khieman
07-04-2015, 04:29 AM
.
Bát Chánh Đạo
và bài kinh Kamala
Có bài kệ tóm tắt con đường tu hành của người Phật tử, như sau:
Không làm những điều ác
Siêng làm những việc lành
Tự thanh tịnh tâm ý
Lời chư Phật dạy rành.
“Không làm những điều ác” và “Siêng làm những việc lành” là phần đạo đức thế gian, không riêng đạo Phật, mà hầu hết các tôn giáo và các nền giáo dục trên khắp thế giới đều dạy. Duy câu “Tự thanh tịnh tâm ý” thì mới chính là đặc điểm riêng biệt của đạo Phật.
Tại sao vậy?
Tại vì, nội dung của “tự thanh tịnh tâm ý” thâu gồm sự giải thoát khỏi hết tất cả mọi vướng mắc gây ra bởi Tham, Sân và Si.
Hóa giải ba sự độc hại này, chuyển thành Giới, Định, Tuệ, chấm dứt tất cả những nỗi thống khổ, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo, gồm có:
- Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về Giới học
- Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc về Định học
- Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc về Tuệ học.
Trong đó, Chánh Kiến quan trọng nhất, vì có chánh kiến thì toàn bộ con đường tu học mới được soi sáng, không bị lạc vào tà đạo.
Đức Phật đã nói trong kinh Trung Bộ rằng :
… “ … chánh kiến đi hàng đầu. Thế nào là chánh kiến? Ta nói có hai loại, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo; có loại chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi…”….
Từ ngữ chánh kiến được dùng trong Bát Chánh Đạo cũng còn gọi là chánh tri kiến, có nghĩa là thâm hiểu Tứ Diệu Đế. Người thâm hiểu, thấu triệt Tứ Diệu Đế thì sẽ nảy sinh chánh tri kiến.
Nơi kinh Tương Ưng Bộ, đức Phật đã giải thích rõ ràng về Chánh Kiến, như sau:
“Này chư Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu về con đường diệt khổ.
Cũng xin lưu ý đôi chút về từ ngữ chánh kiến.
Trong đời sống, chúng ta thường nghe nói đến chánh kiến với nghĩa là ý kiến, quan điểm, lập trường chính trị, thí dụ “bất đồng chánh kiến”, nghĩa là ý kiến về chính trị khác nhau. Tiếng Hán có nhiều từ tuy cùng âm thanh nhưng viết khác và nghĩa cũng khác. Cho nên còn một chữ chánh khác nữa có nghĩa là điều phải, chánh đáng, ngay thẳng. Vì thế, từ ngữ chánh kiến còn có nghĩa là sự hiểu biết đúng đắn.
Nhưng Chánh Kiến trong Bát Chánh Đạo thì lại đặc biệt khác. Chánh Kiến ở đây có nghĩa là thấu triệt Bốn Chân Lý Thâm Diệu. Kinh Ðại Tứ Thập và Kinh Chánh Tri Kiến xác định chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát Chánh Ðạo, tức là Ðạo Đế, con đường giải thoát. Có chánh kiến thì mới có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Không có chánh kiến thì sẽ chỉ có tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.
Để rõ thêm về Chánh Kiến, hoặc Chánh Tri Kiến, xin trích dịch một bài pháp nói về Chánh Kiến, từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere – Meditations on the Buddhist Path”, tác giả là Ni Sư Ayya Khema.
Ni sư Ayya Khema là người Do Thái, sinh tại Đức năm 1923. Thời thơ ấu, khi mới 15 tuổi, bà đã trải qua những ngày gian nan trốn chạy khỏi sự tàn sát của Đức Quốc Xã. Cuối cùng, bà định cư tại Mỹ, lập gia đình và có hai con, một trai và một gái.
Từ năm 1960 đến 1964, bà cùng chồng và con trai đi du lịch vòng quanh châu Á, gồm những nước quanh dẫy núi Hy Mã Lạp Sơn. Trong thời gian đó, bà thực tập tu thiền. Mười năm sau, bà khởi sự dạy thiền tại các nước thuộc Âu Châu và Úc Châu. Kinh nghiệm tu trì thúc đẩy bà trở thành một nữ tu sĩ của Phật giáo tại Tích Lan vào năm 1979. Do đó, bà có pháp danh Khema, có nghĩa là an toàn (Ayya có nghĩa là bậc đáng kính, dùng để tôn xưng người tu hành, tỏ lòng kính trọng)
Vào năm 1978, bà giúp hoàn thành một thiền viện trong rừng tu theo truyền thống Nguyên Thủy, tên là Wat Buddha-Dharma, tọa lạc gần Sydney, nước Úc. Tại Colombo, thủ đô thương mại của Tích Lan, ni sư thiết lập The International Buddhist Women’ Center, dùng làm nơi tu tập cho các nữ tu sĩ Tích Lan. Ni sư là Giám Đốc tinh thần của Buddha-Haus, Tây Đức, được thành lập năm 1989, do ni sư bảo trợ.
Vào tháng Sáu năm 1997, ni sư làm lễ khánh thành thiền viện trong rừng đầu tiên tại nước Đức tên là Metta Vihara.
Tháng Năm, năm 1987 ni sư là nữ tu sĩ đầu tiên kể từ trước tới nay, được mời tới New York để thuyết giảng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc về đề tài Đạo Phật và Nền Hoà Bình Trên Thế Giới.
Ni sư Ayya Khema đã trước tác 25 cuốn sách về thiền và giáo lý của đạo Phật bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Sách của bà đã được dịch sang 7 ngôn ngữ, chưa kể tiếng Việt. Vào năm 1988, cuốn “Being Nobody, Going Nowhere” được tặng giải Chrismas Humphreys Memorial Award.
Ni sư tạ thế ngày 2 tháng 11 năm 1997 tại Buddha- Haus, Đức quốc, sau một cơn bệnh nhẹ.
Sau đây là bài pháp trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”:
…”…Con đường chấm dứt tất cả đau khổ, cũng chính là con đường giải thoát, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo. Con đường này,– như tất cả những lời Phật dạy, — chia ra làm ba phần, là Giới, Định và Tuệ.
Người ta thường nghĩ rằng hành giả phải học tập lần lượt theo thứ tự Giới, Định, Tuệ kể trên, như là bậc thang, vượt qua bậc thấp nhất là giữ Giới thì tâm sẽ Định, từ đó sẽ nhìn vào nội tâm và sẽ nảy sinh Trí Tuệ.
Bát Chánh Đạo sẽ cho chúng ta thấy rằng nghĩ như thế là sai lầm. Con đường Bát Chánh không khởi đầu bằng giới, mà từ trí tuệ. Không nên nhìn con đường Bát Chánh như là cái thang, mà phải quan niệm về nó như là cái xa lộ có tám con đường, mà chúng ta phải dùng tới cả tám đường. Bản thân tám con đường này cũng hỗ tương lẫn nhau vì khởi đi từ chánh kiến và cuối cùng sẽ chấm dứt tại chánh kiến. Dù rằng chánh kiến chỉ được đề cập tới lúc khởi đầu, nhưng kết quả của tất cả những bước trên con đường Bát Chánh sẽ đưa tới Chánh Kiến hoàn hảo.
Chánh kiến là bước đầu tiên, có nghĩa là hành giả đã nhìn rõ được rằng trong cuộc đời, không có gì quan trọng bằng chuyện thực hành những phương pháp luyện tâm, để chấm dứt tất cả mọi khổ đau. Muốn thế, hiển nhiên là hành giả sẽ phải tìm phương pháp làm sáng tỏ những nhược điểm của mình. Nỗi khổ của chúng ta là bất mãn, lo lắng và cảm giác hụt hẫng, luôn luôn như là thiếu thốn cái gì đó. Có một khoảng trống trong tâm hồn khiến cho người ta cứ muốn tìm cách lấp đầy, hoặc bằng một người, hoặc nhiều người, hoặc bằng một lý tưởng, một mục đích, hoặc bằng một dự án, một chương trình hành động, hoặc bằng một niềm hy vọng.
Nhưng thật ra thì chẳng có cái gì lấp bằng khoảng trống đó được. Cho nên nếu có một pháp luyện tâm nào có thể vạch rõ những sự bất mãn căn bản và có cách để hóa giải những bất mãn đó, để tâm trí chúng ta hoàn toàn bình phục, an lạc, thì chúng ta biết đó là phương pháp tốt, đáng tin cậy. Ngoài ra, phương pháp đó cũng phải thẩm thấu được vào nội tâm con người.
Phật pháp là những bài học có được cái giá trị này.
Chánh kiến cũng bao gồm nhận thức rằng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu bước vào con đường luyện tâm ngay lập tức. Có chánh kiến, chúng ta cũng thấu hiểu thế nào là nhân quả nghiệp báo, khiến chúng ta nhận trách nhiệm về những sự việc xảy ra cho chúng ta, không đổ lỗi cho người khác, hoặc đổ tại hoàn cảnh, hoặc bất cứ cái gì ở bên ngoài chính mình. Như thế có nghĩa là chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời, sự nghiệp, đồng thời nhận thức rõ là chúng ta chính là chủ cuộc đời và vận mệnh của chính mình.
Vậy thì, chúng ta có thể thay đổi tương lai của cuộc đời.
Nhưng nếu chỉ biết xuông rằng chúng ta có thể thay đổi vận mệnh thì chưa đủ, mà phải thấy sự cần thiết của thay đổi. Có hai điều cần phải có tầm nhìn chính xác, đó là thấu triệt quy luật nghiệp báo và sự cần thiết phải chuyển nghiệp để giải quyết tận gốc những mầm mống của đau khổ. Sự thay đổi này xảy ra nơi bản thân chúng ta, không đòi thay đổi thế giới hoặc là những cư dân sống trong đó, hoặc đòi thay đổi người mà tình cờ chúng ta chung sống với. Nhưng là thay đổi chính bản thân.
Chúng ta không thể xóa bỏ những nỗi bất mãn, nhưng chúng ta có thể chuyển hóa phản ứng của chúng ta. Cuối cùng, nhờ có chánh kiến về bản ngã, chúng ta còn có thể đi tới tột cùng của con đường luyện tâm, là giác ngộ Vô Ngã.
Con đường luyện tâm khởi đầu từ trí tuệ. Nếu không có trí tuệ để nhận ra được điều gì cần làm, thì chúng ta đã không tu tập thiền quán.
Có nhiều cách để phản ứng trước sự đau khổ.
- Cách đầu tiên, dễ dãi và thông thường là người ta đổ lỗi cho ai đó. Đó là trò trẻ con.
- Cách thứ hai để phản ứng lại nỗi đau buồn, bất mãn là trở thành xuống tinh thần và sa lầy, buông trôi bản thân cho sự bất hạnh.
- Cách thứ ba là thương thân, tự an ủi là mình đang chịu đựng nỗi đau khổ cho cả thế giới, chẳng có ai khổ bằng mình. Điều này thì rõ ràng là sai rồi. Khi mình cảm thấy thương thân, thì mình cũng trông đợi mọi người thương cảm mình. Thế thì vô ích, chẳng có bài học nào, chẳng được cái gì. Trái lại, người như thế còn làm phiền đến những người khác.
- Hoặc là người ta có thể phản ứng trước nỗi đau khổ bằng cách nghiến răng nghiến lợi, đè nén đau buồn, giả bộ như chẳng xảy ra sự đau khổ nào cả. Như thế cũng vô ích, vì sự giả bộ chẳng giải quyết được gì cả.
- Cách thứ năm là trực diện với nỗi khổ và nói: ” A ha, bạn cũ lại xuất hiện. Kỳ này tôi sẽ học được gì?” Nhìn nỗi khổ bằng thái độ đó là chánh kiến.
Như thế là chúng ta đã thực sự hiểu tại sao được mang thân người lại là cơ hội tốt nhất để giác ngộ. Đau khổ là thày dạy tốt nhất, vì nó bám chắc lấy chúng ta, ghì chặt chúng ta trong sự kìm kẹp, cho tới khi chúng ta có được bài học thì mới hết khổ.
Chánh kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm…”…
Trên đây là bài pháp về chánh kiến của ni sư Ayya Khema, trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”.
Chánh Kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm. Hành trang trên con đường giải thoát,tức là Đạo Đế, người Phật tử được đức Phật trang bị cho 37 phẩm trợ đạo (phẩm có nghĩa là từng món, từng loại). Như thế, ngoài Bát Chánh Đạo, chúng ta còn có 29 bài học nữa để luyện tâm, trong số đó có bài Trạch Pháp, nằm trong bộ Thất Giác Chi, nghĩa là 7 chi nhánh để hành giả tu tập tiến tới giác ngộ.
Trạch Pháp có nghĩa là chọn lựa pháp môn để tu tập. Muốn chọn lựa chính xác, hành giả phải có chánh kiến. Thời xưa cũng như ngày nay, trên con đường tâm linh, người ta rất dễ bị đưa vào tà đạo.
Tại sao vậy?
Tại vì đối với chuyện thế gian thì lý trí thường thắng thế, nên người ta nhìn sự việc một cách thận trọng. Nhưng về tình cảm và tâm linh thì con người trở nên rất yếu đuối, dễ mềm lòng. Đó là lý do tà sư tà đạo có thể hoành hành, do sự cả tin của người tìm đạo thiếu chánh kiến.
Trong kinh Kamala, đức Phật đã dạy đại ý rằng:
“- Đừng vội tin bất cứ điều gì chỉ vì đã nghe thấy,
- Đừng vội tin vào các truyền thống chỉ vì chúng đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được nhiều người nói tới hoặc đồn đại.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được tìm thấy trong các sách vở.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được các bậc đạo sư hay các vị trưởng lão dạy bảo.”
- Nhưng sau khi quán sát và phân tích, khi đã thấy mọi thứ hợp với lẽ phải và đem lại lợi ích cho mọi người, thì hãy chấp nhận nó và sống phù hợp theo nó.”
Nhà Phật có những công thức rất ngắn gọn để nhắc nhở Phật tử như “Văn, Tư, Tu”, nghĩa là đầu tiên phải nghe kinh, hoặc nghe giảng pháp (là văn), rồi suy nghĩ để tìm hiểu (là tư), khi đã hiểu rõ nội dung phần lý thuyết thì bước lên con đường tu hành (là tu).
Khi xưa phương tiện truyền thông nghèo nàn, kinh sách rất thiếu thốn, lâu lắm mới có một kỳ in kinh, thường là khắc lên miếng gỗ để in lên giấy bản, sách đóng bằng nhiều tờ giấy xếp lên nhau, dán bằng nhựa quả cậy, gọi là bìa phất cậy. Rất ít chùa có được một tủ sách kinh. Chùa nhỏ thường chỉ có năm ba cuốn kinh nhật tụng. Cho nên khi nào có quý vị tăng đi hoằng pháp thì dân chúng kéo nhau đi nghe rất đông. Những cơ hội như thế rất là hiếm hoi.
Ngày nay kinh sách in ra rất nhiều, băng giảng của quý vị cao tăng phổ biến khắp nơi, ngoài ra lại còn có những thư viện điện tử toàn cầu, dù ở tận hang cùng ngõ hẻm, không tới được chùa, mọi người vẫn có kinh sách và luận giải trong internet để mà đọc, vẫn có băng giảng, đĩa CD để mở máy lên nghe giảng pháp hằng ngày, nếu muốn.
Vì vậy, chúng ta nên áp dụng câu Văn, Tư, Tu một cách tích cực. Đồng thời chúng ta cũng cần nhớ bài học trong kinh Kamala, phải dùng chánh tri kiến để chiếu rọi vào những lời giảng, để phân biệt rõ chánh pháp hoặc tà pháp.
Nhờ có chánh kiến làm ngọn hải đăng, hành giả có thể tự mình phân biệt được, để không phí uổng công trình tu tập, mất thì giờ và tiền bạc đi theo tà sư, mang hận một đời.
Sau đây là một câu chuyện thiền, trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, Paul Reps dịch sang Anh Ngữ.
“Bên nước Nhật thời xưa, người ta dùng đèn lồng bằng tre và giấy, có gắn nến bên trong. Một đêm kia, có một người mù đến thăm bạn, khi ra về, người bạn trao cho cái đèn lồng để anh ta cầm về. Anh mù từ chối:
Tôi không cần đèn đâu mà. Đối với tôi thì sáng hay tối cũng vậy thôi.
Người bạn trả lời:
Tôi biết là anh không cần đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm cái đèn này, thì biết đâu lại chẳng có người chạy tới đâm xầm vào anh. Cho nên anh hãy cầm lấy.
Người mù cầm đèn ra đi. Nhưng chưa được bao xa thì bỗng có người tông thẳng ngay vào anh ta từ phía trước. Anh ta giận dữ quát:
Phải coi chừng chứ, bộ anh không nhìn thấy cây đèn này hả.
Người kia trả lời:
Ông anh ơi, đèn của ông đã tắt ngóm mất rồi.”
Như chúng ta đã thấy, người mù cầm đèn vì quá tin tưởng vào cây đèn, không nghĩ tới chuyện đèn đã tắt. Nếu anh ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành trong trạng thái vô thường, không có gì là bền vững, cây đèn ra gió có thể tắt bất cứ lúc nào, là có chánh kiến. Nếu anh ta có chánh kiến thì đã không giữ khư khư cái ý kiến rằng mình cầm cây đèn sáng, mà có thể nghĩ rằng đèn tắt mất rồi, không mắng người để bị cười nhạo.
Liên Hương (ĐPK)
http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/chuong-trinh-phat-thanh-tim-hieu-phat-phap-tue-dang/
Bát Chánh Đạo
và bài kinh Kamala
Có bài kệ tóm tắt con đường tu hành của người Phật tử, như sau:
Không làm những điều ác
Siêng làm những việc lành
Tự thanh tịnh tâm ý
Lời chư Phật dạy rành.
“Không làm những điều ác” và “Siêng làm những việc lành” là phần đạo đức thế gian, không riêng đạo Phật, mà hầu hết các tôn giáo và các nền giáo dục trên khắp thế giới đều dạy. Duy câu “Tự thanh tịnh tâm ý” thì mới chính là đặc điểm riêng biệt của đạo Phật.
Tại sao vậy?
Tại vì, nội dung của “tự thanh tịnh tâm ý” thâu gồm sự giải thoát khỏi hết tất cả mọi vướng mắc gây ra bởi Tham, Sân và Si.
Hóa giải ba sự độc hại này, chuyển thành Giới, Định, Tuệ, chấm dứt tất cả những nỗi thống khổ, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo, gồm có:
- Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng thuộc về Giới học
- Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định thuộc về Định học
- Chánh Kiến, Chánh Tư Duy thuộc về Tuệ học.
Trong đó, Chánh Kiến quan trọng nhất, vì có chánh kiến thì toàn bộ con đường tu học mới được soi sáng, không bị lạc vào tà đạo.
Đức Phật đã nói trong kinh Trung Bộ rằng :
… “ … chánh kiến đi hàng đầu. Thế nào là chánh kiến? Ta nói có hai loại, có loại chánh kiến hữu lậu, thuộc phước báo; có loại chánh kiến thuộc bậc Thánh, vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi…”….
Từ ngữ chánh kiến được dùng trong Bát Chánh Đạo cũng còn gọi là chánh tri kiến, có nghĩa là thâm hiểu Tứ Diệu Đế. Người thâm hiểu, thấu triệt Tứ Diệu Đế thì sẽ nảy sinh chánh tri kiến.
Nơi kinh Tương Ưng Bộ, đức Phật đã giải thích rõ ràng về Chánh Kiến, như sau:
“Này chư Tỳ-khưu, thế nào là chánh tri kiến? Đó là sự thông hiểu về khổ, sự thông hiểu về nguyên nhân của khổ, sự thông hiểu về sự diệt khổ, và sự thông hiểu về con đường diệt khổ.
Cũng xin lưu ý đôi chút về từ ngữ chánh kiến.
Trong đời sống, chúng ta thường nghe nói đến chánh kiến với nghĩa là ý kiến, quan điểm, lập trường chính trị, thí dụ “bất đồng chánh kiến”, nghĩa là ý kiến về chính trị khác nhau. Tiếng Hán có nhiều từ tuy cùng âm thanh nhưng viết khác và nghĩa cũng khác. Cho nên còn một chữ chánh khác nữa có nghĩa là điều phải, chánh đáng, ngay thẳng. Vì thế, từ ngữ chánh kiến còn có nghĩa là sự hiểu biết đúng đắn.
Nhưng Chánh Kiến trong Bát Chánh Đạo thì lại đặc biệt khác. Chánh Kiến ở đây có nghĩa là thấu triệt Bốn Chân Lý Thâm Diệu. Kinh Ðại Tứ Thập và Kinh Chánh Tri Kiến xác định chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát Chánh Ðạo, tức là Ðạo Đế, con đường giải thoát. Có chánh kiến thì mới có chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Không có chánh kiến thì sẽ chỉ có tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.
Để rõ thêm về Chánh Kiến, hoặc Chánh Tri Kiến, xin trích dịch một bài pháp nói về Chánh Kiến, từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere – Meditations on the Buddhist Path”, tác giả là Ni Sư Ayya Khema.
Ni sư Ayya Khema là người Do Thái, sinh tại Đức năm 1923. Thời thơ ấu, khi mới 15 tuổi, bà đã trải qua những ngày gian nan trốn chạy khỏi sự tàn sát của Đức Quốc Xã. Cuối cùng, bà định cư tại Mỹ, lập gia đình và có hai con, một trai và một gái.
Từ năm 1960 đến 1964, bà cùng chồng và con trai đi du lịch vòng quanh châu Á, gồm những nước quanh dẫy núi Hy Mã Lạp Sơn. Trong thời gian đó, bà thực tập tu thiền. Mười năm sau, bà khởi sự dạy thiền tại các nước thuộc Âu Châu và Úc Châu. Kinh nghiệm tu trì thúc đẩy bà trở thành một nữ tu sĩ của Phật giáo tại Tích Lan vào năm 1979. Do đó, bà có pháp danh Khema, có nghĩa là an toàn (Ayya có nghĩa là bậc đáng kính, dùng để tôn xưng người tu hành, tỏ lòng kính trọng)
Vào năm 1978, bà giúp hoàn thành một thiền viện trong rừng tu theo truyền thống Nguyên Thủy, tên là Wat Buddha-Dharma, tọa lạc gần Sydney, nước Úc. Tại Colombo, thủ đô thương mại của Tích Lan, ni sư thiết lập The International Buddhist Women’ Center, dùng làm nơi tu tập cho các nữ tu sĩ Tích Lan. Ni sư là Giám Đốc tinh thần của Buddha-Haus, Tây Đức, được thành lập năm 1989, do ni sư bảo trợ.
Vào tháng Sáu năm 1997, ni sư làm lễ khánh thành thiền viện trong rừng đầu tiên tại nước Đức tên là Metta Vihara.
Tháng Năm, năm 1987 ni sư là nữ tu sĩ đầu tiên kể từ trước tới nay, được mời tới New York để thuyết giảng tại trụ sở Liên Hiệp Quốc về đề tài Đạo Phật và Nền Hoà Bình Trên Thế Giới.
Ni sư Ayya Khema đã trước tác 25 cuốn sách về thiền và giáo lý của đạo Phật bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Sách của bà đã được dịch sang 7 ngôn ngữ, chưa kể tiếng Việt. Vào năm 1988, cuốn “Being Nobody, Going Nowhere” được tặng giải Chrismas Humphreys Memorial Award.
Ni sư tạ thế ngày 2 tháng 11 năm 1997 tại Buddha- Haus, Đức quốc, sau một cơn bệnh nhẹ.
Sau đây là bài pháp trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”:
…”…Con đường chấm dứt tất cả đau khổ, cũng chính là con đường giải thoát, là Đạo Đế, là Bát Chánh Đạo. Con đường này,– như tất cả những lời Phật dạy, — chia ra làm ba phần, là Giới, Định và Tuệ.
Người ta thường nghĩ rằng hành giả phải học tập lần lượt theo thứ tự Giới, Định, Tuệ kể trên, như là bậc thang, vượt qua bậc thấp nhất là giữ Giới thì tâm sẽ Định, từ đó sẽ nhìn vào nội tâm và sẽ nảy sinh Trí Tuệ.
Bát Chánh Đạo sẽ cho chúng ta thấy rằng nghĩ như thế là sai lầm. Con đường Bát Chánh không khởi đầu bằng giới, mà từ trí tuệ. Không nên nhìn con đường Bát Chánh như là cái thang, mà phải quan niệm về nó như là cái xa lộ có tám con đường, mà chúng ta phải dùng tới cả tám đường. Bản thân tám con đường này cũng hỗ tương lẫn nhau vì khởi đi từ chánh kiến và cuối cùng sẽ chấm dứt tại chánh kiến. Dù rằng chánh kiến chỉ được đề cập tới lúc khởi đầu, nhưng kết quả của tất cả những bước trên con đường Bát Chánh sẽ đưa tới Chánh Kiến hoàn hảo.
Chánh kiến là bước đầu tiên, có nghĩa là hành giả đã nhìn rõ được rằng trong cuộc đời, không có gì quan trọng bằng chuyện thực hành những phương pháp luyện tâm, để chấm dứt tất cả mọi khổ đau. Muốn thế, hiển nhiên là hành giả sẽ phải tìm phương pháp làm sáng tỏ những nhược điểm của mình. Nỗi khổ của chúng ta là bất mãn, lo lắng và cảm giác hụt hẫng, luôn luôn như là thiếu thốn cái gì đó. Có một khoảng trống trong tâm hồn khiến cho người ta cứ muốn tìm cách lấp đầy, hoặc bằng một người, hoặc nhiều người, hoặc bằng một lý tưởng, một mục đích, hoặc bằng một dự án, một chương trình hành động, hoặc bằng một niềm hy vọng.
Nhưng thật ra thì chẳng có cái gì lấp bằng khoảng trống đó được. Cho nên nếu có một pháp luyện tâm nào có thể vạch rõ những sự bất mãn căn bản và có cách để hóa giải những bất mãn đó, để tâm trí chúng ta hoàn toàn bình phục, an lạc, thì chúng ta biết đó là phương pháp tốt, đáng tin cậy. Ngoài ra, phương pháp đó cũng phải thẩm thấu được vào nội tâm con người.
Phật pháp là những bài học có được cái giá trị này.
Chánh kiến cũng bao gồm nhận thức rằng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu bước vào con đường luyện tâm ngay lập tức. Có chánh kiến, chúng ta cũng thấu hiểu thế nào là nhân quả nghiệp báo, khiến chúng ta nhận trách nhiệm về những sự việc xảy ra cho chúng ta, không đổ lỗi cho người khác, hoặc đổ tại hoàn cảnh, hoặc bất cứ cái gì ở bên ngoài chính mình. Như thế có nghĩa là chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn về cuộc đời, sự nghiệp, đồng thời nhận thức rõ là chúng ta chính là chủ cuộc đời và vận mệnh của chính mình.
Vậy thì, chúng ta có thể thay đổi tương lai của cuộc đời.
Nhưng nếu chỉ biết xuông rằng chúng ta có thể thay đổi vận mệnh thì chưa đủ, mà phải thấy sự cần thiết của thay đổi. Có hai điều cần phải có tầm nhìn chính xác, đó là thấu triệt quy luật nghiệp báo và sự cần thiết phải chuyển nghiệp để giải quyết tận gốc những mầm mống của đau khổ. Sự thay đổi này xảy ra nơi bản thân chúng ta, không đòi thay đổi thế giới hoặc là những cư dân sống trong đó, hoặc đòi thay đổi người mà tình cờ chúng ta chung sống với. Nhưng là thay đổi chính bản thân.
Chúng ta không thể xóa bỏ những nỗi bất mãn, nhưng chúng ta có thể chuyển hóa phản ứng của chúng ta. Cuối cùng, nhờ có chánh kiến về bản ngã, chúng ta còn có thể đi tới tột cùng của con đường luyện tâm, là giác ngộ Vô Ngã.
Con đường luyện tâm khởi đầu từ trí tuệ. Nếu không có trí tuệ để nhận ra được điều gì cần làm, thì chúng ta đã không tu tập thiền quán.
Có nhiều cách để phản ứng trước sự đau khổ.
- Cách đầu tiên, dễ dãi và thông thường là người ta đổ lỗi cho ai đó. Đó là trò trẻ con.
- Cách thứ hai để phản ứng lại nỗi đau buồn, bất mãn là trở thành xuống tinh thần và sa lầy, buông trôi bản thân cho sự bất hạnh.
- Cách thứ ba là thương thân, tự an ủi là mình đang chịu đựng nỗi đau khổ cho cả thế giới, chẳng có ai khổ bằng mình. Điều này thì rõ ràng là sai rồi. Khi mình cảm thấy thương thân, thì mình cũng trông đợi mọi người thương cảm mình. Thế thì vô ích, chẳng có bài học nào, chẳng được cái gì. Trái lại, người như thế còn làm phiền đến những người khác.
- Hoặc là người ta có thể phản ứng trước nỗi đau khổ bằng cách nghiến răng nghiến lợi, đè nén đau buồn, giả bộ như chẳng xảy ra sự đau khổ nào cả. Như thế cũng vô ích, vì sự giả bộ chẳng giải quyết được gì cả.
- Cách thứ năm là trực diện với nỗi khổ và nói: ” A ha, bạn cũ lại xuất hiện. Kỳ này tôi sẽ học được gì?” Nhìn nỗi khổ bằng thái độ đó là chánh kiến.
Như thế là chúng ta đã thực sự hiểu tại sao được mang thân người lại là cơ hội tốt nhất để giác ngộ. Đau khổ là thày dạy tốt nhất, vì nó bám chắc lấy chúng ta, ghì chặt chúng ta trong sự kìm kẹp, cho tới khi chúng ta có được bài học thì mới hết khổ.
Chánh kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm…”…
Trên đây là bài pháp về chánh kiến của ni sư Ayya Khema, trích dịch từ cuốn “Being Nobody, Going Nowhere”.
Chánh Kiến là nền tảng cốt yếu để bước vào con đường luyện tâm. Hành trang trên con đường giải thoát,tức là Đạo Đế, người Phật tử được đức Phật trang bị cho 37 phẩm trợ đạo (phẩm có nghĩa là từng món, từng loại). Như thế, ngoài Bát Chánh Đạo, chúng ta còn có 29 bài học nữa để luyện tâm, trong số đó có bài Trạch Pháp, nằm trong bộ Thất Giác Chi, nghĩa là 7 chi nhánh để hành giả tu tập tiến tới giác ngộ.
Trạch Pháp có nghĩa là chọn lựa pháp môn để tu tập. Muốn chọn lựa chính xác, hành giả phải có chánh kiến. Thời xưa cũng như ngày nay, trên con đường tâm linh, người ta rất dễ bị đưa vào tà đạo.
Tại sao vậy?
Tại vì đối với chuyện thế gian thì lý trí thường thắng thế, nên người ta nhìn sự việc một cách thận trọng. Nhưng về tình cảm và tâm linh thì con người trở nên rất yếu đuối, dễ mềm lòng. Đó là lý do tà sư tà đạo có thể hoành hành, do sự cả tin của người tìm đạo thiếu chánh kiến.
Trong kinh Kamala, đức Phật đã dạy đại ý rằng:
“- Đừng vội tin bất cứ điều gì chỉ vì đã nghe thấy,
- Đừng vội tin vào các truyền thống chỉ vì chúng đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được nhiều người nói tới hoặc đồn đại.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được tìm thấy trong các sách vở.
- Đừng vội tin vào bất cứ điều gì chỉ vì nó được các bậc đạo sư hay các vị trưởng lão dạy bảo.”
- Nhưng sau khi quán sát và phân tích, khi đã thấy mọi thứ hợp với lẽ phải và đem lại lợi ích cho mọi người, thì hãy chấp nhận nó và sống phù hợp theo nó.”
Nhà Phật có những công thức rất ngắn gọn để nhắc nhở Phật tử như “Văn, Tư, Tu”, nghĩa là đầu tiên phải nghe kinh, hoặc nghe giảng pháp (là văn), rồi suy nghĩ để tìm hiểu (là tư), khi đã hiểu rõ nội dung phần lý thuyết thì bước lên con đường tu hành (là tu).
Khi xưa phương tiện truyền thông nghèo nàn, kinh sách rất thiếu thốn, lâu lắm mới có một kỳ in kinh, thường là khắc lên miếng gỗ để in lên giấy bản, sách đóng bằng nhiều tờ giấy xếp lên nhau, dán bằng nhựa quả cậy, gọi là bìa phất cậy. Rất ít chùa có được một tủ sách kinh. Chùa nhỏ thường chỉ có năm ba cuốn kinh nhật tụng. Cho nên khi nào có quý vị tăng đi hoằng pháp thì dân chúng kéo nhau đi nghe rất đông. Những cơ hội như thế rất là hiếm hoi.
Ngày nay kinh sách in ra rất nhiều, băng giảng của quý vị cao tăng phổ biến khắp nơi, ngoài ra lại còn có những thư viện điện tử toàn cầu, dù ở tận hang cùng ngõ hẻm, không tới được chùa, mọi người vẫn có kinh sách và luận giải trong internet để mà đọc, vẫn có băng giảng, đĩa CD để mở máy lên nghe giảng pháp hằng ngày, nếu muốn.
Vì vậy, chúng ta nên áp dụng câu Văn, Tư, Tu một cách tích cực. Đồng thời chúng ta cũng cần nhớ bài học trong kinh Kamala, phải dùng chánh tri kiến để chiếu rọi vào những lời giảng, để phân biệt rõ chánh pháp hoặc tà pháp.
Nhờ có chánh kiến làm ngọn hải đăng, hành giả có thể tự mình phân biệt được, để không phí uổng công trình tu tập, mất thì giờ và tiền bạc đi theo tà sư, mang hận một đời.
Sau đây là một câu chuyện thiền, trích dịch từ cuốn “Collection of Stone and Sand”, do thiền sư Muju viết bằng Nhật ngữ, Paul Reps dịch sang Anh Ngữ.
“Bên nước Nhật thời xưa, người ta dùng đèn lồng bằng tre và giấy, có gắn nến bên trong. Một đêm kia, có một người mù đến thăm bạn, khi ra về, người bạn trao cho cái đèn lồng để anh ta cầm về. Anh mù từ chối:
Tôi không cần đèn đâu mà. Đối với tôi thì sáng hay tối cũng vậy thôi.
Người bạn trả lời:
Tôi biết là anh không cần đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không cầm cái đèn này, thì biết đâu lại chẳng có người chạy tới đâm xầm vào anh. Cho nên anh hãy cầm lấy.
Người mù cầm đèn ra đi. Nhưng chưa được bao xa thì bỗng có người tông thẳng ngay vào anh ta từ phía trước. Anh ta giận dữ quát:
Phải coi chừng chứ, bộ anh không nhìn thấy cây đèn này hả.
Người kia trả lời:
Ông anh ơi, đèn của ông đã tắt ngóm mất rồi.”
Như chúng ta đã thấy, người mù cầm đèn vì quá tin tưởng vào cây đèn, không nghĩ tới chuyện đèn đã tắt. Nếu anh ta biết rằng mọi sự trên đời đều vận hành trong trạng thái vô thường, không có gì là bền vững, cây đèn ra gió có thể tắt bất cứ lúc nào, là có chánh kiến. Nếu anh ta có chánh kiến thì đã không giữ khư khư cái ý kiến rằng mình cầm cây đèn sáng, mà có thể nghĩ rằng đèn tắt mất rồi, không mắng người để bị cười nhạo.
Liên Hương (ĐPK)
http://phuongkhanhdo.wordpress.com/category/chuong-trinh-phat-thanh-tim-hieu-phat-phap-tue-dang/