View Full Version : Kinh Sách
nguyen41
09-28-2010, 10:14 AM
http://pandora.nla.gov.au/pan/10190/20090921-1311/www-personal.usyd.edu.au/_cdao/tusachdd.htm#kinh
NGÃC H0ÃNG THƯÃNG Ã
1) Ãi La ThiÃn Ã, ThÃi CÃc ThÃnh HoÃng:
NGHĨA: Vua TrÃi trÃn cÃi Ãi la,
VÃn ngÃi ThÃi cÃc ngà tÃa TiÃn ThiÃn.
GIÃI: Và ThưÃng à đÃc cao rÃng lÃn minh mÃng như giÃng lưÃi lÃn, bao trÃm cà và trÃ, là mÃt đÃng ThÃnh HoÃng trưÃc ngÃi ThÃi CÃc trong khi TrÃi Ãt chưa chia đÃn khi TrÃi Ãt an ngÃi rÃi cà nhơn loÃi, thà và ThiÃn à hÃa nuÃi nhÃng kà chÃng sanh, NgÃi lÃi phà cho mÃi ngưÃi đÃu cà tÃnh hư linh bÃt muÃi lÃ: Nhơn, Nghĩa, LÃ, TrÃ, TÃn.
2) HÃa dÃc quÃn sanh, ThÃng ngà vÃn vÃt:
NGHĨA: Sanh thÃnh ngưÃi vÃt và biÃn,
ThÃng trà muÃn loÃi mÃi viÃc cÃm tay.
GIÃI: TÃm trà cà muÃn vÃt, hÃa nuÃi nhÃng kà chÃng sanh.
3) DiÃu diÃu HuÃnh Kim KhuyÃt, Nguy nguy BÃch NgÃc Kinh:
NGHĨA: CÃa HuÃnh Kim chÃm vÃng lÃng lÃy,
ThÃnh BÃch NgÃc cÃn ngÃc nguy nga.
GIÃI: TrÃn ngÃi ThiÃn Cung cà cÃa HuÃnh Kim KhuyÃt sơn phÃt nhÃng vÃng rÃng, cao lÃn mà mà diÃu vÃi. ThÃnh ThÃnh HoÃng cÃn nhÃng ngÃc trÃng trong, vÃi vÃi cao lÃn. Hai chà Ãy là nơi Và ThiÃn à thưÃng ngÃ.
4) NhưÃc thiÃt, nhưÃc hư, BÃt ngÃn nhi mÃc (*1) tuyÃn đÃi hÃa:
NGHĨA: Cà đÃy như thà trÃng khÃng,
MÃc dÃu khÃng đÃng nhưng mà đÃc cao.
GIÃI: HÃnh TrÃi xem như dÃy đÃc thà lÃi như trÃng khÃng, lÃng là khÃng tiÃng nÃi chi hÃt mà hÃa ra rÃng lÃn.(1)
(1) SÃch LuÃn ngà cà cÃu: "ThiÃn hà ngÃn tai, tà thà hÃnh diÃn, vÃn vÃt sanh diÃn". TrÃi đÃu cà nÃi mà bÃn mÃa: XuÃn, HÃ, Thu, Ãng vÃn xÃy xuÃng cÃng, muÃn vÃt đÃu sanh hÃa.
(*1) Trong Kinh ThiÃn Ão và Thà Ão cÃa HÃi ThÃnh Ãn hÃnh năm Ãt MÃo 1975 thà là BÃt ngÃn nhi mÃc tuyÃn đÃi hÃa.
5) Thà khÃng, thà sÃc, Và vi nhi dÃch sà quÃn linh:
NGHĨA: KhÃng như cÃ, cà như khÃng,
KhÃng thÃy bÃy lÃm nhưng khiÃn ThÃn linh.
GIÃI: HÃnh TrÃi xem thiÃt trÃng khÃng mà trong khÃng lÃi hÃa sÃc, sÃc lÃi hÃa khÃng. KhÃng lÃm mà sai cÃc và ThÃn linh phÃi đÃn tuÃn mÃng, Ãy là và vi, trong sÃch LuÃn Ngà cà cÃu Và vi nhi trÃ.
6) ThÃi thÃa lÃc long, Du hÃnh bÃt tÃc:
NGHĨA: Vua TrÃi ngà cÃi sÃu rÃng,
HuyÃn huyÃn diÃu diÃu ngao du khÃng ngÃng.
GIÃI: HÃng cÃi sÃu rÃng đi giÃp vÃng TrÃi khÃng hà nghÃ.(2)
(2) Chà LÃc Long Ãy trong kinh cà cÃu "ThÃa LÃc Long dĩ ngà ThiÃn". SÃu RÃng Ãy quà CÃn, sÃu RÃng đÃu thuÃc Dương, như lÃ: HÃo sơ CÃu là TiÃm Long, HÃo cÃu Nhà là HiÃn Long, HÃo cÃu Tam là TÃch dương Long, HÃo cÃu Tà là HuyÃn Long, HÃo cÃu Ngũ là Phi Long, HÃo thưÃng CÃu là CÃng Long. Ão TrÃi biÃn hÃa huyÃn diÃu vÃn đi giÃp vÃng trÃi chÃng ngÃng.
1). HÃo sơ CÃu: RÃng cÃn lÃng chưa hÃnh đÃng viÃc gÃ.
2.) HÃo cÃu NhÃ: RÃng à ruÃng hÃp vÃi và Ãi Nhơn.
3.) HÃo cÃu Tam: MÃc dÃu à ruÃng rÃng mong vÃy vÃng.
4.) HÃo cÃu TÃ: RÃng nhÃy lÃn khÃi vÃc.
5.) HÃo cÃu Ngũ: RÃng bay lÃn trÃi.
6.) HÃo thưÃng CÃu: RÃng mÃnh mà cÃng cÃt bay xa tÃt.
7) Khà phÃn Tà TưÃng, HoÃt truyÃn (*2) và biÃn:
NGHĨA: NgÃi VÃ CÃc phÃn chia TÃ TưÃng,
LÃi vÃn hÃnh nhÃt nguyÃt và biÃn.
GIÃI: MÃt khà ThÃi CÃc sanh LưÃng Nghi (Ãm Dương), LưÃng Nghi sanh ra ThiÃu Ãm, ThiÃu Dương; Ãng, TÃy, Nam, BÃc rÃng truyÃn xÃy vÃn khÃn cÃng.
(*2) Trong Kinh ThiÃn Ão và Thà Ão cÃa HÃi ThÃnh Ãn hÃnh năm Ãt MÃo 1975 thà là HoÃt triÃn và biÃn.
8) CÃn kiÃn cao minh, VÃn loÃi thiÃn Ãc tÃt kiÃn:
NGHĨA: NgÃi CÃn cÃng mÃnh sÃng cao,
MuÃn loÃi lÃnh dà sÃng soi tà tưÃng.
GIÃI: NgÃi CÃn cÃng mÃnh, sÃng soi tÃi muÃn loÃi lÃnh dà đÃu thÃy rÃ.
9) HuyÃn phÃm quÃng đÃi, NhÃt toÃn hÃa phưÃc lÃp phÃn:
NGHĨA: PhÃm vi diÃu diÃu huyÃn huyÃn,
LÃnh dà đÃnh tÃi phưÃc ban tà tÃng.
GIÃI: MÃt phÃp huyÃn diÃu rÃng lÃn, dà lÃnh hÃa phưÃc mÃt toÃn chia trÃ, tăng giÃm rÃnh rà khÃng sai mÃy tÃc.
10) ThưÃng chưÃng Tam thÃp lÃc ThiÃn, Tam ThiÃn Thà GiÃi (*3):
NGHĨA: TrÃn soi ba sÃu (36) cung TrÃi,
Ba ngÃn thà giÃi cũng cÃm trong tay.
GIÃI: TrÃn thà chưÃng quÃn ba mươi sÃu và ThiÃn Cang và ba ngÃn Thà GiÃi: Ãi ThiÃn Thà GiÃi, Trung ThiÃn Thà GiÃi, TiÃu ThiÃn Thà GiÃi. Ba mươi sÃu ThiÃn Cang là ba mươi sÃu cÃi ThiÃn TÃo Ãy là căn bÃn thiÃn nhiÃn, mÃi cÃi cà mÃt và Tinh QuÃn chưÃng quÃn. Ba ngÃn Thà GiÃi là cÃi ThiÃn TiÃn mÃt ngÃn, cÃi Ãa TiÃn mÃt ngÃn, cÃi Nhơn TiÃn mÃt ngÃn.(3)
(3) CÃn nÃi và chi tiÃt thà xin xem bà Kinh ThiÃn Cung du kà thà rÃ.
(*3) Trong Kinh ThiÃn Ão và Thà Ão cÃa HÃi ThÃnh Ãn hÃnh năm Ãt MÃo 1975 thà là Tam ThiÃn Thà GiÃi.
11) Hà Ãc ThÃt thÃp nhà Ãa, Tà Ãi Bà ChÃu:
NGHĨA: DưÃi cai quÃn bÃy hai (72) tÃng đÃt,
LÃi xem luÃn bÃn hưÃng lÃn lao.
GIÃI: Ãng TÃo HÃa, dưÃi thà NgÃi tÃm nÃm bÃy mươi hai ngÃi Ãa SÃc và bÃn Bà ChÃu lÃn trong cÃi trÃn hoÃn thà giÃi. BÃy mươi hai ngÃi Ãa SÃc Ãy mÃi ngÃi cà mÃt và Tinh QuÃn chưÃng quÃn.
BÃy mươi hai ngÃi Ãa SÃc cũng tÃng mÃng lÃnh nơi BÃc Ãu mà thi hÃnh theo bÃn phÃn trong CÃn KhÃn Và TrÃ. Và bÃn Bà ChÃu lÃn kà sau đÃy: Ãng, TÃy, Nam, BÃc: Ãng là Ãng ThÃng ThÃn ChÃu, TÃy là TÃy Ngưu Hà ChÃu, Nam là Nam ThiÃm Bà ChÃu, BÃc là BÃc Cà Lưu ChÃu, Ãy là Tà Ãi Bà ChÃu.
12) TiÃn ThiÃn HÃu ThiÃn, TÃnh dÃc Ãi TÃ PhÃ:
NGHĨA: Chà TrÃi trưÃc, chà TrÃi sau,
Do luÃt đÃng tÃnh mang ơn cha lÃnh.
GIÃI: NgÃi TiÃn ThiÃn là trưÃc đÃi HÃng Hoang, ngÃi HÃu ThiÃn khi TrÃi Ãt đà đÃnh rÃi. Và ThiÃn à là cha cà trong CÃn KhÃn Thà GiÃi hay thương muÃn vÃt.(4)
(4) Chà TÃnh dÃc trong sÃch Trung Dung cà cÃu "VÃn vÃt tÃnh dÃc, nhi bÃt tương hÃi", muÃn vÃt đÃu sanh nuÃi mà khÃng giÃt hÃi.
13) Kim ngưÃng cà ngưÃng, Phà Tà TÃng PhÃp TÃng:
NGHĨA: Xưa nay mÃt dà tÃn thÃnh,
Qui hÃi cÃc phÃp nhơn sanh và lÃnh.
GIÃI: Ãi nay tÃn ngưÃng, đÃi xưa tÃn ngưÃng tin tưÃng chÃc cà và ThưÃng à tÃm thÃu hÃt cà phÃp tÃng, là rÃng đÃc hÃo sanh mà tà đà cà chÃng sanh.
14) NÃi NhÃt, NguyÃt, Tinh. ThÃn chi quÃn,
Vi ThÃnh, ThÃn, TiÃn, PhÃt chi chÃ.
NGHĨA: Cha TrÃi sanh Tam Quang Tam BÃu,
HiÃp ngũ chi thÃng nhÃt Ão mÃu.
GIÃI: Và ThiÃn à là chÃa cÃa mÃt NhÃt, mÃt NguyÃt, Sao, Tinh thÃn và là Chà tà cÃc và ThÃnh, ThÃn, TiÃn, PhÃt vÃy.
15) TrÃm tÃch chơn Ão, KhÃi mÃch tÃn nghiÃm:
NGHĨA: Ão TrÃi mÃt mÃt cao sÃu,
NgÃi ThÃy, Cha dÃy con và nÃo chơn.
GIÃI: Mà nÃn Chơn Ão rÃng lÃn minh mÃng là và Ãng TÃn NghiÃm là Cha cÃ.(5)
(5) Trong sÃch Là cà nÃi: Hà mÃnh gÃi cha mÃnh thà xưng là NghiÃm QuÃn cÃn xưng cha cÃa ngưÃi thà gÃi là TÃn NghiÃm.
16) BiÃn hÃa và cÃng, Lũ truyÃn BÃu Kinh dĩ giÃc thÃ:
NGHĨA: Chơn thÃn ThÃy hÃa muÃn muÃn,
LÃi truyÃn kinh bÃu quà hơn ngÃc ngÃ.
GIÃI: Ão TrÃi biÃn hÃa và cÃng hÃng dÃng phÃp tà phÃm và giÃng linh cơ truyÃn bà Kinh CÃo đà thÃc tÃnh ngưÃi đÃi giÃc mà muÃi.
17) Linh oai mÃc trÃc, ThưÃng thi ThÃn giÃo dĩ lÃi sanh:
NGHĨA: ChuÃng giÃc ngà giÃng kÃu huyÃn diÃu,
GiÃo dÃn đÃi hÃu Ãch quÃn sanh.
GIÃI: Và ThiÃn à oai linh chÃng lưÃng, thưÃng ra lÃi ThÃnh NgÃn, lÃm thi văn, ThÃnh giÃo giÃp lÃi cho chÃng sanh.
18) HÃng oai HÃng tÃ, Và cÃc và thưÃng:
NGHĨA: Oai linh tà thiÃn ơn TrÃi,
Bao la cao rÃng khÃng ranh khÃng bÃ.
GIÃI: Oai linh lÃn, tà bi lÃn, khÃng cÃng khÃng tÃt khÃng bÃc nÃo trÃn và ThiÃn à nÃa vÃy.
19) Ãi ThÃnh Ãi NguyÃn, Ãi TÃo Ãi Bi:
NGHĨA: Ãc ThÃnh rÃng thà nguyÃn ơn lÃn,
Ãn tÃo TrÃi bà Ãn bà quan.
GIÃI: ThÃnh đÃc lÃn, lÃi nguyÃn lÃn. Ãc TÃo HÃa lÃn, Ãc Tà Bi lÃn.
20) HuyÃn Khung Cao ThưÃng Ã,
NgÃc HoÃng tÃch phưÃc, hÃu tÃi Ãi ThiÃn TÃn:
NGHĨA: ThưÃng ThiÃn trÃn cÃi khung đen,
NgÃc HoÃng xà tÃi ban ơn cÃm quyÃn.
GIÃI: Ãc NgÃc HoÃng ban phưÃc tha tÃi, bao trÃm cà Thà giÃi cÃn cao lÃn khÃng cÃng khÃng tÃt, khÃng chi trÃn hÃt nÃa cho nÃn gÃi là Cao ThưÃng à Ãi ThiÃn TÃn.(6)
(6) Chà HuyÃn là sÃc đen, mÃu huyÃn; chà Khung là cao. Chà HuyÃn Khung trong sÃch Ãu hÃc cà cÃu "HuyÃn Khung bà thương tÃc xưng ThưÃng Ã". Và HuyÃn Khung thÃa sanh đÃu xưng là ThưÃng Ã.
mynhan
10-04-2010, 05:34 AM
Huynh đã vào đây rồi à...nhanh quá. Mynhan thật chậm hơn huynh 1 bước rồi.
ADMIN
10-04-2010, 11:04 AM
Chào Nguyen41!
Bạn nên post hẳn tài liệu trong VFF để đọc giả đọc & post links như là tham khảo thêm, chứ vào đây xem chỉ thấy cái link rồi phải qua trang khác. Sau này link bến kia thay đổi thì tài liệu này mất đi giá trị tham khảo.
nguyen41
10-04-2010, 11:25 AM
Chào Nguyen41!
Bạn nên post hẳn tài liệu trong VFF để đọc giả đọc & post links như là tham khảo thêm, chứ vào đây xem chỉ thấy cái link rồi phải qua trang khác. Sau này link bến kia thay đổi thì tài liệu này mất đi giá trị tham khảo.
chào Admin...!
vâng mình xửa ngay. and sory.
ĐK
nguyen41
10-04-2010, 11:26 AM
THÍCH GIÁO
1) Hỗn ộn Tôn Sư, Càn Khôn Chủ Tể:
NGHĨA: Ngôi Tôn Sư sanh từ vô thỉ,
Chủ Càn Khôn nhiếp lý âm dương.
GIẢI: Khí mù mù mịt mịt, minh minh mông mông là khí hư vô (vô vi). ức Nhiên ăng là một vị tôn sư sanh đời hỗn độn, vâng lịnh Trời làm chủ tể một cảnh Càn Khôn, Ngài đem bản thể ạo Hư Vô (vô vi) vạch để đời biết rõ ạo ở trong khí Hỗn Ngươn (vô cực).
Ngài là một đấng THẦY trong đời hỗn độn. ến khi Trời ất phân ngôi rồi, có Âm có Dương thì có ạo ở trong Âm Dương, cũng là một khí hư vô, biến hóa vô cùng. Nên Ngài nhóm ba ngàn Thế Giới qui về một mối cùng khí hư vô là đủ; nên mới gọi Ngài là Càn Khôn Chủ Tể.
2) Qui Thế Giái ư nhứt khí chi trung,
Ốc trần huờn ư song thủ chi nội:
NGHĨA: Cả thế giới qui vào một Khí,
Khắp hồng trần nắm chặc trong tay.
GIẢI: Tóm thâu Thế Giới: Người, vật và cả ba ngàn Thế Giới, về trong một khí hư vô (vô vi), nắm cõi Trần hoàn vào trong hai tay.
3) Huệ đăng bất diệt, Chiếu Tam thập lục Thiên chi quang minh:
NGHĨA: èn trí huệ cháy hoài không tắt,
Lại sáng soi ba sáu (36) cõi Trời.
GIẢI: Huệ ăng (đèn Thiêng Liêng) cháy hoài chẳng lu, chẳng tắt, chiếu rọi ba mươi sáu cõi Trời.
4) ạo pháp trường lưu, Khai cửu thập nhị Tào chi mê muội:
NGHĨA: ạo pháp như nước chảy cuộn giòng,
Khai khiếu các nguyên nhân hắc ám.
GIẢI: ạo pháp như giòng nước chảy hoài không dứt, mở mang thông suốt chín mươi hai ức Thiên Tước xuống cõi thế đương cơn mê muội chưa hề tỉnh giấc.
5) ạo cao vô cực, Giáo xiển hư linh:
NGHĨA: ạo vốn gọi thậm thâm diệu pháp,
Giáo lý truyền nhờ cái không linh.
GIẢI: ạo cao thâm vô cùng không tột, Ngài lập giáo mở dạy ạo hư vô (trống không) mà linh nghiệm.
6) Thổ khí thành hồng, Nhi nhứt trụ xang thiên:
NGHĨA: Vận tam muội phúng nên Hồng,
Ly trung hiệp nhứt, điều Khôn nên Càn.
GIẢI: Hà hơi nên cái móng, xem như một cây cột mà chống vững bầu Trời.
7) Hóa kiếm thành xích, Nhi tam phân thác địa:
NGHĨA: Kim khí luyện tây viên đến mực,
Dưới đơn điền chiếc Khảm nên Khôn.
GIẢI: Hóa gươm làm nên thước, mà lấy ba phân đở vững giềng đất không rúng động, ấy là ạo Pháp Vô Biên.
8) Công tham Thái cực, Phá nhứt khiếu chi huyền quang:
NGHĨA: Công đức Phật sánh ngôi Thái Cực,
Phá khiếu linh đặng Một mới mầu.
GIẢI: Công sánh ngôi Thái Cực, mở thông tổ khiếu nơi ải huyền quang.(1)
(1) Trong thân con người nơi xương sống từ dưới cái xương cụt đến cái xương Thiên Trụ và ba cái lóng xương ở cổ cộng là hai mươi một lóng. Cái tổ khiếu nầy từ dưới đếm lên trên cổ ở trên xương thứ bảy dưới xương thứ tám chính giữa xương sống có một cái lổ nhỏ trong lổ ấy có cái lổ vô vi kêu là Thần Thất là chỗ chơn linh Tổ Khiếu, còn hai bên là hai trái cật; bên hữu gọi là Long, rằng chơn hỏa; bên tả gọi là Hổ rằng chơn thủy. Tổ khiếu là cái nơi hô hấp của con người. Nhà tu dưỡng luyện kim đơn cũng do nơi tổ khiếu nầy luyện nên.
9) Tánh hiệp vô vi, Thống tam tài chi bí chỉ:
NGHĨA: Tánh hòa với thể Thiêng Liêng,
Thiên, ịa, Nhơn gồm một mối cao siêu.
GIẢI: ức tánh hiệp vô vi thì tóm hết Thiên, ịa, Nhơn là ý mầu nhiệm của Tam Tài, thảy đều qui về một mối.
10) a thi huệ trạch, Vô lượng độ nhơn:
NGHĨA: Nhơn sanh nhuần gội ân dày,
Vô số người đồng vượt khỏi bến Mê.
GIẢI: ức Nhiên ăng ra nhiều ân lành, như Trời mưa gội nhuần tế độ người, công đức không biết bao nhiêu mà độ lường.
11) ại Bi ại Nguyện, ại Thánh ại Từ:
NGHĨA: Bi quan, bi mẫn . . . thệ nguyền,
ức Thánh sáng chói, đức Nhơn rộng dày.
GIẢI: Cái sự thương sự nguyện của Phật rất lớn.(2)
(2) Sách có câu: "Phật ái chúng sanh như mẫu ái tử", Phật thương chúng sanh như mẹ thương con vậy.
12) Tiên Thiên Chánh ạo, Nhiên ăng Cổ Phật. Vô vi Xiển giáoThiên Tôn:
NGHĨA: Nền ạo vốn từ nơi Nhứt Khí,
Cổ Phật Nhiên ăng tạo tuyệt mầu.
Dạy ạo ấn chứng vô vi,
Tổ sư Xiển Giáo thiệt vì Thiên Tôn.
GIẢI: Ngôi Tiên Thiên Chánh ạo, Phật Nhiên ăng từ đời Thượng cổ mở dạy ạo vô vi là vị Phật tối cao hiệu là "Xiển Giáo Thiên Tôn".
nguyen41
10-04-2010, 11:26 AM
TIÊN GIÁO
1) Tiên thiên khí hóa, Thái Thượng ạo Quân:
NGHĨA: Từ vô thỉ đã sanh Thái Thượng,
Vốn thật là một khí khinh thanh.
GIẢI: Ngôi Tiên Thiên Chánh ạo, khí Tiên Thiên biến hóa ức Thái Thượng ạo Quân làm Giáo Chủ ạo Giáo.
2) Thánh bất khả tri, Công bất khả nghị:
NGHĨA: ức Thánh khó gẫm khó suy,
Công cao khó tưởng, tài cao khó bì.
GIẢI: Thánh đức của Ngài, người chẳng khá dòm lường mà biết đặng. Cái công đức cao dày cũng chẳng khá nghị luận cho đặng.
3) Vô vi cư Thái cực chi tiền, Hữu thỉ siêu quần chơn chi thượng:
NGHĨA: Từ vô thỉ ạo không hình tướng,
ến Hậu thiên siêu việt tuyệt mầu.
GIẢI: ạo Vô Vi ở trước ngôi Thái Cực là khi Trời ất chưa phân, đến khi Trời ất mở mang rồi thì vô vi có trước, gọi là đời Hữu Thỉ (nghĩa là có trước hết) rồi mới có ức Thái Thượng đứng bực trên hết các vì Chơn Thánh Chơn Nhơn.
4) ạo cao nhứt khí, Diệu hóa Tam Thanh:
NGHĨA: Cao nhờ ngươn khí tinh anh,
Chơn Thần trong sạch hóa hình Tam Thanh.
GIẢI: ạo Giáo cao rộng cả bầu Trời ất, phép huyền diệu biến hóa Tam Thanh. Tam Thanh là: Thái Thanh, Thượng Thanh, Ngọc Thanh.
5) ức hoán hư linh, Pháp siêu quần thánh:
NGHĨA: ức trọng bởi hư vô linh nghiệm,
ạo cao vời trên các Nhánh chi.
GIẢI: ạo đức sánh hơn các Thần linh, pháp luật cao siêu hơn các Tiên Thánh.
6) Nhị ngoạt thập ngũ, Phân tánh giáng sanh:
NGHĨA: Tháng hai, ngày vọng, nhà Thương,
Vô cực Chơn Tánh phân thân giáng trần.
GIẢI: ời nhà Châu vua Mục Vương năm thứ năm mươi hai, nhằm ngày rằm tháng hai, Ngài phân tánh giáng sanh ra ức Thái Thượng.
7) Nhứt thân ức vạn, Diệu huyền thần biến:
NGHĨA: Một thân biến thiên hình vạn trạng,
Một Chơn linh diệu hóa Thần Tiên.
GIẢI: Một mình mà hóa ra muôn ức, thật là phép huyền diệu như Thần, biến hóa không cùng.(1)
(1) Sách chép: Không có đời nào mà không có ức Thái Thượng giáng sanh; như đời Vua Huỳnh ế là Ông Quảng Thành Tử, đời Vua Văn ế hiệu là Ông Nhiếp Ấp Tử làm quan Trụ hạ Sử đời Vua Khương Vương hiệu rằng Quách Thúc Tử, đầu đời Hớn hiệu rằng Huỳnh thạch Công, thiệt là phép biến hóa huyền diệu vô cùng.
8) Tử khí đông lai, Quảng truyền đạo đức:
NGHĨA: Tường vân bổng hiện phía ông,
Truyền Kinh ạo ức giốc lòng độ nhân.
GIẢI: Lằng tử khí từ hướng ông bay đến rộng truyền Kinh ạo ức.(2)
(2) Sách chép: Ông Doãn Hỉ làm quan Lịnh Doãn bên Ải Hàm Cốc biết xem mây gióng khí. Ngày kia trông thấy một vòng ngút đỏ tía từ hướng ông bay đến biết rằng có vì Thánh Nhơn đến Ải, liền nghiêm chỉnh áo mão ra cửa mà tiếp rước. Chẳng bao lâu có Ông Lão Tử cỡi Thanh Ngưu bay đến. Ông bèn vội vàng tiếp rước vào Ải đàm luận phép huyền diệu và được rộng truyền Kinh ạo ức năm ngàn dư lời.
9) Lưu sa tây độ, Pháp hóa tướng tông:
NGHĨA: Thoạt qua tới phía Tây miền cát,
Pháp vô vi bổng hóa Tướng Tông.
GIẢI: Phía Tây qua đất Lưu Sa dùng phép huyền diệu hóa ra vì Tướng Tông, đến đâu Ngài cũng lấy Kinh Sám trong tâm ra mà giảng ạo độ đời.
10) Sản Tất Viên Phương Sóc chi bối, ơn tích duy mang:
NGHĨA: Trang Châu Phương Sóc sanh ra,
Cũng đồng quan niệm với thời Lạc Quân.
GIẢI: Ông Trang Tử làm quan ở vườn Tất Viên nên kêu là Ông Tất Viên cùng với Ông ông Phương Sóc cũng do Ngài hóa thân đó, cái dấu linh đơn thiệt là huyền diệu nhiệm mầu.
11) Khai Thiên ịa nhơn vật chi tiên, ạo kinh hạo kiếp:
NGHĨA: Luyện đơn chỉ máy trường sanh,
ạo trước Trời ất nhơn sanh mới mầu.
GIẢI: ạo mở trước Trời ất, trước người và loài vật, ạo trải lâu đời nhiều kiếp.
12) Càn khôn hoát vận, Nhựt nguyệt chi quang:
NGHĨA: Càn Khôn chốt máy cao sâu,
Âm Dương Nhựt Nguyệt thạnh suy tuần hườn.
GIẢI: Trời ất xây vần, ạo như mặt Nhựt, mặt Nguyệt tỏ rõ không chỗ nào không soi xét.
13) ạo pháp bao la, Cửu hoàng tỉ tổ:
NGHĨA: ạo Pháp rộng bao gồm Cửu Tổ.
GIẢI: ạo như thể giềng lưới bao la giăng trùm cả võ trụ. Ngài là Tỉ Tổ (3) của họ Cửu Hoàng.
(3) Hình người thụ thai, trước tượng lỗ mũi; nên thỉ tổ gọi là Tỉ Tổ, mà tỉ là mũi.
14) ại Thiên Thế Giái, Dương tụng từ ân:
NGHĨA: Cõi ại Thiên ca tụng ân lành.
GIẢI: Trong cõi ại Thiên Thế Giới nên ca tụng ân lành của ức Thái Thượng Lão Quân.
15) Vĩnh kiếp quần sanh, Ngưỡng kỳ huệ đức:
NGHĨA: Hồng trần cứu vớt độ người, chúng sanh.
GIẢI: Kẻ chúng sanh nhiều kiếp cũng ngưỡng thờ ơn lành ở ức Ngài.
16) ại Thần ại Thánh, Chí cực chí tôn:
NGHĨA: Thấu then Chí Cực, Thần thành Kim Thân.
GIẢI: Thiệt bực ại Thần, ại Thánh rất tột rất cao, rất cực phẩm rất tôn cao.
17) Tiên Thiên chánh nhứt, Thái Thượng
ạo Quân Chưởng Giáo Thiên Tôn:
NGHĨA: Nền ạo mở từ khi Nhứt khí,
Chức Thiên Tôn chấp chưởng Thần Tiên.
GIẢI: Hiệu Ngài là Tiên Thiên Chánh Nhứt; ạo Giáo gọi là Thủ nhứt, Thích Giáo gọi là Qui Nhứt; Nho Giáo gọi là Oán Nhứt. Vì vậy cho nên ức Thái Thượng Lão Quân chưởng quản ạo Giáo là Vì Thiên Tôn.(4)
(4) Nhứt có nghĩa: Thiên đắc nhứt dĩ Thanh, ịa đắc nhứt dĩ Ninh, Nhơn đắc nhứt dĩ Thành; cho nên Trời, ất, Người một thì ninh tịnh.
nguyen41
10-04-2010, 11:30 AM
NHO GIÁO
1) Quế hương nội điện, Văn Thỉ thượng cung:
NGHĨA: ều quế hương mùi bay thơm ngát,
Gốc vốn là trên cõi Thượng Thiên.
GIẢI: Mùi quế hương nực chốn nội điện, ức Văn Xương ở căn đầu nơi chốn thượng cung.(1)
(1) Sách có câu "Lam bào nhả quế hương", khi xưa hễ người thi đỗ Trạng thì vua ban cho cái áo Lam Bào và cho đi vu khai ba ngày cho rõ danh thơm, thì được tiếng thiên hạ ngợi khen thơm tho nực như mùi quế hương bay khắp vậy. Còn về văn khoa đấu tự thì có tích ông ậu Yên Sơn sanh ra năm người con trai được sự ứng mộng của cha bảo tu nhơn, tích đức thì năm đứa con ấy sau nầy sẽ nên danh. Ông vâng lời cha phát nguyện lòng lành lấy nghĩa phương giáo tử. Nhờ đó năm con của ông học hành rất tiến, đồng thời ông có trồng năm cây quế trước sân. ến khi năm người con trai ông vào trường thi đều được danh đề Kim bảng, đời truyền là: "Ngũ quế đường khai".
2) Cửu thập ngũ hồi, Chưởng thiện quả ư, thi thơ chi phố:
NGHĨA: Chín lăm lần xuống xuống lên lên,
Gieo trái ức, Văn chương, Nhơn nghĩa.
GIẢI: ức Văn Xương ở cõi Thượng Cung, chín mươi lăm lần luân hồi gieo trái lành nơi vườn Thi Thơ.(2)
(2) Trong Kinh iển ghi chép ạo Thánh dạy việc lành là: Nhơn, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Thành ra cho nên lấy Kinh iển làm vườn lấy việc lành làm giống trái ngon trồng tỉa, đặng lưu truyền cho đời đám ruộng gọi rằng "Tâm iền" vun bồi cội quế thơm tho, con cháu gìn giữ ruộng đất nối đời hưởng dùng không cùng.
3) Bá thiên vạn hóa, Bồi quế thọ ư, âm chất chi điền:
NGHĨA: Trăm lần phải sanh sanh hóa hóa,
Vun quế hòe, âm đức, tâm điền.
GIẢI: Trăm ngàn lần hóa thân cũng lấy đức âm chất gieo làm đám ruộng gọi rằng Tâm iền vun bồi cội quế thơm tho, con cháu gìn giữ ruộng đất nối đời hưởng dùng không cùng.
4) Tự lôi trữ bính, linh ư phụng lãnh:
NGHĨA: Văn tự linh hơn sấm lôi,
Linh hơn linh điểu mở thông ạo người.
GIẢI: ời Thượng cổ chưa có văn tự thì lấy gút để nhớ việc. ến đời vua Phục Hi có Long Mã phụ đồ, vua Phục Hi vạch Bát Quái ồ chế ra văn tự. Qua đời Huỳnh ế có ông Thượng Kiết trí tuệ thông minh trện thì biết xem tượng sao, dưới thì xét soi dấu chim chế làm văn tự. Khi văn tự thành rồi thì Trời mưa luôn ba ngày, quỷ ban đêm khóc (3). Từ đó văn tự mở mang trong thiên hạ, người đều tấn hóa.
(3) Quỉ khóc bởi sợ có chữ ghi chép chơn lý đạo đức, người người đều theo chơn đạo bỏ tà thuyết thì quỉ đạo phải bị tận diệt. Khi ức Khổng Tử làm kinh Xuân Thu sách Hiếu Kinh rồi thì quì lạy về ngôi Bắc ẩu tỏ bày ý nghĩa của mình làm kinh sách. Trời liền mưa ròng ba ngày có móng đỏ từ trời sa xuống hóa ra sắc vàng trên có chữ "Xuất sách cố tự".
5) Chí như ý từ, tường ư ngao trụ:
NGHĨA: Chí lành hiệp với ý lành,
Cự Ngao chở nổi núi non đức dày.
GIẢI: Chí như lời đạo đức ý tứ uyên thâm cảm động lòng Trời, lời ý hiền lành hơn Ngao Trụ đã chống vững năm hòn núi nơi biển Bột Hải.(4)
(4) Ngao Trụ là núi Ngao. Ở phía ông biển Bột Hải có năm hòn núi: 1) Núi ại Dư 2) Núi Viên Kiều 3) Núi Phương Hô 4) Núi Dinh Châu 5) Núi Bồng Lai. Năm hòn núi nầy các vì Thánh Tiên thường ở tại đó, núi không chơn, thường trôi theo nước lớn nước ròng. Các vì Tiên Thánh bèn tâu với Ngọc ế nghe. Ngài sợ núi ấy để vậy thì trôi ra tứ phía mới sai mười lăm con Cự Ngao cất đầu đội năm hòn núi ấy vững lại chẳng cho trôi nữa mà lại phân làm ba phiên mỗi sáu muôn năm đổi một lần. Về sau hễ ai thi đỗ Trạng thì gọi độc chiếm Ngao ầu. ến như nay mà lòng người ý thành chắc thiệt một dạ nhân từ thì phước đức để cho con cháu lâu dài. Thì ra chẳng qua là một đời vinh hiển sang trọng đó thôi, sao bằng phước đức để đời đời lưu truyền con cháu hưởng không cùng.
6) Khai nhơn tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu:
NGHĨA: Trau tâm gốc cội con người,
Hiếu thảo cha mẹ mới nên đạo người.
GIẢI: Còn việc giáo hóa thì ạo Nho mở rộng lòng người, dạy con người phải thờ cha kính mẹ, lấy chữ hiếu làm gốc.
7) Thọ quốc mạch tất tiên, ư trí chúa chi trung:
NGHĨA: Ơn nhà nợ nước trước xong,
Công ơn bảo hộ Vua lành Tôi ngay.
GIẢI: Kẻ nhơn thần tâm phải vững bền như mạch nước, phải hết lòng trung, liều mình cùng chúa, dầu cho ngàn cay muôn đắng vào sanh ra tử, đạp sỏi giày sành cũng chẳng nao lòng thối chí. Còn như các ấng đã dày công dạy dổ ta nẻo chánh đàng ngay thì ta phải làm thế nào cho khỏi phụ các Ngài.
8) Ứng mộng bảo sanh, Thùy từ mẫn khổ:
NGHĨA: iềm lành báo mộng lợi nhơn,
Dù cho khổ cực nhưng mà chí cao.
GIẢI: Còn phận làm vua thì phải có lòng nhơn từ, bảo hộ sanh linh thương xót những kẻ dân nghèo. Hễ có lòng thương dân nghèo khổ thì khiến cho mình có tư tưởng hay nằm chiêm bao.(5)
(5) Sách chép: Châu Võ Vương có lòng đạo đức tư tưởng thường, cho nên chiêm bao thấy ông Châu Công ứng mộng bảo làm lành. Võ Vương là vì vua không ra hành chánh hiệu lịnh, chỉ lo làm việc đạo đức bảo hộ sanh linh, để lòng nhơn từ thương người khổ nạn...
9) ại Nhơn, ại Hiếu, ại Thánh, ại Từ:
NGHĨA: Nhơn, hiếu rộng tâm lành sáng chói.
GIẢI: Nhơn lớn thì ơn lớn, thánh đức lớn từ bi cũng thiệt là lớn.
10) Thần văn, Thánh võ, Hiếu đức trung nhơn:
NGHĨA: Văn có Thần gốc Hiếu Nghĩa Nhơn,
Võ nơi thông rõ âm dương.
Hiếu cha thảo mẹ đứng đầu ạo Nho,
ức ấy thiệt Tâm làm âm chất.
ạo thờ Vua một mực thẳng ngay,
Chữ Nhơn gồm bộc ạo Nho.
GIẢI: Một là hiếu thuận, hai là nhơn từ, ba là trung tín, bốn là đức hạnh; nghĩa là bốn đức khiêm cung đủ vậy.
11) Vương Tân sách phụ, Nho Tông khai hóa:
NGHĨA: Ngôi vua không nước dạy rành nhơn luân,
Dựng Nho Giáo khai minh bổn thiện.
GIẢI: ức Khổng Thánh đi châu du, các nước đều nghinh tiếp Ngài gọi là vì Vương Tân (khách của vua). Vì Ngài hay giúp vua làm điều nhơn đạo, đàm luận chánh giáo, hễ nước phải đạo thì Ngài đến, nước chẳng phải đạo thì Ngài lui, tới lui thong thả nên gọi là ngôi Vương Tân, Ngài mở mang giáo hóa nên Ngài là Giáo chủ trong ạo Nho vậy.
12) Văn Tuyên Tư Lộc, Hoằng nhơn ế quân:
NGHĨA: Tố Vương rày tặng Văn Tuyên,
ế Quân đức cả sáng rày thinh thinh.
GIẢI: Vua Văn Tuyên hay việc thi cử khoa lộc là vì ế Quân nhơn đức rộng, tánh chất thiệt ngay thẳng chánh sáng, báu rạng hiền lành.
13) Trừng chơn chánh quang, Bửu Quang từ tế Thiên Tôn:
NGHĨA: Thiên Tôn chấp chưởng cầm quyền ạo Nho.
GIẢI: Trong tốt, chắc thiệt, ngay thẳng, sáng láng, lành thương tế độ là vì Bửu Quang Từ Tế Thiên Tôn.
nguyen41
10-16-2010, 03:16 AM
CHƯƠNG I
NGUYỄN BỈNH KHIÊM Hay THANH SƠN ĐẠO SĨ
http://129.78.64.1/~cdao/booksv/BuiV...nbinhkhiem.jpg
a. Phần Đời
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tự là Hạnh Phủ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo) đỗ Tiến Sĩ cấp Đệ Nhất Giáp Đệ Nhất Danh (Tục gọi là Trạng Nguyên).
Năm 1935, Đại Chính thứ 6, làm quan nhà Mạc đến chức Lại Bộ Thượng Thơ, phong Trình Truyền Hầu, sau thăng là Trình Quốc Công, vì vậy quen gọi là Trạng Trình. Khi cáo quan về làm Am Bạch Vân, sửa cầu Nghinh Phong, Trường Xuân, lập Bến Trung.
Tân ở Bến Tuyết Giang để dạy học. Do đó người đời thường gọi là Tuyết Giang Phu Tử.
Tuy ở ẩn nhưng danh vọng rất lớn, Vua Mạc tôn trọng như bậc Quốc Sư. Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh cũng cho người vấn kế ông.
Có nhiều học trò nối tiếp như: Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ…
Ông là một nhà tư tưởng lớn, một tác giả lớn của thời bấy giờ, ảnh hưởng tới học phong, văn phong của một thế kỷ.
Tác phẩm Hán có: Bạch Am Thi Tập.
Tác phẩm Nôm có: Bạch Vân Quốc Ngữ Thi, Trạng Trình Nguyên Sấm Ký.
Cụ sinh năm Tân Hợi 1491 năm thứ 22 niên hiệu Hồng Đức đời vua Thánh Tôn nhà Lê. Thân phụ là Văn Đình sau được nhà Mạc truy phong là Thái Bảo Nghiêm Quận Công. Thân Mẫu là con gái quan Hộ Bộ Thượng Thư Nhữ Văn Lên, sau được nhà Mạc truy tặng chức Thứ Thục Phu Nhân.
Cụ học với Quan Bản Nhản Lương Đắc Bằng. Cụ Bằng trước khi qua đời có trối rằng: Đây Thầy cho con quyển sách nầy, chỉ có con mới hiểu được. Lúc Thầy đi sứ bên Tàu có một cụ già cầm trao cho Thầy và căn dặn: “Chừng nào trong tâm linh nhà ngươi muốn cho ai thì người ấy được phần”. Bộ sách nầy là: THÁI ẤT THẦN KINH.
Bắt đầu từ đó nhờ bộ sách ấy mà cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy suốt những huyền bí của Trời Đất, rồi cụ nổi tiếng về khoa lý số.
Cụ thi Hương đổ giải Nguyên năm 44 tuổi và thi Đình đổ Trạng Nguyên năm 45 tuổi. Cụ được cử làm Tả Thị Lang, Đông Các Đại Học Sĩ và gia phong đến chức Trình Truyền Hầu. Làm quan được 8 năm cụ cáo quan về nghỉ ở làng lập ra một cái am gọi là Am Bạch Vân và lấy hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. Cụ sống một cuộc đời an nhàn ẩn dật, hằng ngày cùng các sư hoặc chèo thuyền đi xem đánh cá ở Đề Hải, Úc Hải hoặc lên những nơi thắng cảnh như Yên Tử, Ngọc Vân, Kinh Chủ, Đồ Sơn…
Có biết bao sự tiên tri mà cụ đã làm cho người đời mến phục. Có nhiều quyển Sấm Trạng Trình đã tường thuật nên chúng tôi miễn đề cập đến những điều tiên tri ấy. Cần thiết là khi về cảnh Bồng Lai, cụ đã hoạt động thế nào và lưu những tác phẩm gì để dạy đời tu niệm, rõ máy huyền vi của Trời Đất.
Cụ mất ngày 28 tháng 11 năm Ất Sửu (1585) niên hiệu Duyên Hạnh năm thứ 5 đời vua Mạc Mậu Hợp, tức năm thứ 8 niên hiệu Quang Hưng nhà Lê. Hưởng thọ 95 tuổi cách đây 378 năm.
Lúc sanh tiền cụ lưu lại bài thi trong cảnh thanh nhàn cư sĩ như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dẩu ai vui thú nào?
Ta dại ta tìm nơi vắn vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân ẩn hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp,
Nhìn xem phú quí tợ chiêm bao.
Sau đây là Cảm đề và Sấm ký của Trạng Trình
CẢM ĐỀ :
Thanh nhàn vô sự là tiên,
Năm hồ phong nguyệt ruỗi thuyền buông chơi.
Cơ tạo hoá, Phép đổi dời,
Đầu non mây khói toả,
Mặt nước cánh buồm trôi,
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi,
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời.
Tuổi già thua kém bạn,
Văn chương gởi lại đời,
Dở hay nên tự lòng người cả,
Bút nghiên soi hoa chép mấy lời.
Bí truyền cho con cháu,
Dành hậu thế xem chơi.
nguyen41
10-16-2010, 03:17 AM
SẤM KÝ :
Nước Nam từ họ Hồng Bàng,
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi vần.
Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước,
Đã bao lần ngôi nước đổi thay,
Núi sông thiên định đặt bày,
Đồ thư một quyển xem nay mới rành.
Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành,
Đông Á nhật xuất,
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật,
Đoài cung vẫn tinh,
Phụ nguyên chi thống,
Đế phế vi đinh.
Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
Hoà đao mộc hồi dương sống lại.
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương,
Hà thời biện lại vi vương,,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
Lê tồn Trịnh tại,
Trịnh bại Lê vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang,
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
Chim bàng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ Quận Công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống thân con,
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi.
Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dực lòng chinh chiến u ê,
Thập trên tứ dưới nhất đề chữ tâm.
Để loài bạch quỉ Nam xâm,
Làm cho trăm học khổ trầm lưu ly.
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy,
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giàu sang biết gởi nơi đâu chuyện nầy.
Kìa kìa lá thổi lá rung cây,
Rung Bắc, rung Nam, rung tới Tây.
Tan tác kiến kiều an đất nước,
Xác sơ cổ thụ, sạch am mây.
Lâm giang nổi sống mù thao cát,
Hưng địa tràng dâng hỏa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái,
Nhận con nhà vĩnh bảo cho hay.
Đổ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua.
Dứt năm hai bảy mười ba (1937)
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây. (Pasquies)
Rồng nằm bể cạn dể hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay.
Ngựa đã gát yên không người cởi,
Dê không ăn lộc ngảnh về Tây.
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu,
Gà kia vỗ cánh trập trùng bay.
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa,
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hào biết đấy mới ngoan,
Chữ rằng lục thất nguyệt gian,
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
Ra tay điều đỉnh bộ mai,
Bấy giờ mới rõ là người an dân.
Lọ là phải nhọc kéo quân ,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
Phá điền than đến đàn dê,
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng.
Dê đi dê lại tuồn luồn,
Đàn đi nó cũng một môn phù trì.
Thương những kẻ nam nhi chí cả,
Chớ vội sang tất tả chạy rong.
Học cho biết chữ cát hung,
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi.
Hễ trời sinh xuống phải thì,
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
Kìa những kẻ vội lòng phú quí,
Xem trong mình một tí đều không.
Ví dù có gặp ngư ông,
Lưới giăng đâu dễ nên công mà hòng.
Khuyên những đứng thời trung quân tử,
Lòng trung nghĩa nên giữ cho minh.
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh,
Thái nhâm, thái ất ….mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến,
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
“Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông?
Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch.
Kình cư hải ngoại huyết lưu hồng,
Kê minh ngọc thụ thiên khuynh Bắc,
Ngưu xuất Lam điền nhật chính Đông.
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng,
Tứ phương thiên hạ thái bình phong”.
Ngõ may gặp hội mây rồng,
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài.
Nước Nam thường có thánh tài,
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường ?
So mấy lề đè tàng kim quỹ,
Kề sau này ngu bỉ được coi,
Đôi phen đất lở cát bồi,
Đó đây ông kiến dậy trời quỷ ma.
Ba con đổi lấy một cha,
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền.
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên,
Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng gần.
Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân,
Đến thời thiên hạ vô quân,
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh,
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung.
Thiên sinh hữu nhất anh hùng,
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
Thái Nguyên cận Bắc đường xa,
Ai mà tìm thấy mới là thần minh.
Uy nghi dung mạo khác hình,
Thác cư một góc kim tinh phương Đoài.
Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi,
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân.
Binh thư mấy quyển kinh luân,
Thiên văn, địa lý, nhân dân phép mầu.
Xem ý trời ngỏ hầu khải thánh,
Dốc sinh ra điều chỉnh bộ mai.
Song thiên nhật nguyệt sáng soi,
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường.
Thông minh kim cổ khác thường,
Thuấn Nghêu là trí, Cao Quang là tài.
Đấng hiên ngang nào ai biết trước,
Tài thao lược yêm bác vũ văn.
Ai còn khoe trí khoe năng,
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
Chưa từng thấy nay đời sự lạ,
Chốc lại mòng gá vạ cho dân.
Muốn bình sao chẳng lấy nhân,
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình.
Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán,
Lại đua nhau quần thán đồ lê.
Chức nầy quyền nọ say mê,
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương.
Kẻ thì phải thuở hung hoang,
Kẻ thì bận của bóng toan khốn mình.
Cửu cửu càn khôn dĩ định, (9x9=81)
Thanh minh thời tiết hoa tàn.
Trức đáo dương đầu mã vĩ,
Hồ binh bát vạn nhập Trường an.
Nực cuời những kẻ bàng quan,
Cờ tan lại muốn toan đường chống xe.
Lại còn áo mũ xum xoe,
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
Ghê thay thau lẫn lộni vàng,
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng.
Thành ra tuyết tán mây tan,
Bấy giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
Can qua việc nước tơi bời,
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân.
Oai phong khấp quỷ kinh thần,
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca.
Rừng xanh núi đỏ bao la,
Đông tàn Tây bại sang gà mới yên.
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên,
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh,
Can qua xứ xứ khổ đao binh.
Mã đề dương cước anh hùng tậu,
Thân Dậu niên lai kiến thái bình.
Sự đời tính đã phân minh,
Thanh nhàn mới kể chuyện mình trước sau.
Đầu thu gà gáy xôn xao,
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
Chó kêu ầm ỉ mùa Đông,
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi.
Lợn kêu tình thế lâm nguy,
Quỷ vương chết giữa đường đi trên trời.
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi,
Trâu cày ngốc lại chào đời trước ta.
Hùm gầm khắp nẻo gần xa,
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời.
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng.
Ngựa lồng quỷ mới nhăn răng,
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời.
Chín con rồng lộn khắp nơi,
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu.
Lời truyền để lại bấy nhiêu,
Phương Đoài giặc đã đến chiều bại vong.
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng,
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
Đầu can vô tướng ra binh,
Ắt là trăn họ thái bình âu ca.
Thân Kinh Thái Aát suy ra,
Để danh con cháu đem ra nghiệm bàn.
Ngay thường xem thấy quyển vàng,
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi.
Bởi Thái Ất thấy lạ đời,
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân.
Kể từ đời Lạc Long Quân,
Đắp đổi xoay vần đến lúc thất gian.
Mỗi đời có một tội ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình.
Phú quí hồng trần mộng,
Bần cùng bạch phát sinh.
Hoa thôn đa khuyển phệ,
Mục giả giục nhân canh.
Bắc hữu Kim thành tráng,
Nam hữu Ngọc bích thành.
Phân phân tùng bách khởi,
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh.
Bảo giang thiên tử xuất,
Bất chiến tự nhiên thành.
Rồi đây mới biết thánh minh,
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò.
Nhị Hà một dải quanh co,
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào.
Khắp hoà thiên hạ nao nao,
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
Nói đến độ thầy tăng ra mở nước,
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu,
Bây giờ phép ấy để lâu không hào.
Cũng có kẻ non trèo biển lội,
Lánh mình vào ở nội Ngô, Tề.
Có thầy Nhân Thập đi về,
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh.
Những người phụ giúp thánh minh,
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai.
Phùng thời nay hội thái lai,
Can qua chiến trận để người thưởng công.
Trẻ già được biết sư lòng,
Ghi làm một bản để hòng dở xem.
Đời này những Thánh cùng Tiên,
Sinh những người hiền trị nước an dân.
….
Nầy những lúc thánh nhân chưa lại,
Chó còn nằm đầu khải cuối thu.
Khuyên ai sớm biết khuông phù,
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngõ hầu.
Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏm,
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp cao.
Thấy Sấm từ đây chép vào,
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.
nguyen41
10-19-2010, 04:03 AM
SẤM TRẠNG TRÌNH
Chừng nào thằng ngóc làm vua,
Thế gian cạo trọc, thầy chùa để râu.
Cuộc đời ai dể biết đâu,
Yêu tinh đặng thế bóp đầu Thần Tiên.
Quan làng ỷ thế, ỷ quyền,
Dẩu khôn giả dại mới yên phận mình.
Mặc ai khi rẻ khi khinh,
Việc làng, việc nước làm thinh chớ bàn.
Ta tin ta mới đặng an,
Quan làng bè bạn chỉ đàn chó trâu.
Việc người thì mặc người âu,
Nghiên tai giả điếc, lắc đầu làm ngơ.
Muốn yên mình lặng như tờ,
Dân bàn việc nước thì khô xác mình.
Bởi đời quốc thể bù nhìn,
Quan làng tàn bạo sinh linh tơi bời.
Dân quân thảm khổ nơi nơi,
Quốc hồn mờ ám hỡi ơi thế quyền.
Nước nhà khuynh đảo ngửa nghiên,
Quan tham hại nước lợi riêng cho mình.
……………………………………
Sớm ưa, trưa ghét nhơn tình đời ni.
Ai hiện tiền hiểm thế tiên tri,
Không tiền không thế người khi ngu đần.
Chớ hà hiếp lo riêng cần,
Đến nơi Tiên Phật, Thánh Thần chẳng an.
Nghèo nên bô gổng chốc giàu sang,
Đứa ngu đổi bạn ra đàng gọi khôn.
Bởi đời toàn lũ cô hồn,
Khinh khi nhơn nghĩa, trọng tôn bạc tiền.
Đứa ngu đội lốt Thần Tiên,
Mở miệng thì rặc vô duyên một giòng.
Chừng nào cây sắc trổ bông,
Đường đèn như mực, Lạc Hồng tai thi.
Trung thần ái quốc để khi,
Phản thần mãi quốc nên khi để đời.
Thức thì thế sự bỏ trôi,
Ngáy không nhầm lúc dể bơi hại mình.
Trung thần ái quốc để khi,
Phản thần mãi quốc nên ghi để đời.
Thức thì thế sự bỏ rơi,
Ngáy không nhầm lúc dể bơi hại mình.
Võ quan, võ tướng vô tình,
Trung không cùng chúa, cũng không ích gì?
Chừng nào lúa mọc trên chì,
Voi đi trên giấy đến kỳ Đông Chu.
Trí thời giả điếc, giả ngu,
Khôn thì giả dại là tu lấy mình.
Cầm quyền toàn lũ yêu tinh,
Oan nhiều mạng thác cũng sinh hai đời.
Mua quan bán chức lấy lời,
Hại dân, hại nước coi trời như không.
Bì trung cốt nịnh rặt rồng,
Kết phe kết đảng nối lòng phải nguyên.
Nồi da xáo thịt ngổ thay,
Miễng mình béo mở mặc ai ốm gầy.
Cáo kia mượn kế hại cầy,
Mẹ cha ư nịnh giết bầy con ngu.
Động tâm Thượng Đế dạy ru,
Xuống nhiều tai họa xuân thu sửa lần.
Gió sầu mưa thảm cõi trần,
Thiên quan đại chấn quần thần ngó xem.
Canh Tân xuất mịt mù hôm,
Nhâm Tý bảng lảng ngoài đem binh vào.
Giáp thì thấy rõ binh đao,
Ất thì chiến họa xâm vào tràn lan.
Thiên tai chiến sự đa đoan,
Quốc dân nghiêng ngửa tham quan hại đời.
Phản thần bán nước khi Trời,
Gọi rằng trung trực hởi ôi thế tình.
Nhựt hữu hiệu sơn nhứt nhựt binh,
Tám giang khi địa nhị nhị giang.
Kim tú chầu tại lac thế trần khôn,
Ngu hại hườn chung khổ hại mình.
Sát dân xung tận cung đình,
Thiên oai chấn nộ luật hình ban ra.
Mười phần mất bảy còn ba,
Mất hai còn một mới ra thái bình.
Trục kia chơi với Đồng Minh,
Hai sông khô cạn nghiệt tinh tỏ ngời.
Ra oai đánh dẹp mọi nơi,
Năm châu bốn biển thây phơi thập trùng.
Mùa xuân gió mát lạnh lùng,
Cua kình trở giọng về cùng lũ dê.
Cuộc đời như thể trò hề,
Nực cười lũ chó còn mê lợi quyền.
Sình ương khó nổi xào chiên,
Quốc dân nghiêng ngửa đảo điên bốn bề.
Ra đi thì khó nổi về,
Ghe kia hết bánh thả về không trôi.
Chừng nào Chợ Lớn hết vôi,
Biển Đông hết cá cuộc đời lao đao.
Lò rèn hết thép rèn đao,
Hết đồng đút đỉnh, hết thao bán nồi.
Chị đem bán một lời mười,
Gạo châu cũi quế tiếng người than van.
Giả bộ quá sánh bạc vàng,
Kẻ đói người rách lan tràng chợ quê.
Tiết trời đánh đổ bông huê,
Nhân dân phải chịu thảm thê hận sầu.
Đại bàn xuống phá đài lầu,
Ngạc ngư phóng tặc thuyền tàu tan hoang.
Rồi Nam cũng chịu lầm than,
Phương Đông ba tỉnh phải mang họa sầu.
Trớ triêu cảnh sắp nhiệm mầu,
Phồn hoa đô thị thành sầu đớn đau.
Cuộc đời gẫm thật cơ cầu,
Trung thua quyền nịnh, Tiên hầu quỉ ma.
Khỉ đoàn giật cập mảng xà,
Trăng tròn chính một thì ta xuống hầm.
Yêu đương cũng phải lạc lầm,
Sáu nơi khói lửa sấm gầm Sài Môn.
Nghèo hèn không có quách chôn,
Giàu thần quyền thế biết khôn lánh rồi.
Nhưng mà họa có đâu thôi,
Bầy con bế cái nổi trôi đầy đàng.
Đến hồi quốc gia lâm nàn,
Chư Tiên ẩn mặt cường quan độc quyền.
Càng ngày càng đảo càng điên,
Thân ta như thể thân chiên đánh tròn.
Ô hô! Giống khéo giống khôn,
Vậy thì phải trả xác hồn lìa xa.
Thịt rơi xương nát máu ra,
Thầy Tăng chẳng chịu ở nhà Phù Tang.
Sưu cao thuế nặng ta mang,
Đàng ta mới biết xa đàng nặng cân.
Thân dậu lánh về hương lâu,
Miễn gần Sài Thành đến gẫu bỏ thi.
Cái năm chiến họa loạn ly,
Mưa tai gió hại họa vì tham lam.
Nhân dân khốn khổ đa đoan,
Mọi bề khốn khổ lại là bằng hai.
Tu hành hiền hậu chết hoài,
Hoa ngoa gian trá sống dai chật đàng.
Cơ Trời định vậy chớ than,
Thưởng dòng điệu nghiệt hành tàng đấy ư.
Đầu xuân gà gáy hăm tư, (1)
Thầy tăng đấn hạng hoa trư tuyệt kỳ.
Thiên cơ máy tạo huyền vi,
Tuần hườn máy tạo ai thì có hay.
Nực cười cho lũ cân đai,
Tôi tôi chúa chúa hôm nay Sở Tần.
Xuân phân cho đến thu phân,
Quốc dân điên đảo thần dân rối nuồi.
Bước buồn, bước tuổi vui vui,
Tiếng thì để tiếng, muốn lui lần lần.
Rồi đây bày tỏ trung thần,
Trời cho Tiên Phật xuống trần trị yêu,
Văn minh cơ khí đủ điều,
Cọp đồng, gấu sắt, phi phiêu thủy hành.
Phong luân hòa giống lợi danh,
Kết phe lập đảng tranh giành thế vi.
Năm châu nổi tiếng một khi,
Chuồn bay khói tỏa tử thi như bèo.
Mưa dầu nắng lửa sấm reo,
Hai loài xâu xé họa gieo dân lành.
Đảng nhân đại bại tan tành,
Cầu cùng đảng Cộng ra tranh chiếu cùn.
Tù binh mãi mã chiêu hùng,
Núp lưng Đảng Cộng trung hưng nươc nhà.
Rồi sau sinh sự bất hòa,
Lại còn Đảng Cộng can qua chiến trường.
Non cao biển cả đôi đường,
Phân ranh biên giới đôi đường mới an.
Vừng hồng rọi khắp bốn phan,
Tây phương muốn gió tầm đường đào vong.
Bập bồng Tần Quốc bập bồng,
Là nơi chiến địa máu hồng chảy lan.
Hải hồ rửa máu nghỉ an,
Tiểu Âu hầu Á Thiên Hoàng định thân.
Thân gà dạ khỉ đấy chừ,
Thì là ngọn lửa mới thu vậy lần.
Kỳ phan thay đổi cuộc trần,
Chó kia gặp chủ nó còn sảu ru.
Quân minh đặt sự an nhu,
Heo kia thong thả ngao du đầy đàn.
Chuột mừng gặp cảnh bình an,
Trâu kia thong thả nghinh ngang đầy điền.
Cọp rài làm chúa lâm viên,
Quân thần cọp lạc miên miên Cửu Trùng.
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.