức đã có” chẳng phải cái gì khác mà chính là hệ tư tưởng mácxit – lêninnít vẫn được coi là chính thống tại nước ta hiện nay. Từ “lý luận chung”, ông Trần Đình Sử quy về những vấn đề trong thực tiễn :
”hình như cái gì ta cũng biết, cũng nói , song chẳng có gì là hiểu sâu, hiểu đến nơi đến chốn. Lý luận trên báo chí phần nhiều là chỉ nói theo, nói leo mà thôi…nhiều cán bộ quản lý do được đào tạo từ trước đổi mới , tư duy của họ vẫn còn nguyên như cũ…”
Giáo sư Phong Lê thuộc “phe đổi mới” cũng khẳng định :
“ Văn học đã chuyển sang một giai đoạn mới, mang một chất lượng mới , trên một sơ sở cảm hứng mới về nghệ thuật, trên một quan niệm nghệ thuật mới về con người …”
Giáo sư Nguyễn văn Hạnh cho rằng :
“ Dù là nói chuyện thường ngày, chuyện tầm thường, bụi bặm, văn học nghệ thuật không bao giờ bằng lòng với thực tại, với cái đang có mà luôn tìm tòi , khát khao vươn tới cái nên có, người hơn, đẹp hơn…”
Hai phe “bảo thủ” và “đổi mới” “chọi nhau” rõ ràng trong Hội nghị và xem ra vẫn chẳng tiến xa hơn ba cái Hội nghị lý luận , phê bình từ mấy năm trước.
Thế còn các nhà quản lý ? Các nhà lãnh đạo văn học nghệ thuật có quan điểm thế nào trong tình hình hiện nay ? Nhà thơ Hữu Thỉnh, Phó Chủ tịch Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương trong bài đề dẫn đọc tại Hội nghị thừa nhận “ từ đầu những năm chín mươi đến nay thực trạng phê bình văn học nghệ thuật đang trở thành mối quan tâm lo lắng …thực trạng đó không chỉ trầm lắng mà còn bộc lộ khá nhiều vấn đề đáng quan tâm…”. Một trong những vấn đề đang lo nhất chính là “ bảng giá trị “ đang bị xáo trộn vì thiếu những chuẩn mực. “”Thực tế chúng ta đang thiếu một hệ thống chuẩn mực lý luận, một tiêu chí đánh giá , thiếu một hệ giá trị tin cậy làm thước đo kiểm định tác phẩm văn nghệ…”.
Còn ông trùm văn hoá văn nghệ Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng văn hoá, Chủ tịch Hội đồng lý luận trung ương mặc dầu nghe nói Đại hội tới ông bị giành mất cái ghế ông đang ngồi nhưng khi tổng kết hội nghị ông vẫn lớn tiếng:
” xây dựng một nền lý luận văn nghệ mácxit Việt nam thực sự tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc…”
Ý kiến tổng kết của ông Nguyễn Khoa Điềm chẳng qua là nhắc lại những ý kiến trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng. Điều đó cho thấy khó mà có một sự thay đổi đáng kể nào trong Đại hội X tới.
NT
khieman
06-18-2014, 11:03 PM
(tiếp theo)
Kỳ 5
TP Hồ Chí Minh 9-2007
Đảng ơi, xin cứu chúng tôi
Phải nói ngay rằng ngày xưa, thời bao cấp, các nhà phê bình văn học nằm trong lực lượng chiến sĩ cảnh vệ trên mặt trận văn hoá văn nghệ của Đảng nên “quyền” lớn và “lợi” cũng lớn lắm.
Ngày đó làm công tác “ nghiên cứu lý luận phê bình” dễ dàng và thuận lợi biết chừng nào. Cứ đón gió, lắng nghe ý kiến các anh Năm ( tức Trường Chinh), anh Lành ( tức Tố Hữu)…rồi thì cứ mang tính đảng, tính giai cấp , tính nhân dân ra mà “giã” thì thằng nào cũng chết.
Còn nhớ vào cái thời huy hoàng rực rỡ đó, cứ mỗi lần đồng chí Sóng Hồng( tức Trường Chinh), đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Xuân Thuỷ, đồng chí Tố Hữu ra tập thơ là mấy nhà “phê bình văn học” cấp quốc gia như Hoài Thanh, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức…lại tranh nhau “thổi” lên mây xanh. Rồi đối với dân sáng tác, chẳng may anh nào bị cấp trên chê một câu là các nhà phê bình xúm vào đánh đòn hội chợ , thật chẳng khác gì quạ ngửi thấy mùi xác chết. Trên bảo đánh một, các phê bình gia của đảng thừa thế xông lên đánh gấp hai ba khiến các nhà văn, nhà thơ “phạm huý” coi như cầm chắc gác bút đi cầm cuốc dăm bảy năm.
Điển hình là vụ Nhân văn- Giai Phẩm – thật đúng là một bữa tiệc vĩ đại cho các con kên kên “phê bình lý luận”. Lục lại hồ sơ vụ này, người ta thấy ngoài những cây bút phê bình “gạo cội” của Nhà nước, còn có các văn thi sĩ tầm cỡ quốc gia như Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên… cũng nhảy vào “đánh hôi” để lấy điểm với Đảng.
Sau Nhân văn Giai Phẩm tới vụ “Phá Vây” của Phù Thăng, “Đống rác cũ” của Nguyễn Công Hoan, “ Vào đời” của Hà Minh Tuân, “Sắp cưới” của Vũ Bão, “ Đêm đợi tàu” của Nguyễn Đỗ Phú, “ Vòng trắng” của Phạm Tiến Duật, “ Cây táo ông Lành” của Hoàng Cát…
Ngày nay nhìn lại “sự nghiệp” của các nhà phê bình lý luận “gạo cội” như Như Phong, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trần Trọng Đăng Đàn…. người ta đều thấy có xương máu các nhà văn nhà thơ bị họ xẻ ra làm thịt dâng đảng thời đó.
Sang thời kinh tế thị trường, văn học ngày càng nhạt mùi tính đảng, tính giai cấp, càng mất dần vai trò “vũ khí trên mặt trận văn hoá và tư tưởng của đảng”, ngày càng biến tướng trở thành một loại hình giải trí tào lao, vô thưởng vô phạt, bớt nguy hiểm cho đảng và bởi vậy việc canh gác, kiểm soát cũng không còn gắt gao như trước , khi “thỏ bị giết thì chó săn cũng bị diệt” – các nhà lý luận phê bình mác xít tuy không bị tuyệt diệt nhưng có sự phân hoá dữ dội.
Một số lớn thức thời, đa số là những người trẻ, chạy sang “phò” các ông chủ mới : các ông đầu nậu sách hay sang trọng hơn gọi theo cách “thời thượng ” : các nhà đầu tư. Vậy là xuất hiện hàng loạt các nhà phê bình trẻ xây dựng nên hẳn một “công nghệ lăng xê” mỗi khi mấy ông đầu nậu xuất bản ra sách mới. Những năm qua, người ta được chứng kiến không ít các “hiện tượng văn học”, các tập thơ, các tập truyện ngắn, tiểu thuyết được kéo lên chót vót để rồi sau khi sách được bán hết , tác phẩm cũng rơi vào quên lãng.
Tuy nhiên không phải nhà phê bình, lý luận nào cũng “phò” các ông đầu nậu, phần lớn các bác già, các bác “phê bình lý luận gạo cội” vẫn kiên trì ‘chủ nghĩa Mác Lênin”, vẫn cần mẫn làm người lính gác cho Đảng trên mặt trận văn học, vẫn lớn tiếng hô hào bảo vệ truyền thống cách mạng, giữ vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa trong sáng tác văn học.
Tiếc thay, thời thế đã đổi thay, sự đối đầu giữa tư tưởng của đảng và tư tưởng phản kháng không còn diễn ra trên mặt trận văn học nghệ thuật nữa mà chuyển sang trực diện trên các diễn đàn mạng lưới thông tin toàn cầu qua các bài viết trực tiếp bằng luận lý chứ chẳng cần nhờ tới thứ văn chương “bóng gió xỏ xiên” như thời bao cấp nữa.
Sang thời đại IT, vai trò “gác chợ” của các “phê bình gia” quốc doanh ngày càng trở nên kém quan trọng, do vậy “quyền” càng ngày càng nhỏ đi, “lợi” mỗi ngày cũng đội nón ra đi khiến cho các cây bút lão thành ngày càng chán nản, càng cảm thán thân phận “múi chanh đã vắt hết nước”, “chim chết cung cũng xếp xó”.
Mới đây ngày 22 tháng 9 – 2007, hơn 30 nhà phê bình lý luận “lão thành” đã họp nhau lại tại trụ sở Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh để đồng loạt phát đi tín hiệu “kêu cứu” với đảng :” chúng tôi đang…sống trong sợ hãi”.
Ông nhà văn Lê văn Thảo, Chủ tịch Hội nhà văn TP HCM thẳng thắn mào đầu:
“ Suốt mấy năm qua, cả công chúng và giới cầm bút đều e ngại cho sự buồn tẻ của các nhà lý luận phê bình trong đời sống văn học. Sự thật này không thể quay mặt đi và không thể im lặng mãi. Đời sống lý luận phê bình văn học hiện nay, các cây bút chuyên nghiệp rất ít xuất hiện, còn các cây bút nghiệp dư thì nhan nhản. “
Một cây bút nổi tiếng sát phạt đồng nghiệp, giáo sư Mai Quốc Liên nổ phát súng đầu tiên :
"Hơn 30 năm qua, người đọc thay đổi quá nhiều, văn hoá tiếp nhận đã khác. Vậy mà, không ít nhà phê bình mang tư duy "bất biến", không chịu "ứng vạn biến" nên cách viết cũ, không đủ sức thuyết phục độc giả khó tính".
Ông Giáo sư than rằng công tác phê bình lý luận tại thành phố mang tên bác Hồ cực kỳ yếu kém và kêu gọi các nhà phê bình “quốc doanh” hãy tử vì đạo :
” Giới lý luận phê bình phải quyết liệt hơn nữa, phải luôn giữ tâm niệm: "Sáng nghe được đạo lý thì chiều chết cũng cam lòng".
Giáo sư lão thành , Trần Thanh Đạm dẫu ở tuổi 75 cũng vẫn rất hăng hái thở than và đòi quyền phát ngôn :
”Chúng ta cứ ủng hộ nhau bằng miệng như anh Mai Quốc Liên dù rất hùng hồn, cũng chưa đủ đâu. Xin hỏi, bây giờ một bài phê bình tử tế thì in ở đâu? Tình hình văn học có nhiều điều rất tiêu cực, mà tôi cảm thấy cô độc lắm. Tôi không dám so với Lỗ Tấn, nhưng vài năm nay tôi có cái buồn "người biết chữ thường hay lo nghĩ" giống ông ấy. Nhìn đi nhìn lại, đội ngũ lý luận phê bình vẫn còn đây, nhưng không có diễn đàn, nên đành im lặng ôm lòng ngồi đấy thôi".
Giáo sư Đạm ngậm ngùi:
"Tôi e rằng, người nào đó trực ngôn nhận xét về cuộc gặp gỡ này, chỉ cần một câu "toàn mấy ông già nói với nhau" thì tan nát cả cái hội thảo”.
Ông nhà báo lão thành Đinh Phong, nguyên Chủ tịch Hội nhà báo TP HCM , về hưu mấy năm nay rồi mới “xót xa nhận thiếu sót” :
"Nhiều năm làm Chủ tịch Hội nhà báo TP HCM kiêm Phó Chủ tịch Hội nhà báo VN, tôi thấy xấu hổ vì báo chí vinh danh nhiều tác phẩm văn học không có giá trị gì. Hơn nữa, tôi đề nghị Hội nhà văn phải tổ chức những hội thảo lý luận phê bình thường xuyên để có những đánh giá kịp thời về đời sống văn học, chứ không thể xuân thu nhị kỳ mới gặp nhau để than thở".
Nhà văn “lão thành mácxít lêninít” Đoàn Minh Tuấn thì bày tỏ bức xúc về hiện tượng các nhà văn trẻ viết quá sexy :
"Tôi qua Ấn Độ, ở ngay quảng trường New Dehli có bức tượng diễn tả một người đàn bà thoả mãn cho bốn người đàn ông, nhưng nó thanh cao lắm, biểu cảm lắm, nhân văn lắm. Còn thứ văn chương viết về sex ở Việt Nam không ra gì cả, nhầy nhụa và bẩn thỉu".
Bà nữ văn sĩ Nguyễn Thuý Ai thì ví von :
"Làm lý luận phê bình bây giờ giống như giữ rừng, nhiều lâm tặc mà ít cán bộ kiểm lâm. Đau đớn hơn là cán bộ kiểm lâm không có phương tiện gì trong tay. …”
Và kết thúc cuộc “than vãn” của các ông bà già kéo dài trong suốt 4 giờ đồng hồ, bà nhà văn này phát đi một lời kêu cứu :
“Những nhà lý luận phê bình thực sự đang sống trong sợ hãi".
Liệu các đồng chí Tô Như Rứa, Trưởng ban tư tưởng văn hoá , đồng chí Phan Xuân Biên , Trưởng ban văn hoá tư tưởng thành uỷ TP HCM có nghe thấy những lời kêu cứu thống thiết này không ?
Chắc chắn là có nghe đấy, nhưng tiếc thay thời thế đã thay đổi, đảng chẳng cần tới “mấy ông bà già” cứ lặp đi lặp lại “sáu câu ba điều” tính đảng, tính giai cấp chung chung như ngày xưa nữa. Bởi vậy các cụ có kêu rên tới tận đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi chăng nữa thì cũng thế mà thôi.
Vì rằng thưa các cụ : “ For such is life” mà…
(còn tiếp)
khieman
06-29-2014, 01:43 AM
.
Hội nhà văn của nước ta
Kỳ 1….
ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
“…Hội nhà văn của nước ta,
mấy thằng chạy chức đi ra đi vào
nghèo thì đậu phụ thuốc lào
giàu thì rượu ngoại phong bao phải dày
tiền tươi phải tới liền tay
“Chấp hành”* một ghế nhận ngay khó gì …”
(* Uỷ viên Ban chấp hành )
Ngay trước ngày khai mạc Đại hội lần thứ 7 Hội nhà văn Việt Nam, dư luận trong giới cầm bút đã ì xèo chuyện “ chạy ghế” vào Ban chấp hành, chuyện “lật đổ” nhà thơ Hữu Thỉnh , người ngồi đã quá lâu trên ghế Tổng thư ký Hội, người xây dựng “bộ máy” cấp 1 ( cơ quan của Hội) và bộ máy cấp 2 ( báo chí, xuất bản, hãng phim, bảo tàng…) toàn bằng đồng hương Vĩnh Phú.
Trên báo Công an nhân dân đã đăng công khai bài viết của nhà thơ Phạm Tiến Duật tố cáo Hữu Thỉnh “phạm pháp”, lộng quyền, ôm đồm, bao biện hết cả tiền của Đảng rót cho nhà văn. Ngay trong đại hội, cuộc “vận động hành lang” vẫn diễn ra náo nhiệt, nhà thơ Trần Ninh Hồ mất cả buổi trưa để vận động lão nhà văn Nguyễn Quang Sáng lên “ tham luận” yêu cầu Hữu Thỉnh từ chức, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo , Nguyễn Thuỵ Kha, nhà văn Trung Trung Đỉnh, Cao Tiến Lê…dáo dác khắp nơi mong kiếm được một vé vào Ban chấp hành. Và ngay trong đám các nhà văn Vĩnh Phú chia nhau các loại ghế ở Hội nhà văn, cũng không thống nhất thành một khối, trước đại hội cũng “uýnh” nhau lộn bậy khiến bà con lại có thơ rằng :
“ Mấy thằng Vĩnh Phú đánh nhau
Hữu Thỉnh vỡ đầu Tiến Duật sứt tai
Văn Chinh chém mướn vòng ngoài
Vĩnh Tuấn nổi cáu dở bài bọ hung
Chung quy cũng tại vua Hùng…
Đẻ ra một lũ vừa điên vừa khùng…”
Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Văn Chinh, Trương Vĩnh Tuấn đều là người Vĩnh Phú, quan chức Hội nhà văn.Tuy nhiên, dù có chạy chọt đấu đá ra sao thì mọi mơ tưởng của mấy anh nhà văn đều hão huyền bởi lẽ vấn đề “nhân sự “ là do cấp trên quyết định đúng như lời ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng văn hoá phát biểu tối ngày 22 tháng 4 trong cuộc họp giành riêng cho đảng viên :
” Uỷ viên chấp hành các đồng chí bầu ai thì bầu riêng Tổng thư ký phải để cho Đảng chỉ định…”.
Và theo tinh thần chung cho các Hội, để giữ vững ổn định chính trị, tránh xáo trộn , tốt nhất là bầu ông Vũ Như Cẫn lãnh đạo , quả nhiên Đại hội đã “bầu ra” Tổng thư ký ( giờ đổi thành Chủ tịch) vẫn là Hữu Thỉnh, Phó Tổng thư ký ( tức Phó Chủ tịch) vẫn là Nguyễn Trí Huân – không có gì thay đổi.
Đại hội lần thứ 7 diễn ra trong tình hình các nhà văn hầu hết đã được “thuần hoá”, đã trở thành “bé ngoan” của Đảng, bởi vậy Đảng không còn lo những tiếng nói “phản kháng”, “chống đối” cất lên từ diễn đàn đại hội.
Duy nhất có nhà thơ đòi đa nguyên đa Đảng là Bùi Minh Quốc mới được tha “quản chế” thì lại bị “Đại hội cơ sở các nhà văn miền Đông Nam Bộ” không bỏ phiếu cho đi dự Đại hội toàn quốc. Tuy nhiên ông Bùi Minh Quốc vẫn bay ra Hà Nội đòi vào Hội trường Ba Đình trong lúc đại hội đang họp và bị công an mời ra vì không có …huy hiệu vào cửa vốn chỉ phát cho đại biểu chính thức. Không chùn bước, nhà thơ Bùi Minh Quốc lại kiện Ban tổ chức đã cho cả nhà phê bình Phạm Quang Trung ở Đà Lạt đi dự đại hội khi ông này đã bị khai trừ khỏi hội về tội tham ô, hơn nữa, nhà thơ Bùi Minh Quốc vẫn ứng cử vào Ban chấp hành dẫu không trúng nhưng vẫn đạt được hơn 100 phiếu bầu, qua đó cho thấy tỷ lệ “ủng hộ phản kháng” thầm trong bụng của các nhà văn Việt Nam là 20 phần trăm.
Ngày đầu tiên 23 tháng 4, họp “nội bộ”, trong hầu hết những tham luận “tát nước theo mưa” đòi nhà văn đứng vững trên lập trường của Đảng, bỗng nảy nòi ra bài tham luận của nhà văn Hoàng Quốc Hải có tựa đề “ Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao”. Trước hết ông đưa ra thân phận cay đắng của nhà văn “đỉnh cao “ Vũ Trọng Phụng :
“ Sinh thời ông chỉ ao ước :” Nếu ở đời có được cơm mà ăn no nhỉ ?” . Năm 27 tuổi ông qua đời vì bệnh lao phổi để lại một người con gái 2 tuổi và một đống tác phẩm. Không ít trong số mấy chục tác phẩm của ông đạt đỉnh cao thế giới.”
Vậy mà những tác phẩm ấy bị vùi lấp trên nửa thế kỷ, không một lần được tái bản. Bởi một thời gian rất dài người ta vu cho ông là phần tử trốt kít (Trosky). Tới khi tác phẩm của ông được tái bản, chị Vũ thị Hằng , con gái ông đã ngoài 50 tuổi, chỉ dán mắt nhìn tác phẩm của cha mình trở thành tài sản chung của xã hội theo “luật bản quyền” mới ban hành..
Chị Hằng và chồng chị đã đưa phần mộ của cha mình về ngôi vườn tại quê hương làng Mọc. Ngôi mộ được xây cất đàng hoàng, ốp đá cẩm thạch mà không có bất kỳ tài trợ nào từ Nhà nước và các hội đoàn. Sự thờ ơ đến bội bạc của đương thời và hậu thế khiến nhiều nhà văn nản lòng…”
Nhưng đó là chuyện từ thời…tự lực văn đoàn, còn chuyện của Hội nhà văn 10 năm lại đây (1996-2005), ông Hoàng Quốc Hải nhận định :
“ số lượng tác phẩm của các nhà văn phát hành không phải là ít nhưng không khuấy động được công chúng. Không khí văn học bình lặng như mặt nước ao thu. Khas nhiều tác phẩm “tốt” cả về nội dung lẫn nghệ thuật nhưng công chúng bạn đọc vẫn thờ ơ và đòi nền văn học phải có đỉnh cao. Đòi hỏi đó là nỗi bức xúc của công chúng trước hiện thực xã hội. Bởi soi vào tác phẩm văn học họ thấy hụt hẫng.”
Độc giả đòi hỏi như vậy vì sao các nhà văn không đáp ứng được cho dù “ cái nền hiện thực xã hội trong mười năm gần đây , dư thừa chất liệu cho các nhà văn Việt Nam làm nên tác phẩm đỉnh cao. Đây là cơ hội , dù nó là cơ hội đem lại nhiều bất hạnh cho số đông nhưng nếu bỏ qua sẽ là một tiếc nuối , một ân hận…”
Đúng là chưa bao giờ, xã hội cung cấp cho nhà văn nhiều chất liệu đến như thế này :
“ Bức tranh xã hội đủ mầu sắc. Vui có, buồn có, bi thương có, âm mưu thủ đoạn có, tham nhũng hối lộ có, lừa đảo có, đểu cáng có, bất hiếu bất mục, bất nhân bất nghĩa…không thiếu một loại nào . Đặc biệt lũ cơ hội xuất hiện nhan nhản. Đó là những kẻ tiếm quyền hành để tước đoạt trắng trợn tài sản quốc gia , hối hả tich luỹ vốn liếng để mau chân chạy sang hàng ngũ tư bản. Và bây giờ chúng đang âm mưu rửa tiền để hợp thức hoá và công khai hoá số tài sản khổng lồ mà chúng chiếm đoạt bằng các thủ đoạn bất lương.
Công chúng đòi hỏi nhà văn bằng ngòi bút và lương tâm của mình phải vạch mặt bọn chúng, “không cho chúng nó thoát”. Phải cho tái xuất hiện các gương mặt kiểu Nghị Quế, Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan, Bá Kiên, Chí Phèo …thời hiện đại”
Những dòng văn mang đầy tính công tố và kết tội này được đọc giữa Hội trường Ba Đình, tiếc thay cử toạ lại là các nhà văn, ví thử là các đại biểu quốc hội – các ông nghị nổi tiếng “gật”, thì không biết các quý “đại biểu’ ấy sẽ phản ứng như thế nào ?
Bức tranh hiện thực phong phú như vậy lại tuyệt nhiên không phản chiếu được vào tác phẩm, bởi thế “ công chúng mới chối bỏ.”. Độc giả quay lưng lại với các tác phẩm văn học là “điều tệ hại nhất đối với nhà văn . Đó còn là dấu hiệu báo trước một nền văn học đang vững chắc bước vào giai đoạn suy thoái…”
Nhận định này hoàn toàn đi ngược với Hội nhà văn trong Báo cáo tổng kết 5 năm nhiệm kỳ 6 do nhà thơ Hữu Thỉnh trình bày trong ngày khai mạc chính thức tại Hội trường Ba Đình ngày 24-4-05 với sự có mặt của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười , Phan Diễn,Trưởng ban Bí thư trung ương :
“ 5 năm qua văn học ta có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về tất cả các thể loại . Mối quan tâm về hệ thống giá trị mới đang được xác lập , về đạo đức xã hội , về bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc là những thông điệp thường gặp trong các tác phẩm văn học…”
Rõ thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược…
(còn tiếp)
25-4-05
khieman
06-29-2014, 02:08 AM
(tiếp theo)
Hội nhà văn của nước ta
Kỳ 2
ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
Chính “bóng tối” hiện đang bao phủ trên rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân đã che đậy tội lỗi cho những tên cán bộ tham nhũng và sa đoạ của Đảng và Nhà nước, giúp chúng lọt lưới trừng phạt của pháp luật và được hưởng đặc ân “xử lý nội bộ” vốn là một thủ đoạn ngạo mạn, ngồi xổm lên luật pháp. Minh bạch hoá từ việc nhỏ như tài sản của cán bộ cho tới việc lớn như chi tiêu ngân sách Nhà nước là bước khởi đầu đi tới một xã hội dân sự . Nhà văn Hoàng Quốc Hải đòi có sự “minh bạch” ngay trong kiểm duyệt tác phẩm :
“ Chúng ta đang sống trong một xã hội công dân , đòi hỏi mọi sự phải giải quyết minh bạch. Vì vậy những tác phẩm bị kiểm duyệt toàn bộ hoặc kiểm duyệt một phần cần được công bố công khai . Và nói rõ tác giả đã vi phạm những điều nào , điều nào theo luật định. Nếu tác giả không chấp thuận, họ có quyền khiếu nại việc đó ra toà dân sự…”
Từ xưa tới nay, việc “chôn” một cuốn sách chỉ được thực hiện qua một cú phôn của một sếp lớn Ban tuyên huấn hoặc Cục an ninh văn hoá hoặc ở mãi trên thượng đẳng thiên tào Bộ chính trị của Đảng.
Toàn bộ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng bị cấm trong liền ba bốn thập kỷ là do lệnh miệng của ông Hoàng văn Hoan, Uỷ viên Bộ chính trị do nghe mấy anh quân sư quạt mo tán rằng Vũ Trọng Phụng nói xấu bố ông ta.
Từ những tác phẩm “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “Đống rác cũ “ của Nguyễn Công Hoan , “Sắp cưới” của Vũ Bão….đến “ Người con của đất” của Đỗ Văn Bàn, thơ “Chân dung” của Xuân Sách, “ Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn…tất cả đều bị chôn trong kho làm mồi cho mối hoặc xay thành bột giấy đều không do một quyết định thành văn nào hết, tất cả đều thực hiện trong “bóng tối” bằng những “ý kiến anh này”,” ý kiến anh kia” mà tuyệt nhiên chẳng “anh”nào chường mặt ra nhận lấy trách nhiệm chôn sách, xay sách. Phép nước, luật Đảng từ xưa tới nay và cả mai sau đã định như thế rồi, bởi vậy đề nghị của ông Hoàng Quốc Hải ngay tại diễn đàn công khai của Hội nhà văn khác nào một phạm thượng láo xược làm sao mà lọt được vào tai của Đảng ? Tuy nhiên, ông cũng phải ngậm ngùi thừa nhận rằng muốn có tác phẩm đỉnh cao nhà văn phải “có tài năng lớn”,”trí tuệ siêu việt”,” nhân cách cao thượng”…những cái đó các nhà văn đều có cả, chỉ tiếc Thượng đế ban cho họ hơi bị…ít.
Một tham luận khác gây sôi nổi ở hội trường là của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Lâu nay ông này mang tiếng là “đầu gấu”, “gác chợ”, “cảnh sát văn nghệ của Đảng “ giờ bỗng dưng lại giở giọng “cấu Đảng” là sao ?
Nguyên là ông Tổng thư ký Hữu Thỉnh trong lúc làm công tác chuẩn bị đại hội nảy ra ý định có một tham luận có chút chút “đổi mới” cho có khí thế, kiểu như cắt thêm mấy lát ớt vào bát phở cho cay cay, ngon miệng, bèn điện vào Sàigòn nhờ cậy Trần Mạnh Hảo vốn là anh nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng OK.
Nào ngờ bấy lâu nay bị thiên hạ chửi là “đồ trở cờ, quân bảo thủ” đến rát cả mặt, Trần Mạnh Hảo muốn lợi dụng dịp này tỏ cho thiên hạ thấy ta đây cũng “phản kháng” lắm đây, chứ chẳng như mấy thằng thối mồm kia đâu. Thế là nhảy lên diễn đàn đại hội, Trần Mạnh Hảo diễn vai “đối lập”. Anh ta ca ngợi vua Tự Đức ngày xưa “ không vì một câu thơ khi quân trong truyện Kiều mà ra lệnh đốt hết sách Nguyễn Du” và mượn xưa nói nay, Trần Mạnh Hảo thống thiết :
“ Ôi, giá mà thời nay có được vài ông vua như Tự Đức thì mấy cuốn sách hiền như bụt kiểu “ Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải, “ Chuyện kể năm 200” của Bùi Ngọc Tấn, “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh…dù lục lọi mỏi tay, tìm bới mỏi mắt cũng chẳng thấy câu văn khi quân nào , đã không phải phải ném vào máy nghiền để thành bột giấy….”
So sánh vậy khác nào Trần Mạnh Hảo ca cẩm Đảng ngày nay còn tàn ác hơn cả vua chúa phong kiến ngày xưa. Tiếp đó anh ta cho rằng “thi sĩ chính là Thượng đế là ông chủ của vũ trụ thi hứng, phải ứng xử như đấng toàn năng với nguyên tắc bất di bất dịch “ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai…”…tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình“
Ấy thế mà anh nhà văn lại :
“còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư , nhớ đến anh Khổng Minh Dụ ( Cục trưởng Cục an ninh văn hoá), anh Đỗ Kim Cuông ( Vụ trưởng Vụ văn nghệ), anh Trinh Đình Khôi, anh Nguyễn Đình Nhã, anh Vũ Duy Thông , nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo , nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan, thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên vừa viết vừa run như thế, nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thần của mình, cho nên khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục , xoá hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi , đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi…”
Càng nghe Trần Mạnh Hảo tham luận, người ta càng ngạc nhiên như thấy lại một Trần Manh Hảo “ly thân” với Đảng ngày trước:
“Quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định sự sống còn của ngòi bút theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa , có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét , lục vấn, xử lý cấm cản tuỳ tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi…”
Kết tội thẳng thừng chế độ kiểm duyệt của Đảng và Nhà nước đến như Trần Mạnh Hảo thì xưa nay chưa nhà văn nào làm được ngay trên diễn đàn đại hội chính thức của nhà văn Việt nam :
“ Với cơ chế luật pháp lằng nhằng , cấm thì bảo cấm, thu hồi thì bảo thu hồi, kiểm duyệt thì bảo kiểm duyệt y như thời Tây đi một nhẽ thì nhà văn sẽ mừng vô cùng. Nhưng Đảng ta bảo chế độ ta tự do báo chí, tự do sáng tác không kiểm duyệt mà khi thực hiện thì than ôi, ai có qua cầu mới biết, gò bó cấm cản muôn phương…”
Vậy là về tự do báo chí, tự do sáng tác, Đảng chỉ nói mồm, còn trong thực tế…”gò bó cấm cản muôn phương” - câu này nếu được trích dẫn trong báo cáo nhân quyền hàng năm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì còn lâu Việt Nam mới được đưa ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt.
Đã chê Đảng “cấm cản” báo chí và sáng tác, Trần Mạnh Hảo lại khen khéo thời Tây ngày xưa :
“Thời Tây, nước ta mất, dân ta nhục, Tây nó bảo tao không cho mày tự do sáng tác, tự do báo chí , tao kiểm duyệt rõ ràng đây này ; luật nó khiếp hãi , gian ác là vậy mà dân ta xin nó ra báo tư, xuất bản tư thằng tây nó cho liền, anh này ra báo tư, anh kia ra xuất bản tư, mừng quá. Thời mặt trận Bình dân nó còn cho cả báo chí , xuất bản của Đảng cộng sản ra công khai, mới có hàng loạt tiểu thuyết lớn xuất hiện , tố cáo chính chế độ gian ác , phản tự do, phản dân chủ của nó…”
Và Trần Mạnh Hảo giở giọng khích bác :
“ Mà thằng Tây gian ác cũng lạ, sách ra, có nhẽ nó cóc đọc được tiếng Việt nên nó cóc có cấm, cóc có Ban tư tưởng, cóc có A25. cóc có hàng chục cơ quan, hàng trăm người có thể thò tay thò chân vào nắn nắn từng con chữ như chế độ độc lập tự do bây giờ. Trong thời Tây nô lệ muôn vàn, gian ác muôn vàn, không hiểu các bố nhà văn ta hồi ấy lấy tự do sáng tác ở đâu ra mà sinh bao kiệt tác :” Số đỏ, Chí Phèo, Tắt đèn, Kép Tư Bền, Bỉ vỏ, Vang bóng một thời, “thơ mới 1032-1945”…truyền tới hôm nay….”
Đến đây, người ta thấy Trần Mạnh Hảo không còn chỉ cắt vài lát ớt mà đã đổ nguyên cả lọ tương ớt vào “ bát phở” của Đại hội nhà văn lần thứ 7.
(còn nữa)
10-5-05
khieman
06-29-2014, 02:24 AM
(tiếp theo và hết)
Hội nhà văn của nước ta
Kỳ 3
NHÂN ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
“ Mượn gió bẻ măng”, mượn lời mời chính thức của Tổng thư ký Hội nhà văn Hữu Thỉnh, chính thức mời viết tham luận, Trần Mạnh Hảo hăng lên yêu cầu :
“ Những nhà quản lý văn học nghệ thuật của chúng ta hôm nay cần phải học được lối ứng xử với nhà văn không hơn được thì ít ra cũng bằng với ông cha, mới hy vọng có tác phẩm lớn. Xin thực hiện đúng cương lĩnh “ TỰ DO SÁNG TÁC” của Đảng và Nhà nước vẫn ban hành , xin bớt bớt giùm đi các cấp trung gian , quan tâm tới nhà văn vượt mức các chỉ tiêu trên giao thì quý hoá biết là chừng nào…”
Chỗ này người ta thấy rõ TMH xỏ xiên, vu cho Đảng là có cương lĩnh “TỰ DO SÁNG TÁC”; thực ra chưa bao giờ Đảng cho văn nghệ sĩ cái của quý hiếm ấy cả, Đảng chỉ cho họ cái quyền “tự do sáng tác” theo…định hướng xã hội chủ nghĩa mà thôi nói vắn tắt là chỉ được phép viết những gì “có lợi” cho sự ổn định chính trị của Đảng .
Bài tham luận của Trần Mạnh Hảo được đọc theo lối “diễn tuồng” giọng trầm giọng bổng khiến đại biểu vỗ tay ào ào và làm ông Tổng thư ký hội Hữu Thỉnh ngồi trên ghế Chủ tịch đoàn cứ giật mình thon thót. Ông nhớ lại lời một vị trong Ban tuyên huấn thành uỷ TP Hồ Chí Minh khi Trần Mạnh Hảo “quay cờ” bán hải ngoại trở về với Đảng “:” chúng tôi đã có kinh nghiệm về những tên “sọc dưa”, không thể tin được bọn chúng…”.
Chí lý thật, cứ tưởng TMH đã trở thành “con đê chắn sóng cho Đảng”, thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ, ngờ đâu nhè đúng ngay diễn đàn Đại hội nhà văn để mà “trở mặt” cấu Đảng mới gay.
Quả nhiên ngay buổi chiều tan họp, ông Đào Duy Quát, Phó ban tư tưởng văn hoá đã tới gặp Tổng thư ký uốn nắn:
”Ông Thỉnh, ông làm gì mà ghê thế ? Ngày mai Tổng bí thư tới dự họp các ông phải liệu liệu…”.
Tất nhiên ông Hữu Thỉnh phải vâng dạ rối rít và hôm sau , ngày Đại hội họp chính thức, có Tổng bí thư và cả 6 ông Uỷ viên Bộ chính trị tới dự, ông đã bố trí hàng loạt tham luận của các nhà văn “cháu ngoan bác Hồ” nhằm gỡ tội đã để lọt hai tham luận của Hoàng Quốc Hải và Trần Mạnh Hảo làm bẽ mặt các quan.
Trước hết nhà văn cao tuổi Nguyễn Gia Nùng lên diễn đàn phê phán hai bài tham luận của hai ông Hải và Hảo chỉ nói tới “tự do sáng tạo” mà quên đi “trách nhiệm công dân”. Ông yêu cầu “tự do” và “trách nhiệm” là hai thứ phải luôn song hành, tất nhiên phải hiểu đó là trách nhiệm với Đảng.
Nữ thi sĩ đồng bằng sông Cửu Long tên là Kim Quyên lên tham luận nhiệt liệt ca ngợi…”sếp” Hữu Thỉnh bay ra bay vào như một cánh chim không mỏi để khuấy lên “phong trào sáng tác “ ở miền Nam.
Nữ thi sĩ TP Hồ Chí Minh tên là Thu Nguyệt cũng bày tỏ sự không đồng tình với các tác phẩm đi sâu vào mặt trái của xã hội bằng đưa ra cái mẹo “đau Nam chữa Bắc”, tức nhà văn không nên đi thẳng vào các chuyện “ tham nhũng, thiên tai lũ lụt, lớp trẻ sa đà ăn chơi…” mà chỉ nên viết về những cái đạo lý cao cả như một anh nhà văn công an không viết về tội phạm mà lại chỉ chuyên viết về…Phật.
Nữ văn sĩ cũng TP Hồ Chí Minh tên là Trầm Hương cũng lên diễn đàn đòi :
” Tôi muốn viết “ Hoa cúc kim” – một tiểu thuyết về người phụ nữ cải nam trang trốn sang Trung Quốc dự khoá học do bác Hồ đào tạo. Tôi muốn viết bộ tiểu thuyết sử thi về Mậu Thân 1968 đầy bi tráng…”.
Các đại biểu nhà văn Nam bộ – trong đó có cả ông Giám đốc khách sạn kiêm nhà văn Lê Thành Chơn chẳng những “gỡ tội” cho sếp Hữu Thỉnh mà còn vinh danh Hội nhà văn đòi đuổi ra khỏi đại hội kẻ nào đã bêu xấu Hội trong thời gian qua (ám chỉ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp) làm các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng ngồi nghe cứ rạng rỡ cả mặt mày.
Tuy nhiên không phải nhà văn nào cũng vỗ tay khen bài tham luận của Trần Mạnh Hảo nhất những người hiểu rõ bản chất “thợ quay” của nhà thơ. Trong bữa ăn ở Đại hội, nhà văn Thái Bá Lợi , đại biểu Đà Nẵng nhận xét :
” Thằng Hảo nó …chửi mồi”.
Cuối buổi chiều ngày thứ hai, lợi dụng không khí đại hội chán nản phải nghe những tham luận “ ca ngợi truyền thống văn học cách mạng”, nhà văn kiêm điện ảnh Đỗ Minh Tuấn nhảy lên diễn đàn vạch mặt cơ hội chủ nghĩa của Trần Mạnh Hảo:
” Đó là một nhân vật điển hình cho kiểu lý luận đầu cơ trên lẽ phải thông thường, quy giản các quan hệ văn hoá học thuật thành quan hệ chính trị và đạo đức để quy chụp nặng nề những người có cách viết khác với những gì được anh ta coi là bút pháp chính thống. Từ năm 1995 đến nay, Trần Mạnh Hảo đã viết nhiều bài xuyên tạc, bóp méo, bôi bẩn, quy kết đạo đức chính trị hàng loạt tác phẩm có tìm tòi về thi pháp như các tập thơ Mùa sạch của Trần Dần, Bóng chữ của Lê Đạt, 99 tình khúc của Hoàng Cầm, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều, tiểu thuyết Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà…Cái cách phê bình kiểu Trần Mạnh Hảo và sự o bế của những người lãnh đạo văn hoá văn nghệ đã biến anh ta trở thành một vấn đề xã hội bức xúc trong giới cầm bút vì nó đã gián tiếp hạn chế tự do sáng tác một cách tinh vi và có hiệu quả khi nó tạo ra một môi trường văn hoá phê bình cộng sinh giữa những thái độ chính trị văn hoá bảo thủ thâm sâu và cái suồng sã hồn nhiên trơ tráo của một thứ văn chương cai lệ.
Nếu như cây roi của các nhà chính trị bảo thủ trước đây chỉ quất vào mông văn nghệ sĩ như Tự Đức đòi đánh đòn Nguyễn Du, thì ngọn roi của Trần Mạnh Hảo lại quất vào tim những người cầm bút. Nằm trong chăn biết chăn có rận, là nhà thơ có chút tinh tế, tài hoa, sắc sảo, Trần Mạnh Hảo đã đem những phẩm chất thi nhân của mình len lỏi vào thâm cung chữ nghĩa trong tâm hồn người viết để thăm dò, tâu báo và khủng bố. Những người cầm bút phải dành thời gian tâm trí cho việc thanh minh, tự vệ truy lại thanh danh đã bị bôi bẩn và vì thế không còn tâm trí nghĩ về những chuyện lớn lao có tầm vóc toàn xã hội như tự do, dân chủ. Trần Mạnh Hảo là kẻ cướp đi nhiều tự do sáng tác của nhà văn, là cái roi ai đó đã dùng quất vào tâm hồn trí tuệ tự do của người nghệ sĩ, nay bỗng dưng anh ta lại la lối kêu ca về tự do sáng tác có khác nào vừa ăn cướp vừa la làng, đổ vấy tội lỗi của mình cho ai đó. Thật chẳng khác gì Chí Phèo lại có ngày la làng chửi bới những kẻ du côn đái vào miếu Thành Hoàng.
Trần Mạnh Hảo nói rằng văn nghệ sĩ là những người thấp cổ bé họng trong xã hội mà lẽ ra họ phải là Thượng đế trong chân trời sáng tạo của mình, nhưng hỡi ôi, trước đó không lâu cái kẻ văn nhân thấp cổ bé họng đó đã bị “anh gác chợ” Trần Mạnh Hảo cậy quyền cậy thế hoạnh hoẹ, lục soát văn thơ, sờ nắn khám xét từng dòng chữ, từng dấu phẩy để đong đếm từng tiếng cười tiếng khóc mà tri hô với Đảng về tư cách khả nghi của họ. Sau khi dùng những bài viết thô bạo và nguỵ biện để cướp đoạt được miếng đất tự do sáng tác, Trần Mạnh Hảo lại lớn tiếng bảo vệ miếng đất anh ta vừa cướp được, đó là cái cách thể hiện chủ quyền công khai để phi tang những hành vi cướp đoạt, tiến tới làm “sổ đỏ” cho miếng đất “bốn mặt tiền” anh ta có được sau ba lần trở cờ trắng trợn. Trên diễn đàn Đại hội, Trần Mạnh Hảo cũng phi tang việc anh ta sử dụng báo chí của công an làm nơi khủng bố văn nghệ sĩ bằng việc la lối về công an văn hoá khiến ông Khổng Minh Dụ phải bước lên trên bục để thanh minh….”
Nhận định khái quát của Đỗ Minh Tuấn về Trần Mạnh Hảo đã được anh em bầu là câu nói hay nhất đại hội :
” Trần Mạnh Hảo là cái ca-pôt rách của Đảng, giữ vệ sinh cho Đảng trong quá trình giao lưu văn hoá làm bạn với tất cả thế gian.”.
Tuy nhiên nhân vật gây cười nhất cho đại hội lại là …nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Sau khi đã chửi cha cả Hội nhà văn, người ta cứ tưởng ông sẽ nhổ bọt mà đi chỗ khác chơi, nào ngờ ông vẫn hớn hở đến dự đại hội. Sau khi một số nhà văn miền Nam đòi đuổi kẻ đã “bêu xấu Hội nhà văn” ra khỏi đại hội, người ta cứ tưởng ông sẽ đùng đùng bỏ đi, nhưng không, ông vẫn ngồi ghế đại biểu trong đại hội và khi các nhà văn đổ xô đi chụp ảnh với ông Tổng bí thư, ông chen bật đám đông, chiếm chỗ gần ông Nông Đức Mạnh nhất để được thu vào ống kính . Sau khi đã bị Trần Mạnh Hảo chửi như té nước vào mặt trên một số báo, người ta tưởng ông sẽ không thèm nhìn mặt, ngờ đâu giờ giải lao ông vẫn bá vai bá cổ và mời Trần Mạnh Hảo đi nhậu. Thật chẳng còn hiểu ra làm sao .
Tuy nhiên, kết quả của Đại hội đại biểu Hội nhà văn lần thứ 7 thì có thể hiểu được một cách dễ dàng. Nó cũng như một buổi gặp mặt tổng kết 5 năm của một hội quần chúng của Đảng kiểu như Hội nuôi ong, Hội chim hoa cá cảnh vậy thôi.
Phát biểu của các nhà văn dù là chính thống hay phi chính thống thì cũng theo gió mà bay lên trời cả. Mọi việc vẫn trôi theo kịch bản của ông…Vũ Như Cẫn, chiều hướng cơ bản của thời đại hiện nay.
17-5-05
NT
khieman
07-14-2014, 06:01 AM
.
Hội nhà văn của nước ta
Kỳ 1….
ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
“…Hội nhà văn của nước ta,
mấy thằng chạy chức đi ra đi vào
nghèo thì đậu phụ thuốc lào
giàu thì rượu ngoại phong bao phải dày
tiền tươi phải tới liền tay
“Chấp hành”* một ghế nhận ngay khó gì …”
(* Uỷ viên Ban chấp hành )
Ngay trước ngày khai mạc Đại hội lần thứ 7 Hội nhà văn Việt Nam, dư luận trong giới cầm bút đã ì xèo chuyện “ chạy ghế” vào Ban chấp hành, chuyện “lật đổ” nhà thơ Hữu Thỉnh , người ngồi đã quá lâu trên ghế Tổng thư ký Hội, người xây dựng “bộ máy” cấp 1 ( cơ quan của Hội) và bộ máy cấp 2 ( báo chí, xuất bản, hãng phim, bảo tàng…) toàn bằng đồng hương Vĩnh Phú.
Trên báo Công an nhân dân đã đăng công khai bài viết của nhà thơ Phạm Tiến Duật tố cáo Hữu Thỉnh “phạm pháp”, lộng quyền, ôm đồm, bao biện hết cả tiền của Đảng rót cho nhà văn. Ngay trong đại hội, cuộc “vận động hành lang” vẫn diễn ra náo nhiệt, nhà thơ Trần Ninh Hồ mất cả buổi trưa để vận động lão nhà văn Nguyễn Quang Sáng lên “ tham luận” yêu cầu Hữu Thỉnh từ chức, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo , Nguyễn Thuỵ Kha, nhà văn Trung Trung Đỉnh, Cao Tiến Lê…dáo dác khắp nơi mong kiếm được một vé vào Ban chấp hành. Và ngay trong đám các nhà văn Vĩnh Phú chia nhau các loại ghế ở Hội nhà văn, cũng không thống nhất thành một khối, trước đại hội cũng “uýnh” nhau lộn bậy khiến bà con lại có thơ rằng :
“ Mấy thằng Vĩnh Phú đánh nhau
Hữu Thỉnh vỡ đầu Tiến Duật sứt tai
Văn Chinh chém mướn vòng ngoài
Vĩnh Tuấn nổi cáu dở bài bọ hung
Chung quy cũng tại vua Hùng…
Đẻ ra một lũ vừa khùng vừa điên …”
Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Văn Chinh, Trương Vĩnh Tuấn đều là người Vĩnh Phú, quan chức Hội nhà văn.Tuy nhiên, dù có chạy chọt đấu đá ra sao thì mọi mơ tưởng của mấy anh nhà văn đều hão huyền bởi lẽ vấn đề “nhân sự “ là do cấp trên quyết định đúng như lời ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng văn hoá phát biểu tối ngày 22 tháng 4 trong cuộc họp giành riêng cho đảng viên :
” Uỷ viên chấp hành các đồng chí bầu ai thì bầu riêng Tổng thư ký phải để cho Đảng chỉ định…”.
Và theo tinh thần chung cho các Hội, để giữ vững ổn định chính trị, tránh xáo trộn , tốt nhất là bầu ông Vũ Như Cẫn lãnh đạo , quả nhiên Đại hội đã “bầu ra” Tổng thư ký ( giờ đổi thành Chủ tịch) vẫn là Hữu Thỉnh, Phó Tổng thư ký ( tức Phó Chủ tịch) vẫn là Nguyễn Trí Huân – không có gì thay đổi.
Đại hội lần thứ 7 diễn ra trong tình hình các nhà văn hầu hết đã được “thuần hoá”, đã trở thành “bé ngoan” của Đảng, bởi vậy Đảng không còn lo những tiếng nói “phản kháng”, “chống đối” cất lên từ diễn đàn đại hội.
Duy nhất có nhà thơ đòi đa nguyên đa Đảng là Bùi Minh Quốc mới được tha “quản chế” thì lại bị “Đại hội cơ sở các nhà văn miền Đông Nam Bộ” không bỏ phiếu cho đi dự Đại hội toàn quốc. Tuy nhiên ông Bùi Minh Quốc vẫn bay ra Hà Nội đòi vào Hội trường Ba Đình trong lúc đại hội đang họp và bị công an mời ra vì không có …huy hiệu vào cửa vốn chỉ phát cho đại biểu chính thức. Không chùn bước, nhà thơ Bùi Minh Quốc lại kiện Ban tổ chức đã cho cả nhà phê bình Phạm Quang Trung ở Đà Lạt đi dự đại hội khi ông này đã bị khai trừ khỏi hội về tội tham ô, hơn nữa, nhà thơ Bùi Minh Quốc vẫn ứng cử vào Ban chấp hành dẫu không trúng nhưng vẫn đạt được hơn 100 phiếu bầu, qua đó cho thấy tỷ lệ “ủng hộ phản kháng” thầm trong bụng của các nhà văn Việt Nam là 20 phần trăm.
Ngày đầu tiên 23 tháng 4, họp “nội bộ”, trong hầu hết những tham luận “tát nước theo mưa” đòi nhà văn đứng vững trên lập trường của Đảng, bỗng nảy nòi ra bài tham luận của nhà văn Hoàng Quốc Hải có tựa đề “ Nỗi niềm tác phẩm đỉnh cao”. Trước hết ông đưa ra thân phận cay đắng của nhà văn “đỉnh cao “ Vũ Trọng Phụng :
“ Sinh thời ông chỉ ao ước :” Nếu ở đời có được cơm mà ăn no nhỉ ?” . Năm 27 tuổi ông qua đời vì bệnh lao phổi để lại một người con gái 2 tuổi và một đống tác phẩm. Không ít trong số mấy chục tác phẩm của ông đạt đỉnh cao thế giới.”
Vậy mà những tác phẩm ấy bị vùi lấp trên nửa thế kỷ, không một lần được tái bản. Bởi một thời gian rất dài người ta vu cho ông là phần tử trốt kít (Trosky). Tới khi tác phẩm của ông được tái bản, chị Vũ thị Hằng , con gái ông đã ngoài 50 tuổi, chỉ dán mắt nhìn tác phẩm của cha mình trở thành tài sản chung của xã hội theo “luật bản quyền” mới ban hành..
Chị Hằng và chồng chị đã đưa phần mộ của cha mình về ngôi vườn tại quê hương làng Mọc. Ngôi mộ được xây cất đàng hoàng, ốp đá cẩm thạch mà không có bất kỳ tài trợ nào từ Nhà nước và các hội đoàn. Sự thờ ơ đến bội bạc của đương thời và hậu thế khiến nhiều nhà văn nản lòng…”
Nhưng đó là chuyện từ thời…tự lực văn đoàn, còn chuyện của Hội nhà văn 10 năm lại đây (1996-2005), ông Hoàng Quốc Hải nhận định :
“ số lượng tác phẩm của các nhà văn phát hành không phải là ít nhưng không khuấy động được công chúng. Không khí văn học bình lặng như mặt nước ao thu. Khas nhiều tác phẩm “tốt” cả về nội dung lẫn nghệ thuật nhưng công chúng bạn đọc vẫn thờ ơ và đòi nền văn học phải có đỉnh cao. Đòi hỏi đó là nỗi bức xúc của công chúng trước hiện thực xã hội. Bởi soi vào tác phẩm văn học họ thấy hụt hẫng.”
Độc giả đòi hỏi như vậy vì sao các nhà văn không đáp ứng được cho dù “ cái nền hiện thực xã hội trong mười năm gần đây , dư thừa chất liệu cho các nhà văn Việt Nam làm nên tác phẩm đỉnh cao. Đây là cơ hội , dù nó là cơ hội đem lại nhiều bất hạnh cho số đông nhưng nếu bỏ qua sẽ là một tiếc nuối , một ân hận…”
Đúng là chưa bao giờ, xã hội cung cấp cho nhà văn nhiều chất liệu đến như thế này :
“ Bức tranh xã hội đủ mầu sắc. Vui có, buồn có, bi thương có, âm mưu thủ đoạn có, tham nhũng hối lộ có, lừa đảo có, đểu cáng có, bất hiếu bất mục, bất nhân bất nghĩa…không thiếu một loại nào . Đặc biệt lũ cơ hội xuất hiện nhan nhản. Đó là những kẻ tiếm quyền hành để tước đoạt trắng trợn tài sản quốc gia , hối hả tich luỹ vốn liếng để mau chân chạy sang hàng ngũ tư bản. Và bây giờ chúng đang âm mưu rửa tiền để hợp thức hoá và công khai hoá số tài sản khổng lồ mà chúng chiếm đoạt bằng các thủ đoạn bất lương.
Công chúng đòi hỏi nhà văn bằng ngòi bút và lương tâm của mình phải vạch mặt bọn chúng, “không cho chúng nó thoát”. Phải cho tái xuất hiện các gương mặt kiểu Nghị Quế, Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan, Bá Kiên, Chí Phèo …thời hiện đại”
Những dòng văn mang đầy tính công tố và kết tội này được đọc giữa Hội trường Ba Đình, tiếc thay cử toạ lại là các nhà văn, ví thử là các đại biểu quốc hội – các ông nghị nổi tiếng “gật”, thì không biết các quý “đại biểu’ ấy sẽ phản ứng như thế nào ?
Bức tranh hiện thực phong phú như vậy lại tuyệt nhiên không phản chiếu được vào tác phẩm, bởi thế “công chúng mới chối bỏ.”. Độc giả quay lưng lại với các tác phẩm văn học là “điều tệ hại nhất đối với nhà văn . Đó còn là dấu hiệu báo trước một nền văn học đang vững chắc bước vào giai đoạn suy thoái…”
Nhận định này hoàn toàn đi ngược với Hội nhà văn trong Báo cáo tổng kết 5 năm nhiệm kỳ 6 do nhà thơ Hữu Thỉnh trình bày trong ngày khai mạc chính thức tại Hội trường Ba Đình ngày 24-4-05 với sự có mặt của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, nguyên Tổng bí thư Đõ Mười , Phan Diễn,Trưởng ban Bí thư trung ương :
“ 5 năm qua văn học ta có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về tất cả các thể loại . Mối quan tâm về hệ thống giá trị mới đang được xác lập , về đạo đức xã hội , về bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc là những thông điệp thường gặp trong các tác phẩm văn học…”
Rõ thật là trống đánh xuôi kèn thổi ngược…
(còn tiếp)
khieman
07-15-2014, 12:50 AM
(tiếp theo)
Hội nhà văn của nước ta..
Kỳ 2
ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
Chính “bóng tối” hiện đang bao phủ trên rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân đã che đậy tội lỗi cho những tên cán bộ tham nhũng và sa đoạ của Đảng và Nhà nước, giúp chúng lọt lưới trừng phạt của pháp luật và được hưởng đặc ân “xử lý nội bộ” vốn là một thủ đoạn ngạo mạn, ngồi xổm lên luật pháp.
Minh bạch hoá từ việc nhỏ như tài sản của cán bộ cho tới việc lớn như chi tiêu ngân sách Nhà nước là bước khởi đầu đi tới một xã hội dân sự .
Nhà văn Hoàng Quốc Hải đòi “minh bạch” ngay trong kiểm duyệt tác phẩm :
“ Chúng ta đang sống trong một xã hội công dân , đòi hỏi mọi sự phải giải quyết minh bạch. Vì vậy những tác phẩm bị kiểm duyệt toàn bộ hoặc kiểm duyệt một phần cần được công bố công khai . Và nói rõ tác giả đã vi phạm những điều nào , điều nào theo luật định. Nếu tác giả không chấp thuận, họ có quyền khiếu nại việc đó ra toà dân sự…”
Từ xưa tới nay, việc “chôn” một cuốn sách chỉ được thực hiện qua một cú phôn của một sếp lớn Ban tuyên huấn hoặc Cục an ninh văn hoá hoặc ở mãi trên thượng đẳng thiên tào Bộ chính trị của Đảng. Toàn bộ tác phẩm của Vũ Trọng Phụng bị cấm trong liền ba bốn thập kỷ là do lệnh miệng của ông Hoàng văn Hoan, Uỷ viên Bộ chính trị do nghe mấy anh quân sư quạt mo tán rằng Vũ Trọng Phụng nói xấu bố ông ta vốn là…ký ga.
Từ những tác phẩm “Vào đời” của Hà Minh Tuân, “Đống rác cũ “ của Nguyễn Công Hoan , “Sắp cưới” của Vũ Bão….đến “ Người con của đất” của Đỗ Văn Bàn, thơ “Chân dung” của Xuân Sách, “ Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn…tất cả đều bị chôn trong kho làm mồi cho mối hoặc xay thành bột giấy đều không do một quyết định thành văn nào hết, tất cả đều thực hiện trong “bóng tối” bằng những “ý kiến anh này”,” ý kiến anh kia” mà tuyệt nhiên chẳng “anh”nào chường mặt ra nhận lấy trách nhiệm chôn sách, xay sách.
Phép nước, luật đảng từ xưa tới nay và cả mai sau đã định như thế rồi, bởi vậy đề nghị của ông Hoàng Quốc Hải ngay tại diễn đàn công khai của Hội nhà văn khác nào một phạm thượng láo xược làm sao mà lọt được vào tai của đảng ? Tuy nhiên, ông cũng phải ngậm ngùi thừa nhận rằng muốn có tác phẩm đỉnh cao nhà văn phải “có tài năng lớn”,”trí tuệ siêu việt”,” nhân cách cao thượng”…những cái đó các nhà văn đều có cả, chỉ tiếc Thượng đế ban cho họ hơi bị…ít.
Một tham luận khác gây sôi nổi ở hội trường là của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Lâu nay ông này mang tiếng là “đầu gấu”, “gác chợ”, “cảnh sát văn nghệ của Đảng “ giờ bỗng dưng lại giở giọng “cấu Đảng” là sao ?
Nguyên là ông Tổng thư ký Hữu Thỉnh trong lúc làm công tác chuẩn bị đại hội nảy ra ý định có một tham luận có chút chút “đổi mới” cho có khí thế, kiểu như cắt thêm mấy lát ớt vào bát phở cho cay cay, ngon miệng, bèn điện vào Sàigòn nhờ cậy Trần Mạnh Hảo vốn là anh nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng OK.
Nào ngờ bấy lâu nay bị thiên hạ chửi là “đồ trở cờ, quân bảo thủ” đến rát cả mặt, Trần Mạnh Hảo muốn lợi dụng dịp này tỏ cho thiên hạ thấy ta đây cũng “phản kháng” lắm đây, chứ chẳng như mấy thằng thối mồm kia đâu. Thế là nhảy lên diễn đàn đại hội, Trần Mạnh Hảo diễn vai “đối lập”. Anh ca ngợi vua Tự Đức ngày xưa “ không vì một câu thơ khi quân trong truyện Kiều mà ra lệnh đốt hết sách Nguyễn Du” và mượn xưa nói nay, Trần Mạnh Hảo thống thiết :
“ Oi, giá mà thời nay có được vài ông vua như Tự Đức thì mấy cuốn sách hiền như bụt kiểu “ Thượng đế thì cười” của Nguyễn Khải, “ Chuyện kể năm 2000” của Bùi Ngọc Tấn, “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh…dù lục lọi mỏi tay, tìm bới mỏi mắt cũng chẳng thấy câu văn khi quân nào , đã không phải ném vào máy nghiền để thành bột giấy….”
So sánh vậy khác nào Trần Mạnh Hảo ca cẩm đảng ngày nay còn tàn ác hơn cả vua chúa phong kiến ngày xưa. Tiếp đó anh cho rằng “thi sĩ chính là Thượng đế là ông chủ của vũ trụ thi hứng, phải ứng xử như đấng toàn năng với nguyên tắc bất di bất dịch “ Dọc ngang nào biết trên đầu có ai…”…tuyệt nhiên không được phép để một ám ảnh sợ hãi nào quấy nhiễu mình “
Ay thế mà anh nhà văn lại :
“còn phải day dứt viết thế này, viết thế nọ mới được duyệt in; rằng đang có bao nhiêu đôi mắt soi mói vô hình kiểm duyệt anh từ xa ví như viết xong một câu văn là cứ phải mắc bệnh tương tư , nhớ đến anh Khổng Minh Dụ ( Cục trưởng Cục an ninh văn hoá), anh Đỗ Kim Cuông ( Vụ trưởng Vụ văn nghệ), anh Trinh Đình Khôi, anh Nguyễn Đình Nhã, anh Vũ Duy Thông , nhớ mấy anh canh cửa phê bình, nhớ anh giám đốc duyệt bài, anh biên tập viên cầm hai tay hai cái kéo , nhớ anh duyệt lưu chiểu hồi này với máy dò câu chữ nghe đồn còn kỹ hơn máy dò hành lý hải quan, thì than ôi, bằng ấy cơ chế kiểm duyệt đè nặng lên tâm lý sáng tạo của anh, nên vừa viết vừa run như thế, nghĩa là anh vừa viết vừa tự thiến đứa con tinh thần của mình, cho nên khi ra đời nó không được có cơ hội cuồng lên vì phát dục , xoá hết bản năng sinh tồn bùng sôi của nó đi , đẽo gọt chân nó sao cho vừa với đôi giày “chính trị” đi, thì nhà văn ơi, tự do sáng tác ơi, ta chào mi…”
Càng nghe Trần Mạnh Hảo tham luận, người ta càng ngạc nhiên như thấy lại một Trần Mạnh Hảo “ly thân” với Đảng ngày trước :
“Quá nhiều cơ quan và nhiều cá nhân quyết định sự sống còn của ngòi bút theo kiểu nhiều cha con khó lấy chồng. Quá nhiều người gác cửa , có thể bất cứ lúc nào vui thì cho anh qua, buồn thì giữ anh lại khám xét , lục vấn, xử lý cấm cản tuỳ tiện vô nguyên tắc như từng thô bạo xử lý bao nhiêu nhà văn, bao nhiêu tác phẩm chết oan vì vừa ra đời đã bị bóp mũi…”
Kết tội thẳng thừng chế độ kiểm duyệt của Đảng và Nhà nước đến như Trần Mạnh Hảo thì xưa nay chưa nhà văn nào làm được ngay trên diễn đàn đại hội chính thức của nhà văn Việt nam :
“ Với cơ chế luật pháp lằng nhằng , cấm thì bảo cấm, thu hồi thì bảo thu hồi, kiểm duyệt thì bảo kiểm duyệt y như thời Tây đi một nhẽ thì nhà văn sẽ mừng vô cùng. Nhưng đảng ta bảo chế độ ta tự do báo chí, tự do sáng tác không kiểm duyệt mà khi thực hiện thì than ôi, ai có qua cầu mới biết, gò bó cấm cản muôn phương…”
Vậy là về tự do báo chí, tự do sáng tác, đảng chỉ nói mồm, còn trong thực tế…”gò bó cấm cản muôn phương” - câu này nếu được trích dẫn trong báo cáo nhân quyền hàng năm của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ thì còn lâu Việt Nam mới được đưa ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt.
Đã chê Đảng “cấm cản” báo chí và sáng tác, Trần Mạnh Hảo lại khen khéo thời Tây ngày xưa :
“Thời Tây, nước ta mất, dân ta nhục, Tây nó bảo tao không cho mày tự do sáng tác, tự do báo chí , tao kiểm duyệt rõ ràng đây này ; luật nó khiếp hãi , gian ác là vậy mà dân ta xin nó ra báo tư, xuất bản tư thằng tây nó cho liền, anh này ra báo tư, anh kia ra xuất bản tư, mừng quá. Thời mặt trận Bình dân nó còn cho cả báo chí , xuất bản của đảng cộng sản ra công khai, mới có hàng loạt tiểu thuyết lớn xuất hiện , tố cáo chính chế độ gian ác , phản tự do, phản dân chủ của nó…”
Và Trần Mạnh Hảo giở giọng khích bác :
“ Mà thằng Tây gian ác cũng lạ, sách ra, có nhẽ nó cóc đọc được tiếng Việt nên nó cóc có cấm, cóc có Ban tư tưởng, cóc có A25. cóc có hàng chục cơ quan, hàng trăm người có thể thò tay thò chân vào nắn nắn từng con chữ như chế độ độc lập tự do bây giờ. Trong thời Tây nô lệ muôn vàn, gian ác muôn vàn, không hiểu các bố nhà văn ta hồi ấy lấy tự do sáng tác ở đâu ra mà sinh bao kiệt tác :” Số đỏ, Chí Phèo, Tắt đèn, Kép Tư Bền, Bỉ vỏ, Vang bóng một thời, “thơ mới 1932-1945”…truyền tới hôm nay….”
Đến đây, người ta thấy Trần Mạnh Hảo không còn chỉ cắt vài lát ớt mà đã đổ nguyên cả lọ tương ớt vào “ bát phở” của Đại hội nhà văn lần thứ 7.
(còn nữa)
khieman
07-23-2014, 01:21 AM
(tiếp theo và hết)
Hội nhà văn của nước ta
kỳ 3
NHÂN ĐẠI HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM 7 ( 23/25-4-05) :
“ Mượn gió bẻ măng”, mượn lời mời chính thức của Tổng thư ký Hội nhà văn Hữu Thỉnh chính thức mời viết tham luận, Trần Manh Hảo hăng lên yêu cầu :
“ Những nhà quản lý văn học nghệ thuật của chúng ta hôm nay cần phải học được lối ứng xử với nhà văn không hơn được thì ít ra cũng bằng với ông cha, mới hy vọng có tác phẩm lớn. Xin thực hiện đúng cương lĩnh “ TỰ DO SÁNG TÁC” của Đảng và Nhà nước vẫn ban hành , xin bớt bớt giùm đi các cấp trung gian , quan tâm tới nhà văn vượt mức các chỉ tiêu trên giao thì quý hoá biết là chừng nào…”
Chỗ này người ta thấy rõ TMH xỏ xiên, vu cho Đảng là có cương lĩnh “TỰ DO SÁNG TÁC”; thực ra chưa bao giờ Đảng cho văn nghệ sĩ cái của quý hiếm ấy cả, Đảng chỉ cho họ cái quyền “tự do sáng tác” theo…định hướng xã hội chủ nghĩa mà thôi nói vắn tắt là chỉ được phép viết những gì “có lợi” cho sự ổn định chính trị của Đảng .
Bài tham luận của Trần Mạnh Hảo được đọc theo lối “diễn tuồng” giọng trầm giọng bổng khiến đại biểu vỗ tay ào ào và làm ông Tổng thư ký hội Hữu Thỉnh ngồi trên ghế Chủ tịch đoàn cứ giật mình thon thót. Ong nhớ lại lời một vị trong Ban tuyên huấn thành uỷ TP Hồ Chí Minh khi Trần Mạnh Hảo “quay cờ” bán hải ngoại trở về với Đảng “:” ...chúng tôi đã có kinh nghiệm về những tên “sọc dưa”, không thể tin được bọn chúng…”. Chí lý thật, cứ tưởng TMH đã trở thành “con đê chắn sóng cho Đảng”, thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá văn nghệ, ngờ đâu nhè đúng ngay diễn đàn Đại hội nhà văn để mà “trở mặt” cấu Đảng mới gay.
Quả nhiên ngay buổi chiều tan họp, ông Đào Duy Quát, Phó ban tư tưởng văn hoá đã tới gặp Tổng thư ký uốn nắn : ”Ông Thỉnh, ông làm gì mà ghê thế ? Ngày mai Tổng bí thư tới dự họp các ông phải liệu liệu…”. Tất nhiên ông Hữu Thỉnh phải vâng dạ rối rít và hôm sau , ngày Đại hội họp chính thức, có Tổng bí thư và cả 6 ông Uỷ viên Bộ chính trị tới dự, ông đã bố trí hàng loạt tham luận của các nhà văn “cháu ngoan bác Hồ” nhằm gỡ tội đã để lọt hai tham luận của Hoàng Quốc Hải và Trần Mạnh Hảo làm bẽ mặt các quan.
Trước hết nhà văn cao tuổi Nguyễn Gia Nùng lên diễn đàn phê phán hai bài tham luận của hai ông Hải và Hảo chỉ nói tới “tự do sáng tạo” mà quên đi “trách nhiệm công dân”. Ông yêu cầu “tự do” và “trách nhiệm” là hai thứ phải luôn song hành, tất nhiên phải hiểu đó là trách nhiệm với Đảng.
Nữ thi sĩ đồng bằng sông Cửu Long tên là Kim Quyên lên tham luận nhiệt liệt ca ngợi…”sếp” Hữu Thỉnh bay ra bay vào như một cánh chim không mỏi để khuấy lên “phong trào sáng tác “ ở miền Nam.
Nữ thi sĩ TP Hồ Chí Minh tên là Thu Nguyệt cũng bày tỏ sự không đồng tình với các tác phẩm đi sâu vào mặt trái của xã hội bằng đưa ra cái mẹo “đau Nam chữa Bắc”, tức nhà văn không nên đi thẳng vào các chuyện “ tham nhũng, thiên tai lũ lụt, lớp trẻ sa đà ăn chơi…” mà chỉ nên viết về những cái đạo lý cao cả như một anh nhà văn công an không viết về tội phạm mà lại chỉ chuyên viết về…Phật. .
Nữ văn sĩ cũng TP Hồ Chí Minh tên là Trầm Hương cũng lên diễn đàn đòi : ” Tôi muốn viết “ Hoa cúc kim” – một tiểu thuyết về người phụ nữ cải nam trang trốn sang Trung Quốc dự khoá học do bắc Hồ đào tạo. Tôi muốn viết bộ tiểu thuyết sử thi về Mậu Thân 1968 đầy bi tráng…”.
Các đại biểu nhà văn Nam bộ – trong đó có cả ông Giám đốc khách sạn kiêm nhà văn Lê Thành Chơn chẳng những “gỡ tội” cho sếp Hữu Thỉnh mà còn vinh danh Hội nhà văn đòi đuổi ra khỏi đại hội kẻ nào đã bêu xấu Hội trong thời gian qua (ám chỉ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp) làm các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng ngồi nghe cứ rạng rỡ cả mặt mày .
Tuy nhiên không phải nhà văn nào cũng vỗ tay khen bài tham luận của Trần Mạnh Hảo, nhất là những người hiểu rõ bản chất “thợ quay” của nhà thơ. Trong bữa ăn ở Đại hội, nhà văn Thái Bá Lợi , đại biểu Đà Nẵng nhận xét : ” Thằng Hảo nó …chửi mồi”. Cuối buổi chiều ngày thứ hai, lợi dụng không khí đại hội chán nản phải nghe những tham luận “ ca ngợi truyền thống văn học cách mạng”, nhà văn kiêm điện ảnh Đỗ Minh Tuấn nhảy lên diễn đàn vạch mặt cơ hội chủ nghĩa của Trần Mạnh Hảo :
” Đó là một nhân vật điển hình cho kiểu lý luận đầu cơ trên lẽ phải thông thường, quy giản các quan hệ văn hoá học thuật thành quan hệ chính trị và đạo đức để quy chụp nặng nề những người có cách viết khác với những gì được anh ta coi là bút pháp chính thống. Từ năm 1995 đến nay, Trần Mạnh Hảo đã viết nhiều bài xuyên tạc, bóp méo, bôi bẩn, quy kết đạo đức chính trị hàng loạt tác phẩm có tìm tòi về thi pháp như các tập thơ Mùa sạch của Trần Dần, Bóng chữ của Lê Đạt, 99 tình khúc của Hoàng Cầm, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều, tiểu thuyết Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà…Cái cách phê bình kiểu Trần Mạnh Hảo và sự o bế của những người lãnh đạo văn hoá văn nghệ đã biến anh ta trở thành một vấn đề xã hội bức xúc trong giới cầm bút vì nó đã gián tiếp hạn chế tự do sáng tác một cách tinh vi và có hiệu quả khi nó tạo ra một môi trường văn hoá phê bình cộng sinh giữa những thái độ chính trị văn hoá bảo thủ thâm sâu và cái suồng sã hồn nhiên trơ tráo của một thứ văn chương cai lệ.
Nếu như cây roi của các nhà chính trị bảo thủ trước đây chỉ quất vào mông văn nghệ sĩ như Tự Đức đòi đánh đòn Nguyễn Du, thì ngọn roi của Trần Mạnh Hảo lại quất vào tim những người cầm bút. Nằm trong chăn biết chăn có rận, là nhà thơ có chút tinh tế, tài hoa, sắc sảo, Trần Mạnh Hảo đã đem những phẩm chất thi nhân của mình len lỏi vào thâm cung chữ nghĩa trong tâm hồn người viết để thăm dò, tâu báo và khủng bố. Những người cầm bút phải dành thời gian tâm trí cho việc thanh minh, tự vệ truy lại thanh danh đã bị bôi bẩn và vì thế không còn tâm trí nghĩ về những chuyện lớn lao có tầm vóc toàn xã hội như tự do, dân chủ. Trần Mạnh Hảo là kẻ cướp đi nhiều tự do sáng tác của nhà văn, là cái roi ai đó đã dùng quất vào tâm hồn trí tuệ tự do của người nghệ sĩ, nay bỗng dưng anh ta lại la lối kêu ca về tự do sáng tác có khác nào vừa ăn cướp vừa la làng, đổ vấy tội lỗi của mình cho ai đó. Thật chẳng khác gì Chí Phèo lại có ngày la làng chửi bới những kẻ du côn đái vào miếu Thành Hoàng.
Trần Mạnh Hảo nói rằng văn nghệ sĩ là những người thấp cổ bé họng trong xã hội mà lẽ ra họ phải là Thượng đế trong chân trời sáng tạo của mình, nhưng hỡi ôi, trước đó không lâu cái kẻ văn nhân thấp cổ bé họng đó đã bị “anh gác chợ” Trần Mạnh Hảo cậy quyền cậy thế hoạnh hoẹ, lục soát văn thơ, sờ nắn khám xét từng dòng chữ, từng dấu phẩy để đong đếm từng tiếng cười tiếng khóc mà tri hô với Đảng về tư cách khả nghi của họ. Sau khi dùng những bài viết thô bạo và nguỵ biện để cướp đoạt được miếng đất tự do sáng tác, Trần Mạnh Hảo lại lớn tiếng bảo vệ miếng đất anh ta vừa cướp được, đó là cái cách thể hiện chủ quyền công khai để phi tang những hành vi cướp đoạt, tiến tới làm “sổ đỏ” cho miếng đất “bốn mặt tiền” anh ta có được sau ba lần trở cờ trắng trợn. Trên diễn đàn Đại hội, Trần Mạnh Hảo cũng phi tang việc anh ta sử dụng báo chí của công an làm nơi khủng bố văn nghệ sĩ bằng việc la lối về công an văn hoá khiến ông Khổng Minh Dụ phải bước lên trên bục để thanh minh….”
Nhận định khái quát của Đỗ Minh Tuấn về Trần Mạnh Hảo đã được anh em bầu là câu nói hay nhất đại hội :” Trần Mạnh Hảo là cái ca-pôt rách của Đảng, giữ vệ sinh cho Đảng trong quá trình giao lưu văn hoá làm bạn với tất cả thế gian.”.
Tuy nhiên nhân vật gây cười nhất cho đại hội lại là …nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Sau khi đã chửi cha cả Hội nhà văn, người ta cứ tưởng ông sẽ nhổ bọt mà đi chỗ khác chơi, nào ngờ ông vẫn hớn hở đến dự đại hội. Sau khi một số nhà văn miền Nam đòi đuổi kẻ đã “bêu xấu Hội nhà văn” ra khỏi đại hội, người ta cứ tưởng ông sẽ đùng đùng bỏ đi, nhưng không, ông vẫn ngồi ghế đại biểu trong đại hội và khi các nhà văn đổ xô đi chụp ảnh với ông Tổng bí thư, ông chen bật đám đông, chiếm chỗ gần ông Nông Đức Mạnh nhất để được thu vào ống kính . Sau khi đã bị Trần Mạnh Hảo chửi như té nước vào mặt trên một số báo, người ta tưởng ông sẽ không thèm nhìn mặt, ngờ đâu giờ giải lao ông vẫn bá vai bá cổ và mời Trần Mạnh Hảo đi nhậu. Thật chẳng còn hiểu ra làm sao .
Tuy nhiên, kết quả của Đại hội đại biểu Hội nhà văn lần thứ 7 thì có thể hiểu được một cách dễ dàng. Nó cũng như một buổi gặp mặt tổng kết 5 năm của một hội quần chúng của Đảng kiểu như Hội nuôi ong, Hội chim hoa cá cảnh vậy thôi. Phát biểu của các nhà văn dù là chính thống hay phi chính thống thì cũng theo gió mà bay lên trời cả. Mọi việc vẫn trôi theo kịch bản của ông…Vũ Như Cẫn, chiều hướng cơ bản của thời đại hiện nay.
17-5-05
NT
khieman
07-25-2014, 04:46 PM
.
Cơn ông chưa qua, cơn bà đã tới…
( Nhân trả lời phỏng vấn về Giải thưởng Hội nhà văn 2006 của ông Nguyễn Trí Huân, Chủ tịch Hội đồng Giải thưởng in trên báo Văn Nghệ ngày 4 tháng 11 năm 2006)
Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam gây tai tiếng ầm ĩ khi ông Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh “ tự trao” giải thưởng cao nhất cho mình với tập thơ “ Thương lượng với thời gian” , đáng ghi vào Guiness Việt Nam với cú hattrict 4 lần được giải thưởng của Hội. Tiếp đó báo chí lại ầm ĩ lên vụ Ly Hoàng Ly và Thuận từ chối tặng thưởng trao cho mình.
Để gỡ thể diện cho “sếp”, trả lời câu hỏi của phóng viên :
“Có một số ý kiến xung quanh tập thơ “ Thương lượng với thời gian” của nhà thơ Hữu Thỉnh. Theo quan điểm của ông. Ông đánh giá thế nào về việc này?”
ông Nguyễn Trí Huân vờ như không nghe không biết gì - vốn là “võ ruột” của các quan chức Việt Nam, bởi vậy ông :
“ … rất ngạc nhiên trước những ý kiến trên một số tờ báo về tập thơ này. Hình như tác giả của các bài báo kể trên chưa hiểu hết về quy trình xét giải thưởng của Hội dẫn đến một số ý kiến chưa đúng , đôi khi nặng nề về tập thơ “Thương lượng với thời gian và cá nhân nhà thơ Hữu Thình …”
Vậy “quy trình xét giải thưởng của Hội” lắt léo, phức tạp đến mức nào , liệu có bằng giải Goncourt, Nobel không mà các nhà văn, nhà báo không nắm được để đến nỗi “viết oan” cho ông Chủ tịch Hội ?
Ông Nguyễn Trí Huân sáng kiến dùng con bài “ngoại phạm” để “chạy tai tiếng” cho “thủ trưởng “ :
“ Về quy chế , tác giả có tác phẩm dự giải nếu là thành viên của Hội đồng giải thưởng thì không được thảo luận và bỏ phiếu cho mình…Nhưng để tôn trọng tính khách quan của Hội đồng, nhà thơ Hữu Thỉnh đã xin phép Ban chấp hành không tham gia Hội đồng vì có tác phẩm dự giải…và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng không có mặt ở Trụ sở Hội khi Hội đồng giải thưởng Họp phiên cuối…”
Ong Nguyễn Trí Huân coi độc giả như con nít khi cho rằng cứ rút khỏi Hội đồng xét giải là ông Hữu Thỉnh không còn giật dây bất kỳ con rối nào nằm trong Hội đồng. Nếu vậy, để tăng thêm tính cách “ngoại phạm” của Hữu Thỉnh, sao ông Chủ tịch không tổ chức họp Hội đồng ở khách sạn Daewoo để ông Chủ tịch Hội cứ ngồi ở trụ sở Hội cho thêm phần “khách quan”. ?
Ong Nguyễn Trí Huân cố tình tảng lờ làm như không biết rằng trong thời đại IT ông Hữu Thỉnh thừa sức có cái remote điều khiển từ xa bất kỳ thuộc cấp nào, rằng dẫu ông Chủ tịch Hội không có chân trong Hội đồng Giải, ngày Hội đồng họp phiên cuối ở trụ sở Hội nhà văn, ông có đi công cán tận xứ Mèo trên Tây Bắc chăng nữa thì ông vẫn có mặt trong từng vị Uỷ viên Hội đồng vì cái ghế, vì quyền lợi, vì bổng lộc của từng quý vị có còn được hưởng nữa hay không là phụ thuộc vào …cái cổ của từng vị có chịu “gật” cho ông Chủ tịch Hội được trao giải hay là không ?
Mà cái miếng bánh “quyền lợi” ấy gấp vô số lần nhuận bút xưa nay vốn rất hẻo của các nhà văn . Nào đi Thái Lan, Mông Cổ, Trung Quốc, Rumani, Ba Lan…nào trại sáng tác Tam Đảo, Nha Trang, Đà lạt, Vũng Tàu…Nào tiền tài trợ sáng tác dài hạn, ngắn hạn…Bởi vậy một khi đã được trên để mắt chọn ngồi vào cái ghế Uỷ viên Hội đồng giải thưởng thì không một anh chị nào dại dột mà ‘trái ý’ cấp trên. Bởi thế người ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông Nguyễn Trí Huân khoe khoang :
“ Trong quá trình thảo luận , hầu hết các thành viên của Hội đồng chung khảo đều đánh giá tập thơ “ Thương lượng với thời gian”là một tập thơ có đóng góp trong mặt bằng thơ hiện nay và tập thơ đã đạt số phiếu cao nhất của Hội đồng chung khảo…”
Ong Nguyễn Trí Huân cứ tưởng rằng một khi ngồi ở cái ghế cao như ông thì ông nói hươu nói vượn gì độc giả cũng phải tin ông đến sái cổ, ông đâu biết càng bênh ông Hữu Thỉnh theo kiểu đó lại càng vạch bộ mặt hèn nhát, xôi thịt của toàn Ban chấp hành Hội nhà văn và Hội đồng giải thưởng ra mà thôi. Cái mà ông Nguyễn Trí Huân tôn vinh là “ tập thơ có đóng góp trong mặt bằng thơ hiện nay” thực ra là một tập thơ rất dở. Cứ lấy ngay bài “Thương lượng với thời gian” tiêu biểu cho cả tập :
Buổi sáng lo kiếm sống
Buổi chiều tìm công danh
Buổi tối đem trí khôn ra mài rũa
Tỉnh thức
Những hàng cây bật khóc
10-2005
Trước hết có thể thấy ngay ông Hữu Thỉnh đã lập ý “mạ” theo câu đố của con Nhân Sư trong thần thoại Hi Lạp, rằng :
“Con gì : Buổi sáng đi bốn chân/ Buổi trưa đi hai chân/ Buổi chiều đi ba chân ?” . Và thực ra câu kết “ những hàng cây bật khóc” chẳng liên quan gì đến chuyện :” kiếm sống”, ”công danh”, “mài rũa trí khôn” cả. Bài thơ vừa thiếu chặt chẽ lại vừa chẳng có hồn vía gì. Đọc suốt cả tập thơ thấy cứ nhàng nhàng như thế, chẳng nhặt ra được câu thơ nào thật xuất sắc đúng như nhà văn Nguyễn Quang Thân đã viết trên báo Lao động cuối tuần :
“Công bằng mà nói, thơ ông ( Hữu Thỉnh) tuy có lần bị nhà văn Tô Hoài chê là đồng nát nhưng cũng không đến nỗi dở, cứ gọi là đọc được, cấp dưới yêu ông thì bảo là "hay" cũng chẳng ai dám cãi, văn chương vốn khẩu chứng vô bằng. Nhưng dù thơ hay thật đi nữa ông cũng nên biết mẹ hát mà các con khen đến 4 lần thì cũng hơi nhiều…”
Kể ra nếu “ Thương lượng với thời gian” của Hữu Thỉnh là tập thơ hay ( chưa dám đòi tới xuất sắc) thì ông Phó Nguyễn Trí Huân có thể dõng dạc trả lời thiên hạ :
“ Nhà thơ Hữu Thỉnh cho dù là Chủ tịch Hội , là người đã được nhiều giải thưởng ở các tập thơ trước thì ông vẫn có quyền bình đẳng như bất cứ hội viên nào của Hội nhà văn trong lĩnh vực tham dự và nhận giải thưởng…”
Đúng quá rồi, nếu thơ Hữu Thỉnh như “thần Siêu thánh Quát” thì ai dám tranh với ông làm gì, đằng này thơ ông như “ câu thơ thi xã….con thuyền Nghệ An” mà lại cậy chức cậy quyền ăn hết cả “phần thưởng” thiên hạ thì mới thành chuyện. Chỉ một lẽ đơn giản vậy thôi ông Nguyễn Trí Huân càng bênh “sếp” bao nhiêu càng lộ mặt tham lam của ‘sếp” bấy nhiêu.
“ Cơn ông chưa qua, cơn bà đã tới…”, tai tiếng vụ giành tới 4 lần giải thưởng thơ ở Hội nhà văn chưa tan đi thì ông Hữu Thỉnh lại bị một số website văn học trong nước và hải ngoại tố cáo …ăn cắp thơ . Nguyên là trên mạng Vietnam net ngày 9 tháng 11 năm 2006, ông Đại Lãng Du Tử có phát hiện ra bài thơ “Thượng đế đã làm ra mặt trời” của nữ nhà thơ Đức Christa Reinig (sinh năm 1926) :
Tôi gọi gió
Gió hãy trả lời tôi
Gió nói
Tôi ở bên em.
Tôi gọi mặt trời
Mặt trời hãy trả lời tôi.
Mặt trời nói
Tôi ở bên em.
Tôi gọi các vì sao,
Xin hãy trả lời tôi
Các vì sao nói
Chúng tôi ở bên em.
Tôi gọi con người,
Xin hãy trả lời tôi
Tôi gọi - im lặng
Không ai trả lời tôi.
Quang Chiến dịch
rất giống một bài có thể gọi là phỏng dịch của nhà thơ Hữu Thỉnh, đó là bài :
Hỏi
Tôi hỏi đất: Đất sống với đất như thế nào?
- Chúng tôi tôn cao nhau.
Tôi hỏi nước: Nước sống với nước như thế nào?
- Chúng tôi làm đầy nhau.
Tôi hỏi cỏ: Cỏ sống với cỏ như thế nào?
- Chúng tôi đan vào nhau làm nên những chân trời.
Tôi hỏi người:
- Người sống với người như thế nào?
Thực ra bài thơ trên được nhà thơ Hữu Thỉnh công bố do ông sáng tác in trong tập thơ “Thư mùa đông” đã được giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam và giải thưởng văn học Vua Thái Lan – 1000 USD và được đưa cả vào “Tuyển thơ Việt Nam thế kỷ XX”, được báo chí khen nức nở.
Tiếc thay, bài “HỎI” được Hữu Thỉnh công bố sáng tác vào sau năm 1975 còn bài “Thượng đế đã làm ra mặt trời” của nữ thi sĩ Đức Christa Reinig lại in mãi từ năm …1963, vậy có thể chắc chắn nữ thi sĩ người Đức không thể ăn cắp thơ của ông nhà thơ Việt Nam mà ngược lại chính Ngài Chủ tịch Hội nhà văn Hữu Thỉnh đã đạo thơ của nữ thi sĩ Đức.
Mặc dầu công luận đòi hỏi làm rõ chuyện “đạo thơ” này nhưng có thể biết trước nó sẽ bị chìm xuồng bởi lẽ cho tới tận bây giờ Đảng vẫn chưa tìm được anh quan văn nào chia cái bánh của Đảng nuôi các nhà văn Việt Nam khéo và ít khiếu kiện như nhà thơ Hữu Thỉnh. Vì lẽ đó, năm nay mặc dù mắc “hạn tam tai” - đầu năm bị Võ Văn Trực vạch mặt trong cuốn “ Vết sẹo và Cái đầu hói “, gần cuối năm tai tiếng “tự trao giải thưởng” cho tập thơ ” của mình, chắc chắn ông Hữu Thỉnh vẫn yên vị trên ghế Chủ tịch Hội dài dài…
TRẦN KINH BẮC
khieman
07-26-2014, 02:19 AM
.
Nhà văn thời …”đồ đểu”.
Nhân Hội nghị toàn quốc những người viết văn trẻ lần thứ VII tại Hội An (từ 12-5 đến 15-5-06)
Quả thật , nghĩ mãi không tìm đâu ra hai chữ khác thay cho từ “đồ đểu” để chỉ đặc điểm của cái thời đại đã sinh ra thế hệ các nhà văn trẻ này.
Ngày 11 tháng 5, ngay trước ngày khai mạc Hội nghị toàn quốc những người viết văn trẻ lần thứ VII, máy điện thoại di động của số đông các nhà văn “già” đều nhận được một tin nhắn do một kẻ nào đó, giấu mặt “dội bom” :
” các hội viên đều có tác phẩm, mỗi mình PTVA (không viết tắt) là không. Nó thích quyền lực, danh vọng vì nó là con thằng CLV (không viết tắt).. Hãy nhìn con điếm kìa. Thật đáng thương…”
Trong lúc đó , nhà văn Phan Thị Vàng Anh - thành viên Ban tổ chức – đang trực ngay cửa lễ tân khách sạn Hoài Thành đường Lý Thường Kiệt, thị xã Hội An (Quảng Nam). Ai vào Vàng Anh cũng ngó vào danh sách, rồi kéo tay đến nhận phòng, thỉnh thoảng lại ới trong điện thoại: “Cứ đứng im đấy, sẽ có xe đến đón!”.
Danh sách gút lại gần 150 người trong đó cây bút trẻ chính thức chỉ có 77 người, còn lại là…ăn theo. Tiêu chuẩn để chọn đại biểu dự hội nghị lần này là các cây bút trẻ dưới 35 tuổi, các hội viên Hội Nhà văn dưới 40 tuổi. Có hai hình thức chọn đi dự Hội nghị : cử và mời. Trong số đại biểu chính thức, có 10 đại biểu được cử, còn lại là đại biểu được mời.
Theo lời ông Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh đọc diễn văn khai mạc thì :
“ Mục đích chính của hội nghị là bồi dưỡng đội ngũ văn học kế cận, tạo cơ hội giao lưu nghề nghiệp, tạo diễn đàn cho các nhà văn trẻ trao đổi kinh nghiệm và tìm hiểu thực tế” .
Bởi vậy , tuy gọi là Hội nghị, nhưng như nhà văn Võ thị Xuân Hà, Phó ban sáng tác trẻ cho biết :
”cố gắng hạn chế tối đa phong cách "nghị sự" với quá nhiều tham luận, triết lý làm nghề có tính "cầm tay chỉ việc" của cả các nhà văn già lẫn trẻ (vốn thường bị kêu ở các kỳ trước) là điều mà ban tổ chức hội nghị lần này mong muốn. “
Bởi vậy, các nhà văn trẻ được đi “tham quan” du lịch là chính , tặng sách , xin địa chỉ email là chính và nhất là dịp để các nhà văn nữ trẻ đẹp và ăn mặc rất thời trang như diễn viên, ca sĩ.
Tiền ăn, tiền khách sạn, nam thanh nữ tú…tất cả đều thừa, các cây bút trẻ xem ra chỉ có thiếu mỗi một thứ : ‘tính khiêm tốn”.
Không sao cả, vì ngay cả đại văn hào Gabriel García Márquez, Nobel văn học 1982, cũng đã dậy :
“Trong nghề văn, khiêm tốn là một đức tính thừa!” .
Bởi thế các nhà văn, nhà thơ trẻ cứ tha hồ mà tự đánh bóng mình.
Nguyễn Thuý Hằng, cây bút trẻ mới nổi ở Sàigòn, huênh hoang tự quảng cáo :
” Cho đến nay, sau khi bộ sách “Thời hôm nay, khoái cảm và điên rồ hợp lí “ của tôi được xuất bản và giới thiệu tại Viện Goethe, tôi vẫn chưa nhận thấy thái độ phê bình tích cực từ các nhà phê bình. Chỉ có hai bài của nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn và Nguyễn Chí Hoan.
Nhưng theo tôi, hai bài phê bình này vẫn còn quá sơ lược, chưa được viết theo đúng nghĩa một bài phê bình và nhận định chuyên nghiệp. Nếu ai muốn bàn trực tiếp về bộ sách mới của tôi, tôi sẵn sàng trao đổi. Trong sách tôi cũng có sẵn địa chỉ e-mail.”
Nguyễn Danh Lam, một cây bút mới nổi ở Sàigòn, cũng hùng hổ trả lời báo chí :
” Tại sao anh lại viết văn? Bỗng nghe độp câu hỏi này, tôi có cảm giác như... ai đó vừa hét: Đứng lại giơ tay lên! “.
Một cách tự đánh bóng hay một cách tảng lờ khi phải trả lời những vấn đề cốt tuỷ ? Nhà văn Đỗ Tiến Thuỵ huỵch toẹt :
"Người ta không học hỏi nhau trong hội nghị. Tôi coi đây là một cơ hội để giao lưu, gặp gỡ, tay bắt mặt mừng với bạn bè chứ không có ý định đến hội nghị để học tập " .
Tất nhiên, ngoài “ăn chơi, nhảy múa’, các nhà văn trẻ còn có những cuộc toạ đàm. Về thơ, có “sân chơi “ “ thơ tôi nói gì “ “hai phút cho một ý tưởng” .
Nhà thơ Phan Huyền Thư, tác giả tập thơ “Nằm nghiêng” với những câu thơ bốc lửa kiểu như “đôi bầu vú thông minh, không cứu nổi cặp đùi dài ngu ngốc”, nay đã thành “bậc đàn chị” trong thơ trẻ và được ban tổ chức giao nhiệm vụ dẫn dắt sân chơi “Hai phút cho một ý tưởng”, đã phải phàn nàn :
“Thú thật, tôi hơi thất vọng vì đã hào hứng nghĩ đến một diễn đàn đầy ngẫu hứng, có sự nhập cuộc thật sự, sáng tạo, thẳng thắn và thiên nhiều về “bếp núc” của nghệ thuật ngôn từ. Khi tôi khơi gợi: “Ngôn ngữ là nhà tù của nhà thơ và cách vượt ngục duy nhất là tạo ra ngôn ngữ mới...”, tôi đã hi vọng rằng những vấn đề về thi pháp, về cảm nhận và hơi hướng thời đại sẽ được các bạn viết chia sẻ, đối thoại... Nhưng tôi thấy mình quá lạc lõng với cuộc tranh luận về “báo Văn Nghệ Trẻ” và những bài thơ (được đọc lên một cách níu kéo). Tôi thấy hoang mang giữa việc “viết” và “sự cần được biết đến” của những người viết trẻ. Thật ra đối với họ, điều gì quan trọng hơn? “.
Hoá ra các nhà thơ trẻ rất mạnh dạn đưa ‘đùi và vú’ vào thơ nhưng lại rất nhút nhát khi đứng trước đám đông trình bày ý tưởng của mình một cách mạch lạc. Ít phát biểu chính thức , các nhà thơ trẻ quay sang kết bè , gây “sốc”, cãi cọ hay cố tình tạo xì- căng- đan hòng gây chú ý. Những người có mặt tại hội nghị dễ dàng nhận ra các phe nhóm nhà văn trẻ “chơi xỏ” nhau trên diễn đàn như thế nào.
Một cây bút nữ thuộc nhóm 5 con ngựa trời vừa đọc thơ xong thì MC Phan Huyền Thư liền chơi ngay một câu :
“Bây giờ ngựa cái đọc xong, có con ngựa đực nào lên không?”.
Thật là một câu mời rất ”văn hoá”.
Thơ trẻ VN hiện nay đang ở đâu? Các nhà thơ trẻ nói gì? Họ đã quá e dè, thụ động, hay gì đó thì chỉ có những người trẻ mới biết được. Buổi toạ đàm thơ khép lại . Một nữ thi sĩ nổi tiếng thay mặt một nhóm các nhà văn nữ trẻ tuyên bố :
“ sẽ tắm “như thuở hồng hoang” ở hồ bơi khách sạn Hoài Thành (nơi hội nghị diễn ra), bán vé 50 USD cho ai muốn xem”.
Vậy nếu có nói các nữ thi sĩ đang sống và làm thơ trong thời đại “đồ đểu” thì đâu có oan uổng gì ?
Bên văn xuôi cũng không khá hơn. Buổi toạ đàm "Văn tôi và phê bình tôi nói gì?" diễn ra tại khách sạn Hoài Thành trong không khí có vẻ hết sức dân chủ. Khi Uỷ viên chấp hành Hồ Anh Thái, mở đầu toạ đàm giải thích đó là văn của tôi, tôi là văn, nói gì về văn học, lập tức bị “phản pháo” từ Nguyễn Văn Ninh (Hà Nội):
“Phải đổi tiêu đề đó, đúng ra phải là phê bình nói gì về văn tôi? “ .
Tuy nhiên sự “nổi loạn” của nhà văn trẻ này lập tức bị chìm nghỉm, chẳng ai nhắc tới ý kiến anh.
Hai cây bút văn xuôi nổi bật là Đỗ Hoàng Diệu và Nguyễn Ngọc Tư đều phát biểu theo cách của mình. Đỗ Hoàng Diệu sau khi mô tả đủ thứ nhầy nhụa tình dục trong “ Bóng Đè” lại lên giọng cao đạo :
“Với tôi, văn học là khu vườn đẹp nhưng không phải là khu vườn thần thánh…”.
Trong khu vườn đẹp của nhà văn này chắc chỉ có Adam và Eve.
Nguyễn Ngọc Tư khi được hỏi về vụ tuyên huấn Cà Mâu lên án “Cánh động bất tận” đã trả lời với giọng buồn buồn :
“Vụ đó, tôi thấy mọi người thương hại mà không có lý gì để nói ra lẽ. Tôi cũng không có lý phản lại vì không phải là nhà phê bình. Tôi nghĩ sao viết vậy, chẳng biết nói gì”.
Diễn đàn của cả nhà thơ và nhà văn chỉ thế thôi. Nào là “văn học VN đang cần sự chỉn chu, mềm mại.”. Nào là “Về chuyện âm thịnh dương suy, hãy dành cho Viện Văn học. “… Còn lâu lắm các nhà văn mới dám nhìn thẳng vào những vấn nạn của xã hội Việt Nam ngày nay . Nào quốc nạn tham nhũng, nào tự do ngôn luận, tự do tư tưởng , tự do sáng tác…còn lâu lắm hoặc chẳng bao giờ họ cả gan động chạm tới chuyện động trời đó. Nhận định về các nhà văn trẻ, ông Hữu Thỉnh Tổng thư ký hội cũng phải thốt lên :
“Tình trạng sàn sàn, trung bình, khát vọng không cao, tính chất công dân còn mờ nhạt. “
Và tệ hơn nữa là thói kèn cựa, níu kéo lẫn nhau trong các cây bút trẻ. Trở lại tin nhắn vào trước hôm khai mạc Hội nghị gửi các nhà văn lão thành trong hội . Ai đã nhắn một câu vô văn hoá, đầy tĩnh cách thù hẳn nhỏ nhen vậy ?
Một nhà văn già, nổi tiếng ngoài Hà Nội cho biết :
” Còn ai nữa , nó là con VTL chứ ai ? Nó sang Paris huênh hoang mình đại diện cho nước Việt Nam đổi mới làm mọi người cười mũi. Trước đây do thằng Hồ Anh Thái không đề cao nó, nên nó đã gọi điện chửi :” ĐM mày, sao mày không nhắc đến tao ?”
Đại biểu chính thức các nhà thơ trẻ mà ứng xử vậy thì quả thực danh xưng “thời đồ đểu” tặng cho họ là rất xứng đáng .
N.T.
khieman
07-27-2014, 04:55 AM
.
8x viết trong kiềm toả
kỳ 1
( Nhân “Truyện ngắn 8 x” – NXB Hội nhà văn Việt Nam -2006)
Sau hai năm cởi trói ngắn ngủi từ thời cố Tổng Bí thư Nguyễn văn Linh, văn học Việt Nam mang trở lại “vòng kim cô” của đảng, các nhà văn như “gà phải cáo”, viết lách nhát sợ, rụt rè, bởi thế suốt mấy thập kỷ gần đây, văn chương “mất mùa”, gần như không thấy tác phẩm giá trị .
Các nhà văn già từ thời chống Pháp, chống Mỹ sau một thời gian “phản kháng” ngắn ngủi, đại đa số đã quay trở lại viết theo lối “ phải đạo” thời bao cấp, cạnh đó, các “mầm non văn nghệ” sớm tự nhận nhà văn, nhà thơ đua nhau vừa viết vừa tiếp thị, tự đánh bóng mình qua các “diễn đàn”, các cuộc hội thảo, các Hội nghị nhà văn trẻ làm xuất hiện một hiện tượng chưa hề thấy trong văn học nước nhà : văn học “lứa tuổi” hay còn gọi là văn học 7x, 8x và lác đác đã thấy 9x.
Bị ràng buộc bởi những quy phạm ngặt nghèo của nền văn học chính thống, thực chất là văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học của đảng, các văn thi sĩ 7x, 8x…tự bảo hiểm tối đa bằng tránh xa những đòi hỏi bức thiết của dân tộc như mở rộng tự do dân chủ, xây dựng xã hội dân sự , đa nguyên tư tưởng…Quay lưng với những chủ đề cốt lõi của văn chương, như những cún con sợ đòn vọt của ông chủ, họ rầm rộ rủ nhau đi sâu vào tính dục, quẩn quanh những chuyện phòng the, những chuyện vặt vãnh của lứa tuổi, coi văn học như một “trò chơi” - chơi chữ, chơi kỹ thuật, viết văn bằng sự thông minh của cái đầu chứ không phải sự thổn thức của con tim.
Mới đây, dường như để biểu dương lực lượng thế hệ 8x – Nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam cho ra mắt Tập truyện ngắn 8x – do một cây bút 8x tuyển chọn 22 tác phẩm của 20 nhà văn 8x, qua đó người đọc phần nào có thể nhận diện chân dung thế hệ cầm bút đương thời.
Trước hết là các “nhà văn ngựa trời” – các 8x đã từng được làm rầm rĩ qua tập thơ “ Ngựa trời” .
“ Hắn lại vào toilet” của Lynh Bacardi (1981) là một chuỗi những “thị kiến “ hoàn toàn bất ngờ và chẳng có liên hệ gì với nhau của “hắn” khi tới trình diện sếp ở văn phòng sau một sáng thức dậy “ vợ hắn ngạc nhiên vì không thấy hắn đánh răng, cũng như không nói một lời trước khi ra khỏi nhà , hắn chỉ khoác bộ đồ công sở, lau ghèn dính ở khoé mắt và chất ke đọng dính ở hai bên mắt…”.
Lẽ ra phải trình bầy với sếp bản kế hoạch, hắn “ đột ngột quay lưng phóng ra khỏi văn phòng” để rồi bước vào những giấc mơ đứt đoạn. Trước hết “ hắn đi dạo qua những chuồng lợn, những cái chuồng hôi tanh mùi phân và nước thải, cộng thêm mùi thức ăn men vữa…”. Hắn nhìn thấy “ những nồi cám nóng hổi trên bếp rơm đỏ rực , bây giờ , còn có thêm mấy con lợn nhỏ xíu đang vùng vẫy trong đó, những con mắt xanh đục lồi ra thụt vào của chúng nhìn theo hắn như nguyền rủa…”. Hắn bỏ chạy rồi khi lao qua ngang đồi cỏ “ hắn liếc thấy hai con chó cái đang nằm rặn đẻ, trong khi nước ối từ chôn chúng chảy ra ồ ạt. Âm thanh rên rỉ từ miệng chúng thoát ra thật hoành tráng…”. Hắn lại bỏ chạy và lại gặp “ một con dê cái to lớn đang ngồi chễm chệ với đầy đủ vú vê …con dê xông vào , túm lấy tóc hắn bằng hai chân sau rồi dộng liên tục đầu hắn vào cái trôn to bằng bàn tay của nó…”. Rồi hắn thấy mình đang ở trong phòng ngủ và truyện kết thúc ở chỗ “ hắn bước vào toilet”.
Có lẽ phải đợi các nhà phê bình trẻ như Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Thanh Sơn…”giải mã” những ký hiệu, may ra người đọc mới “lĩnh hội” được “giá trị văn chương” của cô “ngựa trời” này, còn người đọc bình thường kiên nhẫn lắm chỉ đọc được một trang.
Nữ thi sĩ “ngựa trời” Khương Hà trình diện trong tập này truyện ngắn “ Dạ khúc và trò chơi điên khùng giữa khu vườn bí mật”. Cái tên lòng thòng , hù doạ vậy thôi, thực ra câu chuyện chẳng có gì là “ điên khùng” với “bí mật” cả. Đó là chuyện tình của một cô nữ nhân viên văn phòng với một “ông già trong Saigòn “ có tên là “Cục Đất” , thời gian qua đi, mối tình cũng phai lạt dần và kết thúc khi văn phòng xuất hiện một cô gái khác. Truyện cũng đầy chất chán chường và trống rỗng như bao truyện khác và được tác giả huỵch toẹt :” Tôi mở nhạc suốt ngày đêm, đọc đi đọc lại những cái tên cải biên, cố gắng cải tạo triệt để cái đầu óc vốn ngăn nắp của mình. Để làm gì ư ? Tôi cũng không biết, có lẽ là để lấp đầy sự trống rỗng…”. Dấu hiệu 8x của cây bút sính làm dáng tiếng Anh này là tràn ngập trong truyện các từ “secret Garden”,”Piano Ballade”.” Dpreview”,” Sony DSC F828”,”random”, “Ravenheart”,” “Everybody’s Fool”…cứ loạn xà ngầu hoa cả mắt…
Nàng “ngựa trời” thứ ba ở trong tập, nữ thi sĩ Thanh Xuân (1981) cũng lại đưa ra một câu chuyện tình giữa “tôi” và Đăng với câu nói cửa miệng cầu kỳ, sặc mùi ‘tập làm văn “ :” Anh đủ “độ chín” để nhìn nhận những mất mát về cuộc đời này. Em cũng nên tập như thế, mọi cảm xúc chỉ có giá trị nhất định trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi”.
Thì ra các 7x, 8x…đã học rất nhanh ở các bậc cha anh cái bệnh vòng vo, sáo ngữ vốn biểu hiện cho sự rỗng tuếch của tâm hồn. Bố của “tôi” bỏ nhà đi theo “cái con đó”, “chị của tôi” cũng ra đi để rồi quay lại với một đứa “con gái thò lò mũi, nằm ngửa trên tay chị…nó tên Kiều My…”. Rồi “chị tôi” lại đi tìm tình yêu, Đăng lại hôn “tôi”. “Ấm ngọt và dẫn dắt. Khi tôi bị ngợp bởi nhiều cảm xúc lẫn lộn, dằng anh ra thì thấy anh đang nhìn tôi. Anh hỏi sao tôi lại mở mắt vào những lúc thế này, tôi lúng túng…”.
Nhiều năm sau, Kiều My lớn thành cô gái 17, Đăng vẫn nói văn vẻ :”Chúng ta sắp già đi và những biến cố quá ít dao động không làm chúng ta thôi hờ hững. Một ngày không xa, anh sẽ cưới em.Rồi cuộc đời cũng đến lúc phải sang trang anh ạ…”.
Truyện chỉ có thế thôi, cố tìm hơn những gì đã được kể ra qua những con chữ có chăng đôi chút hờ hững, chán chường và tuyên ngôn “thèm yêu”.
Hoá ra các nàng “ngựa trời” phá phách trong thơ dễ dàng hơn trong văn xuôi. Nghệ thuật truyện ngắn vốn đòi hỏi sự tỉnh táo cần thiết cho việc giãi bầy, kể chuyện bằng những con chữ trong văn xuôi quả thực khó cho người ta quằn quại, phá phách, điên khùng như trong thơ nhiều lắm.
Đọc những truyện ngắn khác của 8x, người ta phải lấy làm lạ tại sao các văn sĩ trẻ thích đưa “người điên” vào truyện ? Phải chăng viết về “người điên” dễ hay hơn “người tỉnh” chăng ?
“ Cát hoang” của Phạm Ngọc Lương viết về một bãi cát ở giữa sông, bỗng một hôm xuất hiện “một con điên”. “ Cô điên ngồi trên bãi cát, dùng gậy vạch ngoằn ngoèo trên cát, lẩm nhẩm. “Kệ nó, con điên”. Họ nháy nhau. Lũ trẻ mò tới. Cô vẫy tay. Lũ trẻ lùi ra. Cô cúi mặt xuống. Lũ trẻ tới gần. Cô vạch xuống đất. “A”…”
Thì ra là “một cô giáo điên”. “Lúc trẻ rón rén bịt mắt cô lại, chúng nắm tay nhau xoay tròn quanh cô. “ Bịt mắt bắt dê”.” Hé hé hé…”. Cô rú lên cười ằng ặc…”
Ngày tháng qua đi, cô điên mang bầu. Vợ bọn đàn ông đay nghiến chồng :
“ Của tao, của chúng tao thiu hay sao mà phải ấy con điên ?”
“ Oi chà ! Thế là cô điên sắp làm mẹ rồi đấy…”
Và rồi cô sinh ra những ba đứa con trai và người ta mang đi mất. Còn lại cô điên đi xuống sông.
“ Nó đâu ?”
“ Sụt xuống cát rồi. Kia, kia kìa, còn vạt áo đấy…”
Truyện khoanh lại về một mảnh đời bất hạnh được mô tả bằng sự cố ý kiệm lời, cố ý tạo nên một không gian lắng đọng, căng thẳng chất “thân phận” , tiếc rằng mọi cố gắng đều chưa tới. Đọc xong , có chăng vương lại trong lòng người đọc đôi chút ngậm ngùi .
“Cô mình” trong truyện ngắn của Phạm Hương Giang (1984) là sinh viên trọ học trong một xóm nghèo ở lẫn lộn người điên, sinh viên và gái điếm. “ Cô mình” là tình nhân của một người đàn ông có vợ, mãi trong Nam, gọi bằng Ngài.”Vài tháng một lần cô mình chờ Ngài trong căn phòng trọ 10 mét vuông ẩm thấp và mênh mông sự lạnh lẽo. “. Rồi Ngài tặng cho cô mình một con mèo tuyệt đẹp với lời cảnh báo : “Nếu cứ sống như thế này thì hành trang của em khi ra trường chỉ có tấm bằng và một con mèo…”. Rồi khi cô mình chưa kịp ra trường, con mèo đã chết , mặc cho cô mình vật nài, Ngài vẫn cáo bận không ra được . Thế rồi trong cái xóm sinh viên ấy, cô điếm bị cảnh sát 113 tới lôi đi, cô bé điên rơi vào vòng tay gã chủ nhà thô lỗ và đến lượt “cô mình” cũng rời khỏi xóm, ra đi , để “ một thời gian sau, một người đàn ông tay xách cái lồng đựng mọt con mèo đứng vơ vẩn trước căn phòng khoá chặt, cánh cửa rêu mốc đầy. Trời đã ấm lên. Con bé điên thấy người lạ, vẫn trần truồng chạy ra, vỗ vỗ tay rồi chạy vào căn nhà bí mật…”
“ Cô mình” của Phạm Hương Giang là một truyện ngắn hay hiếm hoi trong cả tập.
( còn tiếp)
khieman
07-29-2014, 02:36 AM
(tiếp theo)
kỳ 2
(Nhân Truyện ngắn 8 x – NXB Hội nhà văn Việt Nam -2006)
“ Xó núi” , truyện ngắn của Nguyễn thị Cẩm (1984) viết về hai cha con sống trong một con hẻm heo hút đến “ cây cối chỗ nào cũng hóng hóng về phía con đường bé tẹo hệt một con giun ngoằn ngoèo, chó thì phải chơi với chuột vì không có mèo, gà và ngan dăm con chẳng có gì chơi cứ buồn thiu…”.
Đứa con gái 17 tuổi có những nét của mẹ đôi khi đâm nhói vào lòng ông bố về kỷ niệm của một người vợ đã bỏ ông đi theo người đàn ông khác để lại cho ông đứa con gái là “ báu vật cuối cùng ông còn có trên đời , là nối dài kiếp sống của ông”.
Ấy thế rồi bỗng một ngày, “báu vật cuối cùng “ quát vào mặt ông :
“Nếu không cho cưới ngay, con e không giữ được mình, cha ạ…”
Thật còn hơn là súng nổ bên tai , “ cảm giác ông đang sụp đổ, đang trợn mắt sắp gục xuống bởi một cơn nhồi máu…”. Ông không thể tưởng tượng tới một ngày nào đó, một thằng con trai tới cướp đi “báu vật” của ông. Nó là một thằng “ văn hoá lớp ba, làm thuê chuyên nghiệp, chỉ được cái hùng hục như trâu…”.
Cô nhà văn 8x tả cái cảnh trai gái yêu nhau như sau :
“ Rướn mình. Cong chắc là đẹp. Cổ không dài, ngửa ra thì Thuần có thể đặt 5 lần môi . Tất nhiên dễ bị ho trong lúc hắn mê miết môi răng trên cuống họng. Phải tóm tay hắn !Một ngón cái đã vượt biên lúc mình sơ sẩy, kéo nốt bốn anh nhà nó sục vào vùng giới hạn. Đã bảo là vùng cấm kia mà! Một tí thôi! Không ! Có gì đâu, chỉ một tí thôi mà. Không ! Một lần này thôi…Khô..ông !”
Quả thực đoạn văn trên chứa đựng cái gọi là “chất 8x” ở chỗ “hồn nhiên trong tính dục” mà các nhà văn lớp trước khó có thể có. Tuy nhiên ngoài một chút đặc sắc hiếm hoi này , những dấu hiệu để nhận ra sự khác biệt thế hệ quả là rất ít. Tấn bi hài kịch giữa hai bố con khi chàng trai xuất hiện ngay tại căn nhà trước nay vẫn coi là bất khả xâm phạm của họ được diễn tả một cách chẳng có gì là …8x (!),hơn thế nữa, còn dễ dãi và non nớt như biết bao cây bút mầm non văn nghệ khác .'
Người cha thì mắng mỏ :
“ Con còn muốn dối cha ? Từ nay cấm con ra khỏi nhà một mình. Nếu cha gặp con với thằng ấy một lần nữa thôi , coi như không còn cha con gì nữa…”
Đứa con gái thì trách móc :
“ Cha là người đàn ông ích kỷ nhất trên đời ! Điệp khúc ấy lặp lại mãi, đau đớn chảy đẫm xuống gối. Muốn gào thét, đập phá và đốt cháy! Cha có quyền gì buộc giữ tôi vào mảnh đất già nua đơn độc ? Cha cấm đoán cả niềm vui cuối cùng tự tôi đánh đổi..cha nào thương tôi hơn người đời…”
Một cái kết dễ dài và chẳng có gì là mới mẻ tuy vậy “Xó núi” vẫn là một trong số ít truyện đọc được trong cả tập.
Một truyện ngắn khác – “Em xinh không ?” của Từ nữ Triệu Vương (1980) có thể coi đậm hơi hướng 8x ở chỗ bộc lộ “cái tôi” một cách trực diện và thẳng thắn , không mặc cảm, không “khách sáo” – đặc trưng của thế hệ này.
“ Em 25 tuổi. Viết văn. Bạc bẽo. Chẳng ai sống được bằng nghề viết. Em làm tại một Nhà xuất bản, lương vài trăm ngàn đồng em vẫn làm. Em yêu người đàn ông đã có gia đình trong cơ quan. Em vào đó làm chỉ mong được nhìn thấy họ hàng ngày . Họ không biết em yêu. Em cứ dại khờ yêu thầm thế. Đừng nói em ngu ngốc. Tình yêu chân thành còn sót lại trong thời này đấy.”
Em là Mắt Ướt – chân dung một 8x. Hai mươi hai giờ tối em mới đi làm về. Em mở cửa từng phòng các bạn trai, “miệng em nhí nhách :” pha trà cho em uống với nhé!”. Và rồi em cứ lặp lại câu nói cửa miệng :” Em xinh không . Em xinh nhỉ. Em hơi bị xinh đấy…” hoặc :’ Em nhớ anh lắm, em thèm anh lắm, thịt anh còn ngon không …”…qua môi em đầy nhàn rỗi, không neo bám, Em vẫn thấy cuộc đời xa lạ. Buồn tênh…”
“Xa lạ và buồn tênh” chưa hẳn đã là đặc trưng của “cái tôi” 8x. Vậy nhưng toàn bộ câu chuyện của nàng Mắt Ướt còn xa mới đưa nàng tới chỗ “xa lạ và buồn tênh” như thế. Gắn nó cho nàng chẳng qua cũng như một chút son phấn làm dáng vậy thôi.
“ Tôi muốn về nhà “ của Nguyễn Quỳnh Trang ( 1981) đi vào đề tài “ viện tâm thần” vốn nhiều người đã viết. Khác với lối viết rối mù khi tả tâm trạng người điên, NQT trong truyện này lại sử dụng lối viết rất thực, thực đến mức độ chi li, tỉ mẩn. Chỉ riêng một hòn non bộ đặt trong sân bệnh viện, NQT đã kể chi tiết :
” Trên hòn non bộ có một cây si thân xù xì , rễ dài phủ xuống cả phía dưới.Xen lẫn nhiều cây thuộc họ dương xỉ. Có cả cây hoa đỏ năm cánh thường mọc ở đồi đất hoang. Hòn non bộ vẫn còn sót lại dăm đồ sứ trang trí. Có tượng mục đồng thổi sáo trên lưng trâu . Trâu bị gẫy một chân , mục đồng thì sứt nửa đầu. Nửa khuôn mặt còn lại không rõ mũi mồm nhìn trông rất hãi. Có tượng ngư ông câu cá. Ngư ông mất nửa thân người…..Thêm tượng quan âm bồ tát “ phù nhân chỉ lộ” tróc hết sơn…”.
Cứ thế các chi tiết được kể ra la liệt, hoàn toàn không có ý thức sử dụng thủ pháp “cực thực” hiện đại ( hyperrealism) mà chỉ chứng tỏ sự non nớt, thiếu chọn lọc trong mô tả. Mấy năm gần đây, nhóm “Mở Miệng” và nhóm “Ngựa trời” ở Saigòn cố tạo ra những yếu tố quái dị, bẩn tưởi có thể gọi là một thứ “mỹ học của…bùn nhơ” gây ảnh hưởng tới một số cây bút 8x. Bắt chước các “đàn anh, đàn chị” Nguyễn Quỳnh Trang viết :
“ Mẹ Tóc Bím đang ngồi tênh hênh trên giường . Cái quần thủng đũng để hở một mảng quần lót hoa xanh hoa đỏ trông nhức mắt. Mẹ nó đang húp soàn soạt bát canh ăn thừa ban trưa. Húp xong vứt bát xuống gầm tủ, lấy ngón tay chỏ và ngón tay cái chọc vào mồm, móc thức ăn ở kẽ răng, đưa lên mũi ngửi ngửi , quệt tay luôn ra thành giường. Bạn nhìn thấy mà sợ…”
Quả thực không thể hiểu tác giả bắt người đọc ghé mắt vào “những chỗ bẩn” của nhân vật như vậy nhằm mục đích gì khi chủ đề của câu chuyện hoàn toàn không đòi hỏi phải làm vậy. Bởi lẽ câu chuyện và nhân vật trong “Tôi muốn về nhà” thực ra chẳng có gì ghê gớm và phức tạp. Đó là chuyện của một cô gái ngày xưa được chồng rất yêu “ thường vuốt má bạn ngọt ngào . Anh thích cái thánh thiện trong em , nó làm anh thấy cuộc đời sạch sẽ hơn, nhưng vứt thơ đi, nó sẽ làm khổ em…”. Hoá ra cô còn làm cả thơ. “ Những câu từ đẹp đẽ, dịu dàng mà bạn viết ra là thứ thuốc bổ thư giãn mọi giác quan và cơ thể bạn mỗi đêm thiếu hơi da thịt chồng”. Thật là quan niệm về thơ đích thực của các thi sĩ 7x,8x nổi tiếng như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư…bây giờ.
Tuy nhiên, chồng và mẹ chồng cô lại không cần những đứa con tinh thần của cô, họ đòi đứa con bằng xương bằng thịt nối dõi gia đình kia. Bất hạnh cho cô, cô không thể đáp ứng đòi hỏi chính đáng ấy của chồng và mẹ chồng. Càng ngày cô càng bị nhà chồng ghẻ lạnh và khi một cô gái khác sinh ra cho chồng cô một đứa con trai thì cô ta chiếm lấy địa vị cô trong gia đình, còn chính cô phải chuyển vào viện tâm thần. Truyện ngắn còn vài nhân vật nữa, như cô Tóc Bím thường rơi vào ảo giác, tưởng tuợng mình là Chúa Giê-xu tái thế, mỗi khi nhìn thấy đàn ông nhẹ thì rên lên, trốn sau lưng mẹ, nặng thì lên cơn động kinh , xé áo, tụt quần, miệng kêu ú ớ như đang bị cưỡng hiếp, như cô Mặt Rỗ thường lên cơn điên vào ban đêm, phải trói vào thành giường, như bà cụ Tóc bạc bị con trai bỏ rơi phải cắn lưỡi tự tử…Cái “phòng điên” của Nguyễn Quỳnh Trang được kể la liệt những mảnh đời bất hạnh như thế – nó là “bể khổ” muôn đời của chúng sinh, ngoài ra không gợi mở một ẩn dụ nào khác.
Một cây bút 8x được cả một bộ máy tiếp thị của một Công ty sách bốc thơm lên cỡ…thiên tài, rồi VTV3 làm cả một show phỏng vấn rối rít những lời tâng bốc . Đó là Nguyễn Thế Hoàng Linh (1982), trong tập sách này cũng góp mặt với truyện ngắn “Sống”.
Mới lướt qua phần mở đầu của truyện, bạn đọc nào “yếu bóng vía”`hẳn tá hoả tam tinh :
“Tôi thức dậy vào một buổi chiều, chưa mở mắt nhưng rõ ràng tôi biết đó là chiều.Tôi chả buồn hỏi tại sao? Tự nhiên tôi cảm thấy khoẻ khoắn vãi hàng bình thường, tôi không thích tự “ vãi hàng” đâu . Tôi hơi có ác cảm với nó. Tôi chỉ hay dùng từ “vãi lúa” . Nhưng tự nhiên , tôi thích dùng nó vãi hàng. Phải , bỗng dưng tôi thoải mái vãi hàng…”
Mở đầu cho một truyện ngắn văn chương nghệ thuật mà “thiên tài’ đã thoải mái ‘vãi” ra như thế này thì thật đáng mặt đại diện cho một nền văn học của thời đại…đồ đểu.
( còn một kỳ)
khieman
07-29-2014, 04:49 AM
(tiếp theo và hết)
kỳ cuối
(Nhân Truyện ngắn 8 x – NXB Hội nhà văn VN)
Mở đầu ngạo mạn thế, tưởng tác giả “vãi” ra những gì ghê gớm, ngờ đâu cũng chỉ là một mớ triết lý ‘vụn” :
“ Tôi vẫn có sức hơn người bình thường , vẫn vận động và cho năng suất nhiều hơn họ. Và vẫn luôn thất vọng về mình . Phải chăng vì chính NÓ ?Nó là sự cân bằng này , sự cân bằng tôi đang sở hữu . Sự cân bằng của khao khát với khả năng đáp ứng được của thân xác . Thân xác không còn là gánh nặng . Thân xác là niềm tự hào được xuất bản từ hư vô , tự cháy và đốt cháy hư vô…”
Và những tưởng tượng theo kiểu phim kinh dị :
“ Con mèo đi qua tôi như em, như chẳng thấy tôi. Nó đi trên mặt nước. Đột ngột nó lao vào cổ họng tôi . Miệng nó há ra. Những cái răng không thọt chút nào. Và nó liếm tai tôi . Móng vuốt của nó không bị cắt nhưng nó không tự thu chúng lại . Nó âu yếm quàng vào cổ tôi. Em vẫn không ngừng hát. Em chỉ hứng khởi hát theo bầy chó…”
Cố đọc cho hết cũng chưa thấy được hình hài một truyện ngắn và cũng chẳng thấy một cách tân đưa truyện ngắn lên tầm “hậu hiện đại”.
“ Lửa hoang” của Phạm Vân Anh (1980) gần với thể loại “vụ án viết lại” , viết về cái xấu trong gia đình các quan chức, các con ông cháu cha chơi bời trác táng, ngập ngụa trong căn bệnh AIDS và những đòn độc “âm mưu và tình yêu”, thiếu một sức khái quát vạch mặt “thủ phạm dấu mặt” sau những tội ác tầy trời đó.
“Câu chuyện tình yêu” của Niê Thanh mai ( 1980) là một thể hiện vụng về tuần trăng mật và sự chia tay của một đôi vợ chồng mới với sự chứng kiến của…cái giường trong đó có trò chọc gậy bánh xe không rõ ràng của tên bạn chồng.
Trong 18 cây bút 8x, người có “ý thức xã hội ‘ cao nhất trong văn chương phải kể đến Yên Khanh (1982), góp tới 2 truyện trong tập sách này. Cô không viết về những mối tình đầu đời lãng mạn, không suy tư những triết lý sa sỉ, cô viết trực tiếp về cuộc sống đang diễn ra với băn khoăn của người có “ý thức sáng tác”.
Trong “ Những mùa đông đi qua”, Yên Khanh viết về một xóm nghèo y như xóm “Nhà mẹ Lê ” thời xưa của Thạch Lam:
“Tháng Mười Một rét như cắt da cắt thịt.Tám chín giờ sáng ngồi trong nhà nhìn ra ngoài đường vẫn chẳng thấy gì ngoài mù mịt sương trắng…Khi ấy cũng là lúc cả xóm chạy vạy từng bát gạo , chẳng nhà nào có lấy một vườn rau cho ra hồn vì gió muối làm cây cối tướp lại , héo quắt queo. Đàn ông đi đi lại lại, đàn bà than vãn thở dài, thỉnh thoảng lại thấy bên nhà hàng xóm vợ chồng con cái mắng chửi nhau và bát đĩa thì quăng ra sân loảng xoảng. Có nhà ban đầu ăn hai bữa một ngày sau đó phải chuyển bữa trưa làm bữa chính còn bữa tối thành bữa phụ qua quít. Trẻ con vì thế mà sáng ra nhìn bụng đứa nào cũng xẹp tới tận xương háng…”
Không một chút ánh sáng nào “của Đảng”, của nền kinh tế thị trường theo “định hướng xã hội chủ nghĩa ” soi rọi tới cái xóm chuyên nghề bốc mộ này. Dường như họ hoàn toàn bị cách biệt với tất cả những gì đang diễn ra trong xã hội. Họ như một dẻo đất bị bỏ quên trong cái xứ sở đang sôi sùng sục những phân hoá giàu nghèo, những quan tham hốt bạc và những người dân bị cướp đất nổi lên chống lại cường quyền .
Không một tia hồi quang nào của toàn xã hội tới được cái vùng tăm tối này. Trong xóm này có một cặp uyên ương kiểu “Thị Nở , Chí Phèo” – nàng là chị Nhân sứt môi, chàng là anh Biển “ đen như củ tam thất, người dài lêu nghêu như con nghiện. Môi thâm xì và hai hàm răng vàng khè. Tôi thề sống chết với đám bạn rằng trên đời này tôi chưa gặp ai lại giống khỉ đến thế. Nói chung là tất tần tật…” .
Thế rồi do sự ngăn trở của gia đình, “đôi uyên ương” phải chia lìa và chàng trai biến thành một gã điên khùng.
“Anh Biển đang hì hụi huơ tay múa chân một mình, miệng lảm nhảm la hét điều gì đó. Chừng lại gần thì trời ơi, hoá ra trên tay anh là cả một xâu chuột lớn bé treo lủng lẳng đang kêu xoe xoé. Còn anh thì cứ nắm đuôi từng con một mà nện chí tử xuống tảng đá cộc ở góc ruộng , mỗi nhát đập lại kèm theo tiếng kêu khoái chá :” Chết này, đồ ăn bẩn..” và bật cười hí hí…”
“ Trong không ý tưởng”, Yên Khanh bầy tỏ nỗi băn khoăn của chính mình khi viết ra những truyện ngắn “ không ý tưởng”. Cô phê phán cái kiểu viết của nhiều người trong thế hệ cô :
” Anh chộp được ý tưởng từ những cái nhàng nhàng nửa nạc nửa mỡ của một ai đó, biến nó thành của mình . Chỉ cần thêm thủ pháp lạ hoá”.
Cô cho rằng :
” Nó cũng giống như cái ý tưởng của người khác mà anh bạn tôi bằng những thủ thuật văn chương láu cá đã cuỗm thành của mình lại khiến độc giả tung hô rất thiện ý : lối viết mới, phong cách mới…”.
Cô muốn viết trung thực với những gì cô nhìn thấy ở xung quanh nhưng “cô lại ngậm ngùi nghĩ đến những điều viết ra không ý tưởng”.
Yên Khanh là cây bút có ý thức trách nhiệm rõ nét nhất trong 18 gương mặt 8x trong tập này tuy cũng chỉ dám hé lộ nửa vời không dám đi tới cùng căn nguyên của tình trạng “viết không ý tưởng” là từ đâu ra ? Từ bản thân sự sợ sệt , khôn ngoan của người viết hay từ sự cấm đoán không thành văn bản của bộ máy siêu kiểm duyệt vô hình.
Mượn điển tích nàng Thi Kính cắt râu chồng, Lan Phương ( 1984) dựng lại thành truyện ngắn “ Đôi mắt Thiện Sĩ” nhìn vợ hiền ra gái giết chồng, gặp lại vợ cũ vẫn không nhận ra , truyện ngắn mang ý tưởng “đôi mắt” suốt đời nhìn nhận lầm lẫn chỉ đáng mang chọc cho mù.
Quả thực người ta khó mà đọc một mạch cho hết tập truyện vì sự giông giống nhau của cả loạt hơn hai chục truyện ngắn. Cũng may, lần xuất bản này, biên tập Nhà xuất bản đã bỏ đi phần “đề từ” của những cây bút 8x, không thì người đọc còn ác cảm nữa với những gì đã viết ra trong tập truyện này :
“ Chúng tôi khóc
Chúng tôi cười
Chúng tôi điên loạn
Chúng tôi hiền lành...
Và trạng thái cuối cùng là trống rỗng.
Những đứa chúng tôi cô đơn
Những đứa chúng tôi tìm đến trang viết đôi khi
Như một sự giải toả xa xỉ.
Khi trầm mình lại, thấy mọi điều dường như vô vi.
Và rồi chúng tôi lại khóc, lại cười, lại điên loạn...
Nhưng chúng tôi không nhai lại những đoạn băng cũ rích.
Vì đơn giản chúng tôi thuộc thế hệ trẻ
Thế hệ 8X đầy tự tin và kiêu ngạo
8X.
Sự thực trong 18 gương mặt 8x này có nhiều người không “điên loạn” và không “kiêu ngạo” đến như thế. Như Phạm Hương Giang (1984) , tác giả “Cô mình” trong bài “ Truyện ngắn 8x- Lời Trần tình của một nạn nhân”đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ số 232 đã bầy tỏ :
“Khi một nhà văn nói với tôi: thấy gì viết nấy thế này thì lớn thế nào được, tôi không tin. Khi một nhà thơ nổi tiếng nói với tôi: thơ em viết bằng mắt, tôi vẫn không tin. Cho dù vẫn biết rằng các vị tiền bối chắc chắn có kinh nghiệm hơn mình. Những câu nói đó mang tính tổng kết cả một đời văn đầy khổ ải.
Nhưng đến khi đọc Truyện ngắn 8X tự nhiên tôi thấy chờn chợn: Hình như những người đi trước đã nói đúng. Tôi và một số người trong thế hệ chúng tôi đã mắc phải căn bệnh mắt hẹp. Đối với việc viết văn, vốn sống vô cùng cần thiết. Và trí tưởng tượng lại càng cần thiết hơn nhiều. Không có trí tưởng tượng, dù người viết có chịu khó quan sát đến mấy thì trang viết vẫn cứ vặt vãnh khô cằn, thiếu sức tưởng tượng, những trang văn sẽ thiếu đi sự thăng hoa lãng mạn vốn rất cần cho mỗi tác phẩm văn chương. Vậy mà hỡi ôi, phần đa các tác giả thế hệ 8x đều rất trẻ, từ bé đến giờ chỉ quẩn quanh với sách vở, với máy tính, vốn sống thực tế hạn hẹp. Có những tác giả chưa bao giờ ra khỏi thành phố, không phân biệt được con trâu với con bò, lúa với mạ... Thế nên mắt hẹp là đương nhiên. Vì vậy khi viết họ chỉ viết về những thứ vụn vặt nhìn thấy xung quanh. Tất nhiên đối với những người có tài thì những điều tai nghe mắt thấy sẽ là những gợi ý tốt cho trí tưởng tượng bay bổng. Còn trong Truyện ngắn 8X, hầu hết các truyện ngắn đều chưa ra truyện. Nghĩa là không đầy đủ cấu tứ, không có sự đào sâu suy nghĩ nên câu chuyện được thả chơi vơi, đầu đuôi không thống nhất được về nội dung và ý nghĩa.”
Một “tự đánh giá” khá chính xác của người cầm bút thế hệ 8x tuy vẫn thiếu phần cốt lõi : đó là chừng nào nhà văn chưa có được quyền tự do tư tưởng, tự do sáng tác và tự do xuất bản, chừng đó văn học chưa thoát ra khỏi tình trạng “vặt vãnh”, “ khô cằn” và “thiếu trí tưởng tượng” .
N.T.
khieman
07-31-2014, 03:24 AM
.
Bao giờ Việt Nam có tác phẩm lớn ?
- Bao giờ nhà văn Việt Nam có tác phẩm lớn ?
- Đó là câu hỏi "xa xỉ" và phi thực tế ?
Bởi lẽ hiện nay các nhà văn chưa thực sự viết văn, họ đang viết một thứ văn chương tầm phào, nhàn nhạt tránh xa những đòi hỏi bức bách của đời sống. Công lý bị vùi dập. Cái ác đang tràn lan và đè bẹp cái thiện . Sự giả dối, nguỵ ngôn đang chiếm lĩnh các diễn đàn chính thống, những tiếng nói thực, những chân lý hiển nhiên bị xua đi như những "con chó dại " bị đuổi khỏi nhà. Những tội phạm cả xã hội lên án như tham nhũng ở VINASHIN, VINALINE, những tên quan tham “hạ cánh an toàn” mới móc túi xây biệt thự, sắm xe hơi... đều được bênh che một cách trắng trợn, bất chấp dư luận. Tham nhũng khắp nơi nơi. Tất cả những nhức nhối đó không hề thấy nhà văn nào lên tiếng trên báo Văn Nghệ, tạp chí Nhà văn - cơ quan ngôn luận chính thức của Hội nhà văn Việt Nam và hàng trăm tờ báo của các Hội địa phương.
Không một tác phẩm văn học nào dám đi đến tận cũng của tội ác để vạch mặt chỉ tên thủ phạm đích thực. Phần lớn các nhà văn viết chuyện "phòng the", chuyện "não tình", chuyện quá khứ được nhìn qua cặp kính "made in chủ nghĩa xã hội " chẳng khác gì nền kinh tế thị trường kéo theo cái đuôi "định hướng XHCN". Trong khi đó, bất kỳ thời đại nào, tác phẩm văn học lớn vẫn phải mang được những tiếng rên xiết, những tiếng khóc thầm và những khát khao cháy bỏng của thời đại.
Bởi vậy đòi hỏi nhà văn Việt Nam có tác phẩm lớn là chuyện hoang tưởng. Càng hoang tưởng hơn nữa khi các nhà văn bây giờ liệu họ có đang...viết văn ?
Lại một câu hỏi xem ra có vẻ...ngớ ngẩn. Hoạ mi thì phải hót, nhà văn thì phải viết, ấy thế mà mới đây trên VietNamnet, Thụ Nhân đã phải đặt câu hỏi :
" Nhà văn có đang viết văn?"
Nhà văn trẻ Nguyễn Danh Lam "mắc" làm báo để kiếm sống, văn chương chỉ là lúc "hở ra" trả lời :
"Để sống, tôi làm báo. Công việc “để sống” này thật cực nhọc. Mất thời gian vô cùng! Nhưng tôi luôn luôn có vài ba “tứ” truyện trong đầu. Hở ra vài giờ là viết ngay. Tôi tranh thủ thời gian ghê gớm lắm. Nhưng tôi nghĩ mình chẳng là thánh tướng gì, sống thì phải có nghĩa vụ hoàn tất mọi thứ công việc liên quan, đôi khi là những thứ công việc hài hước, quái gở nhất".
Thuận – Tặng thưởng Hội nhà văn VN 2006 đang lo viết về...mấy ông Tây chẳng dính dáng gì tới chuyện "trong nhà ngoài ngõ" ở xứ An- nam- mít- toòng :
" Tiểu thuyết tôi đang viết bắt đầu bằng đám tang của Guillaume Dustan - cái tên trụ cột của dòng văn học đồng tính đương đại Pháp. Ngay từ ngày chưa cầm bút, tôi đã bị ám ảnh bởi số phận các nhà văn, nhưng không có đủ niềm tin vào các phương tiện thông tin đại chúng. Một sự tình cờ đã cho tôi gặp rồi trở nên thân thiết với Lisa, mẹ của Guillaume. Về anh ta tôi biết cả một kho chuyện, nhưng phải đợi đến đám tang của Guilllaume, tôi mới được làm quen, mà cũng nhiều phần giả tạo, bàn tay giơ mãi cũng chỉ chạm lớp gỗ áo quan. Hoa hồng, nước mắt, điếu văn, truyền hình… Ông bố từng bỏ rơi gia đình ba mươi năm trước thút thít “Guillaume, cha vẫn nghĩ nếu con không thành nhà văn thì con sẽ là một Che Guevara”. Lisa không khóc, câu đầu tiên nói với tôi: “May quá, tìm được miếng đất ngay cạnh mộ Duras, đúng như nguyện vọng của Guillaume”.
Trần Thu Trang, nổi tiếng vì được các phóng viên VHVN "lăng xê" đang "nhăm nhe" viết...kịch bản phim vốn là mặt hàng đang rất được giá tại các Đài truyền hình quốc gia và đài hàng tỉnh :
" Nói là dự định thì cũng không hẳn nhưng hiện giờ tôi đang “nhăm nhe” học thêm kỹ năng viết kịch bản phim. Sở dĩ tôi muốn vậy vì có rất nhiều bạn đọc nói với tôi, họ muốn được thấy tiểu thuyết của tôi trở thành một câu chuyện trên màn ảnh. Đây cũng là hướng đi tôi xác định từ đầu, viết truyện, sau đó thì tìm cách biến truyện của mình thành phim. Tôi không dám nghĩ đến tôi của 10 năm sau đâu, phụ nữ sợ già, sợ xấu, sợ cũ, ngay cả trong văn cũng không ngoại lệ"
Cô nhà văn này chỉ sợ xấu, sợ già chứ không sợ văn chương của mình bị các cơ quan an ninh văn hoá nhòm ngó bởi lẽ đã có bao giờ cô dám viết ra ngoài những điều " Đảng nghĩ" đâu ( Nói theo kiểu Chế Lan Viên ngày xưa : "nghĩ trong những điều Đảng nghĩ".
Thế mới biết cái độc hại của mấy anh bồi bút ngày xưa còn " di căn" lâu dài đến con cháu đời sau). Với chữ thọ đeo sau lưng, tuy cô đang mài miệt viết văn, nhưng thực chất không phải là tạo ra những tác phẩm văn chương mà chỉ là một trò..."thể dục chữ nghĩa" bởi lẽ cái cô quan tâm trước hết là...chữ nghĩa chứ không phải chuyện "thời thế" :
" Viết văn là công việc với chữ nghĩa. Tôi nghĩ, mình chỉ có một điểm sáng duy nhất là thái độ tôn trọng chữ nghĩa. Tức là, nói hơi sáo mòn một chút, tôi có cái tâm, còn cái tài và cái tầm thì chẳng được bao nhiêu. Nhiều lúc thấy mình thiếu mạnh bạo, thiếu quyết liệt, thiếu bao quát, thiếu đủ thứ, tôi cũng đành đem lời cụ Nguyễn Du ra an ủi rằng "chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". An ủi vậy rồi lại cố thêm chút vậy.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần, dứt khoát làm "công dân thế giới", không cần quan tâm tới "chuyện xứ sở" vì hiện thực không là cái đinh gì với tác phẩm nên ngồi ở đâu Paris, New York, Bắc Kinh...đều viết được :
" Làm thế nào để thoát khỏi sự rườm rà trong cách nghĩ và viết, đó là điều tôi quan tâm. Tôi không phải là nhà văn hiện thực; hiện thực gần như không có giá trị gì trong tác phẩm của tôi. Trọng tâm của tôi là con người chung chung, không hẳn Việt Nam cũng không hẳn nước ngoài. Hiện thực ở đâu, đối với tôi cũng vậy thôi. "
Rõ rồi , "nhà văn trẻ" chỉ quan tâm tới "cách nghĩ" sao cho khỏi "rườm rà" thôi, còn "nghĩ gì cái gì" là điều không đáng quan tâm. Vậy là bác Đinh Thế Huynh hoàn toàn "yên tâm". Và thực ra văn chương không còn là cái "nghiệp" sinh tử như ngày xưa nữa, nó giống một thứ trò chơi như Nguyễn Ngọc Thuần nói :
" Sự kiên nhẫn và khả năng tập trung cao. Ngày trước tôi có thừa. Nhưng càng ngày tôi càng thiếu dần. Bây giờ, rất tệ, đôi lúc tôi còn phải đấu tranh với mình giữa ba việc: đi chơi, lướt web hay viết văn. Công tâm mà nói, để viết văn, phải có nghị lực lớn lắm".
Tất nhiên nếu không "mang lấy nghiệp vào thân" thì chọn "đi chơi" tốt hơn, tội gì "viết văn".
Câu hỏi thứ hai Thụ Nhân đặt ra không kém phần lý thú là :
" Bao giờ văn chương Việt Nam có được tác phẩm lớn?
Hỏi như vậy khác nào hỏi bao giờ có đa nguyên dân chủ. Bởi lẽ chỉ khi nào có đa nguyên dân chủ, nhà văn được giải phóng khỏi nỗi lo "bị vỡ nồi cơm" thì may ra họ mới khỏi vừa viết vừa run để đẻ ra được "tác phẩm lớn". Trả lời thẳng vào câu hỏi e rằng phạm vào chỗ "nhạy cảm" nên các nhà văn nhà thơ trẻ đều...lửng lơ con cá vàng . Nhà thơ Insara chắc ngại không trả lời trực tiếp nên vòng vo nói "sách ":
" Thế nào là tác phẩm lớn? Chúng ta vẫn chưa rốt ráo trả lời câu hỏi đó. Vấn đề nền tảng nhất với nhà văn mọi thời là hắn thường xuyên lưu trú nơi vùng ngoại ô của Quê hương. Nói theo ngôn ngữ của M.Heidegger: cư trú gần bên Nỗi chết. Hoặc quyết liệt như Đức Phật: Vô bố uý. Hay cụ thể và gần gũi hơn - W.Faulkner: nhà văn thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Chỉ khi đó hắn mới nói đến sáng tạo."
Nhà văn trẻ Nguyễn Danh Lam cũng đưa đẩy ngôn từ cho xa vùng "nhạy cảm" nên đưa ra khái niệm mơ hồ :
" Để có một tác phẩm lớn, ngoài phần ý thức có thể thu xếp được, tôi nghĩ còn một yếu tố không kém phần quan trọng, đó là “vô thức tập thể”. Nó như một thứ cấu hình được cài đặt sẵn tự khi sinh ra trong cỗ máy tính là mỗi nhà văn. Bề dày trầm tích này không phải “đi tắt đón đầu” mà có được. Nó như thể dầu mỏ, phải tích luỹ dài lâu dưới đáy sâu từng vỉa văn hoá. Và cá nhân mỗi người làm nghệ thuật, cùng những yếu tố liên đới, sẽ góp phần bồi đắp qua nhiều thế hệ. "
Cô Nguyễn Thuý Hằng, một cây bút mới ra lò, "tuyên ngôn" nhiều hơn là sáng tác cũng chỉ chung chung :
"Có lẽ ngoài yếu tố tài năng, tính chuyên nghiệp, vv… thì hiện nay nhà văn không cần bỏ quá nhiều năng lượng và sự quan tâm cho giới phê bình. Nghĩa là, một tác phẩm không nhất thiết phải có vài nhà phê bình nào đấy nhắc đến và viết phân tích chỉn chu thì mới được gọi là “tác phẩm lớn”. Thực tế cho thấy nhà phê bình đã không làm nổi công việc ấy. Vì vậy, tác phẩm lớn càng phải hội tụ nhiều yếu tố. "Theo tôi, tính tự quyết và tự khẳng định về giá trị nghệ thuật của mình là một yếu tố quan trọng trong quá trình sáng tác của nhà văn."
Các nhà văn, nhà thơ có tuổi, ý thức trách nhiệm xã hội có vẻ rõ rệt hơn các cây bút mới ra ràng. Hồi mồ ma nhà thơ Phạm Tiến Duật, đã trao đổi với nhà thơ Phạm Đình Ân.
PHẠM ĐÌNH ÂN: Anh đã từng có đóng góp nhiều cho văn học nghệ thuật, thậm chí là thẳng thắn nói lên những yếu kém của văn học nước nhà. Vậy theo anh, cái yếu kém nhất là gì?
PHẠM TIẾN DUẬT: Tôi cho rằng, cái yếu kém nhất trong văn học, nghệ thuật hiện nay là tính ích kỷ. ..Trong đời sống, ích kỷ đã xấu rồi, trong văn học, nghệ thuật giặc ích kỷ còn rất tai hại. Chuyện đau buồn, tình phụ thì có thể nói thoáng qua trong một vài bài thơ nhưng khi nó trở thành chủ đề cho cả tập thơ thì có ích gì cho ai? Hay theo tôi, tự tô vẽ thương hiệu cho mình cũng là một sự ích kỷ, bởi chắc gì tác phẩm của anh đã hay, đã xứng tầm với cái vỏ bọc mỹ miều của những từ ngữ hoa mỹ (như chương trình “Bài hát Việt” chẳng hạn, có những bài chưa xứng đáng nhưng tự nâng mình lên…). Đời sống còn vô vàn những điều cần quan tâm, xã hội còn có rất nhiều người khổ sở, hà cớ gì mà văn nghệ không quan tâm đến họ?"
Muốn văn học quan tâm tới họ – những người cùng khổ , các nhà văn cần thoát ra khỏi cái bầu vú sữa của đảng và Nhà nước. Chừng nào tự kiếm sống được không cần dựa vào bất kỳ bổng lộc nào của Hội Nhà văn, chừng đó may ra mới có cơ hội viết được tác phẩm lớn.
N.T.
khieman
08-01-2014, 12:10 AM
(tiếp theo)
Hội nhà văn của nước ta
kỳ 4
Tháng 3 , theo yêu cầu của Ban bí thư trung ương đảng , các chi hội nhà văn ở khắp ba miền phải họp đại hội ngay trong tháng để kịp tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc vào cuối tháng 4 vì sang tháng 5 hội trường Ba Đình phải giành cho quốc hội.
Sớm nhất là đại hội các nhà văn khu vực Tây Nguyên, khai mạc ngày 8 tháng 3 tại Buôn Ma Thuột. Cả Tây Nguyên có 9 hội viên hội nhà văn VN cộng với 2 khách mời là ông Chủ tịch và Phó chủ tịch thành phố Ban mê Thuột nên đại hội hơi bị …vắng vẻ.
Tuy nhiên đại hội vẫn tiến hành đầy đủ công việc như các nơi khác. Bản báo cáo công tác được thảo luận khá “sôi nổi” ; chẳng hạn có ý kiến đề nghị “nhà sáng tác Quảng Bá “ của hội cần hoàn thành sớm để các nhà văn Tây Nguyên về Hà Nội có chỗ ở, khỏi đi khách sạn, có ý kiến yêu cầu đổi lại mầu của … thẻ hội viên hội nhà văn vì màu thẻ hiện nay nom yếu quá.
Tuy thế, đại hội cũng có trục trặc chút xíu, đó là nhà văn Tạ Văn Sĩ ở thị xã Kontum về họp đại hội bị ban tổ chức…đòi tiền khách sạn làm đại biểu này hoảng quá la oai oái. Sau cùng đại hội cũng bầu được 5 đại biểu đi dự đại hội toàn quốc ngoài Hà Nội, đáng phàn nàn 5 đại biểu được bầu lại đều là người kinh, cả 3 nhà văn người Thượng đều bị…rớt cả làm ông Tổng thư ký Hữu Thỉnh ngoài Hà Nội nghe tin hoảng quá, ngay lập tức điện vào xin mời cả 3 nhà văn người Thượng đi họp đại hội toàn quốc, khỏi phải bầu bán gì. Thế mới biết các nhà văn Tây Nguyên “quán triệt” chính sách đoàn kết dân tộc của đảng xuất sắc thật.
Tiếp theo đại hội nhà văn các tỉnh miền Tây Nam bộ khai mạc ngày 9 tháng 3 tại thành phố Long Xuyên quy tụ các nhà văn từ Bến Tre, Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang cho tới Cà Mâu. Báo cáo “ Văn học 5 năm đầu thế kỷ”, báo cáo công tác tại Đại hội nhà văn lần thứ 7 được đọc lên cho mọi người thảo luận và ngay lập tức nhà văn Thai Sắc đã yêu cầu đục bỏ một câu tối nghĩa :
” Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích…”
Nhà văn Hào Vũ phàn nàn rằng :
“ các nhà văn bây giờ khi viết thường tìm “sự an toàn “ ( tự biên tập) là chính nên ít có những kiếm tìm , phiêu lưu mạo hiểm để viết nên những tác phẩm xứng tầm…”.
Ngày 12 tháng 3, các nhà văn miền Đông Nam bộ tụ tập tại Vũng Tàu thảo luận báo cáo và bầu người đi dự đại hội toàn quốc. Nhà thơ Bùi Minh Quốc được xả quản thúc tại địa phương từ 6 tháng nay cũng về dự đại hội và hăng hái phát biểu :
” Nhà thơ ngày nay dường như ngày càng lãnh cảm trước nỗi đau đớn và bất hạnh của nhân thế, không thể dửng dưng với cái ác, cái giả dối, cái xấu xa…nhà thơ phải tuyên chiến chống lại chúng…” .
Ý kiến của nhà thơ xem ra không được nồng nhiệt đón nhận cho lắm vì các nhà văn dự đại hội đã bày tỏ thái độ của mình bằng…không bỏ phiếu cho Bùi Minh Quốc đi dự đại hội toàn quốc. Thế mới biết nhà văn bây giờ hoá ra lại là bộ phận…lãnh cảm nhất của xã hội trước những biểu hiện phản kháng của đồng nghiệp. Nhà thơ Bùi Minh Quốc hẳn rút ra được bài học thấm thía về tình đồng đội.
Cũng vào dịp này Đại hội các nhà văn miền Trung khai mạc tại thành phố Nha Trang quy tụ các nhà văn từ Thanh Hoá đổ vào, cuối Khánh Hoà đổ ra, trải dài trên 1000 kilômét, tính ra trung bình cứ 10 kilômét lại có một nhà văn, riêng các nhà văn dân tộc ít người thì hơi bị…ít, trong 30 dân tộc miền trung có vẻn vẹn 6 nhà văn.
Đại hội thảo luận “dự thảo báo cáo của Đại hội đại biểu toàn quốc” rất hăng hái. Có nhà văn khẳng định “văn chương vẫn là…món ăn tinh thần”, có đại biểu phàn nàn “Ban lãnh đạo Hội thiếu công bằng trong chia tiền sáng tác và cử đi nước ngoài , khu vực miền Trung coi như vùng sâu vùng xa nên thiệt thòi nhất”, lại có ông nhảy lên diễn đàn “yêu cầu không thể để có hiện tượng hội viên xúc phạm danh dự Hội “ – chắc là muốn nhắc tới chuyện Nguyễn Huy Thiệp chửi cả Hội nhà văn Việt Nam là đám giặc già… Điều đặc biệt nhất của đại hội miền Trung là sau khi bế mạc, toàn thể các nhà văn “vinh dự” được tỉnh uỷ Khánh Hoà mời … dự tiệc tại nhà hàng Hải Vy số 44 đường Trần Phú, Nha Trang.
Ôi chao ôi, có mỗi bữa nhậu mà biến cả một đại hội nhà văn thành một …”đại hội nghĩa tình” làm báo Văn Nghệ Trẻ phải chạy tít lớn tường thuật :” Nghĩa tình văn học miền Trung”.
Riêng đoàn nhà văn Thanh Hoá được Sở tài chính tỉnh cho mượn ô tô đi dự họp khỏi ngồi tàu hoả, lại được Ban tư tưởng tỉnh uỷ tặng một bó hoa rất to nên dọc đường họ đặt bó hoa vinh dự ấy lên mũi xe và …ca hát rất hồ hởi .
Đại hội các nhà văn sinh sống tại Sàigòn có vẻ sôi nổi nhất lại là ở…ngoài hành lang. Các đại biểu xem ra ít chú ý tới những gì các cán bộ lãnh đạo như Hữu Thỉnh, Tổng thư ký Hội nhà văn trung ương, Lê văn Thảo – Tổng thư ký Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh đang ngồi trên Chủ tịch đoàn phát biểu như máy khâu. Họ đứng đầy ngoài hành lang gẫu chuyện. Người ta thấy nhà thơ Thái Thăng Long từ trong hội trường đi ra, mặt đỏ gay, lắc đầu lia lịa :
” Giả dối, giả dối, đâu đâu cũng toàn nói chuyện giả dối …giải tán cái hội nhà văn này cho rồi…”
Nhà văn Nguyễn Khải đứng dựa vào tường lắc đầu :
“ Không được, không được …Đảng còn là Hội nhà văn còn…”
Một nhà văn trẻ lạ hoắc ở đâu xộc tới láu táu :
“ Bác Khải ơi bác Khải, sao bác không viết tiểu thuyết “Sám hối”, bác viết đi không thì…muộn rồi đó. Ít nhất cũng như bác Chế Lan Viên có bài thơ “ Bánh vẽ” chứ ?
Cụ Nguyễn Khải không trả lời chỉ lắc đầu, mặt đỏ bừng. Nhà văn Trần Công Tấn đứng bên cạnh đỡ lời :
“ Thằng này láo, viết hay không là tuỳ bác Khải chớ, mày ép bác vậy đâu có được …”
Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh vốn là người đã nói một câu đi vào lịch sử tại diễn đàn đại hội nhà văn lần thứ 4 :
” Lương tri dân tộc đã thức tỉnh từ diễn đàn này…”,
tuy nhiên mấy năm gần đây được thành uỷ tặng nhà trong Quận 5 nên Giáo sư có vẻ như quên mất mình đã nói gì, giáo sư từ trong phòng họp đi ra khoe :
’ Hoá ra tớ được vào danh sách mời, không phải dự bầu như các cậu…”.
Chủ tịch đoàn chợt nhắc nhở các nhà văn vào nghe đồng chí Đỗ Kim Cuông, Vụ trưởng Vụ văn nghệ “có ý kiến” với đại hội. Hoá ra ông Vụ trưởng phổ biến tinh thần bầu ban chấp hành mới là chọn người không kể tuổi tác, không kể đã ở ban chấp hành mấy khoá liền, nếu tín nhiệm ai thì cứ bỏ phiếu. Vậy là đảng đã bật đèn xanh giữ lại Ban chấp hành cũ kể cả ông Hữu Thỉnh vẫn làm Tổng thư ký cho dù sang nhiệm kỳ thứ 3.
Một đặc điểm chung của các đại hội vừa diễn ra tại Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, Hội điện ảnh TP Hồ Chí Minh là hầu hết Ban chấp hành cũ tuổi “thất thập” đều được bầu lại. Lo rằng “hội chứng Vũ Như Cẫn” tức Ban chấp hành mới sau đại hội “vẫn như cũ” sẽ lan sang cả Đại hội mỹ thuật TP Hồ Chí Minh họp trong 2 ngày 29&30 tháng 3, hoạ sĩ Trịnh Thanh Tùng đã “báo động” trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 29 tháng 3 với bài “ Sao không thể trẻ hơn ?” rằng :
” Thiết nghĩ những yếu kém và thụ động phải chăng do bộ máy đầu tàu (ban chấp hành) nay đã quá già cỗi, đã lãnh đạo quá nhiều nhiệm kỳ, mọi suy nghĩ và hành động đều theo quán tính lối mòn ? Có ai nghĩ tới việc rút lui vào hậu trường để ủng hộ các đồng nghiệp trẻ có tâm huyết đứng ra gánh vác trách nhiệm cho nhiệm kỳ tới ?”
Chắc chắn sẽ không có ai rút đâu, hơn nữa việc bầu ai, bỏ ai không thuộc quyền đại hội mà do thành uỷ dự kiến và trong tình hình hiện nay tốt nhất giữ lại Ban chấp hành cũ, ai ngồi đâu cứ ngồi đó để sự ổn định chính trị được bảo đảm….
N.T.
khieman
08-03-2014, 03:31 AM
.
Một con ngựa đau
cả tàu vẫn…tranh nhau gặm cỏ…
Báo nào có tuổi thọ cao nhất, vài chục năm nay kể từ khi ra đời vẫn chưa…chết ? Tất nhiên là báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam.
Báo nào có tuổi đời ngắn nhất , vừa chào đời, chưa kịp bán ra sạp đã bị tuyên án tử hình ? Đó là nguyệt san “Nhà báo@Công luận “cơ quan trung ương của Hội Nhà báo Việt Nam.
Đầu tháng 1 năm 2005 , ông Đỗ Quý Doãn , Cục trưởng Cục báo chí Bộ văn hoá ký quyết định đình bản tờ báo nói trên khi nó chỉ vừa kịp ra tới số 2 với lý do “vi phạm Luật báo chí “.
“ Một con ngựa đau cả tàu vẫn…tranh nhau gặm ăn cỏ”, một đồng nghiệp bị chôn sống ngay giữa chợ, cả làng báo Việt Nam vẫn im thin thít, vẫn mải miết trong cuộc chạy đua …tăng số lượng để tăng trang quảng cáo; riêng Tổ chức Nhà báo không Biên giới ( RSF) lên tiếng phản đối mãi từ … bên kia bờ đại dương nên chẳng tạo nên một tiếng vang nào ?
“ Nhà báo @ Công Luận” cứ thế mà tức tưởi chết trong im lặng.
Nhà nước ký quyết định chính thức đình bản tờ báo của “Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam” - một tổ chức quần chúng “quản lý các nhà báo “ của Đảng khác nào từ bỏ đứa con mình đẻ ra ?
Vì sao vậy ?
Phải chăng báo “bôi xấu con em chúng ta “ khi cho đăng bài tập làm văn của một học sinh lớp 9 :” Thuý Kiều là người con gái tài sách vẹn toàn , song nàng bị chế độ phong kiến vùi dập chốn bùn nhơ . Đến nỗi nàng phải nhảy xuống sông Tiền Giang tự vẫn, may thay lúc đó có một bà đảng viên đi công tác về , bà liền nhảy xuống sông cứu mạng. Sau đó Kiều giác ngộ và đi theo con đường cách mạng…”
Hay vì lật tẩy “số đo trí tuệ” của hoa hậu Nguyễn thị Huyền, khi trả lời câu hỏi được báo trước và chuẩn bị sẵn thì rất hay, nhưng khi bị hỏi đột ngột :” sáng sớm mai việc đầu tiên em làm là gì ?”, cô hoa hậu ngắc ngứ mãi sau đành nói liều :”em mở cửa sổ” làm những người tham dự cứ cười lăn.
Hay vì đăng chuyện cười bôi bác chế độ :
” Cần bao nhiêu nhà văn để thay một cái bóng đèn ? Ba. Một để nguyền rủa bóng tối, một để thắp nến lên và một để thay bóng đèn. Thế cần bao nhiêu quan chức để làm việc đó ? Một để chỉ ra cái bóng đã hỏng, một để đề nghị chấp thuận thay bóng, ba người để soạn và lưu các bản đề nghị, một để chuyển bản đề nghị lên phòng vật tư, một để soạn yêu cầu mua bóng, một để nhận bóng về…”
Hay vì đăng ý kiến các VIP khi được báo chí bốc thơm như Bí thư thành uỷ Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh :” Tôi thấy nhiều lúc nghĩ mãi không ra chúng ta đầu tư theo kiểu gì ? Cuộc sống cần cái này ta lại đi làm cái kia. Chẳng hạn nông dân cần máy tuốt lúa ta lại đi sản xuất máy bay hay người ta cần mổ tim cho trẻ em ông lại đi ghép gan ghép thận…” hoặc như Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Mai Ai Trực :” Tôi kêu gọi người dân hãy đi kiện những công chức sách nhiễu thay vì đút tiền cho những công chức đó…” hoặc như đại biểu quốc hội Nguyễn mạnh Đức :” Cần có kiểm soát với các đồng chí có chức vụ mà tài sản phát triển lên nhanh chóng “ ( vậy thì tuốt luốt từ địa phương đến trung ương, đồng chí nào cũng phải kiểm soát)
Hay đăng ý kiến lúc “thăng hoa bằng bia Tiger ” của nhà văn “quốc doanh” Đỗ Chu :”Phải biết xấu hổ mới viết văn hay được” ( thảo nào mấy chục năm nay mất mùa văn học), của nhà viết kịch trẻ Lê Chí Trung :” Vừa rồi tôi có một vở chống tham nhũng nói về những ông quan cấp bộ cấp tỉnh. Nhưng rồi bị sửa, rốt cuộc vở rất tròn trịa, kẻ tham ô biến thành người tốt…:”
Hay do đăng tiếng kêu của bé Thắng, 3 tuổi, ở thôn Huyền Kỳ, xã Phú Lâm, Hà Đông bị chó berger của đám nhà giàu trong làng cắn nát lưng :” Chó ! Chó kìa !...bố ơi “ và báo chạy tít lớn :” Ngày nào có một phiên toà ?”
Hay vì đăng bài “ Đằng sau tiếng rao “báo đây” là nước mắt “ vạch thảm cảnh của những bà mẹ , những người vợ vì nuôi chồng con phải bán báo dạo trên đường phố Hà Nội và bị đưa đi trại Đồng Dầu, Ba Vì ?
Không phải, tất cả đều không phải vì những chuyện đó.
Theo “phổ biến nội bộ” thì tờ báo bị đóng cửa là do “ vi phạm nhạy cảm chính trị” khi đăng hồi ký của nhà báo Lý Quý Chung , nguyên Tổng trưởng Bộ TT của chính phủ Dương văn Minh :
“ Tổng thống Dương Văn Minh muốn công bố đầu hàng vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 nhưng đã dời đến 30 tháng 4 năm 1975 vì đã nghe theo lời khuyên của ông Lý Quý Chung :” nếu tuyên bố đầu hàng vào 29 tháng 4 năm 1975 khi bộ đội cách mạng chưa vào, Sàigòn sẽ không có chính quyền , khoảng trống đó rất nguy hiểm tạo ra sự hỗn loạn, cướp phá đẫm máu, xin Tổng thống hãy chờ qua ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi bộ đội đã tới cửa ngõ Sàigòn hãy tuyên bố…”.
Lịch sử bị “bật mí” theo kiểu vậy đâu có được , nếu vậy còn đâu là yếu tố “thần tốc” và “chủ động” của quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ?
Tuy nhiên đó chỉ là “cái cớ” người ta vin vào thôi, cái cốt lõi tạo nên án tử cho tờ báo cụ thể và đơn giản hơn nhiều.
Tội lớn nhất của “ Nhà báo @ Công luận “ là làm rùm beng :” Dự án cụm Du lịch Cáp treo Núi Lớn- Núi Nhỏ Thành phố Vũng Tàu”, mà từ hồi tháng 4 năm 2004, báo Văn Nghệ Trẻ thuộc Hội nhà văn đã dành hẳn 5 kỳ báo vạch trần dự án cáp treo chẳng khác gì “chiếc dây phơi” bắc qua Vịnh, phá hoại cảnh quan , phá hoại cái đẹp của biển Vũng Tàu. Tuy nhiên lời báo động khẩn thiết của Báo Văn Nghệ Trẻ bị rơi vào im lặng , cáp treo vẫn cứ được khẩn trương căng ngang hai bờ vịnh.
“Nhà báo @Công luận” không những lên án cáp treo mà còn vạch trần nguời ta đã lợi dụng cáp treo để chiếm dụng mặt bằng xây những cụm công trình lớn như : Hệ thống khách sạn “Ga cáp treo”, khu khách sạn Đồi Mây, Lầu vọng cảnh, Khu Bungalow, Khu khách sạn Nghinh Phong vân vân…Báo dành hẳn 3 trang khổ lớn đăng ý kiến phản đối dự án của rất nhiều người trong đó có nhà sử học Dương Trung Quốc, , nguyên Bí thư tỉnh uỷ Bà Rịa-Vũng Tàu Lê Quang Thành …Tiếc thay dự án cáp treo Vũng Tàu có cổ phần của các VIP siêu lớn, nếu cứ để “Nhà báo@Công luận” tiếp tục thọc gậy bánh xe thì không khéo hỏng ăn, bởi vậy tốt nhất là bịt miệng nó lại cho chắc ăn.
Tội lớn thứ hai của tờ báo là khui lại vụ “các quan chức xẻ thịt lòng hồ Trị An”, nhắc lại danh sách các cơ quan và các cán bộ từ xã, huyện đến tỉnh chiếm đoạt đất lòng hồ ngoài ra còn trích dẫn ý kiến bạn đọc có tính chất “ kích động” như “Không thể để những kẻ sâu mọt đó muốn làm gì thì làm…Cần phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ này bất kể chúng là ai, nắm cương vị gì…”.
Báo “ Nhà báo @ Công luận” đòi vậy là đi ngược chủ trương của Đảng, bởi lẽ thủ phạm lớn nhất trong vụ này chính là “đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai” Lê Hoàng Quân . May thay, đích thân ông Phan Diễn , Uỷ viên Bộ chính trị bay vào Đồng Nai “cứu nguy” đá sang Tp Hồ Chí Minh làm Chủ tịch UBND để chạy tội, “bảo vệ cán bộ”.
Tội lớn thứ ba là dám đăng ý kiến của cựu Bộ trưởng Bộ y tế , Giáo sư Nguyễn Trọng Nhân từ chối làm Bộ trưởng chính là vì “Tôi không thể sống chung với tham nhũng”. Ong cựu Bộ trưởng kể lại :” Nhiệm vụ của ngành y tế rất nặng nề nhưng điều kiện tạo cho ngành rất thiếu thốn, ngân sách dành cho ngành y tế chưa tới 1 USD/ người /năm trong khi đó nước Lào, Bangladesh nghèo hơn ta còn được nhiều hơn. Ngân sách dành cho y tế đã ít như thế mà vẫn bị những kẻ tham nhũng xà xẻo, bòn rút…”
Cái kiểu “vạch áo cho người xem lưng “ như thế rõ ràng không đạt yêu cầu “ Phải lựa chọn thông tin thích hợp, phải cân nhắc đưa hay không đưa, liều lượng cỡ nào, đưa lúc nào và không phải tất cả mọi chuyện đều có thể đưa lên báo” như ông Hồng Vinh, Phó Ban Tư Tưởng – Văn Hoá phát biểu tại Hội nghị sơ kết ngày 16-12-2004 ở Nam Định.
Và như lời ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng-văn hoá cũng ở Hội nghị này :”Những người không tích cực sửa chữa khuyết điểm hoặc không đủ trình độ và phẩm chất lãnh đạo, quản lý tờ báo phải xem xét xử lý kỷ luật thích đáng hoặc thay thế kịp thời…” báo “ Nhà báo @Công luận” bị đóng cửa là đúng rồi, còn oan nỗi gì ?
N.T.
khieman
08-03-2014, 03:31 AM
.
Một con ngựa đau
cả tàu vẫn…tranh nhau gặm cỏ…
Báo nào có tuổi thọ cao nhất, vài chục năm nay kể từ khi ra đời vẫn chưa…chết ? Tất nhiên là báo Nhân Dân, cơ quan trung ương của Đảng cộng sản Việt Nam.
Báo nào có tuổi đời ngắn nhất , vừa chào đời, chưa kịp bán ra sạp đã bị tuyên án tử hình ? Đó là nguyệt san “Nhà báo@Công luận “cơ quan trung ương của Hội Nhà báo Việt Nam.
Đầu tháng 1 năm 2005 , ông Đỗ Quý Doãn , Cục trưởng Cục báo chí Bộ văn hoá ký quyết định đình bản tờ báo nói trên khi nó chỉ vừa kịp ra tới số 2 với lý do “vi phạm Luật báo chí “.
“ Một con ngựa đau cả tàu vẫn…tranh nhau gặm ăn cỏ”, một đồng nghiệp bị chôn sống ngay giữa chợ, cả làng báo Việt Nam vẫn im thin thít, vẫn mải miết trong cuộc chạy đua …tăng số lượng để tăng trang quảng cáo; riêng Tổ chức Nhà báo không Biên giới ( RSF) lên tiếng phản đối mãi từ … bên kia bờ đại dương nên chẳng tạo nên một tiếng vang nào ?
“ Nhà báo @ Công Luận” cứ thế mà tức tưởi chết trong im lặng.
Nhà nước ký quyết định chính thức đình bản tờ báo của “Trung ương Hội Nhà báo Việt Nam” - một tổ chức quần chúng “quản lý các nhà báo “ của Đảng khác nào từ bỏ đứa con mình đẻ ra ?
Vì sao vậy ?
Phải chăng báo “bôi xấu con em chúng ta “ khi cho đăng bài tập làm văn của một học sinh lớp 9 :” Thuý Kiều là người con gái tài sách vẹn toàn , song nàng bị chế độ phong kiến vùi dập chốn bùn nhơ . Đến nỗi nàng phải nhảy xuống sông Tiền Giang tự vẫn, may thay lúc đó có một bà đảng viên đi công tác về , bà liền nhảy xuống sông cứu mạng. Sau đó Kiều giác ngộ và đi theo con đường cách mạng…”
Hay vì lật tẩy “số đo trí tuệ” của hoa hậu Nguyễn thị Huyền, khi trả lời câu hỏi được báo trước và chuẩn bị sẵn thì rất hay, nhưng khi bị hỏi đột ngột :” sáng sớm mai việc đầu tiên em làm là gì ?”, cô hoa hậu ngắc ngứ mãi sau đành nói liều :”em mở cửa sổ” làm những người tham dự cứ cười lăn.
Hay vì đăng chuyện cười bôi bác chế độ :
” Cần bao nhiêu nhà văn để thay một cái bóng đèn ? Ba. Một để nguyền rủa bóng tối, một để thắp nến lên và một để thay bóng đèn. Thế cần bao nhiêu quan chức để làm việc đó ? Một để chỉ ra cái bóng đã hỏng, một để đề nghị chấp thuận thay bóng, ba người để soạn và lưu các bản đề nghị, một để chuyển bản đề nghị lên phòng vật tư, một để soạn yêu cầu mua bóng, một để nhận bóng về…”
Hay vì đăng ý kiến các VIP khi được báo chí bốc thơm như Bí thư thành uỷ Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh :” Tôi thấy nhiều lúc nghĩ mãi không ra chúng ta đầu tư theo kiểu gì ? Cuộc sống cần cái này ta lại đi làm cái kia. Chẳng hạn nông dân cần máy tuốt lúa ta lại đi sản xuất máy bay hay người ta cần mổ tim cho trẻ em ông lại đi ghép gan ghép thận…” hoặc như Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Mai Ai Trực :” Tôi kêu gọi người dân hãy đi kiện những công chức sách nhiễu thay vì đút tiền cho những công chức đó…” hoặc như đại biểu quốc hội Nguyễn mạnh Đức :” Cần có kiểm soát với các đồng chí có chức vụ mà tài sản phát triển lên nhanh chóng “ ( vậy thì tuốt luốt từ địa phương đến trung ương, đồng chí nào cũng phải kiểm soát)
Hay đăng ý kiến lúc “thăng hoa bằng bia Tiger ” của nhà văn “quốc doanh” Đỗ Chu :”Phải biết xấu hổ mới viết văn hay được” ( thảo nào mấy chục năm nay mất mùa văn học), của nhà viết kịch trẻ Lê Chí Trung :” Vừa rồi tôi có một vở chống tham nhũng nói về những ông quan cấp bộ cấp tỉnh. Nhưng rồi bị sửa, rốt cuộc vở rất tròn trịa, kẻ tham ô biến thành người tốt…:”
Hay do đăng tiếng kêu của bé Thắng, 3 tuổi, ở thôn Huyền Kỳ, xã Phú Lâm, Hà Đông bị chó berger của đám nhà giàu trong làng cắn nát lưng :” Chó ! Chó kìa !...bố ơi “ và báo chạy tít lớn :” Ngày nào có một phiên toà ?”
Hay vì đăng bài “ Đằng sau tiếng rao “báo đây” là nước mắt “ vạch thảm cảnh của những bà mẹ , những người vợ vì nuôi chồng con phải bán báo dạo trên đường phố Hà Nội và bị đưa đi trại Đồng Dầu, Ba Vì ?
Không phải, tất cả đều không phải vì những chuyện đó.
Theo “phổ biến nội bộ” thì tờ báo bị đóng cửa là do “ vi phạm nhạy cảm chính trị” khi đăng hồi ký của nhà báo Lý Quý Chung , nguyên Tổng trưởng Bộ TT của chính phủ Dương văn Minh :
“ Tổng thống Dương Văn Minh muốn công bố đầu hàng vào ngày 29 tháng 4 năm 1975 nhưng đã dời đến 30 tháng 4 năm 1975 vì đã nghe theo lời khuyên của ông Lý Quý Chung :” nếu tuyên bố đầu hàng vào 29 tháng 4 năm 1975 khi bộ đội cách mạng chưa vào, Sàigòn sẽ không có chính quyền , khoảng trống đó rất nguy hiểm tạo ra sự hỗn loạn, cướp phá đẫm máu, xin Tổng thống hãy chờ qua ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi bộ đội đã tới cửa ngõ Sàigòn hãy tuyên bố…”.
Lịch sử bị “bật mí” theo kiểu vậy đâu có được , nếu vậy còn đâu là yếu tố “thần tốc” và “chủ động” của quân và dân ta trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử ?
Tuy nhiên đó chỉ là “cái cớ” người ta vin vào thôi, cái cốt lõi tạo nên án tử cho tờ báo cụ thể và đơn giản hơn nhiều.
Tội lớn nhất của “ Nhà báo @ Công luận “ là làm rùm beng :” Dự án cụm Du lịch Cáp treo Núi Lớn- Núi Nhỏ Thành phố Vũng Tàu”, mà từ hồi tháng 4 năm 2004, báo Văn Nghệ Trẻ thuộc Hội nhà văn đã dành hẳn 5 kỳ báo vạch trần dự án cáp treo chẳng khác gì “chiếc dây phơi” bắc qua Vịnh, phá hoại cảnh quan , phá hoại cái đẹp của biển Vũng Tàu. Tuy nhiên lời báo động khẩn thiết của Báo Văn Nghệ Trẻ bị rơi vào im lặng , cáp treo vẫn cứ được khẩn trương căng ngang hai bờ vịnh.
“Nhà báo @Công luận” không những lên án cáp treo mà còn vạch trần nguời ta đã lợi dụng cáp treo để chiếm dụng mặt bằng xây những cụm công trình lớn như : Hệ thống khách sạn “Ga cáp treo”, khu khách sạn Đồi Mây, Lầu vọng cảnh, Khu Bungalow, Khu khách sạn Nghinh Phong vân vân…Báo dành hẳn 3 trang khổ lớn đăng ý kiến phản đối dự án của rất nhiều người trong đó có nhà sử học Dương Trung Quốc, , nguyên Bí thư tỉnh uỷ Bà Rịa-Vũng Tàu Lê Quang Thành …Tiếc thay dự án cáp treo Vũng Tàu có cổ phần của các VIP siêu lớn, nếu cứ để “Nhà báo@Công luận” tiếp tục thọc gậy bánh xe thì không khéo hỏng ăn, bởi vậy tốt nhất là bịt miệng nó lại cho chắc ăn.
Tội lớn thứ hai của tờ báo là khui lại vụ “các quan chức xẻ thịt lòng hồ Trị An”, nhắc lại danh sách các cơ quan và các cán bộ từ xã, huyện đến tỉnh chiếm đoạt đất lòng hồ ngoài ra còn trích dẫn ý kiến bạn đọc có tính chất “ kích động” như “Không thể để những kẻ sâu mọt đó muốn làm gì thì làm…Cần phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ này bất kể chúng là ai, nắm cương vị gì…”.
Báo “ Nhà báo @ Công luận” đòi vậy là đi ngược chủ trương của Đảng, bởi lẽ thủ phạm lớn nhất trong vụ này chính là “đồng chí Bí thư tỉnh uỷ Đồng Nai” Lê Hoàng Quân . May thay, đích thân ông Phan Diễn , Uỷ viên Bộ chính trị bay vào Đồng Nai “cứu nguy” đá sang Tp Hồ Chí Minh làm Chủ tịch UBND để chạy tội, “bảo vệ cán bộ”.
Tội lớn thứ ba là dám đăng ý kiến của cựu Bộ trưởng Bộ y tế , Giáo sư Nguyễn Trọng Nhân từ chối làm Bộ trưởng chính là vì “Tôi không thể sống chung với tham nhũng”. Ong cựu Bộ trưởng kể lại :” Nhiệm vụ của ngành y tế rất nặng nề nhưng điều kiện tạo cho ngành rất thiếu thốn, ngân sách dành cho ngành y tế chưa tới 1 USD/ người /năm trong khi đó nước Lào, Bangladesh nghèo hơn ta còn được nhiều hơn. Ngân sách dành cho y tế đã ít như thế mà vẫn bị những kẻ tham nhũng xà xẻo, bòn rút…”
Cái kiểu “vạch áo cho người xem lưng “ như thế rõ ràng không đạt yêu cầu “ Phải lựa chọn thông tin thích hợp, phải cân nhắc đưa hay không đưa, liều lượng cỡ nào, đưa lúc nào và không phải tất cả mọi chuyện đều có thể đưa lên báo” như ông Hồng Vinh, Phó Ban Tư Tưởng – Văn Hoá phát biểu tại Hội nghị sơ kết ngày 16-12-2004 ở Nam Định.
Và như lời ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng ban tư tưởng-văn hoá cũng ở Hội nghị này :”Những người không tích cực sửa chữa khuyết điểm hoặc không đủ trình độ và phẩm chất lãnh đạo, quản lý tờ báo phải xem xét xử lý kỷ luật thích đáng hoặc thay thế kịp thời…” báo “ Nhà báo @Công luận” bị đóng cửa là đúng rồi, còn oan nỗi gì ?
N.T.
khieman
08-03-2014, 03:36 AM
.
“dự báo phi thời tiết”.*
* NXB HỘI NHÀ VĂN HÀNỘI 12-2005
Giao thừa năm ấy, ngồi với cô phóng viên VHVN một tờ báo lá cải Sàigòn tại quán càphê Paris phố Nguyễn Du . Thấy tôi cứ ngoái cổ nhìn sang bàn bên nơi có hai người đàn ông một già một trẻ ngồi lặng lẽ, cô bạn phóng viên cười :
“ Anh có biết hai người đó không ? Ông già là hoạ sĩ Trịnh Cung, anh trẻ là nhà thơ Thận Nhiên. Hai anh đang ngồi buồn vì hai cô bồ nhí làm thơ là Phương Lan và Lynh Bacardi ra Hà Nội để dự buổi ra mắt tập thơ “phi thời tiết” của 5 cô “ngựa trời” rồi.”
“ Lynh Bacardi ? Việt kiều à ?”
Cô bạn nhà báo cười rũ :
“ Không, tên em Thuỳ Linh, chắc khoái uống rượu Bacardi nên lấy tên là Lynh Bacardi… …”
Hôm sau, cô nhà báo VHVN cho biết buổi ra mắt sách đã bị cấm, lại hôm sau nữa, cô báo tin Cục Xuất bản vừa có văn bản đình chỉ xuất bản tập thơ Dự báo phi thời tiết của nhóm tác giả nữ Ngựa trời do NXB Hội Nhà văn phát hành tháng 12-2005 với lý do :
” Ngoài vấn đề nội dung tác phẩm không phù hợp với văn hoá Việt Nam, ảnh bìa của tập thơ này cũng rất “quái”. Hình ảnh 5 nữ tác giả người quấn kín đầu theo kiểu xác ướp Ai Cập, dán đầy bông băng trên mặt tạo nên những hình ảnh kỳ dị... Những “chân dung” quái gở đó lại được sắp xếp theo biểu tượng linga khiến người xem giật mình. Bên trong tập thơ, các nữ tác giả còn xuất hiện trong hình dạng xác ướp với đủ kiểu trang điểm quái dị như khiêu khích người đọc. “
Ý kiến của “ nhà quản lý” như vậy, còn những “bà đỡ” – ông Giám đốc xuất bản, ông biên tập, ông “đầu nậu” sách thì sao ?
Ông Giám đốc NXB Hội nhà văn Nguyễn Phan Hách theo như thông lệ , đá trái bóng xuống cấp dưới :
“ Phải kể lại tường tận thế này, tập thơ do bên Công ty văn hoá Nhã Nam gửi qua NXB HNV có lời giới thiệu của ông Dương Tường. Ông Vương Trí Nhàn đã làm việc cẩn thận và ký trên từng trang bản thảo, rồi chuyển qua tôi duyệt. Khi tôi đọc, tôi cũng đọc qua loa, chưa đọc kỹ càng cho lắm, nên xảy ra tình trạng để lọt ấn phẩm này. Chúng tôi vẫn nhận chúng tôi có lỗi, chúng tôi sai sót, nhưng chúng tôi không vô trách nhiệm với trang bản thảo cũng như chúng tôi không đồng tình để cuốn thơ “Dự báo phi thời tiết” ra đời. Chúng tôi không cố ý tạo ra sự cố này. Đây là sơ sót và tai nạn nghề nghiệp ....ông Vương Trí Nhàn chịu trách nhiệm bản thảo này, ông là người biên tập nhiều cuốn sách hay và có uy tín...”
Ông biên tập viên Vương trí Nhàn ( nổi cáu ):
“Tôi không trả lời điều gì đâu, tôi quên hết rồi…”
Rồi xem ra cãi thì vẫn có lợi hơn là im nên ông cãi :
“ Thật ra khi tôi đọc thơ của 5 tác giả nữ này, tôi không thấy yếu tố khiêu dâm ở đây như ai đó nói. Nếu như bảo thơ Lynh Bacardi là tục tĩu thì không phải, chỉ có thể nói thơ của Lynh Bacardi dùng yếu tố tính dục nói lên ẩn ức, chứ không có mục đích là khiêu dâm. Bản thân thơ của cô ta chỉ “có lỗi” ở ngôn ngữ, tôi đọc tập thơ này không hề thấy khiêu dâm....nó không đến mức phải thu hồi.”
Ông Nhàn đưa ra một “lý thuyết “ kỳ lạ :” không khiêu dâm nhưng “có lỗi” ở ngôn ngữ”. Ông không giải thích “có lỗi ở ngôn ngữ “ là lỗi gì ? lỗi thế nào?’ vì nếu làm thế chắc ông phải viết nguyên một cuốn sách.
Ông đầu nậu sách Nhật Anh bị bắt bẻ sao không đưa duyệt bìa, ông cãi :
“Đó là do thói quen từ trước đến nay, chúng tôi đã không đưa duyệt bìa rồi và ngay cả cuốn này cũng vậy. Hơn nữa, các tác giả nữ lại hay giục chúng tôi làm sách nhanh gấp, nên chúng tôi vội vàng. Thực ra, nếu tập thơ bị thu hồi vì bìa thì không đáng, đấy chỉ là sự sắp đặt chơi của hoạ sĩ Trịnh Cung chứ không hề có ý gì. Ngay bản thân tôi thấy bìa tập thơ rất bình thường, đấy chỉ là hình thức làm đẹp tập thơ để bán chạy hơn thôi. Thực ra, lỗi của chúng tôi là không đưa bìa qua NXB HNV để duyệt chứ không phải là bìa gây phản cảm theo như dư luận đánh giá. Đánh giá như thế là chủ quan. Nếu như chúng tôi muốn, chúng tôi cũng có thể bắt chước một biểu tượng Linga mà.”
Vậy là sư nói sư phải, vãi nói vãi hay – từ 5 nhà thơ, ông Giám đốc, ông biên tập, ông đầu nậu…không ai là người “có lỗi” cả. Thế thì chắc hẳn lỗi ở ông Nguyễn Đình Nhã – Cục trưởng Cục xuất bản, người đã ký lệnh thu hồi tập thơ “ Dự báo phi thời tiết” của 5 em ngựa trời ?
Hoá ra bên trong cái lệnh thu hồi sách này, ở mọi phía “đối tác” còn lắm điều hay. Trước hết nói về 5 em gái làm thơ tuổi 8x vừa mới ra tuyên ngôn khăng khăng chối từ mình không thuộc thế hệ @ ( chắc là cổ lỗ sĩ lắm rồi) mà là “những con ngựa trời” ( chứ không phải ngựa vía) cơ.
Thực ra, lâu nay, 5 em “ngựa trời” đã đăng thơ và được “lăng xê” ầm ĩ trên các trang văn học hải ngoại mạng lưới internet. Ngày 28 tháng 8 năm 2005, hoạ sĩ Trịnh Cung đã “tường thuật” lễ “khai sinh” cho “nhóm Ngựa trời :
“Nghi thức theo lễ giáo Hậu Hiện Đại nên không dùng nhang đèn, mâm quả, heo sữa quay, gà qué và USD âm phủ, chỉ rượu Tây, mấy con khô mực và vài gói lạc rang…”.
Suy theo lời hoạ sĩ Trịnh Cung thì “đỡ đẻ” cho 5 em có nhà thơ “Pháp sư Nguyễn Quốc Chánh” và các tên tuổi lẫy lừng trong nhóm “Mở Miệng” và trên internet như Lý Đợi, Bùi Chát, Trần Tiến Dũng, Thận Nhiên…và hoạ sĩ họ Trịnh tường thuật :
“Sau một hồi khảo sát chân cẳng, giáo mác, nhan sắc và thơ thức của các kiều nữ Ngựa Trời, Hội Đồng Nghệ Thuật dâng lên vị Pháp sư chủ lễ phong thư báo cáo kết quả. Ngài Quốc Chính mở thư bằng chiếc lưỡi dài có khảm đầy hột tiểu le rồi ngửa mặt lên trần nhà hét to 3 tiếng… 5 con Đĩ Ngựa vui mừng vung các cặp thanh long đao đầy khát vọng múa “điệu cuồng dâm sát thủ”.
Bốc 5 em “ngựa trời” lên mây xanh, nhà thơ Trần Tiến Dũng ví các em như “ Một cách chém, một cách nguyện cầu” :
“ Này, Lynh Bacarđi, Thanh Xuân, Khương Hà, Phương Lan, Nguyệt Phạm! Sẽ hằng hà sa số vò viên và cây xúc xích trùm bao cao su cố ngổng lên cho rằng chúng tôi đang đi tìm ý nghĩa thơ của các thi sĩ này. Cái đã là khối mùi nguyên nằm trong ngôn ngữ của ngựa trời thì còn tìm làm gì!”
Nhà văn Nguyện Viện thay mặt 5 em lớn giọng :
“ Nay tuyên cáo,
bọn tao là những con ngựa trời, gọi theo kiểu nam bộ miền tây lục tỉnh
làm thơ làm tình (khuyến mãi hai trong một) bất kể ngày kinh đêm nguyệt
cho nên thơ… máu lắm
và đầy chất (nhờn) hậu (môn) hiện (đương) đại (tiện)… “
Đặc biệt, người viết lời giới thiệu cho tập thơ “ dự báo phi thời tiết” là dịch giả kiêm nhà thơ Dương Tường . Ong này nổi tiếng có tài làm rối mù những điều giản dị; nhất khi viết về các hoạ sĩ trẻ, ngôn từ nổ như bắp rang, chữ nghĩa lộn tùng phèo , ù cả tai hoa cả mắt người đọc, và cả người được ca ngợi mà vẫn …không hiểu ông nói gì. Vốn tự coi là “hậu hiện đại” , bà đỡ của các tài năng choai choai, ông nhà thơ ham viết về hội hoạ này chơi ngay một một màn installation - “xếp đặt” các câu thơ của 5 nữ thi sĩ thành bài viết nâng mấy em lên trình độ “ phản tư duy” :
“ ở cái phương trình phi-descartes cái quá trình phi descartes hoá tôi phản-tư duy vậy là tôi hiện hữu…”
Và “vẽ” chân dung mấy em “ngựa trời” :
“ Sinh trong khoảng từ 1981 đến 1985
Không quá khứ và tương lai chưa định hình – ngày mai mang hình dấu hỏi – bốn phương tám hướng là ĐÊM…”
Nhà thơ “vẽ” như thế thì ra hình con cung quăng trong lu nước chứ chẳng phải con ngựa trên trời.
Vậy trước hết đã rõ một điều : trong “dự báo phi thời tiết” , 5 “con ngựa trời” – 5 nàng 8x làm thơ trong tiếng vỗ tay của mấy bác già tự coi là “hậu hiện đại” …và tiếng tán thưởng của mấy cây viết trẻ “ Mở Miệng” ra là c. với l. khỏi viết tắt. Có thể đoán trước, nếu tập thơ không bị cấm xuất bản thì chắc chắn các bác Nguyên Ngọc, Châu Diên , Phạm Xuân Nguyên…sẽ lại tung hô rầm rộ như trường hợp tập truyện “Bóng đè” của em Đỗ Hoàng Diệu.
(còn nữa)
khieman
08-03-2014, 03:47 AM
(tiếp theo)
“phản tư duy” (!) trong thu hồi ….
tập thơ “dự báo phi thời tiết”
kỳ 2
NXB HỘI NHÀ VĂN HÀNỘI 12-2005
Trong khi chờ đợi các “lão tiền bối” Trịnh Cung , Dương Tường…giải mã tập thơ cho cả thiên hạ thưởng thức được chất “máu lắm” và chất “chất (nhờn) hậu (môn) hiện (đương) đại (tiện)… như nhà văn Nguyễn Viện “máckéttinh” cho 5 em ngựa trời, ta hãy thử cố theo chỉ giáo của lão sư phụ Dương Tường để tìm ra cái chất “tôi phản-tư duy vậy là tôi hiện hữu…” trong tập “dự báo phi thời tiết” coi sao.
Trước hết : con ngựa đầu đàn” – nữ thi sĩ Lynh Bacardi.
Như nàng tự giới thiệu ở đầu phần thơ :”Cao 1m57, nặng 44 ký (chưa trừ bì). Một sinh vật có nhiều răng và móng vuốt. Khi thần kinh bị kích động thì thơ tiết ra từ các lỗ chân lông…”
Tự giới thiệu vậy kể cũng đã rõ, chỉ tiếc nhà thơ gái không nói rõ “lỗ chân lông” ở chân tay hay ở đâu (!) để “giải mã” thơ nàng được thuận tiện hơn. Vậy là như nàng tự nhận , mỗi lúc làm thơ, Lynh Bacardi đều thấy :
“ khoái cảm trải mình lăn thật mỏng
Những dấu ngón tay mang thai con chữ
Tới ngày sưng tấy…”
Như thế là thơ nàng đẻ ra đều là cảm xúc thật, chứ nhất định không chịu :
“ em nói chả thèm
Những ngòi viết bị bẻ cong tôi cắm
Cho thoả vào trôn em…”
Í trời ơi, trong xã hội VN ngày nay, biết bao nhiêu là chuyện “nhạy cảm” cấm đoán, trói bút các nhà văn nhà thơ. Nào là chuyện đa nguyên đa Đảng, nào là chuyện biên giới Việt- Trung, nào là băng nhóm chia chác quyền lực…Vậy mà có một cô gái trẻ dám tuyên ngôn “ cắm ngòi viết bẻ cong vào trôn em” thì thật là đáng quý, đáng quý. Nhưng rồi sau những ngày “mang thai con chữ” đến “sưng tấy” nàng đã đẻ ra thứ thơ gì vậy ?
Trưước hết, đọc cả chục bài thơ của Lynh Bacardi, người ta thấy nàng hay nói tới…chuột – không phải chú chuột Jerry dễ thương mà là chuột…bọ :
“ đốm gầu rụng xuống mùa tóc cuối- hì hục buổi bán rung khu nhà ổ chuột, L cứu chuộc hay đóng cửa âm hộ mình…”
( Mình xin lỗi L)
“những con chuột cống giương mắt đỏ lòm, vẫy tay chào đón
Bông gòn@ thuốc đỏ
Một bữa nhậu dòi & nước cống”
(Loạn động vật)
Gã nghiêng đầu dưới tấm bảng khu phố văn hoá, nghiêng đầu tạ ơn lỗ hổng trên cây dù, tạ ơn nước hoa và nước cống, những vị chuột mến khách và dòi và tôi…”
( Loạn động vật)
“ em kề đám chuột lúc nhúc giữa hai chân đòi cơm nguội, đủ màu sắc trên những chiếc đuôi làm hoa mắt , tử cung đầy nhóc mớ hỗn tạp cần phân định…”
“ khoang bụng rỗng lại được lấp đầy nước đái chuột…”
( Bọc đựng hẹp & sâu )
“ bụng đầy ứ
Kinh nghiệm đối phó với những con chuột mập…”
( Chỗ ngủ)
Sau chuột, dòi, nước cống… nhà thơ hay nhắc tới các thứ có liên quan tới …bộ phận sinh dục và các hành vi xung quanh nó :
“ Tiếng rên rỉ dòng nước trắng ứ bầu vú
Em vật vã cánh cửa mình chưa kịp khép “
( Chở thuê)
“ anh chất ngất em khoái cảm ôm cả bầu trời không thật..
…tín đồ em trong giáo thuyết dở dang anh mò mẫm…”
( Sự trải dài vô tận)
“ em mặc cả tinh trùng anh về số lượng
Gan phèo và phụ tùng khác…”
( Đoạn kết)
Mẹ nàng được phát hiện bị giết trong phòng ngủ
Tay cầm con cu giả chạy pin
( Bẩm sinh)
“ L. đắp những đàn ông lên thân thể mình…L. nhảy lên những mụn cóc trong lưỡi mình..ôm vào lòng khóc giật tóc, mình thí vào lỗ trống….”
( Mình xin lỗi L.)
“ hôi thối + vô nghĩa, mò mẫm trí thức ý thức tiềm thức , phát hiện trên chỉ tay, chúng đang ngáp ngủ bơ phờ, chen chúc nơi cửa mình em…”
“ tiếng thở bọn mèo hoang tanh tưởi, tiếng rứt thịt say mê trong hậu môn, tiếng cuống rốn hấp hối rên rỉ máu…”
(Bọc đựng hẹp & sâu )
Vậy là tuy cao giọng “tuyên ngôn” “cắm ngòi bút bẻ cong vào trôn em”, nhưng xem ra những “chuột, bọ, dòi, nước cống, tinh trùng, cửa mình, con cu giả chạy pin…” của Lynh Bacardi chẳng đụng chạm gì tới những tabou, những “cấm đoán”, những “nhạy cảm” mà bất kỳ người cầm bút ở VN nào cũng thuộc lầu lầu, cũng khắc sâu nó vào con tim, khối óc để mà…tránh cho xa. Tất nhiên cho dù bốc mùi dục tính, nhưng lại là thứ thơ “vô thưởng vô phạt”, chẳng đụng chạm gì tới ổn định chính trị của các bác Đinh Thế Huynh, Nguyễn Phú Trọng nên các bậc “lão tiền bối” Trịnh Cung, Dương Tường mới vô tư “lăng xê” chứ không thì còn…lâu ạ. Các bác cũng chỉ “chơi thơ” để “chơi em” thôi, ai dại gì tung hô “thơ phản động” có mà…nhận “giấy triệu tập” của công an văn hoá có mà đứt bóng ?
Tuy nhiên, đọc thơ Lynh Bacardi, người ta phải nghi ngờ ý kiến của ông Giám đốc và ông biên tập NXB Hội nhà văn.
Khi được báo chí hỏi :
“Như ông nói, cuốn thơ chỉ bỏ đi vài lỗi nhỏ trong phần thơ của Lynh Bacardi?”
ông Nguyễn Phan Hách đã trả lời :
“ Đúng vậy, chỉ cần bỏ dăm lỗi thôi là tập thơ hoàn chỉnh.”.
Liệu ông Giám đốc có thể chỉ ra ra “những lỗi nhỏ” là lỗi gì và chỉ cần sửa nó là “tập thơ hoàn chỉnh” chăng ?
Còn ông biên tập Vương Trí Nhàn lại khẳng định:
“Nếu như bảo thơ Lynh Bacardi là tục tĩu thì không phải…Nếu gọi là “không thuần phong mỹ tục” thì không đến nỗi vậy…”
Vậy những trích dẫn ở trên trong suốt phần thơ Lynh Bacardi đã được gọi là ‘tục tĩu” , thiếu “ thuần phong mỹ tục” chưa thưa ông Vương Trí Nhàn…
Trở lại “từ khoá” “ phản tư duy” ông Dương Tường đã cấp cho bạn đọc để đi vào “thế giới thơ’ của ngựa trời.
Nếu coi “phản tư duy” là sự “nghĩ ngược”, giống như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp “cái gì thiên hạ khen thì ông chê”, thì với Lynh Bacardi , trong thơ người đời thường nói tới cái đẹp như hoa, bướm, sương sớm, chiều tà….” Nữ thi sĩ lại “chơi “ ngược lại :” chuột, tinh trùng, rãi rớt, cửa mình, cu giả…”. Nếu “ phản tư duy” , “phi –Descartes” theo lời ông Dương Tường mà như vậy thì quả nhiên Lynh Bacardi đang “phản tư duy”, đang “tồn tại” thực.
“ Phản tư duy” tất nhiên phải đẻ ra thứ “phản thơ”, “phản hình tượng”, “phản âm điệu” của thơ. Tuy nhiên, đọc thơ Lynh Bacarđi lại nhớ tới Lê Đạt, Phan Đan cách nay 10 năm, Nguyễn Viện, Thận Nhiên, Trần Tiến Dũng, Nguyễn Quốc Chánh … nhan nhản trên Tiền vệ, Talawas, Tạp chí thơ chứ chưa thấy yếu tố nào gọi là “phản tư duy ‘ cả.
Chẳng hạn khổ thơ sau đây cũng là một thứ thơ “não tình” cổ lỗ chứ lấy đâu ra “phương trình phi Descartes” như ông Dương Tường bốc thơm :
“ Xó xỉnh kín bụi nào đủ cho anh khoanh mình lãnh đạm
Con tim thừa thãi giãy chết trước cặp mắt vô hồn
Rỗng cạn
Đơn độc
Sự trải dài vô biên…”
( Tặng Nguyễn Quốc Chánh sau buổi tụ tập ăn nhậu vịt xiêm)
Hoặc thơ ru con :
“say giấc đi con với giọng ru ký ức
Gác trọ rùng mình lúc bình minh
Núm cao su cô độc
Mẹ thèm cuộn tròn trong tã lót con…”
(Lời cho Bé yêu)
Thơ như thế này thì quá “tuyến tính”, quá “tư duy”, quá “ Descartes” chứ đâu có “phản tư duy”, “ phi Descartes”, cao siêu như bác Dương Tường doạ người đọc ?
(còn nữa)
khieman
08-25-2014, 10:15 PM
(tiếp theo)
“dự báo phi thời tiết”
kỳ 3
NXB HỘI NHÀ VĂN HÀNỘI 12-2005
Đã không “phi Descartes”, không “phản tư duy”, thơ Lynh Bacardi cũng đâu đã đến “tầm “ “ BẨM SINH triệt tiêu lãng mạn, giẫm lên mọi huý kỵ xã hội – tập quán tình dục…” như bác Dương Tường bốc thơm .
Em mới có thế mà bác đã mang hết cả chữ ra xài, mai kia đến lượt phải ca ngợi nhóm thơ “ Mở Miệng’ với các thi hữu “ lộng lẫy con cặc” ( thơ Trần Tiến Dũng) như Lý Đợi , Bùi Chát, Trần Tiến Dũng ….thì không hiểu bác lấy từ ngữ đâu ra nữa mà “nâng bi”?
Không lắm chuột, dòi, cửa mình với tinh trùng…như thơ Lynh Bacardi, “con ngựa trời thứ hai” trong 5 con – cô Khương Hà (1985) nói nhiều về nỗi “bơ vơ” của tuổi trẻ trong xã hội quái thai hiện nay.
Ngay cả mùa xuân cũng gây cho cô nỗi bực dọc và sự khinh bỉ với con người :
“ Mùa xuân bây giờ không còn chim én
Chỉ người và ngợm về làm tổ trong những khu nhà ổ chuột
( hoặc những biệt thự cao ốc…Nhưng dù có ăn phó mát thì chuột vẫn là chuột
Ở đó , chúng ra sức kèn cựa dè chừng nhau…
( Chuyện người đàn bà 2000 năm sau)
Vậy là dù là trong khu nhà ở chuột hay trong biệt thự cao ốc, ai cũng như ai, cũng đều là chuột và gây cho cô nỗi lo :
“ E rằng sẽ chết ngộp giữa hàng nghìn con mắt vờ vĩnh không nhìn ai nhưng soi mói..
A dáo dác ngó quanh, khoác vội vào mình nốt trắng…”
Một cái nhìn “ phủ định triệt để xã hội “ như vậy phải được coi là “tích cực “ trong giai đoạn hiện nay. Bởi thế, chủ nghĩa hư vô, “không coi cái gì ra cái gì”, xoá nhoà mọi giá trị là căn bệnh cố hữu và cũ rích của “tuổi trẻ bơ vơ”. Tuy nhiên cái “hư vô” của Khường Hà nặng về sách vở và lý thuyết :
“ mụ phù thuỷ già đi vắng bỏ quên trái táo tẩm thuốc độc ở căn nhà nơi khu phố ổ chuột
Bạch Tuyết khoái chí cười điên dại trong vòng tay Hoàng Tử Tai Lừa…
…Công Chúa Ngủ Trong Rừng giật mình thức dậy vì muỗi cắn..
Phát hiện ra tia nhìn thèm khát bất lực của Aladin phía ngoài song cửa cửa sổ ( vì gã Thần Đèn đang mê mải động phòng với Nang Tiên Cá)
Trăng ngày rằm, Hằng Nga phải lòng Tarzan khi trông thấy hắn loay hoay trên cây đa không sao trèo xuống được ,
Nơi bãi cỏ gần đó, Alice vừa bị Lion King ăn thịt, vết máu vẫn còn tươi..
(Ngước lên là đêm)
“ Tôi bắt gặp tuổi thơ mình đi hoang
Hai cánh mỏng đậu lại ngọn vông nhìn tổ chim ri chết sững
Những quả trứng nhiệm mầu đã vỡ từ trong cổ tích…”
( Tôi)
Thế là hết cả huyền thoại, hết cả cổ tích, hết cả “xứ sở kỳ diệu”…mọi thứ đều bị dìm chết trong sự dung tục. Một khi không còn “ông Bụt”, không “nàng Tiên”…không còn sự “mộng mơ ” - chiều kích thứ tư trong không gian ba chiều của hiện sinh con người, nhân loại sẽ sống ra sao ? Có thể cái đẹp , chủ nghĩa lãng mạn bị giết chết trong một xã hội toàn trị ngu xuẩn và ác độc, nhưng nỗi nhớ về thế giới cổ tích và thần thoại vẫn còn đó và nhất là niềm tin về một sự tốt đẹp ở mai sau là không thể để bị huỷ diệt.
Tuy thế sự “phủ định” của Khương Hà đặt trong bối cảnh xã hội thối nát hiện nay hoàn toàn không đáng trách. Nó còn đáng quý gấp mấy lần sự giả dối, sự nguỵ tạo trong việc tâng bốc xã hội của đám bồi bút đang in thơ nhan nhản trên báo Văn Nghệ, trên những xuất bản phẩm chính thống.
“ Ngước lên là đêm”, “ Bên trái là đêm” , “ Đêm”…chỉ riêng những cái tựa thơ chọn trong tập này cũng cho thấy cái “mỹ học của bóng đêm” trong thơ của Khương Hà .
Không cố gắng hư vô, không nặng màu bế tắc như Khương Hà, và chắc là do ảnh hưởng gần gũi của cụ lão hoạ sĩ họ Trịnh , em “ngựa trời” Nguyễn thị Phương Lan (1981) cố cách tân thơ bằng đưa … hội hoạ vào xếp đặt những con chữ. Tuy nhiên còn xa lắc mới học được lối viết “xếp hình” (Calligrammes) của thi sĩ Pháp Apollinaire hoặc thơ hypertext trên mạng lưới internet. Những cố gắng tìm tòi của Phương Lan mới dừng ở chỗ giãn chữ trên mỗi dòng :
Ở một nơi khác
Bằng những đầu ngón tay tươm nát bấy vết răng cắn
Tôi vẽ….lên đêm người … đàn ông của đời mình…”
( Ở một nơi khác).
Bạn đọc có thể thấy tác giả đã “giãn chữ” trên mỗi dòng ( theo chiều ngang - trục đồng đại (synchronize )) để cả khổ thơ chia thành 3 khối (theo chiều dọc - trục lịch đại (diachronic )) và như vậy các nhà “cách tân” gọi là viết theo “ chủ nghĩa cấu trúc” ( structuralism) một thời rất được các nhà thơ Trần Dần, Dương Tường… thử nghiệm trong sáng tác và phân tích văn học. Tất cả các bài thơ của Phương Lan in trong tập này đều chung một lối “installation” chữ như vậy mặc dầu nếu đem xích chúng lại gần nhau như bình thường thì hiệu quả của bài thơ cũng chẳng thay đổi là bao nhiêu.
Nếu bỏ qua chuyện “xếp chữ gợi hình” , thơ Phương Lan vẫn có thể đọc được theo lối bình thường, chẳng hạn “ Yêu nhau ngày chảy máu” ( đến kỳ thấy tháng vẫn cứ “yêu” ) :
“ Lạy Chúa !
Không thể không yêu nàng
Dù hôm nay là ngày của Ngài
Là ngày của nàng
Là ngày chảy máu
Cơn đam mê ngột khởi từ hai thân thể trái mùa, trái không gian, trái
Dấu
Ghìm chặt nhau không chọn ngày
Nàng cười vang
- Yêu mà coi ngày như làm nhà hay hạ huyệt
Em không thể coi ngày để muốn !
( Yêu nhau ngày chảy máu)
Cũng còn may lão hoạ sĩ họ Trịnh chưa bày cho em “xếp chữ” thành hình cái linga như ở ngoài bìa hoặc hình một tư thế “làm tình” cho nội dung thống nhất với hình thức thì hiệu quả bài thơ còn “mạnh mẽ” hơn nữa.
Thơ Phương Lan ít “yếu tố dị ứng với xã hội” hơn là Khương Hà , cô thường làm thơ về những thất vọng trong tình yêu :
“Tôi chạy quàng vào anh
Vá víu mùa hy vọng non xanh đã rã bới từ lâu bằng mong manh
Tóc rối
Lối cỏ vào lỗ chỗ dấu giày gót cao của những người đàn bà đến
trước
Rưng rưng đặt thành giá cô đơn trước mộ phần giấc mơ xiêu đổ”
( Nương thân)
Đôi khi, thơ Phương Lan bộc lộ sự khao khát được yêu, được có một điểm để “nương tựa” :
Cứ ngỡ rồi mình chẳng thể sống không nhau
Như tháng Tư chẳng thể không mưa
Như sự phục sinh chẳng thể không mùa
Như cơn khát nở xoè những triền hoa cỏ hoang trên em chẳng thể
Nào không nhớ
Em đã gọi vang anh khắp cánh đồng mình ngút gió…
( Cho Dalat và T.)
Trên mặt bằng thơ tình hiện nay nhan nhản trên các báo in và báo mạng trong nước và ngoài nước , ta có thể thấy “thơ tình” của Phương Lan có những nét mới mẻ trong cảm xúc mạnh mẽ và chân thực, trong âm điệu thơ, trong những ý thơ khá táo bạo. Đôi lúc, cô làm thơ như sự hoả thiêu chính mình trước bàn thờ của thi ca :
Tôi chạy cắm vào đêm tìm một chốn dung thân
Gõ cấp lên khoảng đen
Ngón xương sưng đỏ mắt
Vùng chết vắng dội âm
Những cửa về khép chặt
( Nương thân)
Tiếng kêu xót xa của Phương Lan cũng là tiếng kêu của “tuổi trẻ bơ vơ” không một điểm tựa tinh thần trong xã hội Việt Nam kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay…
( còn một kỳ)
khieman
08-26-2014, 09:19 PM
( tiếp theo và hết)
“dự báo phi thời tiết”
4
NXB HỘI NHÀ VĂN HÀNỘI 12-2005
Sang phần thơ của “ con ngựa” Nguyệt Phạm (1982), người đọc mới giật mình :
“ Cà phê vỉa hè
Chiều vắng hoe
Rút từng cọng xoè
Ngày hai mươi tuổi trẻ
Tình đang xuân tuổi trẻ
Chỉ thấy vui vui vui
Chỉ thấy buồn buồn buồn
Chỉ thấy yêu yêu yêu…”
( Cà phê vỉa hè)
Thưa hai bác Dương Tường và Trịnh Cung – hai bảo trợ viên vĩ đại của mấy em, thế này gọi là “thơ thơ thơ “ ấy ư ? Hay là thơ dán báo tường tạp chí Sóng Nhạc nơi nữ thi sĩ Nguyệt Phạm đang công tác ? Bác Trịnh Cung chuyên cầm cọ, thơ thẩn là chuyện bác “chơi cho vui” với mấy em nên chẳng đáng trách, còn bác Dương Tường đường đường một đấng lão “thi sĩ hậu hiện đại “ tiêu biểu cho “ trường phái Hà Nội “, lẽ nào lại để mấy em chọn thơ…thẩn “con cóc trong hang, con cóc nhảy ra” đến thế . Chữ nghĩa trong thơ đã “tầm phào” như vậy, ý tứ cũng vay mượn và cũ rích :
“ Những con diều giấy vẫn bay lượn giấc mơ em
Một thiên đường trò chơi vẫn dâng ngút trong mắt em…”
(Vòng dây trẻ thơ)
Và tất nhiên để chứng tỏ mình cũng “hậu hiện đại”, cũng gần gũi ruột thịt với mấy anh “Mở Miệng” Saigòn , Nguyệt Phạm cũng phải cố đưa chút sex vào thơ :
“ Giây phút bắt đầu triển khai nhân loại
Những ngón tay sấn lên sục sạo khắp khe hang đồi núi vực sâu
Niềm hạnh phúc chực ộc ra nóng ấm ôm lấy tấm thân tươi trẻ…
….Thân thể hợp nhất
Ngày của những tiếng rên nén đặc cổ họng…”
( Hợp nhất)
Thơ mà “triển khai” thế này thì nhất định là “hợp nhất” với văn xã luận của báo Nhân Dân.
Theo như lời tự giới thiệu “Làm thơ, ăn và ngủ tại Sàigòn”, với “ một số giải thưởng trên các báo Mực Tím, Tuổi Trẻ…”, chắc hẳn thơ của “con ngựa thứ 5” – nữ sĩ Thanh Xuân ( 1981) phải…hay.
Mở đầu phần thơ của mình, Thanh Xuân trình làng bài thơ “ Bên cửa sổ tôi nhìn thấy”. Để khỏi trích dẫn dài dòng, chỉ xin vắn tắt, bên cửa sổ nữ sĩ nhìn thấy gì vậy ?
Xin thưa :
“ Một em mang thai ở tuổi 19… thằng tình nhân tuyệt vời lớn hơn 15 tuổi của em… một thằng đồng tính cần tôi tư vấn cách đăng ký kết hôn…một thằng sinh viên thiếu tiền trọ học…tưởng tượng tình ái của mình với một ông già bị hoại tử…một ả son phấn loè loẹt để dự thi hoa hậu…một thân thể phì nộn đầy mụn giộp chạy đôn chạy đáo vay tiền để mua mỹ phẩm cào trúng thưởng…một giai nhân bất lực…”
Những gì nàng “nhìn thấy” từ bên cửa sổ cũng đủ chứng tỏ “vũ trụ thơ’ của nàng “lành mạnh” và “ thanh khiết” tới mức nào. Thực ra thị kiến theo kiểu “mỹ học của bùn nhơ” trong thơ Thanh Xuân chẳng phải mới mẻ gì, nó học theo một cách vụng về các đàn anh đi trước : Nguyễn Quốc Chánh, Trần Tiến Dũng, Đỗ Kh…, chỉ khác một điều mấy cha kia là đàn ông nên “thị kiến” có sỗ sàng, tục tĩu hơn em vốn là con gái “phái yếu”, “ phái đẹp”.
Đọc thơ Thanh Xuân người ta cứ mường tượng như đã đọc ở đâu đó rồi, có thể là của Phan Đan nhan nhản trên Tiền Vệ và cũng có thể của Nguyễn Quốc Chánh trong những bản photocopy truyền tay ở Sàigòn :
“ Có những lỗ đen vũ trụ xoáy ta vào cơn lốc chẳng thể nào thoát ra. Giằng co, giằng co. Sự ngột ngạt vây bủa. Xác tín về một tình yêu trầy trật. Ngập ngụa trong thứ ánh sáng nhờ nhờ hệ luỵ từ những cao trào ngúm tắt…”
( Vãn hồi 2)
“ Lá gấp gáp vàng từ mùa chậm tới. Hong hóng treo lơ lửng loáng thoáng cười khẩy. Lá xanh kia như dáng dấp xanh hành vi xanh. Những chiến hữu và bè lũ cùng xanh như phiên bản. Nhân danh sự bề thế mà vênh vang ta xanh trẻ xanh non xanh hơn vỏ cây xanh hơn trời…”
( Lá)
Như lời giới thiệu của thi sĩ Dương Tường ngay đầu sách “ một Thanh Xuân oà BÃO CẤP”, ta thử coi nàng “bão” thế nào?
“ Bầy đàn đôi lần phun nước bọt vào chúng ta
Làm chúng ta đôi lần lăn tròn như những con ong thợ cần mẫn vô tình nhầy nhụa trong đám mật của mình
Nhìn lại phía sau dấu chân chúng ta hân hoan được người khác ký tên lên đó trước khi giẫm vào…”
Hoá ra “ chúng ta” đây chắc là 5 em ngựa trời và bác Dương Tường “đôi lần” bị “bầy đàn” ( chắc là độc giả) “ phun nước bọt” ( chắc là khinh rẻ, dùng nước bọt thay cà chua trứng thối) gây nên “bão cấp”. Tuy nhiên người đời phải biết rằng “chúng ta” là những người tiền phong ( avant garde) , là những người đi trước để người đời bước theo sau và trân trọng “ký tên” lên “dấu chân chúng ta”.
Thật là một huyễn hoặc con ếch muốn to bằng con bò. Các đàn anh thổi mấy em lên mây xanh vậy chỉ làm hại “các mầm non văn nghệ” chưa chi đã tưởng mình là những tài năng lớn, tiêu biểu cho “văn chương Saigòn “.
Trong trả lời phỏng vấn Trần Tiến Dũng in trên báo Người Việt số ra gần đây, cô Phương Lan tự nhận mấy cô “ ra Hà Nội mang theo rất nhiều những con mắt đợi của các anh em văn nghệ Sài Gòn…” và cô tự phong chuyến đi này là “lần Bắc tiến đầu tiên của văn chương Sàigòn...”.
Kể ra nếu “ Phi thời tiết” là một tập thơ xuất sắc thì cũng đáng để 5 cô thay mặt văn chương Sàigòn lần đầu tiên mang đi “Bắc tiến” làm rạng danh thi ca “đất phương Nam” và làm ê mặt mấy cha thi sĩ Bắc Hà.
Tiếc thay nó cũng chỉ thuộc loại hàng tầm tầm , “nhà thơ tự viết, tự bỏ tiền ra in” bày nhan nhản trong các cửa hàng sách.
Mới đây, độc giả Nguyễn Thanh ( Boston , USA) đã nhận xét trên “ Đàn chim Việt” :
“Một yếu điểm của những nhà thơ này nữa là suy nghĩ của họ giống nhau, kỹ thuật sáng tác giống nhau, chữ nghĩa giống nhau. Nếu không ký từng tác giả mà chỉ đề Mở Miệng hay 5 Con Ngựa Trời thì độc giả cũng không thắc mắc, tưởng nhóm Mở Miệng là một người và 5 Con Ngựa Trời là một người… Họ đưa chữ nghĩa dung tục đời thường vào thơ cũng được, nhưng nhiều khi họ lên gân quá mức cần thiết đâm gây phản cảm , lố lăng và giả tạo…”
Thật là một nhận xét chí lý.
Trở lại nhận xét của nhà thơ Dương Tường trong lời giới thiệu : “ ở cái phương trình phi-descartes cái quá trình phi descartes hoá tôi phản-tư-duy vậy tôi hiện hữu…”
Chịu khó đọc hết cả tập “dự báo phi thời tiết” ta thấy cả 5 cô “ngựa trời’ chẳng ai là “phản tư duy “ cả , mấy cô làm thơ rất “3 chiều không gian” và rất “nghĩ xuôi” cả đấy chứ. Vậy hoá ra trong vụ này, người “phản tư duy” lại chính là... ông Nguyễn Đình Nhã, Cục trưởng Cục xuất bản Bộ văn hoá&thông tin, người ký giấy cấm phát hành tập thơ.
Quả thực nếu ông Nhã “tư duy” một cách xuôi xẻ và lành mạnh thì chẳng cần ký cái lệnh thu hồi ấy làm gì. Cho dù có được các bậc đàn anh bốc lên mây chăng nữa thì rồi “dự báo phi thời tiết’ cũng giống vô số các tập thơ khác cũng bị chôn trên giá của các cửa hàng sách thôi, chẳng mấy ai dỗi hơi nhòm ngó đến. May cho mấy cô, nhờ có bác Nguyễn Đình Nhã nhanh nhẩu ký cái lệnh đó nên bỗng chốc “dự báo phi thời tiết “ bán chạy và 5 cô được nổi tiếng rầm rĩ. Bởi thế lẽ ra mấy cô phải tri ân bác Nhã, nhân dịp tết này phải lì xì bác món gì đó mới phải đạo.
Sau cùng, cũng phải nói cho ngay, “phi thời tiết ” có bán chạy, 5 cô ngựa trời có nổi tiếng thì cũng chỉ quanh quanh trong mấy anh theo trường phái “Mở Miệng” ở Sàigòn…còn đa số giới cầm bút trong nước và bạn đọc bình thường hiếm ai bỏ tiền túi ra mua để biết “phi thời tiết “ là cái chi chi.
NT
khieman
08-27-2014, 05:05 PM
.
Con cái chúng ta…kinh thật
Xin phép ngài Azit Nêxin, đành phải nói trẹo cái tựa sách “ Con cái chúng ta giỏi thật” của Ngài, bởi lẽ qua kỳ thi vào các Trường đại học vừa rồi, ai mà có gan đọc cho đủ 16.000 bài thi văn mới thấy “con cái chúng ta”…kinh thật. Trước tiên là vô vàn các lỗi chính tả hầu như khó mà kiếm được bài nào không có :” mùa suân, chiện ngắn, Việt lam, đoạn quối truyện. …”. Vậy nhưng đó là…chuyện nhỏ, trong cách dùng từ, “con cái chúng ta” còn …kinh hơn. Chẳng hạn:
“ Thân thể ông lái đò rất tráng lệ….(ý muốn nói “cường tráng”)
“ Cách dùng từ của Huy Cận rất thuần tuý (ý muốn nói “tinh tuý”)
“ Những cánh đồng được phù sa bồi đắp sẽ trở nên phù du,màu mỡ (ý muốn nói “phì nhiêu”)
“ Trong giai đoạn này, ý chí người dân lên tới tuột đỉnh (ý muốn nói “tột đỉnh”)
“ Đoạn thơ thể hiện tâm trạng vui sướng, hí hửng của tác giả ( chắc là “ hớn hở”)
“ Qua tác phẩm “Người lái đò sông Đà” , em rất ngưỡng mộ những cuộc giao hữu của ông lái đò với sông Đà (“giao chiến” chăng ?”
“ Nhan đề bài thơ “Tiếng hát con tàu” có ý nghĩa rất sâu cay ( “sâu sắc” chứ ?)
hoặc :
“ Nguyễn Tuân là một nhà văn cổ kính.
“ Đó là một cụm từ gợi cho ta nỗi buồn,nó bê tha đến nhường nào ?
“ Ông lão có đôi chân dài quắc thước…”
“ Tây Bắc là nơi con tàu cất lên những tiếng hát. Áy vậy mà bài thơ “tiếng hát con tàu” ra đời..”
Viết lách kiểu đó có thể “nhặt “ ra vô vàn thí dụ trong hàng ngàn, hàng ngàn csc bài thi văn, khiến các thày chấm thi cứ ghi nhận xét mỏi tay. Nào là “Tư duy rối rắm”, nào là “không hiểu em viết cái gì” , nào là “rất lơ mơ về ngữ pháp” . Có thày đọc chưa hết bài thi đã chịu không nổi, phê ngay :” Thần kinh không bình thường”.
Kiểu cách suy nghĩ của “con cái chúng ta” cũng không kém phần …kinh hoàng. Nó đầy tính cách “suy diễn” kiểu “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu” là “cái bến cô Liêu thường đứng” :
“ Hình ảnh người lái đò sông Đà rất dữ dội và hung bạo qua một thác nước thì phải có dữ đội vào tận tấm lòng con người từ lâu đến nay nói tới sông Đà nhớ ngay có Nguyễn Tuân vì Nhuyễn Tuân có lúc rất là hung bạo một mình ông cũng ngồi trên một chuyến đò để lái đò “
“ Nguyễn Tuân là một cây bút đa tài, ông là một tác phẩrm xuất sắc của văn chương , vì thế trong một con sông thì lúc nào cũng có sự hung bạo, nhưng đây ông đã miêu tả thật tài tình và phấn khởi…”
Kiểu viết “tràng giang” liền tù tì cũng là một “sở trường” rất phổ biến trong viết lách của “con cái chúng ta” :
“ Trong nền văn học Việt Nam thì có rất nhiều nhà văn mà chúng ta được biết thì chúng ta không thể nói hết về nhà văn nhà thơ được mà Nguyễn Tuân là một nhà văn rất quen thuộc với bao cô cậu học trò cũng đang in rõ sâu trong lòng nhà thơ…”
“ Em thấy tuỳ bút của Nguyễn Tuân là một kiệt tác và được trợ giúp vào đó bởi ngòi bút của ông làm cho tác phẩm đã táo bạo rùng rợn ghê gớm và bây giờ lại hơn thế nữa…”
Ngôn ngữ “chính trị “ hàng ngày tràn ngập trên tivi, báo chí đã nhiễm vào đầu “con cái chúng ta” nên trong vô vàn bài thi, các thày bắt gặp :
“ Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn đã đưa nhân vật ông lái đò ở vào một tình thế vô cùng gian lao khiến ông phải mò mẫm bận rộn hàng ngày với công việc lái đò.Vậy mà Nguyễn Tuân lại miêu tả ông lái đò rất lãng mạn mà không kém phần nguy hiểm vì thế cho nên ông không sợ mà còn phân bố của mình vào những chỗ nguy hiểm…”
“ Ong đã hoàn toàn chinh phục được nó , thà luồn luỵ rồi lãnh đạo thiên nhiên chứ không để thiên nhiên lãnh đạo con người…”
“ Bài thơ được ra đời là lúc nằm trong hoàn cảnh đang trên đà tài năng của Chế Lan Viên đang nở rộ đã làm nên “Tiếng hát con tàu” ngày một rạng rỡ…”
“ Chế Lan Viên là một nhà thơ xuyên suốt cuộc đời trong lãnh tụ của Đảng và nhân dân cũng như tất cả cán bộ…”
Có thể nói “con cái chúng ta” bị mớ “xác chữ lộn xộn và nghèo nàn” lây nhiễm qua sách báo, tivi …lôi chúng đi khiến chúng viết ra mà dường như chúng chẳng hiểu chúng đang…viết gì ? “Vốn liếng” đã cạn cợt, ấy thế mà đôi khi lại ưỡn ẹo làm văn :
“ Mỗi khi nghe tiếng sóng dữ dội đập vào bờ biển đầy rẫy những hòn đá là em lại chợt rùng mình trong lòng như tê tái có một điều gì đó làm em lo sợ. Đúng rồi, đó là tiếng sóng dữ dội mà ông lái đò từng trải qua mà em đã từng được học rên lớp…”
Nếu như đúng như lời các lãnh tụ văn nghệ thường dạy dỗ :” văn là người” thì qua cái thứ văn như đã trích dẫn trên đây, “con cái chúng ta” chẳng biết chúng thuộc loại người nào ? Có một điều chắc chắn : đó toàn là các cô tú, cậu tú vừa mới lĩnh bằng tốt nghiệp còn thơm mùi mực mới.
Tại sao vậy ?
Đi cho đến tận cùng của nguồn cơn chắc là phải qua 10 cái Hội nghị toàn quốc các giáo sư, tiến sĩ lỗi lạc nhất nước để bàn về “con cái chúng ta” cần học văn như thế nào ?
Tuy nhiên, chỉ liếc qua cái “môi trường ô nhiễm” của ngôn ngữ mà các “con cái chúng ta “ hàng ngày hít thở thì cũng hiểu được phần nào vì sao chúng viết lách “thấp kém” và “rối rắm” đến như vậy ?
Trên báo Công an TP HCM số ra ngày 5-8-2003, có đăng một tin ngắn làm …bật ngửa cả người lớn huống hồ con nít. Sau khi kể chuyện một chàng con rể vì xích mích với bên vợ đã mang 2 trái mìn tự tạo quăng hết vào nhà vợ. Báo viết :
” Có con rể như hắn, chắc cha mẹ vợ sớm bị đau tim, đó là chưa kể…street…”.
Hi hi…chắc nhà báo ám chỉ “stress” đây, khổ vậy. Còn trong bộ tranh truyện “Trạng Quỳnh” giành cho thiếu nhi của NXB Đồng Nai vừa mới cho ra lò trong tháng 8-2003 này, cứ mỗi tập lại có một “bài thơ” răn dậy con nít đến là dzui dzẻ .
Trong tập 1 có bài :
“ Bồ người mái tóc mượt mà
Bồ tui …sư tử như là…con ma…
Bồ người áo trắng thướt tha
Bồ tui váy ngắn , áo da theo thời…”
Ui chao ôi, con nít hỉ mũi chưa sạch sao lại đưa cho chúng đọc những vần thơ bồ bịch , váy ngắn áo da như thế ? Chưa hết, trong tập 2 lại có bài :
“ Con gái thường hay mủi lòng
Khi chàng nghĩa hiệp tiếp liền mời ăn
Con gái không thích ăn năn
Khi tiền trong túi như khăn cộm dày…”
Tập 3 dạy “các cháu” “ kinh nghiệm”về người con gái :
“Con gái dễ ghét dễ quên
Dễ vui, dễ giận, dễ liều , dễ ghen
Con gái là chúa làm duyên
Môi son má phấn mắt huyền, dễ xinh…”
Rồi thì xui các cháu bôi bác :
“ Con gái là chúa yêu suông
Hẹn người ta đến rồi chuồn mất tiêu
Con gái là chúa dở hơi
Hở ra một chút mở lời phát thanh…”
Sau khi “hạ bệ thần tượng “ con gái, bộ sách dạy các cháu “lỡm” cả bài thơ “Chạy giặc” nổi tiếng của cụ Đồ Chiểu:
Chạy…chó
Tới cổng vừa nghe tiếng đứt dây
Một đàn chó dữ xổ ra ngay
Bỏ giầy mấy gã lơ xơ chạy
Vứt dép vài thằng dáo dác bay
Sợ chi trời lạnh “ùm” xuống nước
Trèo cao quá tải gãy cành cây
Hỏi chi cô chủ đi đâu vắng
Nỡ để anh em mắc nạn này…”
Than ôi cứ ngày này qua tháng khác, từ tuổi còn bám váy mẹ, “con cái chúng ta” cứ được xơi những món ăn tinh thần “bổ dưỡng” như vậy, trách gì khi đi thi, chúng chẳng làm bài “dở hơi” đến thế, trách gì theo tổng kết kỳ thi vào đại học vừa rồi của Bộ giáo dục đào tạo : trong một phòng thi môn sử có 32 thí sinh, tổng số điểm …chỉ có 64 điểm, tức chia đều cho cả phòng mỗi em được…một con ngỗng.
khieman
08-30-2014, 05:03 AM
.
Xây chuồng rồi mới lo tậu bò…
Các cụ ta thường có câu “ đo bò làm chuồng”, nhưng mấy ông quan chức Hội nhà văn Việt Nam làm ngược lại. Nguyên cách đây vài năm, nhân Nhà nước dư tiền dư bạc, các “dự án” khắp nơi nơi mọc như hoa mùa xuân quả mùa thu,thiên hạ đua nhau móc túi công quỹ quá nhiều và quá dễ làm các đồng chí lãnh đạo Hội nhà văn phát sốt ruột.
Người ta “dự án” thì mình cũng “dự án “ chớ, thấy người ăn khoai không lẽ không vác mai đi đào? Ngặt nỗi Hội nhà văn chỉ có sách với bút, lấy đâu ra “xây dựng cơ sở hạ tầng”, lấy đâu ra “ mở rộng Nhà máy”, lấy đâu ra “ cấp nước với thoát nước”…để mà lập dự án ?
Nói cho ngay,mấy năm trước Hội nhà văn cũng đã có “dự án” xây dựng “Nhà sáng tác Hồ Tây” với “ Khu sáng tác Đại Lải” rồi, giờ không lẽ lại đề ra dự án xây dựng “Nhà hội thảo Nguyễn Du” nghe khó lọt lỗ tai. Mười anh thợ da bằng ba ông Gia Cát Lượng, thế là 10 ông bà Uỷ viên Ban chấp hành Hội họp lại, tập trung trí tuệ toàn Hội, toàn cơ quan tìm kế sách lập “dự án”. Quả nhiên, dẫu văn học mất mùa liên miên nhưng trí tuệ Hội Nhà Văn vẫn thông minh sáng suốt phát minh ngay ra một sáng kiến vĩ đại : “bảo tàng văn học”.
Chứ lại không ư ? Khắp từ trung ương xuống địa phương đâu đâu cũng xây “bảo tàng” rần rần, cả một nền văn học cách mạng đóng góp cho sự nghiệp chống Pháp, chống Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội lớn lao vậy , sao không có “bảo tàng” ? Không những phải “bảo tàng” mà còn phải lớn hơn các “nhà bảo tàng” cấp tỉnh nữa ấy chớ. Nhưng nói đi thì cũng phải nói lại, Hội nhà văn Việt Nam cũng chỉ là một tổ chức quần chúng của Đảng như Hội nhạc, Hội múa, Hội vẽ, Hội nuôi ong, Hội “chim hoa cá cảnh”…nay Hội Nhà văn xây “bảo tàng” , các Hội khác cũng đòi xây thì có mà loạn cả nước.
Nhưng vậy cũng không phải vậy, văn học là vũ khí cách mạng, Hội Nhà văn là cây roi cây súng của Đảng trên mặt trận văn hoá tư tưởng, quan trọng lắm , các Hội khác so bì sao được, vả lại đầu xuôi đuôi mới lọt, Hội nhà văn được xây bảo tàng rồi thì các Hội khác mới đến lượt chớ ?
Vậy là sau khi đã tổ chức “phản biện” chán chê , Hội Nhà Văn tiến hành lập dự án xin Nhà nước cho tiền xây “bảo tàng văn học”. Thực ra cũng chẳng đáng bao nhiêu, chỉ vài chục tỷ, ngang vài kilômét đường nhựa chứ có nhiều nhặn gì cho cam. Thế là sau vài chục cuộc họp, cuộc hội thảo, phong bì bay như bươm bướm cho các “nhà nghiên cứu lão thành”, lại chạy đủ các cửa mấy anh chuyên ngồi “duyệt dự án” , Hội Nhà văn chính thức được cấp tiền xây dựng “bảo tàng văn học”.
Đến đây các nhà “tư vấn thiết kế’ mới nhảy vào cuộc, anh thì bảo “nhà bảo tàng” phải cách điệu sao cho giống cây bút “tả thanh thiên” ở bờ hồ Hoàn Kiếm, anh lại bảo phải thiết kế sao cho giống với “Khuê văn các” ở Quốc tử Giám…thôi thì cứ loạn cào cào, và lẽ dĩ nhiên, mỗi “tư vấn” đều “ăn” vào tiền “dự án” do ông Trần Nhương , Phó ban thường trực “Quản lý dự án xây dựng bảo tàng văn học” đề xuất và đích thân ông Chủ tịch Hội nhà văn kiêm Trưởng Ban ,Hữu Thỉnh ký duyệt.
Sau cùng thì bản thiết kế sơ bộ cũng đã xong, té ra chẳng giống cây bút, cũng chẳng giống Khuê Văn Cắc…”bảo tàng văn học” cũng y chang như các khách sạn mọc nhan nhản bên hồ Tây. Cũng có nhà ốp kính, cũng có cầu thang cuốn, cũng có phòng tiếp tân, cũng có khu nấu bếp, cũng có khuôn viên để trồng hoa, dựng tượng….Thôi thì thời “hậu hiện đại” , ai còn “khăn đóng, áo dài” làm chi, quên cái chuyện “tả thanh thiên” với “Khuê văn các” đi, miễn sao đừng có dáng “nằm nghiêng” như thơ của cô Phan Huyền Thư là được. Bảo tàng văn học được như cái khách sạn du lịch mai mốt tranh thủ cho thuê phòng gây “quỹ sáng tác” càng tốt chứ sao ? Thế là đã quyết định rồi, tháng 11 năm 2003 sẽ động thổ và cuối năm 2004 sẽ cắt băng khánh thành.
Vậy nhưng một mai “bảo tàng văn học” xây xong, Hội Nhà văn sẽ “bảo tàng” cái gì nhỉ ? Tiền “xây” đã có phương án “tiêu”rồi, còn tiền “trưng bày” sẽ chi vào các khoản nào đây ?
Thế là một “Ban soạn thảo đề cương trưng bày bảo tàng văn học Việt Nam” gồm hàng chục các nhà văn , nhà nghiên cứu văn học tên tuổi được thành lập và tất nhiên ông nào cũng có phong bì. Nguyên tắc đầu tiên Ban đề ra là “ăn cho đều, chia cho sòng” , kẻ có người không “nó” phá cho chết, nhất hội viên Hội nhà văn đều là những anh “to mồm”, dòng dõi Chí Phèo cả, cái bánh cắt ra chia làm sao đây ?
Một sáng kiến vĩ đại lại nảy ra, 60 nhà văn “tiêu biểu”, trước hết là những anh đoạt các giải thưởng Hồ Chí Minh, Huy chương độc lập … sẽ được làm “phim tiểu sử” để trưng bày với chi phí mỗi xuất là 30 triệu làm phim dài 30 phút,mất đứt 1 tỷ 800 triệu đồng rồi. Thế là 60 anh nhà văn “lão thành” được lên phim phải im miệng nhé. Chỉ phàn nàn mỗi một điều là mấy cha làm phim “ăn đầu, ăn đuôi”, có 30 triệu mà nào tác giả kịch bản, nào quay phim, đạo diễn…anh nào cũng có phần trong đó nên tiền làm phim còn lại chẳng bao nhiêu, qua loa bôi bác cho xong khiến cho người hiền lành, tử tế như lão nhà thơ miền núi Bàn Tài Đoàn , tác giả bài thơ duy nhất “Muối cụ Hồ” cũng phải thấy “xấu hổ” vì phim quay đi quay lại chỉ mấy cảnh nhà thơ ngồi hút thuốc lào bên bếp nhà sàn với vài tấm hình hồi trẻ đi chiến dịch. Dẫu sao thì một phần miếng bánh đã được cắt và chia đều cho 60 nhà văn chống Pháp rồi, tất nhiên là trừ ra cái đám Nhân văn- Giai phẩm đã từng láo với Đảng nay cắt xuất. Còn lại nào Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng,Nguyên Hồng,Chế Lan Viên, Xuân Diệu,Nguyễn Đình Thi…nào Tô Hoài, Vũ Tú Nam,Nguyễn Khải …anh còn sống cũng như anh đã chết cũng đều được lên phim cả , coi như đã vào bảng vàng, bia đá , mãn nguyện nhé.
Thế còn các nhà văn thế hệ chống Mỹ ? Ai chà, cái này mới gay đây, không thể cứ mỗi ông lại 30 triệu lên phim được, vài trăm ông có mà hết bay cả tiền “dự án”, vậy thì chỉ xin xếp vào loại “trưng bầy ảnh căn cước” và “hiện vật” vậy thôi. Mỗi người sẽ có “hiện vật” tiêu biểu cho sự nghiệp sáng tác của mình.
Giả tỷ như nhà thơ Hữu Thỉnh thì bày một cái xe tăng , minh hoạ bài thơ “Năm anh em trên một chiếc xe tăng”, nhà thơ Phạm Tiến Duật thì vẽ một cái vòng tròn tượng trưng cho bài thơ “Vòng trắng”, nhà văn Đỗ Chu thì bầy một hũ mật gọi nhớ tới tác phẩm đầu tay “ Hương cỏ mật”, nữ văn sĩ Nguyễn thị Ngọc Tú thì một xẻng đất gọi là nói lên tiểu thuyết “Đất làng”. Thế còn nhà thơ Nguyễn Duy không lẽ lại vẽ một cái bản đồ từ Mạc Tư Khoa tới Hà Nội gợi ra bài thơ “Tổ quốc nhìn từ xa”. A không được nhé, đây là bài thơ lếu láo, thôi thì cứ trưng bày mấy cuốn lịch, “thơ lịch” chẳng phải đã trở thành một phần sự nghiệp của Nguyễn Duy là gì ? Nhà văn Ma Văn Kháng thì bày một cái giấy đăng ký kết hôn có gạch chéo ngụ ý tác phẩm “Đám cưới không giấy giá thú”, nhà thơ Thu Bồn bày một con chim nhồi bông gợi ra “Trường ca chim Ch’rao”, nhà văn Lê Lựu thì hơi bị khó, bởi lẽ “Thời xa vắng” thì biết bày cái gì ? Thôi đành chọn cái điếu cầy vốn là vật bất ly thân của nhà văn vậy. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo thì nhất định là phải trưng bày “con dao , chiếc búa” với cả cái nón cối rồi. Khó nhất là các ông nhà văn, nhà thơ chẳng có tác phẩm nào tiêu biểu cho …chính ông thì biết bày cái gì? Chẳng hạn như nhà văn Lê văn Thảo, nguyên Chủ tịch Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, nhà thơ Vũ Duy Thông, nguyên Trưởng ban văn hoá văn nghệ của Đảng, nhà văn Đỗ Kim Cuông, Phó ban…Ban “bảo tàng Hội” biết bày gì cho mấy ông giờ ?
Thôi thì mỗi ông bày một cái…ghế, tượng trưng cho chức quyền chứ còn biết làm sao ?
Còn nhà văn gái Dương Thu Hương hẳn là phải dựng tượng một anh xẩm ngụ ý “Thiên đường mù”… Í chết, quên, cái loại nhà văn “lếu láo” như Dương Thu Hương, Bùi Ngọc Tấn, Nhật Tuấn…thì dứt khoát là “đi chỗ khác chơi”, không có bảo tàng, bảo tồn gì hết trọi, nhà văn thế hệ “chống Mỹ cứu nước” nhưng phải có phiếu “bé ngoan” kìa.
Than ôi nhà văn thế hệ chống Mỹ có phiếu “bé ngoan” như thế còn vô số kể. Nào Chu Lai, Trần văn Tuấn…nào Lê Điệp, Văn Lê…Có mà xây cả ba cái “nhà bảo tàng văn học “ nữa cũng không chứa hết. Và rồi lại còn thế hệ “hậu hiện đại” nữa, không lẽ đúc tượng một người đàn bà khoả thân nằm nghiêng, chờ chồng ở trên giường tượng trưng cho sáng tác phẩm của Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư…..?
Hoá ra công việc lo “tậu bò” còn khó hơn cả cái việc “xây chuồng”, chọn ai, bỏ ai để đưa vào bảng vàng bia đá quả là công việc khó khăn vượt khỏi khả năng của “Ban đề cương trưng bầy bảo tàng văn học” . Chẳng thế mà ông Trần Nhương, Phó Ban quản lý dự án bảo tàng văn học đã phải thú nhận :
”"Đề cương trưng bày đã có, nhưng nội dung chi tiết thì chưa. Sau rất nhiều hội thảo, vấn đề bây giờ là cần một người uyên thâm làm công việc tổng kết, gạn lọc ra những ý tưởng hợp lý nhất. Mà một người như thế thì chúng tôi còn chưa tìm được" .
Xin mách ông Trần Nhương,”người uyên thâm nhất” trong công việc này hẳn là cụ nguyên Bộ trưởng Bộ nội thương Hoàng Quốc Thắng. Cụ này có biệt tài “phân phối”, mấy chục năm chia tem phiếu cho toàn thiên hạ ra từng gam mì chính, lạng thịt, ký đường vậy mà còn bị chửi :” cái cứt gì cũng phân, hễ phân thì như…cứt” huống hồ chia “danh vọng” cho 700 hội viên Hội nhà văn Việt Nam nổi tiếng đầu bò không khéo thì…ăn gạch củ đậu…
N.T.
khieman
08-31-2014, 12:32 AM
.
Hội nhà văn mình không có… tiền.
Lời than não lòng này không thốt ra từ một nhà văn tầm tầm mà từ một ông đẳng cấp “kiểng quốc gia” - nhà văn Nguyễn Quang Sáng tại cuộc Hội thảo văn thơ trẻ tổ chức tại Sàigòn trung tuần tháng 10 năm 2007 quy tụ hơn 100 nhà văn nhà thơ tiêu biểu của nền văn học TP Hồ Chí Minh.
Lâu nay đề tài “tình dục” dường như tràn ngập trong văn thơ trẻ tới mức ông nhà văn già Đoàn Minh Tuấn phải kêu lên giữa một cuộc họp phê bình lý luận:
” thứ văn chương viết về sex ở Việt Nam không ra gì cả, nhầy nhụa và bẩn thỉu".
Ý kiến của ông Đoàn Minh Tuấn không phải là không có lý . Một dạo kế hoạch tổ chức chuyến xe thơ chạy dọc Hà Nội - Sàigòn của Hội đồng Anh bị Nhà nước cấm, các nhà thơ trẻ nảy sáng kiến tổ chức “chuyến xe mini” - đi ngắn hơn chỉ từ Sàigòn đi Vũng Tàu. Lý Đợi đưa tin trên Talawas và viết nguyên si chữ l…không thèm viết tắt :
” Lúc 10h nhà thơ Nguyễn Quán bắt đầu chương trình trình diễn giọng tụng kinh với bài thơ “Cái l.., vô tận” của Trần Wũ Khang. Tiếp đến Ngô Văn Lực và 46 người trên xe trình diễn 4 chữ “ăn - ngủ - đụ - ỉa” trong Từ điển thi X/X loại [chúng sinh] của Đặng Thân, Hà Hùng tiếp nối với bài “Đố biết điều gì” viết về l.. bà Tèo của Vương Văn Quang.”
Rồi đó trên Tiền Vệ lại có “sáng tác mới toanh” của nữ thi sĩ Lê Ngân Hằng :
Đêm nay mùa đông (xứ sở) mưa dầm
Em nép sát mình vào bộ lông ấm áp của anh (tin cậy)
Áp tai lên dương vật (nóng) của anh (tin cậy)
Nó luôn (cương cứng) và (đập âm thầm) như một trái tim
Xem vậy đủ biết văn thơ trẻ cho dù “chữ nghĩa bề bề” cũng đang bị “thần l. ám ảnh” làm “mê mẩn đời” tới mức nào. Bởi vậy, ngoài chuyện “tính dục”, bạn đọc còn chờ đợi nhiều vấn đề "nóng" của văn chương sẽ được đem ra bàn luận, phân tích, đánh giá tại hội thảo văn chương hiếm hoi này như thơ truyền thống, thơ cách tân; về nhà văn, nhà thơ trẻ và cuộc sống trên blog .
Tuy nhiên , lo sợ các nhà văn thơ trẻ làm “ô uế” diễn đàn , bà Thế Thanh, Phó Giám đốc Sở VHTT TP Hồ Chí Minh phải lên tiếng răn dậy :
"Việc sáng tạo của chúng ta không thể là hành động vứt rác ra đường và vứt cả sang nhà hàng xóm". Và người cầm bút có lẽ cũng nên ý thức rằng: "Thông qua nghệ thuật, ta nói điều gì với đời sống? Để tránh tình trạng mọi người đang trân trọng mình, bỗng dưng tự mình hạ thấp mình xuống bằng những hành động mà mình ngộ nhận là làm nghệ thuật".
Sợ ràng ý kiến bà Thế Thanh có thể làm các nhà văn trẻ nhụt chí, nhà văn lão thành Nguyễn Quang Sáng vội vuốt ve :
“Anh em văn thơ trẻ bây giờ giỏi lắm. Họ có nhiều thông tin, họ biết nhiều điều mà người viết thế hệ tôi không có cơ hội biết. Nhưng điều tôi còn băn khoăn là họ chưa tập trung theo đuổi đề tài của mình đến tận cùng. Đầu óc của anh em còn nhiều phân tán. Mà muốn thành công thì phải đeo đuổi đề tài đến tận cùng và sống trung thực với đề tài đó.”
Xem ra ý kiến “trấn an” này cũng chẳng ép phê mấy, không biết có phải do sợ bà Phó Giám đốc Sở VHTT không, mà Hội nghị chỉ cho phép các nhà văn nhà thơ thảo luận trong có…15 phút vậy mà tuyệt nhiên không có cây bút nào dám lên “mở miệng” trên diễn đàn ngoài 30 tham luận viết sẵn và duyệt sẵn .
Đề cập tới sự phát triển của thơ trẻ, nữ thi sĩ Nguyệt Phạm – một trong 5 con ngựa trời , đổ lỗi cho các bác già :
” Trở ngại chính là sự e dè, kém quan tâm của các nhà thơ thế hệ đi trước! Ví dụ: khi tiếp xúc với một tác phẩm của chúng tôi, họ tiếp nhận với một thái độ dè chừng, cảnh giác, nên dẫn đến những nhận định không khách quan, người đọc không đồng hành chia sẻ cùng tác giả. Thậm chí còn có những ý kiến cho rằng những bạn trẻ theo dòng thơ này viết lấy tiếng, chơi nổi".
Nhà văn Nguyễn Hồng Lam tỏ vẻ bi quan về thơ văn trẻ :
“ Đọc qua tuyển tập Thơ văn trẻ TP HCM, tôi nhận thấy, văn chương của người trẻ hôm nay còn mãi luẩn quẩn với chuyện riêng tư của họ chứ chưa có gì bật lên cả. Liệu văn chương của chúng ta có nghèo trí tưởng tượng quá chăng? Bản thân tôi từ lâu đã chuyển sang nghề làm báo và chuyên viết ký sự, vì tôi rất thích cái vốn sống đang cuộn chảy trong cuộc đời ngoài trang văn.”
Thực ra các nhà văn nhà thơ trẻ chẳng đến nỗi nghèo trí tưởng tượng , họ cứ “mãi luẩn quẩn chuyện riêng tư” chính là vì họ …nhát sợ, không dám mon men tới những vấn đề thế sự dễ bị ăn đòn và dứt khoát là không được in.
Nhà văn Dương Thụy , tác giả truyện “Oxford thương yêu” chỉ thấy “lạc quan” về số lượng tác phẩm của lớp trẻ mà không động tới chất lượng cuả nó :
“Tôi rất xúc động khi tham dự hội thảo vì lâu lắm rồi mới có một dịp để chúng tôi gặp gỡ nhau, để biết nhà văn, nhà thơ trẻ còn nhiệt tình với văn học. Mấy năm qua, những gương mặt trẻ của TP HCM rất chịu khó viết, tập truyện ngắn và thơ phát hành nhiều. Chưa nói đến chất lượng, nhưng chỉ nhìn số lượng cũng thấy sự xôm tụ này là đáng mừng. Vì quả thật, trong giai đoạn hiện nay, người trẻ phải rất vất vả để theo nghề viết. Cuộc sống hiện tại có quá nhiều công việc, nhiều thú vui khác lôi kéo nhà văn và cả độc giả ra khỏi trang sách. Để có thể viết, tôi thấy mình như còn "ăn cắp" thời gian của công việc chính mình đang làm, của gia đình. Nhiều khi tôi rất áy náy khi không dành trọn vẹn cho văn chương. Nhưng có khó khăn thế nào, tôi luôn tự hứa với bản thân là phải gắn bó với công việc viết lách, vì đó là tình yêu của tôi.”
Ngày trước, các nhà văn thường coi văn chương là cái “nghiệp”, là cái sứ mệnh thiêng liêng phải dâng hiến cả cuộc đời cho nó thì bây giờ các văn thi sĩ trẻ chỉ coi là “trò chơi” đến độ việc sáng tác trở thành một thứ như là “ ăn cắp thời gian” thì làm sao mà viết hay ?.
Nhà văn Bùi Anh Tấn nêu ra những chuyện tầm phào trong văn học :
“ Tôi không muốn phát biểu nhiều. Chuyện văn chương mỗi người một ý, nên tôi nghĩ đến 100 năm sau vẫn chưa nói hết. Nhưng có một điều tôi thắc mắc "Tại sao một hội như Hội nhà văn TP HCM mà không có một trang web riêng để giới thiệu hoạt động và bộ mặt của mình?". Nếu mà có mặt của chủ tịch hội tại đây, tôi sẽ hỏi ông câu này.”
Một cuộc hội thảo quan trọng đến thế, 4 năm mới có một lần mà ông Chủ tịch Hội nhà văn lại đi vắng , lãnh đạo cao nhất tới dự lại chỉ có bà Phó Giám đốc Sở văn hoá thông tin , tuyệt nhiên không thấy bóng dáng đồng chí Trưởng hay Phó ban văn hoá thành uỷ nào thì đủ thấy thời nay Đảng không coi trọng văn chương cho bằng…vệ sinh an toàn thực phẩm. Chính vì mức độ quan tâm của Đảng với văn học đã bị sút giảm đến vậy nên tiền bạc Sở tài chánh rót cho các nhà văn cũng eo hẹp khiến nhà văn Nguyễn Quang Sáng phải đổ lỗi mọi chuyện là tại …Hội nhà văn không có tiền.
Vậy không lẽ các nhà văn nhà thơ Sàigòn sáng tác đều vì tiền cả sao ? Có đúng vì không có tiền, các nhà văn nhà thơ ít đi thực tế nên sáng tác chưa hay không ?
Thực ra cứ nhìn vào hàng ngũ các nhà văn thơ trẻ thì thấy họ hoặc công tác tại các Toà Soạn báo, các nhà xuất bản, các Công ty nước ngoài…toàn những chỗ béo bở , bởi thế họ đâu có nghèo. Họ không nghèo tiền nghèo bạc mà chỉ nghèo lòng dũng cảm . Biết bao sự kiện nóng bỏng xảy ra ngay giữa Sàigòn : nào dân oan đi khiếu kiện rầm rập trên đường phố, nào chỉ một đêm nhà cầm quyền dẹp cả mấy trăm dân oan trên đường Hồ Văn Huê, nào những vụ tham ô, tham nhũng nổi cộm ngay giưã lòng thành phố như cầu Văn Thánh, đất Thủ Thiêm , biệt thự nguy nga của Bí thư thành uỷ Lê Thanh Hải …Tất cả những bức xúc, chướng tai gai mắt đó tuyệt nhiên không được cảm nhận trong sáng tác văn thơ của lớp trẻ. Họ bưng mắt bưng tai như những con lạc đà rúc đầu vào bụi trong cơn bão cát. Họ nhát sợ tới mức cán bộ tuyên huấn của Đảng cũng coi khinh và không thèm thắt chặt quản lý như đối với các nhà văn thế hệ đàn anh của họ.
Nhà báo Lam Điền báo Tuổi Trẻ đã có nhận xét khá xác đáng về cuộc Hội thảo :
“Và như thế, hội thảo chỉ mới bàn đến lớp vỏ của văn chương, tức là những hình thức chuyển tải và các mối quan hệ trong giới nhà văn. Trong khi đó, mối quan hệ giữa nhà văn và trang viết, giữa hiện thực cuộc sống hôm nay và tư duy của nhà văn trẻ bây giờ, tuyệt nhiên không đề cập đến. Có thể đó là những khoảng rất riêng, tự mỗi nhà văn chiêm nghiệm và viết. Nhưng một lần hội thảo tổ chức sau bốn năm, không hề đúc kết những thành tựu và khiếm khuyết gì thì cũng đáng suy nghĩ.”
Và cái mà người ta chờ đợi : sự trào vọt của những biểu hiện khát vọng dân chủ, những bức bối về chế độ độc Đảng dẫn tới quốc nạn tham nhũng và suy thoái toàn diện – cái đó tuyệt nhiên không xuất hiện trên diễn đàn.
Và thế là phép mầu đã không xảy ra, thế hệ trẻ ngày nay đã bị thuần hoá tới mức đánh mất bản năng phản kháng. Tham dự cuộc Hội thảo của các nhà văn trẻ tháng 10- 2007, người ta không khỏi nhớ tới câu chửi của lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông :” trí thức không bằng cục…cứt”
NT
khieman
09-02-2014, 12:57 AM
.
Đấu đá ở …Hội nhà văn.
“Ở đâu có tiền, ở đó có... đấu đá.”
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song “chân lý” đó không bao giờ thay đổi.
Hội Nhà văn Việt Nam cũng không ra ngoài quy luật có tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” đó. Trong 3 ngày từ 6 đến 8 tháng 12-2007, cuộc đấu đá càng quyết liệt khi BCH Hội nhà văn họp bàn “chia chác” 25 ghế lãnh đạo của các nhà văn ngoài 60 tuổi, sắp về hưu , đồng thời xét duyệt kết nạp hội viên mới, thực chất cũng là “ mua quan bán tước” dẫu rằng danh hiệu hội viên Hội nhà văn ngày nay đã mất giá đi nhiều.
Ngày xưa thời bao cấp, tiền bạc Đảng rót cho nhà văn có hạn, cơ quan Hội chỉ có báo Văn Nghệ, NXB Tác phẩm mới, bởi vậy các uỷ viên Ban chấp hành đấu đá để đi nước ngoài là chính, còn nhớ bác Tô Hoài có mỗi “con dế mèn” mà bay đi khắp thế giới cả trăm lần, đủ biết võ nghệ cao cường đến đâu.
Sang thời kinh tế thị trường, Đảng rộng chi tiền cho Hội, lập thêm các cơ quan trực thuộc như Hãng phim, Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du; Văn phòng Hội;Tạp chí Nhà văn;Tạp chí Văn học nước ngoài … nên việc đấu đá càng sôi nổi.
Bắt đầu từ năm 2000, các bác già về hết, một Ban chấp hành đông người trẻ tuổi, tài cao, tưởng thế hệ mới sẽ bớt “đấu đá” dồn sức xây dựng văn chương nước nhà, hoá ra đấu đá còn bạo hơn lớp già.
Trẻ nhất là nữ văn sĩ Phan thị Vàng Anh, con gái thi sĩ Chế Lan Viên. Vào được BCH, kết thân với Uỷ viên chấp hành Hội nhà văn kiêm Chủ tịch Hội VHNT Hà Nội Hồ Anh Thái, năm 2007, PTVA nhận ngay được giải hàng năm của Hà Nội cho tập thơ “Gửi VB” , một tập thơ mà trên Talawas, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn nhận xét là…một bộ xương :
“Nào ngờ, tôi chỉ thấy Phan Thị Vàng Anh dắt bộ xương Nàng Thơ đi lêu nghêu, còn các vị mũ cao áo rộng ở Hội Nhà văn Hà Nội thì quần tam tụ ngũ trỏ tay về phía bộ xương mà hô vang “Hoa hậu đấy! Hoa hậu đấy!” nên tôi hoảng hồn la làng lên như một tín hiệu cấp cứu khẩn cấp!”
Trở về trước, năm 2006, ông Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh tự trao giải cho tập thơ “Thương lượng với thời gian” . Muốn vậy, ông Thỉnh phải kiếm được 4 phiếu trong Ban Chấp hành. Thiên hạ nhầm tưởng người trẻ vô tư, nhất định Vàng Anh bỏ phiếu chống. Ai ngờ cô cũng bỏ cho Hữu Thỉnh làm thiên hạ đồn Hữu Thỉnh đã kịp “mua” được Vàng Anh bằng trao giải thưởng cho bà Vũ thị Thường, vợ Chế Lan Viên, mẹ của Vàng Anh, Nếu đúng vậy, cuộc trao đổi không khác gì giữa hàng thịt với hàng cá.
Tuy nhiên không phải việc nào các quý vị trong Ban chấp hành cũng “móc ngoặc” nhau xuôi xẻ vậy. Nhiều việc do chia chác không đều bị đổ bể khiến cả làng ôm bụng cười trong đó sôi nổi nhất hiện nay là vụ lập trang web Hội nhà văn.
Nguyên hồi 2005, nhà văn Nguyễn Xuân Hưng, làm ở báo Đầu tư thuộc Bộ Thương mại, do quen biết nên xin được một ngân khoản là 2 tỷ đồng để làm trang web Hội nhà văn. Lập tức ông được Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh nhận về làm báo điện tử và lập ngay Ban biên tập gồm : TBT Hữu Thỉnh, Phó TBT thường trực Nguyễn Xuân Hưng, Phó TBT Trần Đăng Khoa, và Phó TBT Mai Quốc Liên. Mọi việc tưởng ngon ăn vì Hội ta có mất đồng xu cắc bạc nào bỗng dưng có tiền ra báo điện tử.
Tiếc thay sự đời đâu có đơn giản, một món tiền kếch xù thế, một mối lợi to vậy mà Uỷ viên chấp hành trẻ nhất Phan thị Vàng Anh lại bị qua mặt ai mà chịu được . Bởi thế cô quyết liệt phản đối : Hội nhà văn có cần ra báo điện tử hay không, nếu mai kia gọi tài trợ và quảng cáo sao quản lý nổi và bao nhiêu năm không có báo điện tử, có chậm thêm một thời gian cũng chả sao, mà nên cần làm cẩn thận và kỹ. Cô đòi chọn nhà tư vấn khác , phía cô sẽ giới thiệu 5 người, phía Nguyễn Xuân Hưng giới thiệu 5 người.
Thế là chuyện làm trang web đã trở thành một “đấu trường” cho hai bên giành giật nhau . Tất nhiên, cơm dọn ra mâm rồi không được ăn, bên phía Hữu Thỉnh - Nguyễn Xuân Hưng đâu có chịu. Họp chấp hành phân xử, ông Phó Chủ tịch Hội, Nguyễn Trí Huân coi như đứng giữa đề nghị biểu quyết, cô Vàng Anh chơi lối cù nhầy, cha thiên hạ :
“ Tôi không bỏ phiếu, nếu bỏ phiếu thì tôi ra về. Vấn đề này tôi chỉ phát biểu một lần thế thôi…”
Vậy là không có bàn thảo , nghe thêm ý kiến nào khác, cô “uỷ viên chấp hành “ Vàng Anh xem ra còn “hách xì xằng “ hơn ông bố cũng “chấp hành uỷ viên” Chế Lan Viên ngày xưa. Cuộc họp thế là tan, dự án trang web bị xếp xó . Ong Nguyễn Xuân Hưng, người xin được tiền mang về cho Hội mới đây viết bài than trời :
“Một dự án làm lợi cho cơ quan Hội, làm lợi cho uy tín Hội Nhà văn, nhưng cuối cùng thì kết quả lại như vậy. Thật là …chán như “con gián”!”
Và ông vạch ra nguyên nhân đổ bể dự án chính là tại “quan bà “ Phan thị Vàng Anh :” Phải là người cánh hẩu của tôi làm, chứ “bọn kia” làm là không xong với tôi. “.
Lập tức PTVA viết bài đập lại với lý do rất “ngang” rằng : “ Nhà nước cấp cho Hội Nhà Văn tiền để làm cổng điện tử chứ không phải để làm báo điện tử. Hai thứ đó hoàn toàn khác nhau. “.
Khổ nỗi cái người “cho tiền” lại cho với mục đích làm báo và tất nhiên muốn ra báo thì phải có cổng. Bị bắt bẻ vô lối vậy, nhà tài trợ bực mình rút 2 tỷ về, không tài trợ nữa. Thế là hai năm sau Hội Nhà văn cũng vẫn chưa có trang web.
Vừa rồi, quá bức xúc, nhà văn Văn Chinh viết ngay bài : “Thực sự có người phá dự án website của Hội nhà văn VN…” vạch trần :
”Chị ( Phan thị Vàng Anh) chỉ giả vờ không biết để loè những người không biết, rằng nói là cổng lại chỉ làm báo, một thủ thuật tranh biện mà thôi? Đó là điều thứ nhất tỏ rằng chị là người nguy hiểm. Điều thứ hai là lý thuyết chỉ nói một lần trong cuộc họp về vấn đề đang bàn. Đó là tư duy độc đoán, phản dân chủ. Nó cho thấy chị dự một cuộc họp chỉ để nói ý kiến của mình và không nghe ý kiến người khác.”
Ông bày tỏ sự bức xúc về thái độ ngang ngược của một Uỷ viên chấp hành :
“Tôi hối hận là đã bỏ phiếu bầu vào BCH Hội Nhà văn khoá VII một người như thế. Tôi có nghe nói chị muốn làm Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà văn? Nếu không phải vậy thì cho tôi xin lỗi. Nhưng nếu có, thì xin BCH cần phải đặt lên bàn nghị sự một điều sống còn rằng, có nên chọn một người độc đoán, không hề muốn lắng nghe ý kiến người khác để làm nhà lãnh đạo hay không? Nhất là lãnh đạo NXB Hội Nhà văn, nơi sẽ in những tác phẩm văn học. Mà tác phẩm văn học thì bao giờ cũng được sáng tạo trong tinh thần dân chủ và tự do.”
Tất nhiên, hòn đất ném đi hòn chì ném lại, ngay lập tức fan của PTVA nhảy tấp vào bênh “sếp”. Trên Talawas ngày 5 tháng 12 , nữ thi sĩ Dư thị Hoàn vội vàng lên tiếng phản bác Nguyễn Xuân Hưng và Văn Chinh, đồng thời tranh thủ ‘bốc thơm” PTVA.
Nào là
“Phan Thị Vàng Anh có khả năng đoàn kết và quy tụ anh chị em hội viên. Cô và các cộng sự đã chứng tỏ khả năng, và nhiệt tình hơn hẳn các nhiệm kỳ trước, bằng chứng là thành công của các hoạt động có sáng tạo, mang tính đột phá.”
Nào là :
“ Phan Thị Vàng Anh đảm nhiệm công việc Ban Nhà văn Nữ và Ban Nhà văn Trẻ. Các thành viên cả hai Ban, cùng lực lượng cộng tác viên thường trực ủng hộ các hoạt động chuyên đề… đều là những nhà văn nổi tiếng và năng động. Thực tế cho thấy họ hiệp đồng, cộng tác với Phan Thị Vàng Anh đều hồ hởi và tự giác. Họ lần lượt đưa ra nhiều sáng kiến và đều được cô Vàng Anh coi trọng, phân trách nhiệm tổ chức các hoạt động mang tính tiên phong (chưa từng có)”.
Nào là :
“ Lần đầu tiên có sân thơ trẻ trong ngày thơ Việt Nam, lần đầu tiên có poster tác gia thơ được trưng bầy trong Văn Miếu, lần đầu tiên tổ chức Đại hội Nhà văn Trẻ tại Hội An, một quang cảnh mới – khác địa bàn Hà Nội; lần đầu tiên có bàn tròn văn nghệ (mỗi tháng) tại Thành phố HCM, lần đầu tiên mở các tọa đàm văn chương có chuẩn bị tham luận nghiêm túc dành riêng cho các nhà văn nữ và cho các nhà văn trẻ… Đó là chưa tính đến các chuyến tham quan thực tế, giao lưu văn hoá và thâm nhập các tỉnh thành… đều được các anh chị em chung tay lập kế hoạch khai thác, thực hiện rất hiệu quả.”
Bốc PTVA lên mây xanh vậy có vẻ chưa …đã, Dư thị Hoàn còn thổi thêm:
“ Phan Thị Vàng Anh là một nhân tố năng động, sáng tạo, nghiêm túc và không vụ lợi trong bộ máy lãnh đạo đương nhiệm của Hội nhà văn…”
Cuộc đấu đá ở Hội Nhà Văn Việt Nam vẫn đang tiếp diễn chừng nào đảng vẫn cho tiền tỉ. Chỉ có cắt ngân sách bao cấp may ra họ mới chịu khó ngồi viết ra một cái gì đó có lợi cho dân cho nước.
NT
khieman
09-03-2014, 06:40 PM
.
Đất nước khó khăn này
sao không thấm được vào thơ ?
Hai câu thơ trên của thi sĩ Trần Dần trong bài “ Nhất định thắng” viết từ năm 1955 cho tới nay vẫn còn là câu hỏi đâm nhói vào lòng người đọc , tất nhiên, chỉ người đọc thôi, còn phần lớn “các nhà thơ” thì … không ?
Vì sao vậy ?
Trước hết , các “thiên tài” bóng tối trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm sau khi được “phục hồi” thì giống như “chim bị tên sợ cành cây cong” cũng chỉ dám làm thơ….”ngó lời” ( chữ của Lê Đạt) chứ không dám “ ngó đời” , ngó vào cõi nhân sinh đang trầm luân bể khổ, lòng người ly tán, sự thật bị xua đuổi ở khắp mọi nơi , cái ác lấn át cái thiện và cả xã hội như đang rơi vào thời kỳ băng hà của trái tim con người.
Làm thơ như những “phu chữ”, đến thở dài một tiếng cũng không dám, nói gì đến tiếng thét phẫn nộ, nên các chủ soái của nhóm Nhân văn Giai Phẩm như Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm…đều đã được “đền bù giải toả” bằng Giải thưởng cao quý nhất của Nhà nước mà nghe nói lên tới … 70 triệu đồng .
Các nhà thơ tiền chiến và chống Pháp còn lại dăm ba vị nay đã già, hết năng lực chữ nghĩa, các nhà thơ chống Mỹ như Hữu Thỉnh, Bằng Việt…đua nhau làm quan văn và làm thơ “cung đình”, các nhà thơ trẻ thời thị trường học theo cha anh, tránh cho xa “thế sự” là cái thứ “nguy hiểm chết người “, đã không bổng lộc mà còn “tai bay vạ gió”, thôi thì cứ chơi trò “duy mỹ” ( Vi Thuỳ Linh) hoặc chỉ quan tâm tới “con chữ” ( Phan Huyền Thư ) là vừa nổi tiếng, an toàn lại vừa có tiền.
Thế là cả một đội ngũ các nhà thơ trẻ đua nhau hoặc chấm ngòi bút vào nước mắt (cá sấu ) làm thơ “não tình”, hoặc giống như cô diễn viên Vàng Anh “cầm cell phone em chụp chỗ sâu ” không phải để kỷ niệm mà làm thành thứ thơ “giường chiếu “, thơ XXX nhưng vỗ ngực là “hậu hiện đại”.
Ông Ngô Minh trong bài Những sự lạ trong làng thơ Việt đăng trên talawas đã “phát hiện” :
“sự trở lại của thơ tình kiểu “tiền chiến”. Buồn chán, ủ ê, đau khổ, tuyệt vọng, sướt mướt. Loại thơ tình (nam nữ) này chiếm hơn hai phần ba số thơ ấn hành hàng ngày. Những người đang yêu làm thơ tình đã đành, những người không có mảnh tình rách cũng làm thơ tình! Đến cả các nhà thơ già lớp chống Pháp, các nhà thơ “tiền chiến” bảy tám chục tuổi cũng trở lại với thơ tình!”
“lạm phát” thơ tình nhưng lại thiếu vắng, hiếm hoi những bài thơ :
“thể hiện thiên chức công dân của nhà thơ, những bài thơ chiến đấu cho sự công bằng xã hội, cho một xã hội dân chủ - tự do, thơ chia sẻ số phận đắng cay của người lao động trước sự áp bức của bất công và cường quyền của quan tham, quan liêu, những bài thơ thế thái nhân tình... từng nở rộ trong những năm đầu đổi mới, mở cửa, bây giờ thấy thưa vắng, hiếm hoi dần đi..”
Hèn nhát, bất tài, chạy trốn thế tục vào váy đàn bà vậy mà phần lớn các nhà thơ hôm nay vẫn huênh hoang “ta đây”. Trên Văn Nghệ đồng bằng sông Cửu Long có đăng bài “THI CA HÔM NAY” của INRASARA lớn lối :
“mặt đất quay và quay và bỏ rơi trùng trùng nỗ lực
chìm hố thẳm vinh quang
Chỉ chúng ta kẻ cư ngụ ngang thời gian
là không rớt lại”
“ Ngoa ngôn” phải lấy ông này tiên sư !!!
Tất nhiên không phải tất cả các nhà thơ đều sợ “cường quyền”. Dòng thơ “thế tục” với những bài thơ “ Tổ Quốc nhìn từ xa” cuả Nguyễn Duy, “Khuất Nguyên”, “Khóc Nguyên Hồng “ của Trần Mạnh Hảo, “Người về” của Hoàng Hưng…vẫn được tiếp nối trong lặng lẽ và trên văn chương mạng.
Và đây là hai bài thơ mà “ Đất nước khó khăn này đã thấm được vào thơ “ của nhà thơ Bùi Chí Vinh về vụ sập cầu Cần Thơ và vụ vinh danh “quá lố” “thần đồng Adora Svitak mấy năm trước…Chuyện “thế tục” có làm cho thơ bay bổng và trở thành bất hủ còn tuỳ thuộc vào tài năng của thi sĩ, nhưng nếu quay lưng với “thế tục”, nhất định thơ sẽ chết trong lòng người đọc. Và một điều chắc chắn : loại thơ “thế tục” này không thể in ở các báo của anh Huynh !!!
BÙI CHÍ VINH
Lời ai điếu cho cầu Cần Thơ
Cầu Cần Thơ không phải cầu sông Kwai
Không phải cây cầu xây trong thời chiến
Không bị dội bom, không có súng kề đầu
Chỉ có những bản hợp đồng khổng lồ tiền bảo hiểm
Khi tôi viết dòng chữ này thì người thứ 50 đã lìa đời ngay bệnh viện
Những người tiếp theo đang vật lộn với tử thần
Những nông dân ký giao kèo bằng miệng
Nuôi mẹ già, nuôi con dại, nuôi thân
Khi tôi viết dòng chữ này thì ruộng đất vẫn bỏ hoang
Con trâu buồn thiu, máy cày rêu bám
Tấc đất ngày nay không phải tấc vàng
Người trồng lúa thành công-nhân-ngoại-hạng
Làm sao thống kê hết các thông tin choáng váng
“Kỹ sư Hiroshi Kudo từng khuyến cáo nhà thầu”
“Lạnh lùng thi công mà không thử qua trụ tạm”
Sinh mạng con người thử thách trước bể dâu
“Chín Con Rồng Cửu Long” chờ đợi một cây cầu
Không ai chờ đợi một lời xin lỗi
Không lời xin lỗi nào băng bó được cơn đau
Vợ goá, con côi, ngày ngày bụng đói
Máu đã chảy trên những lời nói dối
Trên quyền uy, trên những chiếc bàn tròn
50 người chết có cần ai sám hối
Có cần ai nhỏ lệ ban ơn?
2.10.2007
Suy nghĩ về thần đồng văn chương Adora
Ngày 15 tháng 11 năm 2007 báo chí loan tin
“Hàng trăm học sinh Việt Nam giỏi tiếng Anh chào đón thần đồng Adora người Mỹ”
Adora Svitak tuổi lên 10
Sản xuất tập truyện Những ngón tay bay đầy giá trị
Những ngón tay bay của thần đồng huyền bí
Bay từ giấc mơ đất nước nhà giàu
Những ngón tay bay biến thành hàng tiếp thị
Xoa dịu vỗ về xứ sở chiêm bao
Những ngón tay bay không thể điều trị bệnh ho lao
Con nít xóm nghèo vẫn mỗi ngày viêm phổi
Những ngón tay bay không dựng nổi nhịp cầu
Cầu Cần Thơ vẫn trong cơn hấp hối
Những ngón tay bay được soi đường dẫn lối
Để bắt tay lựa chọn bạn bè
Bắt tay trường quốc tế, trường chuyên, trường quý tộc
Công tử nhi đồng, tiểu thư nhí xum xoe
Tội nghiệp Adora đeo kính cận cười toe
Nụ cười toét miệng không phân ranh quốc tịch
Nụ cười y chang các đứa bé vỉa hè
Bán vé số, bán hàng rong rách đít
Những ngón tay bay trở nên cổ tích
Khiến chúng sinh quên hết chuyện hoang đường
Chuyện tham nhũng, chuyện bất công, chuyện mất nhà mất đất
Chỉ còn chuyện loài người ôm giấc mộng văn chương
Những ngón tay bay làm thế giới gần hơn
Nhưng cũng làm thần đồng Adora xa lạ
Nếu Adora sinh trưởng ở Việt Nam
Chắc chắn cô bé sẽ vô chùa quét lá
Ở xứ sở vàng bị chôn dưới đá
Phù Đổng vươn vai đã bị đụng trần
Những ngón tay bay lết bò vì cơm áo
Thiên tài làm gì có chỗ cõi phù vân?
11.2007
NT
khieman
09-04-2014, 12:35 AM
.
Cà phê văn học tại Sàigòn
Hội đồng Anh suýt biến thành Hội đồng…chuột
Mấy năm nay, các “trung tâm văn hoá nước ngoài” hoạt động ngày càng sôi nổi tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sàigòn…thêm “sân chơi” phi quốc doanh cho văn nghệ sĩ Việt Nam vốn chỉ được phép tụ tập xung quanh các Hội nhà văn, Hội nhạc sĩ, Hội điện ảnh…với danh xưng không lấy gì làm vẻ vang là các “tổ chức quần chúng của Đảng”.
Dẫu rằng hoạt động của các tổ chức nước ngoài này được Nhà nước “cho phép “ và “quản lý” chặt chẽ bằng cài cắm văn nghệ sĩ của Đảng làm nòng cốt trong các cuộc họp vậy mà mới đây, ngày 5 tháng 7, trên web site của mình, ông nhà văn Nguyễn Đình Chính cũng vẫn “nêu cao cảnh giác”, lên tiếng chê bai nặng nề :
“Và tất cả những hoạt động sinh hoạt văn học đã và đang được diễn ra ở mấy trung tâm văn hoá ngoại quốc ( thí dụ như trung tâm văn hoá Pháp, hội đồng Anh hoặc Viẹn Gớt …) đó chỉ là những bản sao chép vụng về những cái gọi là văn nghệ đại chúng ở chính nước họ đã rữa nát dưới nấm mộ quên lãng của thời gian hơn nửa thế kỉ.”
Tất nhiên nhận xét cực đoan này chẳng lọt tai mấy ai. Các văn nghệ sĩ thời thượng đang muốn đánh bóng tên tuổi vẫn đua nhau tới, đua nhau phát biểu trên các diễn đàn của các tổ chức nêu trên trừ các “văn nghệ sĩ “ trụ cột bảo vệ Đảng sợ mất điểm thi đua nên không dám tới.
Ngày 22 tháng 6 - 2007, tại Hà Nội, Hội đồng Anh mở một cuộc trò chuyện xoay quanh đề tài "Phê bình văn học trên báo chí - Lý tính và cảm tính", tất nhiên người điều hành thảo luận vẫn là các ‘con cưng của Đảng” như Nguyễn Hoà (Trưởng phòng lý luận phê bình văn học báo Nhân Dân), Phạm Xuân Thạch (Giảng viên khoa ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), Văn Giá (Trưởng khoa Lý luận – Phê bình - Sáng tác Văn học, Đại học Văn hoá). Cuộc ‘trò chuyện” bị “quản” chặt như thế nên chẳng có ý kiến nào đáng giá ngoài của một nữ sinh viên ngồi ghế khán giả :
“Tôi thấy điểm mạnh nhất của các nhà phê bình Việt Nam là phê bình lẫn nhau.”
Từ Hà Nội mấy ông Hội đồng Anh “lấn” vào Sàigòn, đúng 19 giờ ngày 06 tháng 07 năm 2007, tại Zenta Café, Sài Gòn, ông Graham Sutcliffe, Giám đốc Nghệ thuật Hội đồng Anh đã phát biểu khai mạc cho buổi thảo luận cũng với đề tài “Phê bình văn học trên báo chí – Lý tính và Cảm tính?”.
Giả thiết một chuyện ngược đời, nếu có một ông người Việt da vàng mũi tẹt, bỏ tiền ra mở một cuộc “hội thảo” tại chính giữa thủ đô Luân Đôn mời các ông bà nhà văn gạo cội bản xứ tới thảo luận về nền “phê bình văn học” của chính các quý vị này, lại còn dậy dỗ rằng dân Anh ít biết ngoại ngữ nên chỉ đọc sách dịch sang…tiếng Anh thì mấy ông bà nhà văn xứ sương mù liệu có “cảm thán “ gì chăng ?
Còn ở Việt Nam, chính xác hơn ở Sàgòn, hơn 100 nhà văn , nhà thơ, nhà phê bình, cứ hân hoan nghe ông tây đọc diễn văn khai mạc cuộc trò chuyện “cây nhà lá vườn” của người Việt Nam mà chẳng hề “hổ thẹn ” gì.
Vậy mới biết sức sống thật là dẻo dai của câu hát nhái :” ôi hàng tây tốt hơn hàng ta…”
Cuộc “trò chuyện “ ở Sàigòn tất nhiên cũng phải thông qua Sở văn hoá thông tin, phải chọn những người Đảng tin cậy, bởi thế nên mới có chuyện tuy đề dẫn là “ phê bình văn học” nhưng nửa phần “lễ lạt” lại là …quảng cáo sách.
Mở đầu, nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn, lẽ ra quảng cáo tác phẩm Việt Nam thì ông lại chọn một cuốn sách tàu của tác giả Trung Quốc Quách Kính Minh: “Vương quốc ảo” để hết lời ca ngợi chắc theo đơn đặt hàng của nhà làm sách.
Nhà báo kiêm nhà văn Ngô thị Kim Cúc, báo Thanh Niên thì ra sức ca ngợi “khả năng hư cấu vô cùng phong phú” trong tác phẩm “Giữa vòng vây trần gian” của Danh Lam - một nhà văn trẻ Sài Gòn, chẳng hiểu có nhận PR của mấy ông đầu nậu sách mà bà nâng lên hàng “tiểu thuyết hiếm hoi trong văn học Việt Nam mang tính triết học hôm nay” cho dù có tới 99% giới cầm bút chưa nghe nói tới cái tựa sách này bao giờ.
Sau cùng đến lượt nhà thơ Inrasara “bốc thơm” tập truyện ngắn “Khu vườn lưu lạc” của nhà văn trẻ người miền Nam Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Sau màn “quảng cáo sách” đến màn … “đá lộn sân” .
Trước hết chẳng hiểu ai xui “trẻ ăn cứt gà”, mấy ông Hội đồng Anh lại chọn ông đạo diễn điện ảnh Lê Hoàng vốn chỉ quen trò chuyện lúc 0 giờ, làm MC chủ trì cuộc họp, lèo lái mấy ông nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình phát biểu sao cho không chệch đường lối Đảng.
Tiếp đó người tường thuật “cuộc trò chuyện” được phát trên một đài phát thanh uy tín trên thế giới lại là ông…hoạ sĩ Trịnh Cung.
Trong bài viết của mình, ông hoạ sĩ này “xỏ ngọt” nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn. Nào là :
” nhà phê bình này cũng đã thú nhận rằng 2 năm rồi ông không đọc sách, muốn nhân dịp nhận lời mời của Hội đồng Anh này để tự “giải đông” cho mình nên đã đến nhà sách và ngẫu nhiên chọn tác phẩm này.”.
Nào là :
” Nguyễn Thanh Sơn đã không quên “lên lớp” nhà văn Việt Nam: “Muốn thấy nhà văn chúng ta tạo dựng một thế giới như vậy!” Ngoài sự chọn lựa tác phẩm tuỳ hứng và sai chủ trương của hội thảo nếu không muốn nói là đã coi thường tác phẩm văn học Việt Nam đương đại, đây thật sự là một phát ngôn khiếm nhã đối với những người viết văn Việt Nam cũng như những người viết văn đang có mặt trong hội thảo. Đây cũng cho thấy việc chọn một người không mấy đọc tác phẩm văn học Việt trên cả hai phương diện chính thống và “ngoài luồng” (văn chương mạng) như Nguyễn Thanh Sơn sẽ làm ảnh hưởng lớn đến sự thành công của cuộc hội thảo.
Hòn đất ném đi thì hòn chì ném lại, chỉ vài ngày sau, nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn “phản pháo” bằng những lời lẽ không mấy thân thiện khiến cho dư âm của cuộc “trò chuyện” càng thêm rôm rả :
“Từ lâu tôi vốn đã không ngạc nhiên với ông Trịnh Cung. Không ngạc nhiên vì món võ “bỏ bóng đá người”- trong khi tường thuật một sự kiện sinh hoạt văn học, thay vì phân tích, đánh giá hoặc phê phán những ý kiến nêu ra trong sự kiện thì ông lại bình luận về tư cách người được mời tham dự. Không ngạc nhiên vì ông đã kịp diễn dịch mong muốn thông thường của một người đọc được thấy những thế giới văn chương mới trong sáng tác của những nhà văn Việt nam thành một hành động khiếm nhã và coi thường các nhà văn đương đại. Không ngạc nhiên vì ông tảng lờ chủ đề chính của sự kiện sinh hoạt văn học này là “phê bình văn học trên báo chí”- bao gồm cả tác phẩm văn học Việt nam lẫn tác phẩm văn học dịch-trong chương trình có đọc các bài điểm sách và phê bình về tác phẩm của Yan Martel (Cuộc đời của Pi) và Naipaul (Khúc quanh của dòng sông)-nên việc chọn một tác phẩm của một nhà văn Trung Quốc để giới thiệu là hoàn toàn bình thường, nhất là khi đã được sự đồng thuận của nhà tổ chức. Ông Trịnh Cung trước nay vẫn vậy!”
Cuộc đá “lộn sân” mang tinh thần “mác-két-tinh thời đại” càng thêm rôm rả khi ý kiến có tính cách uốn nắn cuộc hội thảo văn học lại là của…nhạc sĩ Dương Thụ.
Nguyên vì mặc dầu không có giấy mời, ông nhà thơ Trần Mạnh Hảo cũng cứ đến dự và khi được MC trao cho micro liền nổ một tràng liên thanh “ một khi không có tự do viết lách thì làm gì có phê bình chân chính khiến chính ông đã 4 lần bị treo bút. “
Hoảng sợ vì những tiếng vỗ tay hoan hô nhà thơ “báng bổ”, ông đạo diễn Lê Hoàng vội vàng hướng cuộc trao đổi sang những chuyện vụn vặt như nhuận bút, về thể lệ đăng báo khiến ông nhạc sĩ Dương Thụ phải lên tiếng phản đối :”Ban chủ toạ đã lạc đề. …”
Tuy thế , các ý kiến thảo luận vẫn "choảng" nhau, lúc lại đi quá xa chủ đề chính, ông nói chẳng bà nói chuộc, khiến cuộc họp dáo dác, lộn xộn như một cuộc họp của…Hội đồng chuột và nhà đạo diễn điện ảnh kiêm chủ toạ Lê Honàg mặc dầu mới 9 giờ rưỡi đã phải tuyên bố kết thúc cuộc họp :
” Chúng ta cần chấm dứt thôi vì có nói nữa cũng thế…”.
Cuộc “cà phê văn học” của Hội đồng Anh tổ chức tại Sàigòn tối 5 tháng 7 chẳng đúc rút ra kết luận gì ngược lại càng làm rõ tính thích đấu đá của các nhà văn Việt Nam, chẳng chút xấu hổ, họ choảng nhau ngay trong “quán cà phê” mà người Anh đã có nhã ý mời tới để bàn về những vấn đề nghiêm chỉnh của văn học nước mình. Chỉ tiếc mấy ông Hội đồng Anh bị mấy anh “bấu xấu”, bất tài, vây quanh nên chẳng thể nào tiếp cận được những nhà văn, nhà thơ thứ thiệt. Có lẽ cũng vì thế nhà phê bình Lê Ngọc Trà đã nhận lời vào ban điều hành rồi, phút cuối cùng lại rút tên ra.
Hoạt động của các “trung tâm văn hoá nước ngoài” sắp tới chắc còn rôm rả lắm, nhưng có giúp được gì cho sự phát triển văn học Việt Nam hay không thì hãy còn phải chờ coi.
NT
khieman
09-04-2014, 12:35 AM
.
Cà phê văn học tại Sàigòn
Hội đồng Anh suýt biến thành Hội đồng…chuột
Mấy năm nay, các “trung tâm văn hoá nước ngoài” hoạt động ngày càng sôi nổi tại các thành phố lớn như Hà Nội, Sàigòn…thêm “sân chơi” phi quốc doanh cho văn nghệ sĩ Việt Nam vốn chỉ được phép tụ tập xung quanh các Hội nhà văn, Hội nhạc sĩ, Hội điện ảnh…với danh xưng không lấy gì làm vẻ vang là các “tổ chức quần chúng của Đảng”.
Dẫu rằng hoạt động của các tổ chức nước ngoài này được Nhà nước “cho phép “ và “quản lý” chặt chẽ bằng cài cắm văn nghệ sĩ của Đảng làm nòng cốt trong các cuộc họp vậy mà mới đây, ngày 5 tháng 7, trên web site của mình, ông nhà văn Nguyễn Đình Chính cũng vẫn “nêu cao cảnh giác”, lên tiếng chê bai nặng nề :
“Và tất cả những hoạt động sinh hoạt văn học đã và đang được diễn ra ở mấy trung tâm văn hoá ngoại quốc ( thí dụ như trung tâm văn hoá Pháp, hội đồng Anh hoặc Viẹn Gớt …) đó chỉ là những bản sao chép vụng về những cái gọi là văn nghệ đại chúng ở chính nước họ đã rữa nát dưới nấm mộ quên lãng của thời gian hơn nửa thế kỉ.”
Tất nhiên nhận xét cực đoan này chẳng lọt tai mấy ai. Các văn nghệ sĩ thời thượng đang muốn đánh bóng tên tuổi vẫn đua nhau tới, đua nhau phát biểu trên các diễn đàn của các tổ chức nêu trên trừ các “văn nghệ sĩ “ trụ cột bảo vệ Đảng sợ mất điểm thi đua nên không dám tới.
Ngày 22 tháng 6 - 2007, tại Hà Nội, Hội đồng Anh mở một cuộc trò chuyện xoay quanh đề tài "Phê bình văn học trên báo chí - Lý tính và cảm tính", tất nhiên người điều hành thảo luận vẫn là các ‘con cưng của Đảng” như Nguyễn Hoà (Trưởng phòng lý luận phê bình văn học báo Nhân Dân), Phạm Xuân Thạch (Giảng viên khoa ngữ văn, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn), Văn Giá (Trưởng khoa Lý luận – Phê bình - Sáng tác Văn học, Đại học Văn hoá). Cuộc ‘trò chuyện” bị “quản” chặt như thế nên chẳng có ý kiến nào đáng giá ngoài của một nữ sinh viên ngồi ghế khán giả :
“Tôi thấy điểm mạnh nhất của các nhà phê bình Việt Nam là phê bình lẫn nhau.”
Từ Hà Nội mấy ông Hội đồng Anh “lấn” vào Sàigòn, đúng 19 giờ ngày 06 tháng 07 năm 2007, tại Zenta Café, Sài Gòn, ông Graham Sutcliffe, Giám đốc Nghệ thuật Hội đồng Anh đã phát biểu khai mạc cho buổi thảo luận cũng với đề tài “Phê bình văn học trên báo chí – Lý tính và Cảm tính?”.
Giả thiết một chuyện ngược đời, nếu có một ông người Việt da vàng mũi tẹt, bỏ tiền ra mở một cuộc “hội thảo” tại chính giữa thủ đô Luân Đôn mời các ông bà nhà văn gạo cội bản xứ tới thảo luận về nền “phê bình văn học” của chính các quý vị này, lại còn dậy dỗ rằng dân Anh ít biết ngoại ngữ nên chỉ đọc sách dịch sang…tiếng Anh thì mấy ông bà nhà văn xứ sương mù liệu có “cảm thán “ gì chăng ?
Còn ở Việt Nam, chính xác hơn ở Sàgòn, hơn 100 nhà văn , nhà thơ, nhà phê bình, cứ hân hoan nghe ông tây đọc diễn văn khai mạc cuộc trò chuyện “cây nhà lá vườn” của người Việt Nam mà chẳng hề “hổ thẹn ” gì.
Vậy mới biết sức sống thật là dẻo dai của câu hát nhái :” ôi hàng tây tốt hơn hàng ta…”
Cuộc “trò chuyện “ ở Sàigòn tất nhiên cũng phải thông qua Sở văn hoá thông tin, phải chọn những người Đảng tin cậy, bởi thế nên mới có chuyện tuy đề dẫn là “ phê bình văn học” nhưng nửa phần “lễ lạt” lại là …quảng cáo sách.
Mở đầu, nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn, lẽ ra quảng cáo tác phẩm Việt Nam thì ông lại chọn một cuốn sách tàu của tác giả Trung Quốc Quách Kính Minh: “Vương quốc ảo” để hết lời ca ngợi chắc theo đơn đặt hàng của nhà làm sách.
Nhà báo kiêm nhà văn Ngô thị Kim Cúc, báo Thanh Niên thì ra sức ca ngợi “khả năng hư cấu vô cùng phong phú” trong tác phẩm “Giữa vòng vây trần gian” của Danh Lam - một nhà văn trẻ Sài Gòn, chẳng hiểu có nhận PR của mấy ông đầu nậu sách mà bà nâng lên hàng “tiểu thuyết hiếm hoi trong văn học Việt Nam mang tính triết học hôm nay” cho dù có tới 99% giới cầm bút chưa nghe nói tới cái tựa sách này bao giờ.
Sau cùng đến lượt nhà thơ Inrasara “bốc thơm” tập truyện ngắn “Khu vườn lưu lạc” của nhà văn trẻ người miền Nam Nguyễn Vĩnh Nguyên.
Sau màn “quảng cáo sách” đến màn … “đá lộn sân” .
Trước hết chẳng hiểu ai xui “trẻ ăn cứt gà”, mấy ông Hội đồng Anh lại chọn ông đạo diễn điện ảnh Lê Hoàng vốn chỉ quen trò chuyện lúc 0 giờ, làm MC chủ trì cuộc họp, lèo lái mấy ông nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình phát biểu sao cho không chệch đường lối Đảng.
Tiếp đó người tường thuật “cuộc trò chuyện” được phát trên một đài phát thanh uy tín trên thế giới lại là ông…hoạ sĩ Trịnh Cung.
Trong bài viết của mình, ông hoạ sĩ này “xỏ ngọt” nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn. Nào là :
” nhà phê bình này cũng đã thú nhận rằng 2 năm rồi ông không đọc sách, muốn nhân dịp nhận lời mời của Hội đồng Anh này để tự “giải đông” cho mình nên đã đến nhà sách và ngẫu nhiên chọn tác phẩm này.”.
Nào là :
” Nguyễn Thanh Sơn đã không quên “lên lớp” nhà văn Việt Nam: “Muốn thấy nhà văn chúng ta tạo dựng một thế giới như vậy!” Ngoài sự chọn lựa tác phẩm tuỳ hứng và sai chủ trương của hội thảo nếu không muốn nói là đã coi thường tác phẩm văn học Việt Nam đương đại, đây thật sự là một phát ngôn khiếm nhã đối với những người viết văn Việt Nam cũng như những người viết văn đang có mặt trong hội thảo. Đây cũng cho thấy việc chọn một người không mấy đọc tác phẩm văn học Việt trên cả hai phương diện chính thống và “ngoài luồng” (văn chương mạng) như Nguyễn Thanh Sơn sẽ làm ảnh hưởng lớn đến sự thành công của cuộc hội thảo.
Hòn đất ném đi thì hòn chì ném lại, chỉ vài ngày sau, nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn “phản pháo” bằng những lời lẽ không mấy thân thiện khiến cho dư âm của cuộc “trò chuyện” càng thêm rôm rả :
“Từ lâu tôi vốn đã không ngạc nhiên với ông Trịnh Cung. Không ngạc nhiên vì món võ “bỏ bóng đá người”- trong khi tường thuật một sự kiện sinh hoạt văn học, thay vì phân tích, đánh giá hoặc phê phán những ý kiến nêu ra trong sự kiện thì ông lại bình luận về tư cách người được mời tham dự. Không ngạc nhiên vì ông đã kịp diễn dịch mong muốn thông thường của một người đọc được thấy những thế giới văn chương mới trong sáng tác của những nhà văn Việt nam thành một hành động khiếm nhã và coi thường các nhà văn đương đại. Không ngạc nhiên vì ông tảng lờ chủ đề chính của sự kiện sinh hoạt văn học này là “phê bình văn học trên báo chí”- bao gồm cả tác phẩm văn học Việt nam lẫn tác phẩm văn học dịch-trong chương trình có đọc các bài điểm sách và phê bình về tác phẩm của Yan Martel (Cuộc đời của Pi) và Naipaul (Khúc quanh của dòng sông)-nên việc chọn một tác phẩm của một nhà văn Trung Quốc để giới thiệu là hoàn toàn bình thường, nhất là khi đã được sự đồng thuận của nhà tổ chức. Ông Trịnh Cung trước nay vẫn vậy!”
Cuộc đá “lộn sân” mang tinh thần “mác-két-tinh thời đại” càng thêm rôm rả khi ý kiến có tính cách uốn nắn cuộc hội thảo văn học lại là của…nhạc sĩ Dương Thụ.
Nguyên vì mặc dầu không có giấy mời, ông nhà thơ Trần Mạnh Hảo cũng cứ đến dự và khi được MC trao cho micro liền nổ một tràng liên thanh “ một khi không có tự do viết lách thì làm gì có phê bình chân chính khiến chính ông đã 4 lần bị treo bút. “
Hoảng sợ vì những tiếng vỗ tay hoan hô nhà thơ “báng bổ”, ông đạo diễn Lê Hoàng vội vàng hướng cuộc trao đổi sang những chuyện vụn vặt như nhuận bút, về thể lệ đăng báo khiến ông nhạc sĩ Dương Thụ phải lên tiếng phản đối :”Ban chủ toạ đã lạc đề. …”
Tuy thế , các ý kiến thảo luận vẫn "choảng" nhau, lúc lại đi quá xa chủ đề chính, ông nói chẳng bà nói chuộc, khiến cuộc họp dáo dác, lộn xộn như một cuộc họp của…Hội đồng chuột và nhà đạo diễn điện ảnh kiêm chủ toạ Lê Honàg mặc dầu mới 9 giờ rưỡi đã phải tuyên bố kết thúc cuộc họp :
” Chúng ta cần chấm dứt thôi vì có nói nữa cũng thế…”.
Cuộc “cà phê văn học” của Hội đồng Anh tổ chức tại Sàigòn tối 5 tháng 7 chẳng đúc rút ra kết luận gì ngược lại càng làm rõ tính thích đấu đá của các nhà văn Việt Nam, chẳng chút xấu hổ, họ choảng nhau ngay trong “quán cà phê” mà người Anh đã có nhã ý mời tới để bàn về những vấn đề nghiêm chỉnh của văn học nước mình. Chỉ tiếc mấy ông Hội đồng Anh bị mấy anh “bấu xấu”, bất tài, vây quanh nên chẳng thể nào tiếp cận được những nhà văn, nhà thơ thứ thiệt. Có lẽ cũng vì thế nhà phê bình Lê Ngọc Trà đã nhận lời vào ban điều hành rồi, phút cuối cùng lại rút tên ra.
Hoạt động của các “trung tâm văn hoá nước ngoài” sắp tới chắc còn rôm rả lắm, nhưng có giúp được gì cho sự phát triển văn học Việt Nam hay không thì hãy còn phải chờ coi.
NT
khieman
09-05-2014, 11:18 PM
.
Ông Bộ trưởng “10chữ”
đưa “thôngtin truyền thông”
vềthời … xôviết Nghệ An.
Đầu tháng 8 mới rồi, trả lời VTV1 về “chínhphủ mới được quốc hội phê duyệt”, một ông Thứ trưởng Bộ Nội vụ hể hả:
”chưa bao giờ danh sách chính phủ được sựđồng thuận lớn đến thế – chưa kể sự nhất trí cao của quốc hội mà ngay cả các đồng chí lão thànhcách mạng như Lê Đức Anh, Đỗ Mười…cũng vui vẻ vỗ tay nhất trí thông qua…”.Tất nhiên, nhân vật quan trọng nhất là“nhân dân” có “vỗ tay” đồng thuận hay không thì ông Thứ trưởng không nói đếncho dù vẫn leo lẻo “chính phủ vì dân, do dân”.
Vừa ra mắt, chính phủ mớicủa ông Nguyễn Tấn Dũng đã được báo chí loan tin, bình luận ầm ĩ trong đó đượcnói tới nhiều nhất phải là ông Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp.
Trả lời báo chí ngay tạihành lang kỳ họp quốc hội mới rồi, ông Lê Doãn Hợp mặc dầu được giới thiệu là …”tiến sĩ kinh tế” nhưng khẩu khí, nói năng lại chỉ ngang tầmcán bộ văn hoá xã, khiến nhà văn Nguyên Ngọc bức xúc phải lên tiếng ngay trênTalawas :”
“Tôi vừa mới đọc thấy trên Sài Gòn Giải phóng Online phát biểu của tânBộ trưởng bộ Thông tin và Truyền thông. Ông dõng dạc: “… Ngành thông tin,truyền thông phải làm tốt 10 chữ‘Đoàn kết, trí tuệ, đổi mới, hội nhập, phát triển’. Trong đó, nếu xét về góc độthông tin, phải làm tốt 10 chữ‘Trung thực, dũng cảm, thận trọng, nhanh nhạy, hướng thiện’. Mảng truyền thôngcũng với 10 chữ ‘Cơ chế, chính sách,công nghệ, cốt cán, cơ sở.”Thưa ông Bộ trưởng, theo ngữ pháp tiếng Việt, nhữngchân lý mới mẻ ông vừa nêu cho toàn ngành đó là ba mươi chữ ghép lại thành mườilăm từ, riêng từng chữ thì chưa có ý nghĩa gì cả. “Đoàn kết” chẳng hạn là mộttừ, gồm hai chữ “đoàn” và “kết”. Thông tin và Truyền thông trước hết phải nóitiếng Việt cho đúng đã, chứ không phải nói tiếng Tàu…”
Thưa ông Nguyễn Ngọc, ôngyêu cầu Bộ trưởng phải phân biệt được thế nào là “từ”, thế nào là “chữ” là mộtviệc “ngoài vòng phủ sóng” của ông Bộ Trưởng bởi lẽ theo lý lịch trích ngangthì cái bằng “tiến sĩ kinh tế” của ông chẳng dính dáng gì tới ngữ pháp lớp bốncả.
Ông Nguyên Ngọc cũng nên“cảm thông” cho ông Lê Doãn Hợp là vì cái mẹo “10 chữ” là sở trường rất tâmđắc của ông Bộ Trưởng. Từ thời còn làm Chủ tịch tỉnh Nghệ An, ôngcũng đã đề ra “ 10 chữ” cho ngành giáo dục : đó là “ bốn quản và sáu tăng cường”. Bốn quản là: quản lý giáo viên, quản lý học sinh, quản lý thi cử, quản lý tài chính. Sáutăng cường :” tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, tăng cường đối ngoại,tăng cường kiểm tra, tăng cường ngoạikhoá , tăng cường xã hội hoá , tăng cường đoàn kết…”. Chẳng hiểu ngành giáo dụcNghệ An đã học được mấy chữ trong 10 chữông Hợp đề ra mà cho tới nay vẫn lẹt đẹt chưa thấy tiến bộ mấy.
Rồi đến khi leo lên tới cáichức Bí thư tỉnh uỷ Nghệ An, ông Lê Doãn Hợp lại đề ra cho toàn tỉnh “10 chữ” :” “Khơi trong, hút ngoài, đoàn kết, tiến công, tăng tốc”.
Xin nói ngay “khơi trong”không phải là “gạn đục khơi trong” mà chính là “khơi ở…bên trong”. Còn “hútngoài” thì đến …ông Bill Gate cũng chịu,không hiểu nó là cái gì ?
Quả thực căn cứ vào khẩu khí, đủ thấy rõ “văn hoá làng” là nền tảng kiến thức củaông Bộ Trưởng Bộ thông tin truyền thông vào thời WTO.
Vậy nhưng tại sao ông Lê DoãnHợp lại khoái “10 chữ” như vậy ?
Nguyên là từ thời ông còn làdân “chân đất” đi học ở Vinh – Nghệ An,quê hương bác Hồ, luôn luôn đập vào mắt ông “10 chữ” khổng lồ , mầu đỏ cách mạng treo ở trung tâm thị xã :” một mo cơm quả cà, một tấm lòng cộng sản”.
“10 chữ” đó thấm vào máu, bởi vậyngày nayông Lê DoãnHợp mới luôn miệng nói tới các khẩu hiệu “10chữ” và mang luôn cả tinh thần “ mo cơm, quả cà, tấm lòng cộng sản” ratrung ương để làm cẩm nang lãnh đạo “thông tin truyền thông” nước Cộng Hoà XHCN VN này vào thời hội nhập .
“Tấm lòng cộng sản” được ôngBộ trưởng thể hiện ra sao trong lãnh đạo “thông tin truyền thông “ ?
Trước hết, với thói “duy ngãđộc tôn”, ông Bộ trưởng coi cả chục ngànnhà báo, cả 600 tờ báo đều là dân….”cá gỗ” bảo sao nghe vậy như con dân xứ Nghệquê ông nên mới giở giọng “cha thiên hạ” :
”Tổng biên tập (các báo, trong cả nước, tất nhiên) là người của BộThông tin và Truyền thông sau này cắm ở từng tờ báo”.
làm ông Nguyên Ngọc muốn nổicáu :
“ Bộ cắm”, sướng thật! Nhưng có lẽ như vậy Bộ cũng chưa nắm được báo chíthật chắc ăn lắm đâu. Tốt hơn cả là chính ông Bộ trưởng tự mình kiêm luôn tổngbiên tập tất cả các báo đi. Vừa tuyệt đối an toàn vừa hết sức tiện lợi!”
Chiều ngày 6 tháng 8 mớirồi, trò “10 chữ” của ông Tân Bộtrưởng lại tiếp tục được ông “biểu diễn” ngay trong buổi ra mắt lãnh đạo, CBCNVcủa ngành .
Để vạch ra phướng hướng chongành “thông tin và truyền thông” , ông Bộ trưởng lại nêu ra “10 chữ” :” Tận tuỵ, gương mẫu, Dân chủ,Sáng tạo, Kỷ cương”.
Và ông giải thích :
“Tận tuỵ để cấp dưới thương;Gương mẫu để cấp dưới tin và nểtrọng; Dân chủ để cấp dưới dễ gần đểcó đủ thông tin; Sáng tạo để cấpdưới có thêm việc làm và tăng thêm thu nhập chính đáng; Kỷ cương để người tốt luôn luôn có điểm tựa và người chưa tốt khôngdám lợi dụng, chi phối và lộng quyền".
Vậy là “10 chữ” của ông Bộ trưởng đề ra cho ngành chỉ xoay quanh quanhệ “cấp trên, cấp dưới” – tức là ứng xửsao cho “trên dưới” đều vững ghế và tăng thêm thu nhập chứ có cái gì là “quốc kế dân sinh” ? Cái “tầm” của ôngBộ trưởng hoá ra cũng quẩn quanh cái ghế và cái túi là hết…tầm.
Mới đây ngày 8-8, trong bài“ Tự do trong cũi sắt” trên báoNgưưòi Việt online, ông Phạm Trần viết :
“Theo kế hoạch “Đảng phải nắm báo chí” thì các tổ chức quản lý báo chítương lai sẽ chặt chẽ hơn bây giờ, chẳng hạn như người trách nhiệm phần biêntập của mỗi tờ báo thường được gọi là tổng biên tập, sẽ không còn thuộc quyềnlựa chọn của cơ quan chủ quản tờ báo (đứng tên chủ báo) nữa mà sẽ phải là cánbộ của Bộ Thông Tin và Truyền Thông chỉ định đặt vào mỗi tờ báo.
Nhưng tiêu chuẩn chọn lựa như thế nào thì chưa thấy Hợp tiết lộ “
Thực ra tiêu chuẩn đó đã cótừ lâu rồi, từ thời xôviết Nghệ An “trí, phú , địa hào đào tận gốc,trốc tận rễ”, mới đây ông Lê Doãn Hợp đã tiết lộ trên Tạp chí cộng sản :
“lãnh đạo các cơ quan báo chí phải tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, với Tổ quốc ViệtNamxã hội chủ nghĩa.”
Như vậy là quá rõ, Tổng biêntập các báo chẳng những là “cán bộ của Bộ Thông tin và Truyền thông” mà cònphải là những đảng viên “tuyệt đối trung thành “ với Đảng.
Đường đường là Bộ trưởngThông tin và Truyền thông, lãnh đạo toàn những chuyên viên, những nhà khoa học, kỹ thuật hiện đại, ông Lê Doãn Hợp thích tỏ ra ta đây cũng “tiến sĩ kinh…thế”, khốn nỗi cái căn bản văn hoá lùn của ông cứ bộc lộ ra mỗi khi ông đăngđàn diễn thuyết. Mới đây,thiên hạ phải bò ra cười khi ông dõng dạc tuyên bố :
"Tự do báo chí, cũng như trong tham gia giao thông, con người sẽan toàn và tự do nếu họ đi đúng lề đường bên phải".
Định nghĩa này không biếtrồi đây có được đưa vào bách khao toàn thư nào không, chỉ thấy nhà thơ HoàngHưng chửi thẳng trên Talawas :
“Thật tình tôi chưa hiểu cái “lề đường bên phải” mà ông Hợp “cố gắnglàm cho” giới báo chí nước nhà trông mặt mũi nó ra làm sao, liệu nó có giốngcái “lá đề” che mắt ngựa để ngựa không nhìn sang hai bên cứ thẳng đường mà đihay không? Song có điều chắc chắn là: người làm báo ở bất cứ quốc gia nào cũngđã có sẵn con đường tự nhiên là “xa lộ thông tin” mà toàn xã hội tạo nên chohọ, họ chỉ cần tuân theo đúng luật đi đường là những gì hiến pháp và pháp luậtcủa quốc gia qui định cho họ (chưa nói đến chính hiến pháp và pháp luật mỗinước luôn phải được điều chỉnh để ngày càng đáp ứng tốt hơn quyền tự do ngônluận, tự do thông tin của người dân và phù hợp với luật quốc tế). Vấn đề củangười làm báo ở Việt Namhiện nay là trên thực tế họ đã gặp phải khá nhiều biển cấm trái pháp luật trênđường đi. Thiết nghĩ, thay vì “cố gắng làm ra lề đường” rất có thể lại khốngchế thêm bước đi của họ, xin ông hãy tìm cách tháo bỏ những biển cấm kia cho họ(và dân chúng) được nhờ.“
Tất nhiên ông Bộ trưởng LêDoãn Hợp sẽ “giả điếc” trước những tiếng nói trungthực của nhà văn Nguyễn Ngọc,nhà thơ Hoàng Hưng, nhà báo Phạm Trần …vì trong “tấm lòng cộng sản’ của ông,tụi “trí thức” là đối tượng muôn đời phải “đào tận gốc, trốc tận rễ”.
Từ thời mới cướp được chính quyền, các nhà lãnh đạo cộng sản luônluôn gắn “ thông tin” với”tuyên truyền ”,”thông tin” với “ cổ động” tức cácphương tiện truyền thông của Nhà nước từchiếc “loa phường” cho tới các báo chí,radio,tivi…đều co nhiệm vụ trước hết là“tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng”,”ca ngợi chế độ ta tươi đẹp”. Ngày nay “não trạng” củaông Bộ trưởng cũng “vũ như cẫn”, y xì các vị tiền bối, chỉ có điều ông “tân tiến” hơn một chút, ngoài nhiệmvụ “tuyên truyền “ tức ca ngợi Đảng và Nhà nước ra, ông còn giao thêm một nhiệmvụ nữa cho ngành truyền thông của ông : tuyên truyền sản phẩm nôm na là “quảngcáo hàng hoá”.
Khi phóng viên hỏi “ quanđiểm của Bộ trưởng về khái niệm “Kinh tế truyền thông “ , ông trả lời phứa :
“Kinh tế truyền thông trên thế giới hiện rất phát triển. .. ở khu vựcChâu Á, gần đây, Hàn Quốc cũng là đất nước đang đầu tư phát triển mạnh kinh tếtruyền thông. Những bộ phim Hàn Quốc được chiếu ở VN đã quảng bá cho hình ảnhđất nước, cho sản phẩm và các dịch vụ của Hàn Quốc. Vì thế, dần dần giúp họthâm nhập vào các thị trường mới, chẳng hạn như VN.“
Vậy là giới điện ảnh VN cóthể reo mừng , mai kia ông Bộ trưởng sẽ đầu tư tiền tỉ để làm những bộ phim “quảng bá đất nước VN” mang đi chiếu khắptoàn cầu cho thiên hạ đổ xô tới mua hàng hoá, xài dịch vụ trên đất nước ViệtNam.
Người ta phải đặt câu hỏivới nhận thức về “kinh tế truyền thông” thô sơ đến vậy, liệu mất bao lâu ông Bộ trưởng sẽ đưa “thông tin truyền thông”quay về thời “xôviết Nghệ Tĩnh “?
Được đặt vào một cái ghế quátầm với của mình, ông Bộ trưởng cũng phải thú nhận :
“Thành thực mà nói, tôi không được đào tạo chuyên sâu về chuyên ngànhbưu chính viễn thông hay CNTT nhưng khi được phân công thì phải vận dụng mọikiến thức đã được đào tạo và kinh nghiệm thực tiễn, các bài học trong chiếnđấu, công tác ở nhiều cương vị khác nhau để hành động…”
Oi trời ôi, ông Hợp tínhmang kinh nghiệm chiến tranh du kích, kiến thức Mác Lênin học được ở trườngĐảng để dẫn dắt nền “kinh tế truyền thông” của VN chăng ?Chỉ buồn cho đất nước ta, hết người rồi sao phải để một anh “văn hoá lùn” đếnvậy chễm chệ ngồi trên đầu trên cổ hàng ngàn, hàng vạn các chuyên gia, nhà khoahọc tài năng đang làm việc trong ngành thông tin truyềnthông.
Vả lại, cái ông Hợp này tàiđã chẳng có , đức thì lại vô cùng thất đức. Khi ông Hợp được trên rút ra làmPhó Ban văn hoá tư tưởng, ngay các đồng chí của ông trong tỉnh uỷ Nghệ An đãphải kiến nghị trung ương giữ ông lại tỉnh để kiểm điểm và kỷ luật về tội “không có tài, không có tâm, tham ô, nội bộmất đoàn kết nghiêm trọng…” . Và ngay trước Đại hội X, nhà báo Trần Bá ở phố cầu Gỗ Hà Nội trong thư gửi ôngHồ Đức Việt, Trưởng ban tổ chức trung ương cũng đã vạch rõ :
“Bộ chính trị khoá 9 hết sức ngoan cố và lì lợm tiến cử một lô cặn bãvào Trung ương khoá X như : Trương tấn Sang ( Trưởng ban kinh tế Trung ương ) -Nguyễn khánh Toàn (Thứ trưởng thường trực Bộ công an), Lê Doãn Hợp (Bí thư Nghệ An) Nguyễn văn Thuận (Bí thư Hải phòng),Nguyễn Bắc Son (Bí thư Thái Nguyên), Nguyễn văn Tự (Bí thư Khánh Hoà) … nhữngcán bộ bị tố cáo nhiều nhất và tồi tệ nhất “
Bị vạch mặt đến thế , ông LêDoãn Hợp vẫn ngồi được vào cái ghế Bộ trường Bộ Thông tin và Truyền thông thìđủ biết còn lâu trí thức Việt Nam mới thoát khỏi thân phận làm “đầy tớ cho thằng ngu” và giấc mơ hoá rồng của VN mãi mãi vẫn chỉlà…giấc mơ.
12-8-07
khieman
09-06-2014, 10:48 PM
.
Cậu tú thi…văn.
NHẬT LAI
Ngày 5 tháng 6 mới đây, tại cuộc thi “ Phụ nữ thế kỷ 21” toàn quốc do VTV3 tổ chức, một cô gái Tây Nguyên đẹp cỡ hoa hậu khi được hỏi :” Em có biết Trường ca Đam San không ?” - “Dạ… không”. “ Em có biết “Đất nước đứng lên “ không ?” – “Dạ…không”.
Sinh viên dân tộc Tây Nguyên mà không biết Trường ca Đam San là sử thi nổi tiếng của dân tộc Eê Đê thì thật đáng buồn, nhưng không biết “ Đất nước đứng lên” là tiểu thuyết của nhà văn Nguyên Ngọc thì lại đáng …mừng, vì văn học cách mạng đã chết dần trong lòng người đọc.
Tuy nhiên, không riêng gì cô gái dự thi “ Phụ nữ thế kỷ 21” mà ngay cả các cô tú cậu tú trong các kỳ thi tốt nghiệp phổ thông trung học, kiến thức về văn học của của họ cũng thật đáng báo động.
Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2006, nhiều áng văn của mấy cô cậu đã khiến thầy cô chấm thi sửng sốt vì lỗi chính tả, suy diễn, hổng kiến thức và cả vì "viết mà không biết viết gì”.
Trong gần 1.000 bài thi vào đại học ở một Hội đồng thi Sàigòn có tới hơn 2/3 bài có chữ viết tệ hơn cả học sinh tiểu học, phần đông sai chính tả đến không thể chấp nhận. Một thày chấm thi bức xúc:
“Những cô cậu này mà cũng lấy được bằng tú tài thì thật khó hiểu. Không biết giáo viên văn phổ thông chấm như thế nào mà số này qua khỏi bậc phổ thông?”.
Có bài thi văn dài 4 trang mà thày tìm mỏi mắt vẫn không thấy một dấu chấm câu nào . Việc dùng từ sai, viết câu “què”, câu sai cấu trúc là lẽ thường. Một bài làm văn có khi sai đến gần … 100 lỗi dạng này. Truyện “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài có nhân vật Mị, được một thí sinh viết trong bài:
“Mị đẹp hơn ai hết nên rất nhiều bồ. Một hôm trời đẹp ơi là đẹp, Mị được một cậu ấm họ Lí tên là Phá Sa con ông tá điền giàu có đeo được chiếc nhẫn kim cương vào tai và cuối cùng Mị đành vui vẻ nhận và theo về nhà làm vợ luôn. Từ đó Mị sống khổ lắm như là con ngựa nuôi trong xó bếp không ai thèm dòm tới nữa Mị đã tàn đời...
hoặc :
“ Mị về làm vợ cho nhà bá hộ, vất vả như con bò tót nên Mị trở thành một thứ quái vật, người không ra người, ngợm không ra ngợm...
Chuyện lấy râu ông này cắm cằm bà kia cũng không hiếm. Có thí sinh lẫn lộn giữa truyện “ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài với truyện “Chí Phèo” của Nam Cao :
“Vì bất bình trước việc dụ dỗ con gái nhà lành, A Phủ đánh Bá Kiến, bị Lí Cường bắt về gạt nợ, trói đứng không cho đi chơi mùa xuân. Bọn chúng thật là dã man. Em đọc đến đây thì bất bình lắm, thương cho A Phủ và hận cha con nhà Bá Kiến.
Hoặc :
“A Phủ thấy vợ mình (tức Mị) bị bọn nó hành hạ thì liền xách dao chạy thẳng đến nhà Bá Kiến, đâm chết Bá Kiến rồi tự sát cho chết luôn! (chi tiết này nói về Chí Phèo).
Nhiều đoạn văn thí sinh viết đến thày đọc cũng chẳng hiểu :
“ Xuân Diệu sinh ra sau ngày giải phóng, chứng kiến nhiều cảnh trái tai nên không chịu được. Một hôm Xuân Quỳnh sáng tác bài thơ một từ “sóng”. Đó là sự giải thoát phụ nữ của ông…”
Có lẽ bức xúc trước việc mua vé tàu lửa khó khăn, có thí sinh đã viết về hình ảnh con tàu trong bài “Tiếng hát con tàu” :
“ Chế Lan Viên muốn ngày càng có nhiều đoàn tàu chạy từ miền Nam ra miền Bắc để phục vụ hành khách, không còn xảy ra tình trạng chen lấn khi mua vé, lên tàu như hiện nay... Ông đã mơ ước thay cho nhiều người...
Khủng khiếp hơn, có bài làm từ đầu đến cuối, sáu lần thí sinh quả quyết Xuân Quỳnh là “ông”, vài chục thí sinh gọi Xuân Diệu là bà, cô, chị…Không ít bài thi bỏ giấy trắng. Cũng có nhiều bài nói nhăng nói cuội cho có chữ chứ không ra nghĩa. Một số khác xem bài thi là “diễn đàn” để bày tỏ suy nghĩ, trút cạn tâm sự của mình. Một thí sính thú thật :
“Cô ơi! Cô đừng chấm bài này, vì em đâu có biết gì mà thi, mẹ và chị em ép em nên em mới đi thi thôi chứ em đâu có muốn”.
Lại một năm học nữa đã qua, kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông 2006-2007 đã tới. Năm nay dường như để đạt tỷ lệ học sinh đỗ cao nên Bộ giáo dục ra đề khá dễ. Bà Phạm Thuý Vĩnh , hiệu trưởng Trường tư thục Ngô Thời Nhiệm, Sàigòn cho biết :”Không hiểu sao đề thi dễ đến vậy?”, ngày 31 tháng 5 năm 2007 , tại TP.HCM, sau khi thi xong môn văn, nhiều học sinh ở các hội đồng thi Trường Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Quí Đôn, Nguyễn Thị Diệu, Marie Curie..đã hớn hở ra khỏi phòng thi vì đề thi khá dễ. Tuy nhiên sau khi chấm bài các thày cô mới ngã ngửa người vì trình độ các cô tú cậu tú năm nay cũng chẳng khá hơn năm ngoái là mấy.
Đề thi “Nêu những nét chính về cuộc đời và sự nghiệp văn học của Lui Aragông.”, nhiều thí sinh viết bừa rằng đó là một người Nga, sinh ra ở vùng Sông Đông cùng với Sôlôkhốp. Có thí sinh lại “nhầm” Lui Aragông với Mácxim Goócki. Hay dở khóc dở cười… trích tác phẩm của Mácxim Goócki nhưng nêu tên tác giả là Lui Aragông. Hoặc nhầm Lui Aragông với Êxênin theo kiểu: một nửa của ông này (năm sinh, năm mất), một nửa của ông kia (lai lịch, thành tựu, tác phẩm).
Một đề thi khác nêu rõ: “Nhận xét ngắn gọn về tình huống độc đáo trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân”, có thí sinh sau khi lan man đủ điều về tác phẩm liền “gán” ngay Vợ nhặt do nhà văn …Nguyễn Tuân viết. Thậm chí có học sinh miêu tả rất nhiệt tình về nạn đói nhưng khẳng định đó là nạn đói năm… 2000 chứ không phải nạn đói năm 1945…
Về đề “ Phân tích vẻ đẹp người lái đò trong “Người lái đò trên sông Đà” của Nguyễn Tuân, có thí sinh viết “ Lão mới 70 tuổi nhưng trông như một chàng trai trẻ. “ hay: “bọn đá” gầm ghè”, có thí sinh lại phóng tác: “ông” lái đò trên sông Đà đã dùng hết sức bình sinh nhưng kết quả cũng chẳng có gì. “.Có thí sinh lại dùng cả văn phong truyện kiếm hiệp để viết :” : ông lái đò trên sông Đà đã dùng hết các chiêu của mình nhưng với sự hung dữ của con quái vật, ông vẫn không đủ công lực để giải quyết nó. “
Về đề phân tích cái hay , cái đẹp trong tác phẩm Việt Bắc của Tố hữu, có thí sinh nhầm lẫn tình cảm của kẻ ở người đi - chiến sĩ Cách mạng và chiến khu Việt Bắc là tình cảm của một cặp vợ chồng. Thế nên tình cảm riêng tư nam nữ, nỗi nhớ nhung của phụ nữ nhớ chồng khôn nguôi đã được phân tích triệt để…
Về câu “Trám bùi để rụng, măng mai để già”có học sinh viết ba lăng nhăng như sau:
“trái” măng là những sản vật đặc sắc của núi rừng Việt Bắc. Ngoài cơm chấm muối các chiến sĩ còn được thưởng thức những “củ” trám ngọt bùi, những miếng măng luộc thơm phức của người dân Việt Bắc. Nay các chiến sĩ trở về Hà Nội, người dân Việt Bắc không nỡ ăn mà vẫn “để phần” cho các chiến sĩ cách mạng đến mức rụng cả đi.
Có thí sinh viết lung tung chuyện nọ xọ chuyện kia : “Trong văn học VN, những tình yêu đẹp thường bắt đầu từ những tình huống kỳ lạ.Ví dụ những chuyện tình cảm của Chử Đồng Tử và Công chúa hay tình cảm mang đậm tính nhân đạo của Chí Phèo và Nguyệt (Nguyệt là nhân vật trong tác phẩm Mảnh trăng cuối rừng.”
Có thí sinh còn bịa rằng Rừng xà nu được viết trong thời kỳ chống Pháp...
Đi tìm nguyên nhân của tình trạng các cô cậu tú quá “dốt” văn chương , một nữ giám khảo cho rằng đó là do học sinh nắm kiến thức không chắc, không chăm, hoặc học vội nên bị “lú” mặc dù chương trình ngữ văn lớp 12 là không khó. Thêm nữa, do các học sinh quá quen ngôn ngữ đối đáp rút gọn, ngôn ngữ thoại trong chuyện tranh... vậy nên sự diễn đạt trong văn chương biến thành không đến đầu đến đũa, cắt xén từ ngữ.
Thực ra căn nguyên của việc học sinh chán ghét môn văn là do nhà trường cứ nhồi nhét cho họ toàn “văn chương giả”, văn chương phục vụ chính trị : kiểu như thơ Hồ Chí Minh , Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận…., tiểu thuyết của Nguyên Ngọc, Anh Đức, Nguyễn Khải….Bởi thế căn bệnh chán học văn đã trở nên trầm kha từ bao lâu nay mà vẫn không thể chữa khỏi. Chỉ còn một tháng nữa lại đến kỳ tuyển sinh vào đại học, người ta sẽ còn được thấy những trò lạ nữa của đám cô tú cậu tú thời nay.
Muốn chữa căn bệnh ‘dốt văn” cho đám học sinh thời nay trước hết phải thay đổi đường lối văn hoá văn nghệ, chủ trương giáo dục của Đảng, Ban tuyên giáo, Hội nhà văn…rồi mới đến Bộ giáo dục. Đó là công việc chắc phải chờ đến khi có một Nhà nước đa nguyên, đa Đảng.
11-6-2007
NL
khieman
09-08-2014, 12:53 AM
.
Xui khôn...xui dại....
Mấy năm qua, sách báo ở VN quả thực có nhiều “vấn đề” làm đau đầu “lãnh đạo” . Nào là để lọt lưới hàng chục cuốn sách, hàng vài chục bài báo phạm vào vùng “nhạy cảm”, vùng “cấm bay”, nào là lắm khi bướng bỉnh, trên đã bảo thôi không đưa tin về đồng chí Trần Mai Hạnh, Bùi Quốc Huy ... nữa thì lại cứ...đưa. Mới điểm sơ sơ đã có NXB Thanh Niên in cuốn ''Chuyện kể năm 2000'' của Bùi Ngọc Tấn, mới đây lại cho ra cuốn “ Ai giết anh em Ngô Đình Diệm”, ca ngợi Tổng thống Việt Nam Cộng hoà, ăn cắp của tác giả Cao Thế Dung, lại mạo danh là Quốc Đại khiến ngày 14-7 vừa rồi , Cục xuất bản phải ra quyết định thu hồi, NXB Văn Học xào xáo cuốn “ Chuyện ma” của Nguyễn Ngọc Ngạn, NXB Văn hoá Thông tin “uống thuốc liều” cho ra cuốn “Hệ thống xã hội chủ nghĩa” của Kornai Janos chửi “ chủ nghĩa xã hội là... con đường cụt của nhân loại, NXB Văn hoá Dân tộc có cuốn “ Đi tìm nhân vật “ của Tạ Duy Anh, NXB Đà Nẵng có cuốn “Nhớ lại” của Đào Xuân Quý....đều là những cuốn sách có “vấn đề”.
Về báo chí có báo Nông Nghiệp VN đăng bài “ủng hộ đa nguyên” của một bạn đọc tự xưng là đại tá hưu, báo “Làng cười” giễu Trung Quốc “dấu SARS như mèo dấu cứt” làm đại sứ TQ phải lên tiếng phản đối, báo Phụ nữ Việt Nam đăng bài thơ “cảm hoài biên giới” của Bùi Minh Quốc...
Tình hình xuất bản sách báo loạn xà ngầu tới mức ngày 14-7 , tại Hà Nội, Ban văn hoá tư tưởng của Đảng phải họp các sếp sòng của các NXB và các cơ quan chủ quản của các NXB để chấn chỉnh. Trong hội nghị ,ông Hồng Vinh, Phó ban đã cảnh báo :
- ” Hoạt động báo chí, xuất bản có những thiếu sót, khuyết điểm làm ảnh hưởng xấu đến dư luận xã hội”,
Còn ông Nguyễn Khoa Điềm , trưởng ban phải nhắc nhở :
” Sách báo ngoài chuyện kinh tế, còn là sản phẩm chính trị...”.
Ôi thôi thôi, chuyện “chính trị chính em” này xin để các quan lo liệu , ngoài chuyện đó ra, sách báo còn khối thứ “xui dại” người đọc. Ta hãy thử lướt qua một cuốn ‘giáo khoa” của NXB Đà Nẵng vừa cho ra lò có cái tựa rất kêu là “ Âm dương khí công” – một phương pháp luyện tâm trí-khí –lực của Việt Nam của thầy Bùi Quốc Châu. Nguyên cái tựa đã thấy giật mình. Hoá ra dân Mít ta cũng đã phát minh ra một phương pháp thở ...” hiệu quả quá nhanh so với các phương pháp thở của Trung Quốc , Nhật Bản, Ấn Độ” (trang 8), do chính tác giả tự đánh giá. Thật đúng là tinh thần Đảng ta, “đứng đầu văn minh và trí tuệ nhân loại”.
Ta hãy nghe một môn sinh tên Trần Ngọc Tâm, ( hay chính là thầy Châu) bốc phét :
” Sẵn đang nặng đầu như búa bổ, mở mắt không lên, tôi nhờ thầy phát công mấy cái, đầu nhẹ liền, không còn khó chịu. Còn một cái răng hàm đang sưng và nhức lắm, lại phải nhờ thầy phát công lần nữa. Lần này thầy chẳng làm gì, chỉ nhìn và nói: ” Em coi lại đi, răng hết đau chưa ?”. Thày vừa dứt câu thì tôi cảm thấy nướu răng như xẹp hẳn xuống và không còn đau nhức nữa. Chỉ một câu nói mà khỏi bệnh, chẳng mất viên trụ sinh nào , thật quá đỗi phi thường ...”
Quý vị nha sĩ đã sợ chưa, đâu có cần kìm, búa,thuốc men như quý vị, “thầy Châu” chỉ nói một câu , bệnh nhân đã khỏi bệnh thì quý vị...dẹp tiệm tới nơi rồi.
Kinh hoàng hơn, khi một nhóm môn sinh tới nhập học, Ngài hỏi :” có học viên nào có bệnh để thầy chữa cho...”. “Người này nói đau vai, người kia nhức đầu, người nọ viêm mũi, còn tôi thì đau chân...” Thày Châu chỉ nhìn chứ không phất tay nữa, thế mà ai cũng khỏi bệnh...”
Vậy là thầy Châu “ban phép lạ” còn hơn cả đức Chúa Giê xu. Thôi thì thầy “bốc phét” trong đám đệ tử của thầy cũng được, ai lại đi in thành sách bố cáo khắp bàn dân thiên hạ, chẳng hoá ra cái xứ Mít ta, ngu hết cả sao. Thày còn ‘xui dại” rằng “vận dụng khéo léo và sáng tạo phương pháp thở của thầy “ mà chính thầy cách nay 30 năm đã phát hiện ra ,”dựa trên những phương pháp thở của thế giới như Yoga,Vô uý, Thiền, nội công...”, thì không những “bồi bổ sức khoẻ,sống còn, tinh thần, trí tuệ” cho bản thân mình mà còn cho cả “các tầng lớp nhân dân trong xã hội và đất nước ta..”. Ngoài ra “âm dương khí công” còn dạy cho “giới phụ nữa Việt Nam thoả mãn mong muốn cho ra đời những đứa con quí tử.” . Tóm lại “âm dương khí công” của thầy Châu sẽ giúp dân tộc Việt Nam sẽ tiến lên hàng đầu thế giới về cả về sức khoẻ lẫn phát triển về tinh thần và trí tuệ.
Vậy “âm dương khí công” của thầy là cái gì vậy ?
Theo thầy Châu là công phu luyện thở bằng hai “đường “ : đường “dương” “chạy dưới da vài milimét từ mũi xuống bụng qua rốn khoảng 3,4 cm thì dừng lại nới Đan Điền –Khí Hải”, đường “âm” từ “ đan điền chạy xuống bộ phận sinh dục, qua hậu môn, nhíu hậu môn một cái bắt buộc, vòng qua chót xương khu, theo cột sống chạy lên qua ót, lên đỉnh đầu rồi chạy xuống đầu mũi...”. Không biết các quý vị sao, riêng tôi thở như vầy thì dứt khoát là “tẩu hoả nhập ma’ thành thân tàn ma dại.
Sách “xui dại” vậy chắc còn nhiều, cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” do NXB Giáo dục ấn hành năm 1992 ( Chủ biên Lê bá Hân, Trần Đình Sử...) nêu thí dụ :
“ Ngày đi lúa chửa mọc măng
Ngày về lúa đã cao bằng ngọn tre...”
( Ca dao)
Úi trời ôi, lúa mà lại có “măng”, mà lại cao bằng “ngọn tre” thì sao mà ...gặt. Chắc đây là loại lúa mới được...biến đổi gien. Còn trong cuốn sách giáo khoa Văn học lớp 11, tập 1 của Bộ giáo dục và đào tạo hẳn hoi, khi “tán” về hai câu thơ của Nguyễn Khuyến :
“Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào...”
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Lộc lại ba hoa rằng :
” Hoa năm ngoái là hoa đã nở từ năm trước khô đi và còn lại đến bây giờ...”.
Ô hay, vậy thì trong câu thơ của cụ Nguyễn Du “ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông”, cũng là hoa nở từ năm ngoái, “khô đi” mà sao lại vẫn còn...cười được ? Hoá ra “đào hoa y cựu” ( thơ Thôi Hộ) chẳng qua chỉ là một hình ảnh mang tính ước lệ, hoa năm nay nở ra y hệt hoa năm ngoái, làm như thời gian không hề biến đổi, thiên biến mà bất biến, động mà tĩnh đấy thôi..Vả lại ngài Tiến sĩ quên một điều là cuối đời cụ Nguyễn Khuyến bị loà ( Xem hoa ta chỉ xem bằng mũi), vậy thì hoa khô , hoa ướt, hoa giả, hoa thực gì với “con mắt “ cụ đều như nhau cả thôi.
Lại cũng sách giáo khoa, Lịch sử lớp 6 ( NXB Giáo dục 2002) viết rằng “ Mã Viện chiếm được Hợp Phố liền chia thành hai đạo quân tiến vào Giao Chỉ. Đạo quân bộ men theo bờ biển, đẵn cây mở đường, lẻn qua Quỷ Môn Quan ( Tiên Yên- Quảng Ninh)." Còn sách Giáo khoa văn học , lớp 9, tập 1 (NXB Giáo dục 2002) thì lại viết rằng :” Quỷ Môn Quan thuộc Chi Lăng, Lạng Sơn." Một đằng Quảng Ninh, một đằng Lạng Sơn, chẳng biết sách nào “xui dại” đây.
Sách đã thế, vậy mà báo lắm khi ra vẻ “xui khôn” mà lại hoá ra...dại. Báo An ninh thế giới số ra ngày 26-6-2003 viết rằng :” Để chuẩn bị cho công việc làm tiền giả, bọn chúng dùng máy vi tính hiệu Intel Celeron 300, bộ nhớ 10 G, máy scan Acer, máy in phun hiệu Épon số 1160, sau đó dùng giấy A4 để “cứ mỗi tờ A4 in được 4 tờ 100 ngàn tiền giả...” . Rõ ràng hiếm có cái cẩm nang nào hướng dẫn chi tiết như cái “cẩm nang làm tiền giả” này. Bởi lẽ nó còn hướng dẫn cả cách tiêu tiền giả nữa kìa. “ mang đi tiêu tại các vùng sâu vùng xa, nơi người ta không có máy soi tiền, cũng ít để ý tới chuyện tiền giả tiền thật...”.
Quý vị nào muốn in tiền giả và tiêu thụ tiền giả thì cứ thực hiện y nguyên như “cẩm nang này” có điều tội này nặng lắm đấy, nếu bị bắt có khi bóc vài chục cuốn lịch hoặc “dựa cột” là cái chắc. Vậy báo An Ninh tưởng là “xui khôn” mà lại hoá ra “ xui dại” là gì ?
Báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh cũng tương tự vậy, trong số ra ngày 30-6-2003, báo bày cách ...vượt ngục :” Với ý đồ trốn khỏi nơi giam giữ, Thân bàn với Nam chuẩn bị dụng cụ để cắt cùm và cưa song sắt. Bằng một mảnh gạch men kính và 10 bánh xe bật lửa ga, Thân mài vẹt cùm, rút được chân ra ngoài. Đến đêm Thân trèo qua lỗ thông gió, dùng cưa sắt tự tạo cắt các song sắt trên lỗ thông gió, sau đó chui qua lỗ thông gió cắt tiếp song cửa sổ và ...chui ra ngon lành...”. Cái cẩm nang “vượt ngục” này cũng chi li, chi tiết chẳng thua gì “cẩm nang làm tiền giả”, báo Pháp Luật TP Hồ Chí Minh mà được bán trong các trại giam ắt hẳn phải chạy như...tôm tươi. Và chắc nhà nước phải ra lệnh truy nã...tù xổng mệt nghỉ.
Trên đây mới chỉ là những lỗi thông thường không nằm trong ‘vùng phủ sóng” của Ban văn hoá tư tưởng của Đảng. Còn những lỗi “chính trị “ phạm vào vùng “cấm bay”, vùng “nhạy cảm” thì chắc là...nhiều. Nhưng chuyện này thuộc diện quản lý của cán bộ tuyên huấn, ta chỉ nên “kính nhi viễn chi” chớ nên xía dzô làm chi có khi chuốc hoạ vào người...
15-7-03
khieman
09-09-2014, 04:35 AM
.
Ai cầm nhầm 4 bì thư “cảm ơn” ?
Xin trả lại ngay Ban tổ chức !
(Nhân Ngày Thơ Việt Nam – Rằm tháng Giêng Đinh Hợi)
Sắp đến giờ khai mạc mà chẳng hiểu sao Ban tổ chức Ngày thơ Việt nam tại Tp Hồ Chí Minh cứ cho phát loa oang oang thất lạc bốn bì thư “cảm ơn” bốn “quan chức” cao nhất tới dự lễ hội và lẽ đương nhiên, không có chuyện “cảm ơn” suông, mà bên trong phải có…cái “sức khỏe cho tuổi già” ?
Vì sao ý nghĩa ngày Thơ cao đẹp thế – nào đọc thơ nguyên tiêu của bác Hồ, nào lắng nghe hồn thơ dân tộc, nào khát vọng bay lên của tuổi trẻ…, mà lại có chuyện cảm ơn “quan chức” bằng …lì xì ?
Thì ra “bốn quan” đã góp mỗi quan một chữ ký để …duyệt chi 100 triệu cho Ngày hội thơ nên tất nhiên theo “luật chi trả” ít nhiều cũng phải “lại quả” cho các quan. Chỉ có điều trong Ban Tổ chức có anh nào chơi “bạo” dám nẫng tay trên của các quan, báo hại Ban này vào phút chót của lễ khai mạc phải “chạy đôn chạy đáo” xin tiền làm bì thư mới lát nữa đặt vào tay bốn quan Ban tư tưởng thành uỷ, Sở Văn hoá, Sở Tài chánh và cả Sở thú là nơi cho mượn địa điểm diễn ra Ngày thơ.
Tại sao lại mang thơ ra đọc trong Sở thú ? Trong lúc chờ đợi giờ khai mạc, mấy nhà thơ trẻ ngồi đấu láo với nhau rằng chắc thơ tụi mình chỉ đáng đọc cho…thú nó nghe. Có anh còn than rằng ‘dẫu thơ là…giả” nhưng tiền thì lại là…thực,những 100 triệu chứ ít . Nhưng gọi là trăm triệu cho to chứ chia ra thì chẳng còn được mấy. Trước hết phải chia cho 5 vườn thơ mỗi vườn 10 triệu : vườn thơ di sản, vườn thơ đương đại, vườn thơ trẻ, vườn thơ thế giới… để rồi lại chia đều cho mỗi nhà thơ để làm “cây thơ” quảng cáo cho mình. Bởi vậy tới tay nhà thơ mỗi anh giỏi lắm được hơn…1 triệu đủ tiền làm mỗi anh một poster “tự trình diện ”.
Lướt qua hàng poster của các nhà thơ trẻ, nổi rõ một đặc điểm chung là “ảnh hưởng” khá nặng nề của cha anh. Nhà thơ Ly Hoàng Ly sau khi khoe các giải thưởng :“ Mai vàng cho tập thơ Cỏ trắng, Giải nhất thơ Bút Mới lần 2 năm 1996, Giải khuyến khích thơ Bút Mới lần 1 năm 1995…” lại trích dẫn thơ có hình ảnh “gương mặt” vốn ông bố là nhà thơ Hoàng Hưng đã dùng chán chê trong tập thơ “ Người đi tìm mặt” :
“Có hàng nghìn gương mặt
Kẻ méo mặt soi vào thấy mặt tròn trăng…”
( Ly Hoàng Ly)
Nhà thơ Song Phạm thì “mượn “ chữ nghĩa của Trùng Dương và Phạm Công Thiện thời trước 1975 :
“ Tôi lại nhìn tôi trên vách
Đối diện sự hỗn mang với đôi mắt trong ngời
Chợt sẵn sàng hát ca bên hố thẳm
Lại bắc nhịp cầu mới vào ban mai
( Song Phạm)
Cô Lê Thuỳ Vân, nhận mình là thôn nữ nhưng lại “khoe” mình đến đáng…ngờ:
“ Vân biết cấy lúa nhưng cấy …nhầm ruộng người khác
Không dám cắt cỏ vì sợ cỏ đau
(Lê Thuỳ Vân)
Oi trời ôi, là dân đồng áng mà lại không cắt cỏ vì sợ…cỏ đau thì bố ai dám…tin. “Tự bốc thơm” đã trở thành cái mốt trong các nhà thơ cả trẻ lẫn già. Nhà thơ Lê thị Kim thì “đại ngôn” :
“ Ta dấu trong lòng
Con Ô mã..”
Để rồi thành sao Kim bay vào vũ trụ :
“ Em lạc đâu Sao Kim
Vòng xoay nào thiên thể ?
( Lê thị Kim)
Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cam kết :
“Tôi rất yêu những gì mình đã viết ra
Vì thế để tình yêu đó mãi giá trị
Tôi phải bảo chứng
Đến những dòng chữ viết “
( Nguyễn Hữu Hồng Minh)
Năm nay, ngày Hội thơ ở Sàigòn được Phó Giám đốc Sở VHTT Thế Thanh trực tiếp chỉ đạo nên cái đám được coi là “láo nháo” như nhóm thơ Mở Miệng với Lý Đợi , Bùi Chát…thì …”cấm cửa” từ xa. Năm nữ thi sĩ “Ngựa Trời” chỉ một cô Nguyệt Phạm được tham gia. Và mặc dầu từng lời từng chữ tên poster đã được Thế Thanh “duyệt” nhưng tính “tự bốc thơm” vẫn mạnh hơn là “tinh tuyên ngôn thơ”.
Tuy nhiên , cái sự tâng bốc lẫn nhau ở Ngày thơ Sàigòn còn thua xa Ngày thơ Hà Nội. Chẳng hạn nữ thi sĩ Vi Thuỳ Linh “nâng bi” bác Dương Tường tại cây thơ của bác :
“Tuổi trẻ kéo dài, âm thầm bùng nổ, phải khác người khác, chưa lúc nào ngừng yêu…có đóng góp quan trọng vào thơ hiện đại Việt Nam với các tập thơ mang sức mạnh của ý tưởng dồn nén, biểu cảm cao qua hiệu quả tạo hình, là nhà ngôn ngữ, khai thác nhiều nghĩa mới cho từ , tìm ra nhiều câu chữ khác lạ làm đẹp ngôn ngữ tiếng Việt một cách cực kỳ tài ……”
Làm người ta nhớ tới hình ảnh một ông già ngoài 70 vẫn đua với 5 em “ngựa trời” bôi phẩm xanh phẩm đỏ lên mặt tại Hội nghị nhà văn trẻ
Nhà thơ Hoàng Hưng “chơi “ hẳn một bản tiểu sử kín đặc poster kể lể từ thời “ Đội viên Thiếu niên Tiền phong của Hà Nội, “bôn” hơn đảng viên, nghỉ hè tình nguyện đi lao động ở mỏ, được bầu làm…lớp phó. “ Rồi ‘đời ông lận đận vì ông…giỏi”, nào xin đi B chiến đấu bị từ chối, nào Đài Tiếng nói Việt Nam xin ông về làm nhưng không được, nào là Trường viết văn Nguyễn Du xin ông về giảng dậy cũng không xong, chung quy chỉ tại vì ông…giỏi quá, người ta giữ.
Chỗ này ông nhà thơ quên một điều còn rất nhiều người giỏi hơn ông mà vẫn đi B như thường...
Oi chao, tưởng rằng cái máu “háo danh” chỉ thấy ở các nhà thơ trẻ, nào ngờ các bác thơ già cũng chẳng chịu thua. Trong 60 poster thì các bác già đã chiếm tới 14 chiếc, còn lại chia cho tuổi sồn sồn như Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quang Thiều…và các “sao thơ” như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Dạ Thảo Phương, Lê Vĩnh Tài…Còn lại là ‘các chim non” mới ra ràng như Bùi Thanh Tuấn, Đỗ Thị Tấc, Lê Thanh My… đặc biệt có nàng sơn nữ làm thơ Bùi Thị Tuyết Mai từ Hoà Bình lên tham dự ngày thơ, mang theo ghế mẹt mây, ché rượu cần, 600 lá trầu từ vườn nhà và cũng chừng ấy cau đến để têm trầu và mời trầu. Khi được hỏi về thơ nàng trả lời:
“Tôi không mang thơ chữ lên Hà Nội đâu, chỉ mang trầu cau và rượu theo thôi. Mang luôn cái nỏ đi nữa, sợ lạc hồn lạc vía giữa chợ thơ Hà Thành”.
Thật đáng mặt sơn nữ thời A còng.
Trở lại lễ khai mạc đêm thơ ở Sở thú Sàigòn. Quá 8 giờ tối mà Ban tổ chức vẫn chưa khai mạc được làm các nhà thơ cả trẻ lẫn già đứng ngồi không yên.Nguyên nhân không phải vì mất…4 cái bì thư “cảm ơn”, (thay cái khác mấy hồi), mà chính là vì bà Trưởng ban Tổ chức, Phó Giám đốc Sở VHTT, Nguyễn Thế Thanh còn đang bận việc chạy “show” bên lễ hội người Hoa cũng khai mạc vào đêm nguyên tiêu. Chờ mãi, mỏi cả cổ, sau cùng bà “sếp” cũng tới.
Cả một ngày suốt từ sáng các “vườn thơ” đã đọc thơ, nói thơ chán chê rồi, bởi vậy buổi tối chính lễ nguyên tiêu họ quay sang chơi trò ngược lại, hợp với tính cách dân SèGoòng : mang thơ ra bán đấu giá.
Riêng cái “vụ” này thì cả quan khách lẫn các nhà thơ ở thành phố mang tên Bác đều rất…thạo. Bởi thế cuộc đấu giá sôi nổi gấp mấy lần cuộc “đọc thơ”. Hoá ra bà Phó Giám đốc Sở Nguyễn Thế Thanh cũng…làm thơ. Bài thơ “Không đề” của bà được mang đấu giá trước tiên với giá ban đầu là…50 ngàn. Chắc “nịnh sếp” để nhờ vả, , một Việt kiều đã mua với cái giá 2 triệu đồng và còn lì xì thêm 3 triệu đồng nữa. Bài thơ Cõi đời của nhà thơ Lê Thị Kim được mua với giá 4.500.000 đồng.
Ngày thơ Việt Nam như thế là bế mạc. Lại phải chờ tới tết nguyên tiêu sang năm mới tới “hẹn lại lên” để các nhà thơ lại dùng tiền của dân thi nhau mà tự đánh bóng, tâng bốc lẫn nhau trong khi chắc hẳn nàng thơ đã bạt vía, bay lên trời theo ông công ông táo từ hồi trong tết.
N.T.
khieman
10-02-2014, 11:41 PM
.
Chuyện Xưa - Nay Mới Nói
KỲ 92
Chuyện buồn thời có đảng !!!!
Số tháng 8 – 2003 , báo Sông Hương đã in xong, sắp sửa đưa đi phát hành cả nước thì đột nhiên có lệnh ngưng . “Cấp trên” yêu cầu lột bỏ một bài , trước khi báo tới được tay bạn đọc. “Bóc bài” là chuyện thường ngày ở…các báo, nhưng lần này lại rơi đúng vào nhà thơ Hoàng Cầm, vốn ngày xưa bị “xử trí” trong vụ Nhân Văn- Giai Phẩm , nay được “ân xá” và được đăng thơ thoải mái trên các báo.
Nhà thơ Hoàng Cầm đã viết gì để đến nỗi “đứa con tinh thần” bị đá đít vào sọt rác ? Bêu xấu lãnh đạo văn hoá văn nghệ chăng ? Dạ không, nhà thơ Hoàng Cầm sau lần ra tù năm 1986 đã trở nên như hiền khô như ngô khoai sắn .Chống Đảng, đòi đa nguyên đa đảng (https://www.blogger.com/null) chăng ? Ấy chết, tuyệt đối không.
Chẳng qua sau khi nhà văn Nguyễn Đình Thi đi gặp đồng chí Tố Hữu trên thiên đường cộng sản, thi sĩ Hoàng Cầm nổi máu cảm hoài viết một bài “ Nguyễn Đình Thi trong tôi – Nguyễn Đình Thi ngoài tôi…” để “ Hương hồn anh Nguyễn Đình Thi linh giám”.
Có lẽ sợ mang tiếng “ thấy sang bắt quàng làm họ”, thi sĩ họ Hoàng xác định ngay với văn sĩ họ Nguyễn “sự cách biệt” không phải “kẻ dương gian người âm phủ” mà là “ chiếu ngồi” trên văn đàn : ”hai người mang hai bản chất ngược chiều nên suốt 60 năm, mặc dầu có nhiều lúc rất gần nhau mà không hiểu sao, anh và tôi vẫn cứ vượt ra khỏi cái đáng lẽ ra phải có .”
Chắc vì vậy một người đi về nơi “quan trường”, một người ngược lại.
“Thế là ... Cách mạng tháng Tám đã thành công, lần đầu tôi gặp Nguyễn Đình Thi.”,Hoàng thi sĩ nhớ lại :
“Trước mặt tôi, sừng sững một anh chàng cao lớn, da ngăm ngăm đen, đôi mắt tinh anh, giọng nói uyển chuyển ấm áp. Đặc biệt là bộ âu phục sang trọng đắt tiền, màu đen óng chuốt, cái ca vát đỏ tươi màu mào gà, khiến tôi cảm thấy anh đúng là hình ảnh tiêu biểu cho khí thế cách mạng lúc mới giành được chính quyền. Đôi giày da đen đánh bóng càng làm tăng cái uy phong của một nhà cách mạng trẻ tuổi. Còn tôi chỉ như cậu bé ngu ngơ lẽo đẽo đi theo ở đằng đuôi.”
Cái cậu bé lẽo đẽo đằng đuôi ấy rồi cũng viết được một vở kịch thơ có tựa Kiều Loan để mang tới nộp cho anh Nguyễn Đình Thi xin duyệt :
”Ngồi trước mặt anh, bên cái bàn giấy lộng lẫy có đủ cả máy điện thoại và hai chồng sách dày, bìa cứng in nổi chữ vàng chữ bạc: Các Mác với vấn đề văn hoá, Tư bản luận, Chống Du-ring... Tôi hoa cả mắt và cảm thấy mình là con chim chích vào rừng...” .
Những tưởng thi sĩ họ Hoàng được lãnh đạo kiêm nhà văn họ Nguyễn tay bắt mặt mừng, ngờ đâu :
“ Không khí cuộc gặp mặt bỗng trở nên nghiêm trang và lời mở đầu câu chuyện của anh Thi lại càng làm cho nó thêm lạnh nhạt, căng thẳng.”.
Nhà văn Nguyễn Đình Thi lên giọng quan cách :
“ Tôi đã nhận được vở kịch của anh. Cả lá đơn nữa. Anh Nguyễn Huy Tưởng và anh Nguyên Hồng đã giới thiệu Kiều Loan với tôi. Tôi cũng đã đọc qua ...
Vừa nói, anh Thi vừa rút ở cái cặp da đen bóng tập bản thảo vở kịch đánh máy của tôi. Anh trao nó cho tôi với một nhếch mép cười mà cho đến nay tôi vẫn không sao hiểu được, nhất là câu nói ngay sau cái cười nửa miệng ấy:
- Rằng hay thì thật là hay!
Hai tiếng cuối câu đay xuống, tôi nghe như có vẻ vừa giễu cợt vừa hững hờ. Và anh Thi cũng chỉ nói có thế. Không hơn nửa lời. Rồi anh thu dọn sổ sách, như có ý bảo tôi “Về đi!”.
Như vậy đó, vừa mới chập chững đi theo cách mạng, giữa các văn nghệ sĩ trí thức đã sinh ngay ra cái thói đố kỵ tài năng của nhau ,đã lập tức tạo ra mối quan hệ “thủ trưởng và nhân viên” – một bên là lãnh đạo và một bên là “bị lãnh đạo”. Hơn 10 năm sau, khi văn nghệ sĩ trí thức đi theo Đảng,Chính phủ về “tiếp quản thủ đô”, mối quan hệ đó lại bộc lộ trong một bi hài kịch cười ra nước…mắt :
“Một sáng đầu năm 1956, anh Thi đến nhà xuất bản Văn nghệ đưa cho tôi đọc tập thơ Người chiến sĩ tập hợp những bài anh sáng tác từ những ngày tháng đầu tiên của cuộc kháng chiến, và anh Thi yêu cầu tôi cho ấn hành ngay, càng sớm càng tốt. “.
Vậy là lúc này thi sĩ họ Hoàng cũng đã lên quan – quan Giám đốc NXB Văn Nghệ cho dù ghế thấp hơn Bí thư Đảng đoàn văn học nghệ thuật Nguyễn Đình Thi nhiều (https://www.blogger.com/null) lắm. “Quan trên” đã “yêu cầu , mặc nhiên “quan dưới “ phải thi hành ngay. Lập tức, Giám đốc Hoàng Cầm phải tổ chức biên tập, lập kế hoạch in tới…20.000 bản. Than ôi, mưu sự tại “cấp trên” thành sự tại “cấp trên nữa” – cấp trên nữa của nhà văn họ Nguyễn còn có “ông kễnh” Tố Hữu. Thế là vào một buổi sáng, thi sĩ, Giám đốc Hoàng Cầm nhận điện thoại :
“ Chuông máy điện thoại reo, giọng nói Huế rất êm ái, rất tình cảm của ông Lành (Tố Hữu) đầu dây bên kia. Tôi tiếp chuyện:
- Vâng, nhà xuất bản Văn nghệ đây . Tôi là Hoàng Cầm, thưa anh, có chuyện gì thế ạ?
- Nghe nói, Nhà xuất bản Văn nghệ sắp cho in tập thơ gì đó của anh Nguyễn Đình Thi hỉ?
- Thưa anh, đúng thế ạ. Tôi đã ký phiếu in và gửi cả bản thảo xuống nhà in Tiến Bộ rồi ạ.
- Anh Hoàng Cầm hỉ! Tôi đề nghị anh hoãn lại đừng cho in vội.
Tôi hơi sửng sốt, tuy cũng cảm thấy vấn đề này có trục trặc gì đó.
- Thưa anh, vì sao thế ạ? Toàn thể anh em biên tập đã đọc và thấy tập thơ không có vấn đề gì sai trái với đường lối chính trị đâu ạ. Đó là một tập thơ tốt.
- Tốt thì có tốt, nhưng bây giờ in ngay rồi phát hành đến các tầng lớp quần chúng, nhất là công, nông, binh thì có khi lại hoá (https://www.blogger.com/null) ra không tốt…”
“ Động chạm tới công nông binh ?”, ối mẹ ôi, cố nội thi sĩ Giám đốc Hoàng Cầm cũng chẳng dám trái lệnh Ban bí thư. Thế là “đứa con tinh thần” của nhà văn Nguyễn Đình Thi bị bóp mũi chết ngay tại nhà hộ sinh có tên là “Nhà in Tiến Bộ”. Và ngay hôm sau NĐT đã phóng tới Nhà Xuất bản đòi lại bản thảo :
“Anh Thi nài nỉ :
- Để mình sửa chữa lại. Thú thật, anh Lành đã có đọc tập thơ này. Trong khi anh Lành chưa có ý kiến gì, mình muốn đưa cho Cầm để xuất bản thật nhanh. Nhưng gần đây, khi nghe nói mình đã đưa bản thảo xuống nhà xuất bản thì anh ấy gọi mình lên và khuyên mình nên sửa một số bài mà anh ấy cho là lủng củng. Mình đã tranh luận với anh ấy. Cuối cùng anh Lành vẫn bảo mình nên chữa lại cho độc giả công nông dễ hiểu, dễ thuộc. Thôi thì... người ta là lãnh đạo mà. “
Khổ thân nhà văn Nguyễn Đình Thi ,“ người ta là lãnh đạo” thì mình cũng “lãnh đạo”, chết cái “người ta” ngồi chiếu trên, còn mình chiếu dưới, có nhét cứt vào mồm cũng phải chịu, huống hồ sửa dăm ba câu thơ “phục vụ công nông binh”. Thế là :
“ Hơn một tháng sau, khoảng 5.1956, anh Thi lại cầm bản thảo Người chiến sĩ đến nhà xuất bản gặp tôi.” Anh nói:” Dẫu sao tôi cũng phải nhân nhượng ông Lành. Cũng không theo ý ông ấy hoàn toàn, nhưng vì tôi đã là đảng viên từ lâu, cũng không muốn tỏ ra điều gì khiến người ta có thể kết tội mình là bất tuân thương lệnh hoặc như bây giờ người ta bảo mình là cố ý không chịu sự lãnh đạo của Đảng. Vậy mong Hoàng Cầm cho in thơ của mình theo bản thảo này.”
Trong khi đưa tay vào cái túi vải đựng khá nhiều tài liệu để lấy ra cái bản thảo tập thơ mới sửa chữa, anh Thi còn nói thêm một câu khiến tôi cũng đâm ra hoang mang:”
- Trí thức văn nghệ sĩ chúng mình đã đi với cách mạng vô sản thì ít nhiều cũng phải hy sinh cái bản ngã của mình dẫu là bản ngã tốt đẹp!
“Thế là trong phút giây, tôi chợt nghĩ, Thi nói vậy có lẽ đúng chăng? Mà nói đến tinh thần cách mạng thì mình phải kém Thi rất nhiều chứ!
Anh Thi trao cho tôi tập bản thảo mới, giấy trắng, đánh máy đẹp, đóng bìa khá dày. Tôi cầm tập thơ, chỉ mới giở vài trang đầu, đã thấy có gì gờn gợn trong người. Hoá ra anh chữa khá nhiều. Có bài đã rất vững vàng về ý tứ, âm điệu, anh đã chữa toàn bộ thành ra đủ vần điệu cũ khiến tôi đã như bực bội. Chắc là lúc ấy, mặt tôi đỏ gay gắt và ngấm ngầm có một cái gì cứ trào lên nghén nghẹn ở cổ họng. Tôi đã muốn nói thật to một câu gì đó cho đỡ bực, nhưng may quá, tôi nén lại được. …”
Cái câu thi sĩ, Giám đốc Hoàng Cầm “nén lại được đó”, tuy không nói ra nhưng ai cũng hiểu là : “ĐM thằng hèn…”. Bởi lẽ vốn mang dòng máu Chí Phèo, cái kiểu “ dạ thưa trước mặt, văng c…sau lưng” là thói bẩm sinh của trí thức văn nghệ sĩ chúng ta. Cái chân lý “ trí thức đi theo cách mạng vô sản phải hy sinh bản ngã tốt đẹp” cũng chỉ được thì thào qua miệng anh Thi tới tai anh Cầm thôi, bố bảo không dám phát biểu trước mặt anh Lành. Nó còng tay là cái chắc.
Đọc tới đây người ta hiểu ngay vì sao bài báo của Hoàng Cầm bị “lột bỏ”. Nó không chỉ đụng tới những tượng đài của nền văn học cách mạng như Nguyễn Đình Thi, Tố Hữu …mà còn cạnh khoé tới cả rường mối của cả một toà lâu đài văn hoá văn nghệ có đích ngắm là …phuc vụ công nông binh.
“ Tôi rất thương anh và thật tiếc cho anh. Bởi lẽ, vào những ngày cuối cùng trên thế gian này, trong cõi người này, chắc hẳn anh đã tự biết rằng anh không đạt được ước vọng lớn lao của mình đâu, bất kỳ ước vọng ấy nhằm về hướng nào trong tâm thức sâu kín của một con người.”
Lời sau chót này thi sĩ Hoàng Cầm gửi văn sĩ Nguyễn Đình Thi cũng là gửi cho toàn thể văn nghệ sĩ tiền chiến đi theo cách mạng. Ở bên kia thế giới, họ có nghe thấy không ?
Nhưng mà thôi, nghĩa tử là nghĩa tận, bới ra làm gì cho lời điếu thêm buồn…
7-9-03
Thứ Tư, ngày 01 tháng 10 năm 2014
NT
khieman
10-08-2014, 03:36 AM
.
"Thoả hiệp Án"
Nguồn gốc và Hậu quả.
Tham Khảo:
A. “Người Việt ở Pháp 1940-54” - Ðặng Văn Long.1997.
B. “Việt Nam 1920-1945” – Ngô Văn.1995.
C. “France 1940-1955” – Alexander Werth.1956.
D. “Marxism, Wars & Revolutions” – Isaac Deutscher.1984.
E. “The Fate of the Revolution” – Walter Laqueur.1967.
Các chú thích dẫn trong sách, được đánh dấu tắt bằng “A”, “B”, “C”, “D”, “E”…kèm số trang.
I. Nguồn Gốc
Thỏa hiệp Án (Modus Vivendi) do Chủ tịch Hồ Chí Minh (HCM) ký năm 1946 với chính phủ Pháp diễn tiến rất bất ngờ cho không khí chính trị Việt Pháp, ảnh hưởng sâu xa sau này… xảy ra nửa đêm 14 rạng ngày 15 tháng Chín 1946, tại nhà riêng Moutet.
Modus Vivendi chủ trương Việt nhường thêm bước nữa cho Pháp sau khi đã chịu Ðộc lập trong Liên Hiệp Pháp của Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba 1946. Thỏa hiệp này, câu quan trọng nhất, là điều V, câu cuối như sau:
- Khi đã giải quyết xong vấn đề tiền tệ, một thứ bạc sẽ tiêu chung ở trong những xứ thuộc quyền chính phủ Việt nam và những xứ của Ðông Dương.
Ðồng tiền đó tức là đồng bạc Ðông Dương, do nhà băng Ðông Dương phát hành hiện nay, trong lúc chờ một cơ quan phát hành thành lập.
Ðiều lệ của cơ quan phát hành đó sẽ do một ủy ban Pháp-Việt […]
Ðồng bạc Ðông Dương phải thuộc vào phạm vi đồng Phật Lăng. (A:108)
Ðây là lý do chính cho tàn sát Hải Phòng: Pháp muốn kiểm soát mệnh giá đồng Phật lăng của Ngân hàng Ðông Dương, đang bị thất thoát qua Tàu, trong lúc quan kim của Tưởng đang lạm phát trầm trọng.
Ngày 17, HCM giải thích với hàng ngàn Công binh Việt tại Marseille, “Ta như người có ruộng mà không có thóc, Pháp như người có thóc mà không có ruộng, nay hợp tác thì hai bên đều có lợi. Kiều bào hiểu chưa?” Không ai hiểu cả, vì không mời thì Pháp cũng đã đến rồi! (A:117)
Ngày 18, HCM lên tàu về nước.
Từ ngày 29 tháng Tám, lính Pháp đã chiếm sở Ðoan và sở Công an Việt, bắt đi một số người. Từ ngày 15, Pháp nắm trong tay quyền kiểm soát hải quan và hải phận Hải Phòng, nơi người Việt xuất gạo để đổi lấy vũ khí của Tàu.
Ngày 20 tháng Mười một, trừ khu dân Pháp, Hải Phòng nổi dậy chống quân Pháp chuyên quyền […] Lối 8 giờ sáng, súng nổ vang trời, tiếng súng cối pháo kích làm rung chuyển thành phố, thiết giáp Pháp tấn công, lao vào các chiến lũy người Việt…Nửa thành phố bị phá trụi dưới lằn đạn các đại pháo từ 3 chiến hạm ngoài khơi bắn, chuẩn bị cho bộ binh tiến lên. (B:361).
Theo A. Werth, (“Background of the Indo-China War- dẫn tài liệu của D.Hemery và P.Devillers có từ Thư khố Bộ Thuộc địa”), thì…
”10 giờ sáng [Nov 23 -1946] quân Pháp tiến vào Phố Khách, gặp chống trả của người Việt; Dèbes [Ðại tá] gọi chiến hạm Suffren bắn vào thành phố. Theo Ðô Ðốc Battet, “6 ngàn người Việt – đàn ông, đàn bà, và trẻ con - hoặc chết cháy dưới súng phun lửa của bộ binh, hoặc đạn đại bác Hải quân bắn vào.” (C:339)
Hãng Thông tấn Pháp AFP, trấn áp mọi tin liên quan đến vụ tàn sát (1), sợ Ðại tá Dèbes nổi giận, chỉ vài tháng sau mới loan tin qua loa biến cố mà sau này dẫn đến Ðiện Biên Phủ.
Các báo chí bên Pháp, Le Figaro, le Monde, L’Epoque, và Aube lúc ấy đang lo “cảnh giác nếu chính quyền Pháp thiếu cương quyết”, sẽ “mất Ðông Dương”.
Không 1 báo nào loan tin Tàn Sát Hải Phòng. (C:340).
Sau đó thì đến lượt tàn sát Hà Nội, ngày 19 tháng Chạp.
Tất cả, từ Modus Vivendi, khởi sự nổ bùng chiến tranh Việt Nam.
Modus Vivendi, có là điều chẳng đặng đừng, và có là sáng kiến của riêng H.C.M?
a). Chẳng đặng đừng?.
Sau Thế chiến, Pháp kiệt quệ. Phí tổn chiến tranh sẽ quá lớn, và lòng người dân Pháp không muốn thêm chết chóc cho con em họ nữa. Chính vì ký Thoả hiệp án mới làm quân Pháp có cớ đổ bộ trở lại Việt Nam.
b). Sáng kiến “cụ Hồ”?
Trong lịch sử Quốc tế Ba, đã có 2 lần Stalin đòi Thỏa Hiệp án. Thỏa hiệp với đế quốc là chủ trương Stalin.
Lần 1, khi Tưởng đòi Bắc chinh dẹp sứ quân Hoa Bắc, Stalin đã đề nghị Thỏa hiệp Án với Trương Tác Lâm (1926).
Lần 2, quân Tưởng yếu thế rút dần về Hoa Nam, Stalin đề nghị Mao Thoả hiệp Án với Tưởng (1948).
“Sau tàn sát Quảng Châu - Thượng Hải 1925-27 của Tưởng Giới Thạch, Stalin tuyên bố tại hội nghị Postdam, rằng Tưởng “là lực lượng chính có thể cai trị Trung hoa,”Phải chăng nói thế để lấy lòng Ðồng Minh. Chưa chắc. Thật ra, Stalin không tin khả năng của Ðảng CSTQ có thể thắng được. Nên cho đến 1948, còn cố thuyết phục Mao nên Thoả hiệp với Quốc Dân đảng. Một bức thư của Quốc tế Ba, gửi cho Ðại hội đảng CSTQ ngay trước khi Hồng quân tiến chiếm các tỉnh quân Tưởng rút lui. Cộng sản Tàu khước từ đề nghị này.
Trên tờ Times, ghi lại, “Cho đến tháng Bảy 1948, Nga không tin tưởng, cũng như không muốn một chiến thắng tức thì của Cộng trên đất tàu. Ðang trong lúc CS Tàu đang họp về chiến dịch mùa Thu, thì có khuyến cáo của Nga, là nên tiếp tục chiến tranh du kích trong tương lai, để làm yếu Mỹ, nước đang ủng hộ Tưởng. Nga chống kế sách tiến chiếm thành phố của Hồng quân. Ðại hội CSTQ bác khuyến cáo này. (The Times, 27 June 1950.)
Trước đó, khi giữa thập niên 1920, Tưởng muốn Bắc chinh, tháng Ba 1926, Chính trị bộ Liên xô nghị luận về việc này, Stalin nhấn mạnh, Tưởng chỉ nên củng cố tại Hoa Nam, và nên có Modus Vivendi (Thoả Hiệp Án) với Trương Tác Lâm. Tưởng bác bỏ khuyến cáo.( I. Deutscher, C: 43 fn.)
“Cụ Hồ” đề nghị “chuyện chính trị để người làm chính trị lo”, và , “đồng bào cứ đi theo tôi”.
Vậy đồng bào không làm chính trị đã không biết những gì, mà “cụ Hồ” biết những gì?
-Ðồng bào không làm chính trị, không biết Stalin chính thức giải tán Comintern (Quốc tế Cộng sản) ngày 15 tháng Năm 1943.
-Những điều “Cụ” biết:
Những ai không theo Stalin đều bị bẻ gãy, như trong các vụ án Mátcơva 1936-38 ở Nga. Bài học bên Tàu của Trần Ðộc Tú vào tù 1932 còn đó. Ðảng Cộng sản Pháp, ai theo đường lối Stalin thì còn sống (như Thorez), ngoài ra bị trục xuất (như A. Rosmer, Monatte, Souvarine). Các đảng Cộng sản Ðông Âu, Ðức, Ba lan…đều như thế cả. Năm 1938, Ðệ Tứ Quốc tế thành lập, thì 1940, Trotsky bị ám sát. Người “Cụ” từng phụ tá là Borodin đang trong tù (sau chết năm 1949, trong tù,)
Vậy đàng sau cánh gà của sân khấu Modus Vivendi lúc nửa đêm tại nhà riêng Moutet, hẳn có người nhắc tuồng - không phải sáng kiến của riêng “Cụ” - tức là từ Quốc tế Ba, của Stalin.
Cũng trong thời gian ở Pháp HCM tuyên bố với Daniel Guerin, “Ai không theo đường lối tôi sẽ bị bẻ gãy.”(B:361)
II. Hậu Qủa: Nghệ thuật bẻ gãy của “Cụ Hồ”.
Sau tàn sát Hải Phòng, là tàn sát Hà Nội. Tự Vệ thành đục tường kháng chiến rồi rút lui. Ngày 20 tháng Chín, quân Pháp kéo cờ tam sắc tên nóc toà Thị chính. Ðó là hậu quả đầu tiên của Modus Vivendi cho xương máu kháng chiến – đa số nông dân - về sau.
Những người bị bẻ gãy?
Là những ai đòi độc lập, đòi thống nhất ngay sau Hiệp định Sơ bộ đều bị bẻ gãy. Suốt Nam ra Bắc, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch…cho đến Huỳnh Phú Sổ đều chết mất xác. Những người chỉ đòi góp ý kiến cũng có số phận bi thương, như Nguyễn Hữu Ðang, Phan Khôi…Và những cái chết mờ ám của các Tướng Nguyễn Sơn, Nguyễn Bình.
Tinh hoa nhất của Việt Nam thời bị đô hộ bị tận diệt, không bởi chính quyền Thuộc địa, mà bởi “Cụ Hồ” và đảng của “Cụ”, đảng “Lao Ðộng” (sau đổi là Ðảng Cộng Sản) bẻ gãy. Nay chỉ còn những con cá rô của “Bác Hồ”:
( Con cá rô ơi chớ có buồn
Chiều chiều Bác vẫn gọi rô luôn.
-Tố Hữu.)
Không ai có tiếng nói khác.
Theo đường lối Stalin, (Stalin, từng bị tố cáo là,”Kẻ đào mồ chôn Cách mạng”), nhưng ở Nga, những người bị Stalin bẻ gãy, nay được phục hồi danh dự gần hết: Bulkharin, Sverdlov…Bên Tàu, thì đã phục hồi cho Lý Lập Tam, Lưu Thiếu Kỳ…Cả Nga lẫn Tàu đã bỏ tệ Sùng bái Cá nhân. Chỉ có Việt Nam thì chưa. Nên không một ai từng bị bẻ gãy được phục hồi tên tuổi. Tài tình?
Người Việt Nam nghe “Cụ” tuyên bố, là đọc Mác-Lênin rất xúc động, nhưng “Cụ” cũng nói, là “muốn Ðộc lập trước”. Ðể Ðộc lập, “Cụ” nhờ hết. Các Ðế quốc, như ”nhờ Nga, Tàu, Mỹ, Pháp” để có Ðộc lập. Nhờ hết, trừ Vô Sản.
Cho nên, chủ nghĩa Mác – Lênin chưa 1 ngày thực hiện ở Việt Nam. Nhưng không ai động chạm đến “Cụ”, mà “Cụ” vượt cả Mác, vì nay ai bất mãn với những bất công, chỉ đòi “bỏ chủ nghĩa Mác-Lê”, giữ lại “tư tưởng Hồ Chí Minh” - Làm thuốc bổ não cho dân Việt Nam. Thiên tài?
Ðấy mới là cái tài tình, thâm thúy, thiên tài của “Cụ”, người tuyên bố bao điều tốt đẹp, cần kiệm liêm chính, tự do, bình đẳng vân vân. Nhưng di sản thì lại là có 2 thứ pháp luật: Một cho đảng viên quan liêu của Ðảng; một cho nhân dân.
Và cho đến nay, ai viết về lịch sử, chính trị…đều im bặt, nếu không muốn bị bẻ gãy. (Theo Farida Shaheed, đại diện nhân quyền LHQ, Việt Nam chỉ có MộT bộ Sử.)
Bẻ gãy ý kiến đưa đến sự tù hãm (stalemate) tư tưởng. Trong quá khứ, những quốc gia không có sự phát triển tư tưởng, đã diệt vong. Karl Marx bảo, “tù hãm đưa đến tàn lụi của mọi giai cấp, cả thống trị lẫn bị trị.” Và, “Không một xã hội nào duy trì vĩnh viễn được nguyên trạng, status quo, kềm hãm sự đấu tranh, chỉ đến tự huỷ diệt”.
Xã hội Việt Nam đang tù đọng, Ðảng Cộng sản Việt nam đang tù đọng. Trí thức Việt thì cùng nhau lên án chủ nghĩa Cộng sản. Lịch sử là tìm hiểu những cái chưa biết, hấp dẫn biết bao. Nhưng chỉ có một bộ sử, thành nhàm chán, vì ai cũng “biết hết” rồi. Và lịch sử thế giới thì càng xa vời! Nhưng chả phải cách mạng Nga, và Trung quốc đã tạo những thay đổi chấn động đó ư? (E:173-4)
***
Hegel từng phát biểu hung hăng rằng “lịch sử thế giới chuyển từ Ðông sang Tây”, và rằng “Châu Âu biểu trưng cho sự tận cùng của lịch sử nhân loại”. Nhận định quá khích này vì Hegel tin rằng thời kỳ Cải Cách và sự ra đời Nhà Nước Phổ là đỉnh điểm của sự phát triển tinh hoa nhân loại; và cũng không thiếu gì người, dù không tin Giáo Hội lẫn Nhà Nước, cũng cho rằng lịch sử thế giới đã đạt cao điểm chỉ ở Tây Phương, còn Ðông Phương, chả còn gì để cống hiến nữa, chỉ giữ vai trò phục tùng.
Nhưng nào có thế? Chúng ta đã thấy cách mạng bùng ra ở Ðông Phương. Và không ngưng ở đó. Còn Tây Phương coi như đã thể hiện xong xã hội chủ nghĩa bằng vài trang sử rỗng chăng?
Xã Hội chủ nghĩa còn cần vài cuộc cách mạng nữa, cả Tây lẫn Ðông.; và chả ở đâu mà lịch sử chấm dứt cả. Phương Ðông đã viết những trang sử thay đổi lớn, khởi nguồn từ tư tưởng Tây phương. 50 năm trong lịch sử Nga cho ta biết những thay đổi to tát trong một nước hậu tiến thế nào. Ðó là điều Tây phương sẽ nhìn thấy những chân trời mở ra cho chính xã hội họ, để họ thoát ra tư tưởng bảo thủ cùng lối sống thờ phụng vật dụng. Cách mạng Nga vẫn còn là bài học đáng để nghiên cứu, cả cái hay lẫn cái dở.
Vũ Huy Quang
DEC 2013.
(Ðể chào mừng sự ra đời cuốn “Trần Văn Thạch, cây bút chống bạo quyền…” của các tác gỉa Trần Mỹ Châu&Phan Thị Trọng Tuyến)
***
1. Vụ tàn sát Hải Phòng - nửa thành phố chìm trong biển lửa - từng được so sánh với vụ tàn sát nổi tiếng Guernica (mà Jacques Raphael-Leygues, Bộ trưởng Hải quân Pháp so sánh) xảy ra như sau:
Những tàn phá đổ nát không chỉ do các trận chiến, mà trong nhiều trường hợp do chỉ thị là nhất định phải cho tụi người Việt “một bài học”. Ferrandi nêu một bằng chứng quan trọng. Tiểu đội anh ta hành quân trên đại lộ Paul Dumer,”Nhiệm vụ chúng tội mang tính chất một cuộc trừng phạt, đó là dùng súng phun lửa bắn vào khu buôn bán, nơi Việt minh có hoạt động mạnh. Ðại tá Dèbes đã có chỉ thị viết tay. Nếu như đốt một tiệm cắt tóc hay một tiệm thuốc dễ bao nhiêu, thì đốt một tiệm giày dép lại khó bấy nhiêu. Phải làm nhiều lượt và phải quăng thêm những tạc đạn cháy mới có thể tiêu hủy hoàn toàn. Nhiệm vụ này để dọn đường cho việc tiến vào khu người Tàu.”
Chaffard, op.cit, p. 49. (B:362).
khieman
11-02-2014, 08:06 PM
.
Thay dân hay thay…đảng ??
Thay ..dân ?
Í chết…dân là cái gốc, sao mà thay ?
Vậy mới đau đầu nhà cầmquyền khi dân ngày càng láo !
Từ thời con nguời tụ tập thành quốc gia , đa số các nhà tư tưởng đều xui dại nhà cầm quyền phải tôn trọng dân. Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân - hình như thấu hiểu được tiềm năng khổng lồ trong đám dân đen nên tinh thần "trọng dân" thời nào cũng có .
Bên tàu có ông Khổng tử viết "dân vi bản", bên tây có các ông Ánh Sáng như Rousseau trong "Contrat Social" (Khế ước xã hội) cũng lấy " công dân " làm viên gạch cơ bản xây nền cộng hoà.
Rồi đến thời cộng sản Nga,Tàu...đâu đâu cũng “bốc phét “ "vì dân hy sinh...vì dân quên mình....", Quần chúng đã trở thành cái ...quần mà lãnh tụ cộng sản nào cũng muốn xỏ . Ở ta, dù là cường quyền, bạo quyền, hay dân quyền nhà cầm quyền nào cũng leo lẻo "dân làm gốc".
Ở vào thời IT con người đã tìm ra cái còn nhanh hơn cả ánh sáng (làm lung lay ghế ngồi của ngài Einstein ) , vào thời hệ thống gien của con người - nơi bộ máy huyền vi của con tạo khiến người ta phải nghĩ tới sự có mặt của thuợng đế - đã bị khám phá, săm soi đưa cả lên...bản đồ, làm cho chúng ta, những con người "hàng hiệu", những con "người Việt cao quý" (tiếc thay, cái nhà ông Vũ Hạnh này, bây giờ thành cây bỉnh bút đắc lực cho ...báo Công an Hồ Chí Minh , chuyên đâm bút vào hai tầng lớp mạt hạng nhất xã hội : chị em ta và nhà văn), vâng, chúng ta phải đỏ cả mặt khi liếc qua cái bản đồ gien ấy thật chẳng khác gì cô gái dậy thì bị đưa lên bàn khám, rọi đèn coi có còn ...trinh hay không , vâng, ở cái thời mất có 3 thập kỷ con người đã hoàn tất cuộc cách mạng tin học thay vì 300 năm cho công nghiệp và 3000 năm cho nông nghiệp - vâng, ở cái thời đó "đám dân đen con đỏ " vẫn cứ bị hỏi “ai người lớn” ?.
Trong các chuyện kể trên đời, phải nói thâm nhất là ba chuyện tàu.
Chuyện kể từ thời xửa thời xưa, từ thời hồng hoang Bành Tổ, ở biển Bột Hải có một gã tên Ngột. Gã này tuy không mắt không mũi không tai không mồm nhưng lại sống hồn nhiên vui vẻ . Hàngngày gã nô rỡn, nhảy nhót cùng nắng trời và sóng biển. Nguời đời sau thấy gã, thương lắm mới đục cho gã ngũ khiếu để gã có thể sờ mó, nói năng, nghe ngóng....Ngờ đâu sau khi đã có đủ ngũ quan, Ngột liền lăn ra chết.
Lại có chuyện về gã A.Q của nhà văn Lỗ Tấn, kể gã nhà quê này kỳ cụclắm - thời phong kiến , những lúc phải lên quan , hắn quỳ đã đành, kịp tới thờicách mạng Tân Hợi (1910), đổi đời rồi, vậy mà khi lên huyện gặp chủ tịch, hai đầugối hắn cũng cứ tụt xuống, tụt xuống, hoá ra gã vẫn quỳ, khiến cho ông Lỗ Tấn phải thốt lên :"quen cái thói nô lệ...".
Hai cái truyện này ngẫm đi chả có gì, nghĩ lại mới thấy anh tàu thật thâm. Suy cho cùng cái gã tên Ngột với gã tên A,Q cũng là một gã nhà quê có tên là "dân đen con đỏ" đó thôi. Hắn chẳng có trăm tay nghìn mắt như Phật bà Quan âm, hắn chẳng có cái bụng chứa đầy chữ nghĩa như các môn sinh của Đức Khổng tử, bởi thế hắn biết 'tự do" với 'dân chủ' là cái quỷ gì ?
Tính hắn thế, nếu đưa cho hắn chọn một trong hai thứ : cái bánh bao và nền dân chủ thì chắc chắn hắn sẽ vồ lấy bánh bao .
Còn bắt ép hắn hãy khoan ăn bánh bao, hưởng thụ dân chủ trước đã, thì có khi lại giống kiểu đục cho tên Ngột 5 cái khiếu để rồi gã lăn ra chết.
Một ngàn năm nô lệ giặc tàu, một trăm năm nô lệ giặc tây, cái anh Ngột -AQ Việt Nam chẳng thua gì người anh em bên tàu về cái máu..."quen cái thói nô lệ".
Chẳng thế hồi mở cửa, ôngNguyễn văn Linh mới he hé một chút dân chủ thế là các ông nhà văn đã chửi nhau loạn xạ , ông nọ chửi ông kia là "văn chương phải đạo","văn chương minh hoạ" "ta mới là đổi mới chính hiệu đây " khiến người trong nước ôm bụng cười :"thôi đi các cha, vừa mới có một hớp dân chủ đã ho sặc sụa".
Vừa rồi, có dịp về thăm HàNội, gặp lại các bác các chú trong họ đều đã hưu cả rồi, vậy mà mời đi chơi xa vài bưã, các cụ cứ chổi đây đẩy :"bận lắm...bận lắm...". Hỏi rằng hưu rồi còn bận nỗi gì ? Các cụ bảo chỉ hưu trong sổ lương thôi, còn vẫn thèm họp hành, thèm cơ quan, thèm được lãnh đạo lắm,vắng 'thủ trưởng" cứ thấy...thiêu thiếu thế nào ấy. Các cụ lại nói :
“Hoá ra sống vào cái thời bao cấp tuy vật chất thiếu một tý nhưng lại đâm ra sướng..."
Hỏi sống với ba cái tem phiếu ấy sướng nỗi gì .Các cụ bảo :
'Cơ quan thời đó vui lắm, trên dưới rõ ràng, thủ trưởng nhân viên hoà đồng lắm..."
Ấy đấy, cái sự bức xúc thiếu dân chủ hoá ra đã cao lắm đâu ở cái tầng lớp "phó thường dân" hay còn gọi là lớp người "nhân viên 3 cán sự 1" đấy. Tất nhiên, nói chuyện này không có nghĩa rằng dân Mít ta mãi mãi cứ phải là chàng Ngột đừng có ai "đục khiếu" cho gã mà gã chết. Hoàn toàn không ạ, cứ cái đà toàn cầu hoá này sẽ có ngày anh Mít ta vốn sẵn máu Chí Phèo tỏ mặt anh hào khắp năm châu bốn biển cho coi.Nhưng đó là cả một kịch bản lắt léo và phức tạp lắm chứ chả đơn giản,dễ dàng như thiên hạ đang hè nhau đi "đục khiếu " cho chàng Ngột An nam mít.
Đói cơm thì dân ta đã chết 2 triệu người,còn đói dân chủ thì sĩ nông công thương mỗi anh đói một cách - anh đói ít, anh đói nhiều - người bất đồng chính kiến như bà Dương Thu Hương, cụ Trần Độ...chắc chắn phải đói dân chủ hơn một anh thợ cắt tóc, thợ điện.
Cho nên với người này thì cái truớc hết là "dân chủ ", với người kia lại là "bánh mì".Tiếc thay , cái đám cần bánh mì này lại là đám đông dân Mít ta.
Từ anh xe ôm mong có du khách vào thật nhiều, chị công nhân dệt may mong có việc dài dài cho chồng con mát mặt, em gái karaoke mong có nhiều khách tới để kiếm tiền"bo"....Cái đám đông thầm lặng này thật ra có biết "thương ước Việt-Mỹ " mặt ngang mũi dọc ra làm sao, nhưng nếu họ biết đó là cái "bánh mì" có thể mang tới cho họ thì ta thừa hiểu họ nghĩ gì nếu ai đó định giật nó ra khỏi miệng họ.
Bởi vậy chắc không ai không hồ hởi, phấn khởi với thương ước, nhất là người mũi tẹt da vàng, con Rồng cháuTiên . Ấy thế mà than ôi, có đấy ạ. Khối anh hăng hái viết đơn cho quý vị dân biểu tại 53 đơn vị vùng Cali yêu cầu CSVN phải thực thi dân chủ, phải thả tù chínhtrị, phải xoá bỏ điều 4 trong hiến pháp...rồi hãy giơ tay thông qua thương ước.
Than ôi, đòi hỏi thế khác nào bảo mấy ông Mẽo đừng ký, cứ để cho dân nó chết, nhà nước cộng sản nó sập rồi hẵng...ký.
"Chọc gậy bánh xe" thương ước , nhà nước CS chưa thấy sập đã thấy dân đói đổ ngang đổ ngửa vì công nhân thất nghiệp, hàng hóa không vào được Mỹ ,vậy thì các quý vị đó đang ..lật đổ dân chứ còn ai ?
Đến người hăng hái chửi chế độ CSVN như bà Dương Thu Huơng cũng phải"bấm bụng" ủng hộ thương ước Việt -Mỹ sau khi đã tiếc rẻ nói rằng :
"Tôi đã nói với một người bất đồng chính kiến thuộc thế hệ đàn anh rằng nếu chỉ có chúng ta thôi thì tôi cứ muốn Hoa Kỳ cấm vận cho tới khi nào chính quyền này sụp mới thôi..."
Bây giờ lại đến lượt Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), có thể giúp VN thoát “vỡ nợ”, Nhật Bản xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng nông sản, các mặt hàng dệt may, giày dép, thủy sản, đồ gỗ và nông sản được hưởng lợi lớn, góp phần cải thiện đời sống cho dân đen chút nào chăng?
Việc ủng hộ hay phản đối TPP giống thời thương ước Việt-Mỹ lại được đặt ra với các nhà hoạt động dân chủ .
Họ chọn sao đây ?
NT
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.