View Full Version : Xóm cụt
giavui
12-06-2014, 06:27 PM
Xóm Cụt
Tác giả : Đỗ Thành
http://4phuong.net/data/images/auto/20111004_110429_1620610328.jpg
Phần 1 :
Nhìn từ phía ngoài, mấy căn nhà lèo tèo như bị bóp miệng nhét vào một cái phễu bít đáy. Chính vì nỗi tức tưởi nghẹn ngào này mà được mọi người ví von gọi là xóm cụt. Nhà gồm 4 căn, chia đều hai bên miệng phễu, chủ nhân là 4 gia đình, số người chênh lệch nhau. Thành phần gồm nhiều giai tầng xã hội cách biệt, chẳng ai muốn động đến ai, hoặc vì thời thế, hoặc vì hoàn cảnh, hoặc vì nghề nghiệp, hoặc vì xuất xứ.
Bên phía trái, cũng nhìn từ ngoài vào, lần lượt là căn hộ của một cặp vợ chồng thương binh về hưu của chế độ, rồi đến nhà của một anh chàng sửa xe đạp độc thân. Bên phía phải là căn của một gia đình buôn máy ở chợ, kế đến là chỗ ở của vợ chồng tôi.
Mỗi sáng, loáng thoáng có khi chợt gặp nhau, chưa kịp ngỏ lời chào hỏi thì mạnh ai nấy đi lo cuộc sống. Người vui bảo là thời buổi khó khăn nên ai cũng kiệm lời. Người tiếu lâm thì bảo người ta không muốn nói năng với nhau để tránh phiền hà, hệ lụy.
Xem ra gia đình tôi là lép vế nhất trong xóm. Điều này đúng thôi vì tất cả có còn gì đâu mà gọi là ngẩng lên nhìn mọi người. Trước kia, chúng tôi ở một nơi khác, song nhà cửa bị trưng dụng, người ta giúi chúng tôi đến ở nơi này, vừa chật hẹp, vừa tù túng, nhưng nhất nhất vẫn phải cắn răng chịu.
Tôi được nhà nước ưu ái cho đi tù lao động để trở thành người dân vinh quang nên về thì ví như cái mền rách mướp, nghĩ giá có cơn gió lớn cũng đổ ụp xuống không ngóc đầu lên nổi. Vợ tôi cám cảnh nuôi thúc mới đỡ đỡ, nhưng cái gốc sốt rét, nhiễm từ những ngày khổ sai vác cây, vác gỗ, uống bậy nước suối, nước khe, nên không sao lấy lại được số hồng cầu mất đi ngày trước.
Nhiều khi thấy tôi nhăn nhó như khỉ cắn phải ớt hiểm, vợ tôi phải nhỏ to dặn dò : đừng ngúng nguẩy vạ vào thân. Đêm đến, cả nhà nằm xếp lớp như cá hộp, ngửi mùi mồ hôi nhau cũng đủ chuếnh choáng, nên vợ tôi cố làm vui an ủi : ăn thì nhiều chứ ở có bao nhiêu. Tôi hục hặc cự : ăn cũng chẳng đủ nữa thì ở như chuột cũng phải. Vợ phải bưng ngay miệng, ghé vào tai thủ thỉ : tai vách mạch rừng, bộ ông muốn vào lại trại tù sao. Tôi nghe mà bắt ớn.
Về nhà, mang tiếng bị vợ nuôi, tôi đã ức. Ngày xưa, một mình lương tôi nuôi cả nhà, bây giờ phải tùng quyền vợ, còn bị mang danh bị đặt dưới sự giáo dục của vợ con, tôi thấy nhục. Nhiều khi muốn chết phứt cho xong, nhưng vợ lại níu tay níu chân khuyên : cố bịt miệng lội qua sông mà sống. Lâu dần tôi như con sâu bị đạp hoài đâm mềm nhũn còn hơn chết.
Ngày lăng xăng nhìn người qua kẻ lại còn đỡ đỡ. Ban đêm về nghe thông thống bóng tối mới tủi hổ làm sao. Nghĩ lại những ngày cơm tù việc tội, bỗng nhớ bạn bè nằm xuống vì lao lực, thiếu ăn, lắm khi không khóc mà nước mắt trào dâng, mang sắc đỏ. Nằm lao xao nghe tiếng lá cựa mình, đêm âm u giữa nỗi trằn trọc của vợ, của mình, ôi sao duềnh lên nỗi sầu thẳm miên man không dứt.
Khi no chẳng thấy gì vật vã mình, bây giờ phần lớn thiếu ăn mới thấy mình bệ rạc. Vừa cầm góc củ khoai định cắn, thấy thằng cu, con nhóc lom lom nhìn, miệng cứng lại, tay đờ ra, và vội bẻ hai, giúi cho con giục : ăn đi mà hoa cả mắt. Còn nói chi kéo ghế uống tách cà phê hay nhâm nhi viên xíu mại, tất cả trở thành như một xa xỉ không bao giờ vói tới được nữa.
Ngoái trông hàng xóm xung quanh những ngầm phát thèm. Vợ chồng anh bán máy lúc nào cũng hí ha hí hửng. Đi thì quần lụa áo là, tóc tai chải uốn, về thì gói nọ gói kia, giục các con dọn mâm tíu ta tíu tít. Không thiết nghe cũng bắt phải nghe, không tò mò cũng biết rõ ngọn ngành vì chưng ở sát vách nhau, niềm vui nào chẳng lọt qua khe cửa mà lung lạc cảnh mình.
Hôm nào hai ông bà trúng mánh, mặt tươi roi rói, khoe um lên bán được món hời, vậy là kêu réo con ăn nhanh còn đưa nhau đi chỗ này chỗ nọ. Bọn nhóc nhà tôi chộn rộn hẳn lên, tôi cáu tiết nạt đến nơi đến chốn : tao nghèo chỉ có vậy, đứa nào muốn ăn ngon thì sang mà sống với người ta. Vợ tôi lại nhanh nhảu lưu ý tôi : anh nói chi đụng chạm, người ta nghe được lại rầy rà.
Tôi thấm ý, thấy mình điên vô lý. Tự ái làm cha không cho tôi xin lỗi các con, nhưng lừa lúc chúng ngủ say, tôi bò vào hôn nhẹ chúng cầu xin tha tội. Tôi rấm rứt nói : bố có lỗi và nhục với các con, sinh ra mà không tròn trách nhiệm. Chợt nghe tiếng sụt sịt, quay lại thì nhận ra vợ tôi đang đeo cứng một bên, nước mắt cũng đầm đìa.
Thằng lớn có lần nói : bố à, hay là nhà ta mua cái ba gác, hai cha con mình cùng nhau đi chở, bố đạp, con lôi xe ở phía trước. Phần lấy đâu ra tiền mua sắm xe, phần nghe con nói mà ruột đau hơn cắt, vợ tôi phải xen vào can gián đôi đàng. Bà ấy hứa hẹn mà biết không bao giờ thực hiện nổi : để thư thư mẹ dành dụm sắm xe.
Càng ngày áo xống vợ càng rách mướp. Phá hết cái này vá cho lũ con, ở nhà trông bà lôi thôi lếch thếch, người ngợm quắt queo, ngực lườn hằn xương, tôi đau đớn vô vàn. Lắm khi vợ chồng nằm gần nhau mà không còn sinh lực, chỉ tìm nắm tay nhau bóp chặt, lắng ghim nỗi chin rục tâm tư.
Vợ tôi quần quật suốt ngày, khi nấu ăn, giặt giũ, lúc chạy sang hàng xóm làm giúp công việc, kiếm chút tiền. Hôm thì bà xách về mớ rau, vài củ, nói là bên nhà bà cán bộ trả công. Hôm nao được trả bằng tiền thì về lo mua cút rượu mời tôi nhấm nháp. Tôi còn bụng dạ nào mà uống, nên gạt đi bắt trả lại, bà vợ khóc sướt mướt mà thương.
Tôi tỏ vẻ không khứng với gia đình ông cán bộ cạnh nhà. Không phải vì dị ứng mà vì chánh kiến không cùng nên không muốn lại qua để gây đụng chạm. Vợ tôi nói một câu làm tôi câm tịt : anh nghĩ nếu không làm cho gia đình ấy thì còn ai chịu mướn mình. Ta làm ta ăn, chứ có xin xỏ ai đâu mà nhục. Vả chăng giúp người ta cũng là rửa cái chuồng, phụ cắt rau bó lại, chứ có ngồi lê đàn đúm đâu mà anh không cho. Tôi hết ý kiến.
Đi ra đi vào mãi cũng quẩn, buồn buồn ra ngồi nhìn hun hút vào con ngõ cho khuây, lại thấy càng trải dài đau khổ. Đã bao lần mon men lên phường xin việc làm, họ hẹn lần hẹn lữa, chỉ nhờ vả dọn trường, dọn lớp, kéo xe, làm vệ sinh khu phố, làm xong thì về, coi như gạo sông công chợ và trả nợ máu thế thôi.
Người hiền thì hé lộ cho biết hạng như tôi chẳng mong được bố trí công việc, còn kẻ ác thì xăm xoi hỏi móc : chừng nào gia đình anh tình nguyện đi xây dựng kinh tế mới. Thậm chí, dăm đàn em ngày trước giờ cũng lên mặt dạy đời : ông một lòng ở lại là đúng, đất nước ta độc lập rồi còn vọng tưởng đi đâu. Tôi nín thinh như con ốc, vì có nói ra cũng chẳng gỡ gạc được gì.
Thét rồi, tôi như cây lau cây sậy vô hồn, hoặc như mớ tầm gửi khô cằn sống nhờ một bụi cây chờ giờ chết. Buồn mênh mang và đau thấu tim gan. Buổi chiều có lao xao vì mọi gia đình lần lượt tựu về, tôi vẫn thấy lẻ loi như chồi cây rữa mục. Nghe hàng xóm kể chuyện râm ram, hát vọng cổ hay lích kích tiếng khua bát đũa, thấy ngày dài thật là dài.
Vợ tôi cảm thông nên tỏ vẻ thương yêu, nhưng bọn nhóc vô tư nhiều khi làm tôi hơi bất mãn. Cái thằng lớn vốn đã từng sống qua những ngày thong dong hồi trước, giờ thấy tôi ủ rũ bi thương, nó thường chọc : trông bố như cái xe bị lột dên, như cái xát xi bị rã gọng hay như bình nước bị bể ra.
Có khi nó lại ôm lấy tôi quay vòng vòng rồi hạ xuống và phê chua chát : bố nhẹ quá. Tôi định nói gay gắt với nó : chưa chết là may, còn nặng được nỗi gì. Nhưng lại sợ cả cha lẫn con nhuốm buồn hay bỗng dưng làm gia đình choáng váng nên tôi bặm môi, cắn răng, nuốt nghẹn lời trong lòng.
Hai nhóc vẫn đi học, ì à ì ạch, bữa đực bữa cái. Lắm hôm chúng quên quách việc nhà, đi làm kế hoạch nhỏ cho trường, về phờ phạc, mồ hôi mồ kê ướt đẫm. Cuối tuần lại còn theo trường đi tăng gia ở mãi đâu đâu, về khoe là đi trồng khoai, trồng sắn, khi nào thu hoạch được chia phần đem về nhà, nhưng nào có thấy. Hỏi han ra thì vì nhà trường ở xa, nên dân địa phương đào trộm hết trơn.
Đủ thứ đóng góp, hôm nay tu bổ lớp, ngày mai sửa lại trường, ngoài việc trực tiếp góp công lao động, tự túc bữa ăn, còn phải góp bằng hiện vật nữa. Thấy quá nhiêu khê, nhiều khi tôi bàn cho bọn chúng nghỉ quách, nhưng vợ tôi la tóa hỏa : chèn ơi, anh mà để chúng ở nhà còn bị bắt xâu đi làm nghĩa vụ lao động khủng khiếp hơn nữa. Nếu không muốn đi, liệu anh có tiền đóng thay chân cho chúng được chăng ? Tôi ù cả tai, hoa cả mắt, miệng đớ ra mà ngước nhìn trời.
giavui
12-06-2014, 06:28 PM
Phần 2
Gia đình thương binh về hưu vào Nam khoảng cuối 78 đầu 79. Vỏn vẹn chỉ có hai người, tóc đều lớm chớm bạc. Dạo ấy chẳng ai dám hỏi han vì sợ đụng chạm vào những đau thương còn quá mới mẻ. Vả chăng, tuy là cùng đồng bào, nhưng dường như giữa hai miền có một hố sâu ngăn cách. Đối với những người từng cầm súng đối đầu nơi hai giới tuyến đã đành, ngay người dân trơn cũng chẳng ai dám đá động hoặc mong trở thành thân quen với nhau cả.
Một đằng mừng chiến thắng ngất trời nên xem ai cũng là thù hơn bạn, tuy không đụng trận nhau, song là dân con của vùng đối đầu thì cũng là khác chí hướng. Người miền Nam an phận ngậm ngùi, chôn thật sâu nỗi đau vào tâm khảm, còn các ông bà mới vào thì vênh vang, hung hãn.
Hôm vợ chồng ấy đến, loáng thoáng có ủy ban đến chào, hứa hẹn sẽ bố trí cho ông bà một chỗ khác tươm tất hơn. Lời hứa nào cũng hoành tráng, vậy mà trải mấy lần đổi thay, từ chủ tịch phường đến trưởng ban thương binh xã hội, thì ông này đùn bà kia, lâu thành trớt quớt.
Dăm thì mười họa, hàng xóm có nghe hai ông bà hục hặc nhau vì chuyện “ trâu chậm uống nước đục “. Dân trong Nam nghe thì nghe mà tuyệt nhiên không ý kiến vì chẳng được lợi lộc gì mà có khi còn bị mắng mỏ đau đầu.
Bà vợ chừng như tập kết dạo 54 nên tuy đã lai miền Bắc, mà tính Trương Phi ruột ngựa chưa bỏ được. Cái máu trong Nam phang ngang bổ củi quen, tức là phun rào rào.
Chuyện chẳng có gì, tháng tháng ông chồng lễ mễ xách bao xách bị lên ủy ban để nhận phần trợ cấp thương binh. Bữa nào nhận được quà cáp ngay, dù chỉ là mì sợi hay bột sắn thì êm êm, còn thấy ông về nhăn nhó như cái tã rách là bà oang oang lên liền : trời ơi, làm ăn gì lạ, cả tháng dài chỉ có tí sắn, tí khoai lo không xong, hành người què đi lên đi xuống thì coi sao được đây.
Bà được lý lịch tốt có khác, chẳng kiềng ai, chẳng nể ai, không lén lút, không e dè, muốn nói cứ toang toang đứng trước cửa mà kể. Ông chồng vốn hiền lành vội chạy ra can vợ thì bị nói mẽ nói hành : phải, ông hiền thế nên mới bị người ta ngồi lên đầu lên cổ mãi thôi.
Tội nghiệp, vài ngày dăm bữa lại thấy ông lóc cóc lên phường, khi thì lĩnh lương hưu, khi thì nhận phụ phẩm, ôm đùm ôm nắm về đến nơi, thở ì ạch như kéo bễ phì phò. Bà vợ có vẻ hậm hực nên nói ra nói vào : tôi đã bảo mà, ngay khi vừa chiến thắng xong, tôi giục ông tình nguyện vào Nam ngay đi, ông dần dà hẹn mãi. Đến khi người ta chia nhau sạch chỗ tốt thì ông lò dò vào, còn gì nữa mà phân với bổ. Bạn bè ông nhanh chân, nhanh cẳng giờ họ có chỗ, có nơi, nhìn ông cổ hủ mấy ai còn bò tới.
Ông nghe mà cay vì quả thực sự đời là thế. Ngày mới vào, bất chợt cụng đầu nhau với các tay chiến đấu ngày xưa, trông họ ông chẳng nhận ra. Tuy họ vẫn xà cột, dép râu, đi đâu cũng phe phẩy chiếc quạt, song họ có dáng lắm. Hỏi ra thì không giám đốc này cũng thủ trưởng nọ, mèng mèng thì cũng ban tổ chức hay trưởng phòng, còn ông thì trắng tay vẫn hoàn tay trắng.
Nhớ lại dạo xưa, cùng trú bom B-52 với nhau, đồng chí xem nhau hơn ruột thịt. Thủ thỉ thù thì một mai hòa bình thì vẫn giữ mãi thâm giao vĩnh viễn. Hồi mới vào, họ có ghé thăm, nhưng chỉ một lần rồi bẵng vì họ ngượng với chỗ ăn chỗ ở của bạn. Được thể, bà vợ nói kháy ông : ngày xưa đồng chí với nhau, ngày nay thất thế hơn nhau đồng tiền. Ông nghe mà cay đắng cho tình đời.
Lại nói về đường con cái. Cũng từ nơi miệng của bà vợ những lúc cằn nhằn cửi nhửi ông, người ta mới rõ gia đình ông có hai cậu quí tử. Lớn lên gặp thời chinh chiến, cả hai đều trúng nghĩa vụ quân sự, cậu lớn thì trúng hẳn, còn cậu em thì hăng quá thiếu cân, phải lận đá vào người cho đủ trọng lượng, chứ không bị đánh hỏng thì mất mặt với các bạn nữ mất.
Chiến tranh vốn vô tình. Gia đình hai thế hệ cũng chung cầm súng, may mà còn thuộc hẳn một phe. Thế nhưng “ thời chiến chinh mấy người đi trở lại (HL) “ nên cậu nhớn ngỏm đâu tận bên Lào khi đi làm nghĩa vụ quốc tế, còn cậu bé đến giờ này vẫn không biết ở đâu.
Vì không có chứng từ ghi rõ tình trạng, nên dù bao năm biền biệt, giờ đã có hòa bình, đến cái bằng liệt sĩ vẫn còn lửng lơ, nên gia đình ông tuy hi sinh hai mà chỉ được chấp nhận một. Bà thì tức lồng tức lộn, còn ông thì xí xóa cho xong. Vợ chồng cảu nhảu càu nhàu : mình đã có một liệt sĩ rồi còn gì, người ta con mất biệt mà chẳng có danh hiệu nào đã sao.
Lâu dần, sống gần cạnh nhau quen nước quen cái, vả lại ánh huy hoàng nào rồi cũng sẽ nhạt phai nên bà con hàng xóm dần dà mới nghe thủng ra chuyện thầm kín trong nhà. Thì ra ở cả hai vùng chiến tuyến, nỗi đau đều ngang nhau cả, cho dù cái chết có được bọc bằng màu vàng hay màu đỏ.
Từ sự lân la này, các bà mới thủ thỉ cho nhau : ấy dạo đi Nam nghe nói trong này khổ quá, chúng tôi phải cụ bị tất bật, sợ vào thiếu cái dùng. Có vào có biết rồi mới bàng hoàng, người trong Nam khổ đâu chưa thấy chớ họ nhởn nhơ, xem mọi việc như pha. Bà vợ nghĩ buồn cười khi chăm chút đem lỉnh kỉnh mấy món phân phối vào tặng nhà, ai dè họ còn biếu lại ông bà những thứ bền chắc nữa. Họ than thở : ấy là chúng em đã bán xới bớt, chứ không anh chị còn nhận được nhiều hơn.
Cũng vì vai vế là cán bộ, dù đã về hưu, nên bề gì ông bà cũng được phần ưu đãi vì thuộc hạng gia đình có công. Ngày nhận nhà, ủy ban đã thao thao xác định với mọi người phần đất ao ở cuối đáy phễu là thuộc gia đình ông bà. Do đó, bà vợ gieo ít hột rau muống làm món phụ gia, nuôi lợn, hay gom bó đem chợ bán.
Gia đình ông chạy chợ thì chẳng cần, anh sửa xe cũng gởi gọn cuộc đời vào các món bán rao, chỉ còn gia đình tôi thì im thin thít vì có nói chẳng ai nghe. Cái ao tí tẹo mà rau muống mọc tràn, có lẽ nhờ cái chỗ tiêu lộ thiên cất lù lù phía trên, từ trong xóm bước ra theo tấm ván giữ bằng mấy cái cọc, khi đi lủng la lủng liểng.
Cả mấy gia đình chỉ trông vào một chỗ giải tỏa nên sáng sáng lắm khi chờ nhau đến sốt ruột. Cứ thấy có tờ báo che đầu là biết nhà cầu đang có người, ai cũng phải lơ huơ chờ ở đầu miếng ván giáp mặt đất. Vì tế nhị họ không dám ra xa hơn, e mặt nước im im tránh sao khỏi phải thấy những gì không muốn thấy.
Mùa nắng đã khổ, ngày mưa lại khổ hơn, đi xong cái bụng thì ướt hơn chuột lột, đàn ông còn đỡ, phụ nữ đàn bà cứ phải khép nép vì những của trời cho đều lồ lộ ra hết cả. Từ ngày hòa bình đến giờ, lót liếc chẳng ai còn dùng nữa, áo quần tuyền một màu đen, nhưng bản năng phụ nữ vẫn e dè khi chiếc áo ướt thít chặt vào lộm cộm khó chịu.
Gia đình ông thương binh ưu tiên tuyệt đối. Ai dù đau bụng, đau bão mà nhác thấy ông hoặc bà là phải cố nín nhường. Thản hoặc có đau đến chết thì lo chạy về nhà tùm hum che chắn, lót giấy bậy ra, rồi sau đem quẳng xuống ao làm phân bón. Ai cũng xem như định mệnh an bài, chỉ riêng nhà bán máy cục cựa, hăm he tìm nhà chỗ khác. Ấy thế mà bao năm rồi vẫn không thấy rục rịch di chuyển. Có lẽ tại giá nhà cao hay họ muốn tích vốn mở rộng thêm chỗ bán mà dây dưa, lần lựa chăng ?.
Tất cả những điều này tôi cóp nhặt được khi từ trường đại học tù thả ra và vợ chồng đêm nằm tỉ tê nhau nghe để đỡ buồn. Thời buổi lạ kỳ, vào trại làm chết cha, chúng tôi vẫn bị rêu rao là chây lười lao động. Về nhà đi họp nghe mắng mỏ chế độ xưa chuyên bóc lột nhân dân, bây giờ ông bà thương binh nhờ vả vợ tôi cắt rau, cho lợn ăn, rửa chuồng, tắm táp heo thì bảo là lân bang giúp nhau tiến bộ, thực hiện văn hóa mới. Lắm khi tôi mù tịt, muốn điên cái đầu, chẳng hiểu phải trái thế nào.
Ngay khi làm lao động ở phường cũng vậy, các bố lăng xăng rồi lảng ngay, vậy mà cứ đổ tội ngày xưa bọn tôi chỉ tay năm ngón, hành hạ lao động mới oan.
giavui
12-06-2014, 06:28 PM
Phần 3
Mỗi lần nghe tiếng hát nhừa nhựa điệu vọng cổ vang lên từ ngôi nhà cạnh căn hộ của đôi vợ chồng thương binh về hưu là người ta biết ngay anh thợ sửa xe đã trở về. Tuy không nói ra song ai cũng biết tiếng hát đó chỉ cất lên khi chiều đến vì suốt ngày anh lo bán mặt cho nắng nóng ngoài đường để kiếm tiền độ nhật.
Bài hát mà anh sửa xe thường ỉ ê chẳng bao giờ thay đổi, quanh quẩn chỉ là lời trách cứ một cô gái nào đó bỏ tình yêu ra đi. Người lạc quan thì cho anh hát khơi khơi chứ không ngụ ý gì hết, còn riêng tôi, ngay từ lần đầu, tôi đã mường tượng ra nỗi sầu thầm kín của anh vì bị người yêu bỏ.
Tôi đem điều này kể với vợ, cô nàng cho là tôi vớ vẩn không đâu. Thật vậy, những ngày đi tù, tôi đã từng nghe nhiều câu vọng cổ như thế này và thường đó là lúc họ nhớ về vợ. Họ hát không hay, nhưng thích hát, cố hát, hát cho vơi bớt nỗi lòng nhung nhớ. Anh nào vô phúc vợ ngỏn ngoẻn bỏ đi lấy người khác thì càng ai oán vô cùng. Có đời thủa nào, người đàn bà đã từng sống chung với nhau bằng nhiều mặt con sinh ra, rồi bỗng dưng nhẹ dạ, muốn được nhàn thân, đành tâm đi lấy người nhốt chồng mình như thế.
Cho nên nghe giọng anh thợ, tôi biết anh đang đau lắm. Anh nghẹn ngào, nức nở, rỉ rên : Bạch Thu Hà, em ơi, cớ sao em đành đoạn bỏ anh mà đi theo tiếng gọi ái tình.. Hẳn nhiên, anh hát không thể sánh với kép trên sân khấu, nhưng về nỗi đau thì chắc lậm hơn. Anh hát chẳng cần để được ai khen, ai nghe, mà chỉ muốn cất lên tiếng lòng thổn thức. Mấy nhóc nhà tôi nghe giọng bơ rỉ của anh đều chọc : hát dở òm mà ông ổng hát hoài.
Tôi muốn nạt tụi nó mà thấy chính mình cũng vô duyên khi đem chuyện ở đâu về nhà hục hặc, nhưng tôi không thể bỏ lơ tâm trạng của anh vì tôi biết trong đời không gì đau hơn bị bồ đá.
Bởi mang mang tâm sự như vậy, nên có một lần, quanh quẩn trong nhà hoài cũng muốn cuồng chân, tôi mò ra khỏi xóm để xem sự đời cho biết. Đó là lần tôi biết chỗ làm việc của anh.
Anh thợ đang vắng khách, cái ống bơm có đế gỗ để dựa một bên, thùng đồ nghề được kẹp làm chỗ gác chân cho đỡ mỏi, thau nước vá bốc hơi nóng ngút ngàn. Cái nắng tháng năm đến chó mèo cũng phải lè lưỡi làm anh ngất ngư mệt mỏi. Vậy mà nhác trông thấy tôi, anh vội buông mảnh báo còn một tẹo trên tay và hớn hở thưa : chào ông thầy. Tôi hơi giựt mình, cố vận dụng trí nhớ xem có lần nào anh cùng sống đời lính tráng với tôi chưa, nhưng tuyệt nhiên tìm không ra.
Còn anh thì rụt rè nói thêm : em biết ông thầy mới được tha về, đối với em dù không cùng binh chủng hay đơn vị, ai em cũng đều xem là bậc thầy cả. Nói xong anh thở dài như cám cảnh cho thời cơ lỡ vận của cả đám. Tôi khuyên anh đừng tôn xưng gọi tôi như thế vì tất cả đã hết rồi, anh hùng hổ nói với tôi : chúng ta dù thua, nhưng vai vế vẫn còn nguyên vẹn. Tại sao ông thầy cấm cản em.
Tôi bùi ngùi cảm động. Sực nhớ lại hôm vừa hớt hơ hớt hải từ tàu lửa xuống, bất ngờ tôi cũng đã gặp lại một đàn em ngày xưa. Anh bạn mừng tíu tít, ôm chặt tôi rơm rớm nước mắt, kéo tôi vào cửa hàng giải khát quốc doanh cạnh đó, gọi đãi cho tôi ly cà phê đầu tiên khi được tự do.
Tôi uống vào rất đắng, nhưng lại thấy tình đời mở rộng. Anh bạn cho biết đang chạy xe lam, bi ba bi bô với tôi đủ thứ chuyện, còn hứa sẽ đưa về tận nhà. Tôi đang nôn nóng gặp vợ con mà không dứt ra được. Nỗi ngại ngùng bị chụp mũ lè phè như lời bọn coi tù hăm dọa làm tôi kém tự nhiên, trong khi xung quanh mấy anh xe lam, ba gác và các chị hàng buôn toang toang chòng ghẹo mấy tay bộ đội ngồi gần.
Tôi nghe có phần hoảng vì những gì được nhồi nhét trong trại và bên ngoài cách xa nhau trời vực. Người miền Nam bão hòa dần với đổi thay nên họ chẳng còn e sợ nữa. Họ nói với nhau mà thực tâm nhắm vào những người khác cung cách của họ. Tôi chỉ muốn chóng xong để còn về, vậy mà cũng phải ngồi nán đến hơn nửa tiếng.
Bây giờ ngồi với anh bạn láng giềng, tôi lại thấy nao nao. Chèn ơi, tình nghĩa đậm đà đến vậy sao. Hèn chi người ta bảo cái được, cái thua không phải tính bằng sự chiếm được đất đai mà là tính bằng sự chiếm được lòng người. Phe kia đã tự hào làm chủ mảnh đất này từ mấy năm qua rồi nhưng chắc chắn là họ lạ lẫm vô cùng tại sao lòng người vẫn thờ ơ với họ.
Cái nắng tháng 5 rầu rầu nát nhão mà hai chúng tôi ngồi đấu láo sao vẫn thấy qua mau. Tôi đề nghị với anh đừng khép nép xem nhau cách biệt nữa, thời thế đổi thay rồi nên đối xử với nhau như anh em vốn đã quá quí. Anh bạn thợ không chịu. Một hai anh bảo với tôi : ông thầy nói vậy sao được, thượng cấp của ta đang tâm bỏ trốn, chứ ta nào có bỏ nhau. Bây giờ ở trong nước chỉ còn một dúm thầy trò mình, đâu có thể xô bồ coi nhau bằng vai phải lứa như họ. Với chế độ, cha con có thể xem nhau bình đẳng vì cùng là đồng chí, đồng rận của nhau; còn thầy trò ta đâu có vậy.
Anh ân cần mời tôi ăn món này, uống thứ kia. Một phần tôi không muốn chịu ơn khi vừa bén thân quen, một phần lại ngại mang tiếng bù khú, lỡ gặp tay khu vực nghi ngờ hai bên bàn bạc đại sự. Tôi đem điều này nói với anh, người thợ sửa xe tủm tỉm cười : đời sống tù biến thiên ông thầy tàn nhẫn quá nên thầy đâm dè dặt. Họ hù vậy thôi để thầy đừng tơ hào mưu sự, còn tình nghĩa đãi nhau họ chẳng quan tâm đâu.
Và như chợt nhớ ra, anh ta chêm : tay khu vực này em biết rành mà ông thầy. Hắn ba hoa chích chòe, chớ suốt ngày còn lo thu hụi chết mấy tay biên số đề, hoặc la cà ăn nhậu bắt những tay phe phẩy trả tiền. Mấy chỗ đó có của, hắn mới bò vào, chứ còn thầy giờ như cái tã rách, hắn không để ý đến đâu.
Rồi như cất lời tâm sự, anh ghé lại gần tôi hỏi : mà sao hồi đó ông thầy không tìm đường dọt. Ở lại chi cho lận đận đi tù. Em là cấp thấp mà nếu dọt được em cũng dọt, sống sao nổi với mấy chả, thầy ơi. Tôi nghe mà thấy xót xa, biết trách ai nếu chẳng tự trách mình. Tôi cũng thủ thỉ với anh : có lẽ tại số bọn mình mạt rệp nên cùng chui vào rọ như nhau. Và để đánh tan nỗi tủi thân đè nặng trùng trùng, tôi gạt sang chuyện khác : bề gì cũng lỡ rồi, quên đi.
Anh thợ im im một lúc như để tức tủi lắng dần vào tâm khảm, rồi anh lại thủng thẳng đề nghị với tôi : ông thầy ở nhà buồn thì ra đây cùng làm với em. Thầy trò giúp nhau lúc cùng quẫn mới thảo, thầy chỉ lo việc bơm bánh xe cho khách, còn những việc cực nhọc như lộn xên, vá ruột xe, thay nhông để em. Tôi nghe càng da diết buồn và mủi lòng lẫn lộn. Tôi chợt nhớ đến câu ví của mấy bà đi buôn gặp tôi trên chuyến tàu từ ngoài Bắc trở về. Chính các bà, các cô gom góp lo cho tôi phần tiền vé và nuôi ăn suốt mấy ngày đêm cà tịch cà tang trên chuyến tàu chợ. Nỗi ngậm ngùi dằng dặc trên nét mặt họ, có chị chồng vẫn chưa về, ngùi ngùi nói với tôi : giận thì giận mà thương vẫn thương. Hôm đó nước mắt tôi đã ứa ra theo từng tiếng rít xé gió của con tàu đang lầm lũi đi ngày đêm.
Tôi chợt đề cập bài vọng cổ với anh. Không hề dấu diếm, anh nhận ngay đó là lời anh gián tiếp than thở vì xa người yêu ngày trước. Tôi rụt rè hỏi liệu anh có biết giờ cô ấy ở đâu chăng. Anh ngậm ngùi một lúc rồi nói : người thì nói cô ấy đã đi thoát ngay từ tháng 4-75, kẻ lại nói cô ấy về quê mà không rõ đi đâu.
Câu cuối tôi nghe từ miệng anh kèm với một tiếng thở dài : từ đơn vị bò về, em nghe nói cô ta đang ở tại một trại, lần dò tìm đến thì cô lại dời đi và không ai biết ra sao. Câu nói buông lửng mà như một nhát dao lụi từ từ vào trái tim rỏ máu của những người đau khổ. Tôi mang theo cùng những bước chân nặng chịch về nhà và tự dưng thấy buổi chiều nhạt nhẽo làm sao…
giavui
12-06-2014, 06:28 PM
Phần 4
Lại nói về vợ chồng anh có cửa hàng bán máy tại chợ. Không ai rõ ngày trước họ ra sao, nhưng nghe đâu anh chồng cũng là phe ta. Nghĩa là thuộc hàng lính tráng miền Nam, ngành chuyên môn và cấp bậc nhỏ, nên biến cố xảy ra không phải đi tù mà chỉ theo cái gọi là “ học tập tại chỗ “ mười ngày.
Vốn đã phục vụ trong ngành quân nhu nên việc mua bán xem ra có phần nhanh nhạy, rồi đánh hơi được thời cuộc, nhân lúc bát nháo và thu gom được chút vốn liếng, không bị ràng buộc khắt khe, và phần nào liều lĩnh nữa, nên trong khi ai nấy cũng còn rụt rè, e ngại, thì hai người lanh chân lẹ cẳng ra sống ngoài chợ.
Thời buổi thực tức cười, trong khi các bố ở Bắc vào bảo ngoài đó thứ gì cũng có. Người miền Nam có lúc đã nghe những câu ngớ ngẩn tương tự “ ti vi, tủ lạnh chạy đầy đường và thuốc Điện Biên thơm lừng hút từ bên này mà bên kia bờ sông còn ngửi thấy mùi ngon “ thì vợ chồng anh ta đã bàn với nhau : nếu không mượn cơ hội này để vươn lên thì chẳng còn may mắn nào khác.
Thế là những gì hai người cai quản hộ ông thầy ngày trước, đến khi gia đình họ thoát ra đi được coi như của tặng đền ơn, hai người phất lên thật lẹ. Thấy từ cán bộ, binh sĩ mới vào đều thòm thèm cái đài, cái “ đổng “, nên hai vợ chồng đổ xô đi thu gom mua lại máy thu thanh, đồng hồ và mở lời tán để đẩy nhanh kiếm lời.
Từ đó, chợ búa miền Nam loạn xạ những lời rêu rao “ đồng hồ có cửa sổ “ hay cái đài xài ít pin, chồng thì kêu sẵn lòng giảm giá, còn vợ thì ỏn ẻn mời chào, các cán mê ríu mắt nên lời rót vào tai như mật ngọt. Chẳng mấy chốc có của ăn của để, con cá sống nhờ nước, con người sống nhờ khôn, dù cái khôn cái dại đời nay chẳng ai đo lường nổi. Hai người “ trúng mánh “ lia chia, hí hửng vui bất tận.
Anh khu vực đánh hơi nhanh nhất nên làng nhàng đến thăm liền tù tì. Nhong nhóng bắn tin phường khóm và tổ chức băn khoăn về vốn liếng của hai người từ đâu ra, lại nữa xem như không ưng về việc làm chạy chợ của ông bà. Tay chồng biết thừa anh khu vực dọa thế thôi để dễ dàng nhờ vả, nên cũng vờ gãi đầu gãi tai nhờ anh can thiệp cho.
Chẳng lời nói nào xuôi rót nếu không kèm theo cái “đổng “ có đủ 3 kim chạy vòng vòng, lại còn chỉ cho thấy màu dạ quang để ban đêm cũng nhìn đọc được con số. Chủ khách giỏi đóng trò, xàng xê qua lại, người biếu, kẻ từ chối, nhưng cuối cùng nể nhau cũng nhận lấy thảo cho vui.
Ai dè đó là oan gia trói buộc. Thỉnh thoảng lại thấy anh khu vực ra tận chợ mời anh chồng đi ăn sáng hoặc cà phê, chủ nhân biết đây là một kiểu đóng hụi chết, nên dù ruột đau như cắt, vẫn phải giả tươi vui, để đưa anh ta tí tiền, tự đi ăn, vì gian hàng đang bận khách. Bởi chăng, lần đầu tiên cùng đi với anh khu vực, người chủ bán máy đã phải trả một món đau vì anh ta quơ quào ở đâu bạn bè, đồng nghiệp bu đến góp vui, ăn no, uống kỹ, quên luôn chuyện góp trả tiền.
Ai cũng nghĩ làm ăn dạo này làm ăn quá dễ, trúng mánh dài dài, đâu ai hiểu nỗi khổ tâm của người thu chỗ này thì chi chỗ kia, như mang nợ của nhau từ đời kiếp nào xa lắc. Vợ chồng anh bán máy đến khổ vì mỗi khi anh khu vực hay các bố trong phường về phép. Thôi thì nhờ vả anh tận tình mua hộ quà cáp cho vợ, cho con để rồi hẹn khi vào sẽ thanh toán. Đã thế, đến ngày sắp lên tàu, lại xin thêm cái vé hoặc đòi hỏi chút gì đem ăn đường.
Mà nào chỉ có bấy nhiêu chỗ, giờ ai cũng có quyền, tha hồ hoạnh họe dân bằng thích. Thuế vụ, quản lý thị trường, công an, trật tự chợ bu vô mấy gian hàng như ruồi bu miếng thịt ôi, tiếng rì rào luôn luôn không dứt.
Bởi vậy, hai vợ chồng mè nheo nhau ti toe hằng bữa. Cãi ở chợ chán, họ lại lôi nhau về nhà mắng mỏ té tát nhau. Bà đổ tại ông, ông cằn nhằn tại bà, lôi thôi kéo hết chuyện này chuyện nọ ra hành nhau.
Người ta bảo nghèo chẳng sao, rủng rỉnh có đồng tiến tay chân đâm ngứa ngáy. Anh chồng lăng xăng lít xít với các nhà có chồng đi tù chưa về. Anh tỏ ra mau mắn nếu ai cần nhờ vả thì anh giúp, vợ anh kêu ầm là anh tán tỉnh người ta. Thậm chí gặp con gái nhà ai hơn hớn, anh đều xưng hô chú cháu ngon ơ.
Chả biết tâm địa anh thế nào, nhưng loáng thoáng nghe các cô phàn nàn : chú ấy kỳ, cứ ngồi sát vào con tỉ tê cháu có cần tiền đi học thêm chăng. Bà vợ một mặt rao ráo hăm he : ông mà lăng nhăng tui hổng để yên. Một mặt dằn mặt bâng quơ với hàng xóm hay bạn chợ. Chẳng qua, cả hai nghĩ cạn, chứ ai rảnh rang và vui gì mà còn muốn đèo bòng.
Ngược lại thì anh chồng càm ràm bà vợ lúc nào cũng diện. Mà đúng vậy thực, vì hễ gặp đều thấy bà ta se sua, tóc uốn, chải lượn, quần áo bảnh bao. Trong khi nhất nhất ai cũng mặc một màu đen chũi thì chị ấy cứ quần lụa áo màu diện tràn. Các bà trầm trồ là sáng sáng nhìn bà ta lướt qua lướt lại trong nhà mà dị. Có người còn xầm xì thêm là bà ta rất hớ hênh khi thay áo quần đi chợ, nhởn nhơ để ai cũng thấy điều không đáng thấy.
Hai vợ chồng có mấy đứa con, trai thì bỏ học đàn đúm, gia nhập băng này đám nọ, đánh đấm tùm lum, con gái thì ỏn ẻn như mẹ, chưa nói đã cười, người khắt khe bảo vô duyên. Đời là thế, gia đình lủng củng thì con cái cũng chóng học gương mẹ cha để sống buông lung.
Nghe đâu ngày tôi đi tù, ông chồng cũng bắn tiếng xin đỡ đần gia đình, nhưng vợ tôi bỏ lửng làm lơ, lại còn cấm cản mấy nhóc không cho bén mảng hay bạn bè với các quí tử hay công nương họ.
Cũng may, cả hai ôm lấy chợ suốt ngày, tối lảng vảng về mới nghe tiếng sát phạt nhau chứ nếu không chắc thiên hạ điếc tai. Lắm hôm, vợ chồng dẫn lũ con đi ăn, lối xóm nghe im im lại đâm nhớ nhung cái tiếng ồn vốn không thiếu.
Tình cờ, có một bận anh bán máy gặp tôi. Có lẽ anh định chào tôi, song lúng túng không biết xưng hô ra sao, nên gật đầu chiếu lệ và lẳng lặng đi ngay. Con người có hồi cũng phức tạp ra dáng, thời thế đảo điên, ông ra thằng, thằng lên ông, sự tự ái đôi khi làm cho ai đó cảm thấy mặc cảm dữ dội. Tôi chẳng nói làm gì vì nào ai còn muốn thân thiết với người đã đánh mất dĩ vãng, nhưng còn anh đang là người ăn nên làm ra sao lại cũng ngượng ngùng với tôi. Câu tự vấn này đuổi theo tôi mãi, khi thức cũng như lúc ngủ, cả những thời gian trầm ngâm hay bối rối một mình.
giavui
12-06-2014, 06:29 PM
Phần 5
Trong mấy gia đình ở xóm Cụt, có lẽ chỉ nhà tôi xem ra mạt rệp nhất, còn nói theo danh từ thời thượng thì hộ tôi là thành phần bần cố chính thống. Bần cố là vì có gì thì hoặc bị người ta tịch biên, hoặc là tự vợ con phát mãi để lấy cái đổ vào mồm, trong những ngày tôi đang đi “ nghỉ mát “, lại còn phải nhếch nhác lo đùm nắm đi nuôi tù nữa..
Vậy mà thiên hạ vẫn chưa chịu tin, cho rằng chúng tôi khéo che khéo đậy, của nổi của chìm, còn lỉnh ca lỉnh kỉnh, dấu quanh dấu quất đâu đó. Chẳng nói chi xa, chính tay trưởng khóm nằm vùng là người tôi chịu ơn nhất và xem như hiểu rõ ngọn ngành nhà tôi nhất mà cũng có tâm trạng y như vậy.
Chả biết lão muốn thả quả bóng thăm dò, hay nửa đùa nửa thật, mà thỉnh thoảng lão vẫn “ tiểu di “ với vợ tôi : người ta đồn dân Bắc khéo ăn, khéo kín tiếng lắm, chưa chừng ông bà còn chút đỉnh gì gửi gấm nơi ai cũng nên. Vợ tôi còn cà kê giải thích với lão, đến ngày tôi được tha về, lão cũng mửng cũ làm quà han hỏi, tôi đã khục khục cười.
Lão có vẻ không bằng lòng, tưởng tôi mỉa mai, nói cạnh nói khóe lão, nhưng khi tôi khề khà mượn chén rượu nói với ông ta thì lâu dần nỗi nghi mới lạt phai. Chả ở đời chẳng ai dại có tí ti của để mà chịu ép mình sống khổ bao giờ. Có nhìn thấy cảnh cả nhà tôi vợ chồng con cái nằm như heo ngay trên mặt đất, tùm hum một đám, mới biết chẳng còn mạng bần cố nào so đo hơn.
Giường tủ, bàn ghế thi nhau đem gán hết, những đồng tiền chi dụng vào đổi lấy sắn, gạo, khoai, mì và bao lần đi nuôi tù cho tôi thì còn đâu ra nữa. Bọn nhóc đang sức ăn sức lớn khả dĩ còn gắng gượng, chứ thân mạng vợ chồng tôi đã trải bao đời hương lửa, vai đè nặng dấu vết thời gian, không kêu đau lưng, nhức mỏi vì bị nhiễm hơi ẩm lạnh của đất dãi dầu mới là của lạ.
Lão trưởng khóm cũng tinh ranh ma mãnh vô chừng. Làng xàng bất chợt cứ đúng bữa cơm thì mò đến, gián tiếp xem chừng bọn tôi ăn uống ra sao. Ông ta lăng xăng xồng xộc đi một mạch vào tận bếp, miệng oang oang hỏi han mà mắt thì liếc chừng liếc đỗi. Thấy bếp đã vùi than, toàn bữa chỉ độc nhất bát canh suông, nước lõng bõng nhiều hơn xác những rẻo bí nổi phật phờ, ông lắc đầu vội chuồn nhanh, không kịp chúng tôi mời nước chén lã.
Nói nào ngay, bản thân ông cũng không thóc mách lắm , ngặt vì lối xóm thọt thẹt chen vào nên ông muốn củ soát xem sự thể ra sao. Để tránh bị mang tiếng chú tâm theo dõi, ông cứ một điều “ nghe người ta nói thế này, thế nọ… “ để có cái cớ không làm chúng tôi buồn. Nên sau vài lần những gì thấy tận mắt, biết tận tay, ông trở lại bênh vực chúng tôi mỗi khi nhen nhúm có lời xì xào “ nghe người ta nói thế này… “
Mặt khác, ông cũng tìm cách giúp đỡ làng nhàng gia đình tôi như cho người trong nhà xung vào ban phân phối bánh mì (lâu lâu mới có một lần) hay ghi tên đi làm thủy lợi hòng kiếm tí gạo, tí thịt mang về sống. Thế mà nào có được nhận công lênh sòng phẳng, việc công sức tư, ký ca ký cóp hết chồng, đến vợ, lại cả lũ nhóc luân phiên nhau đi làm, có khi cả nửa tháng xa nhà. Chừng xong nhiệm vụ cũng được yêu cầu ký danh sách lĩnh tiền nhưng phần lớn chỉ ký mà phong bì ít được đưa lại. Chờ mãi thật lâu, có thập thò hỏi thì chỉ thấy ông gãi đầu gãi tai cho biết : thôi quên đi vì ngân sách thiếu hụt, phường đã tạm mượn khoản đó để chi dùng việc khẩn mất rồi.
Ôi cuộc sống sao mà điêu linh, trần gian bể khổ, ai cũng có miệng mà câm như hến, còn cổ thì thấp chủm có ngóc được tới đâu. Dân dã lý lịch sạch boong còn bị cướp cơm chim nữa là gia đình có thành tích như chúng tôi thì càng phải cố mở mắt ra nhìn trừ.
Hơn mười năm sống cuộc đời giun dế ở xóm Cụt, gia đình tôi chịu bao cay đắng triền miên. Họp hành luôn phải đến sớm, người ta học tập xong nhàn nhã ra về, còn những anh chị em “ tốt nghiệp nhà tù không án “ thì luôn được mượn khéo ở lại làm vệ sinh hay thu dọn chỗ hội hè.
Lớp mẫu giáo cần chuyển chỗ, phòng phát thuốc cần dọn kho, hợp tác xã cần sắp xếp củi than lại, khóm phường cần lao động, chúng tôi luôn được ưu ái gọi mời. Lại vài hôm lịch kịch kéo xe bò hay đẩy ba gác đi làm việc xã hội, hẳn nhiên thường bị quên chẳng ai hỏi đến việc cơm nước ra sao.
Ngày lễ, ngày tết, khóm phường vận động các anh chị em tập trung để xung vào lực lượng dân phòng, nhưng kỳ thực là để buộc chân kiểm soát không cho bọn tôi lăng nhăng lít nhít lo việc tai hại khác. Những đêm ấy, lềnh khênh cảnh ngủ và ngủ vật ở hàng hiên của khóm phường, trông bệ rạc và lem nhem hết chỗ nói.
Xóm Cụt có tí ao con ở đáy phễu thì thuộc quyền sử dụng ưu tiên của ông bà thương binh về hưu. Ông bực bội vì hiện tại không bù các hi sinh của ông trong quá khứ nên ì ra chẳng chịu làm gì. Đến vai trò tượng trưng ở khóm phường, ủy ban, mặt trận ông cũng chẳng màng, huống chi là việc trồng rau nuôi cá.
Ông vẫn xì xào với vợ : hồi tôi đánh đấm bị thương, mấy tay đó có khi còn chưa đẻ ra, hoặc còn là dân con phe đối nghịch, vậy mà bây giờ họ ăn trên ngồi trước mình, hoạnh họe, phê phán lung tung mới đau. Nỗi ức của ông chỉ thoang thoảng tỉ tê ở trong hộ của ông thôi, nhưng bà là cái loa oang oang mỗi khi trái gió trở trời nên thét rồi ai cũng rõ.
Cứ dăm lần ba lượt, ông đi rồi lách cách về là y như lời ra tiếng vào bùng nổ. Bà cóc sợ ai, cứ thẳng mực tàu làm đau lòng gỗ. Dăm thì mười họa có những cái miệng bép xép không để mọc da non lên tâu mách ủy ban là lối xóm lại thấy quan viên đến thăm gia đình ông. Họ bàn bạc gì, nói năng gì, bàn dân thiên hạ biết sao ra, chỉ thấy quan viên về thì nghe bà vợ bĩu môi kêu : nói thì ai nói chẳng gọn, còn làm thì chẳng ra gì. Bà bực mình vì ngay ngày đầu chiến thắng bà đã vun vào để ông nhanh chân nhận đi Nam. Bà vốn dân Nam Bộ nên hiểu tình hình bén nhậy, ngược lại ông quá tỉ mỉ đắn đo.
Thời kháng chiến, ông nghe đồn Mỹ chọn miền Nam làm tiền đồn ở Đông Nam Á, đổ quân đổ của cũng nhiều, có lúc đếm hơn 2 triệu nhân mạng, đủ bạn đồng minh lẫn cơ hữu tại chỗ, vũ khí tinh xảo, đạn lắm, phi cơ bay rần rần, chiến hạm lướt thong dong. Từng đụng trận nhau, ông đã kinh qua bao gian lao khổ cực, bom B-52, pháo diện địa bắn vung thiên, còn hàng rào điện tử, máy dò người, cá heo thả sông thả biển, dây cáp nối thẳng từ Hoa Thịnh Đốn đến Việt Nam.
Ác hại nhất là cái tin Saigon bán đứt Cam Ranh, Đà Nẵng cho Mỹ 99 năm, thêm nữa họ cũng gửi lại miền Nam hơn 50.000 con em họ, lẽ đâu họ dễ dàng chịu bỏ rút về. Những ngày Bạch Mai, Hàm Rồng ăn bom bi, bom cháy, ông thấy tận mắt bạn bè chết gục nát thây, hoặc vỡ tai đổ máu vì tiếng bom dội ào ạt. Cho nên ông nghi nghi là họ muốn thử để úp mình, vậy cứ chần chừ, hẹn lần hẹn lữa. Thời đó, trừ những đại đơn vị tham gia chiến trận ngay tại vùng, còn những ai được lệnh từ miền Bắc vào nhận tiếp thu thì đều chân trong chân ngoài như ông tất.
Ai dè, cảnh “ trâu chậm uống nước đục “ là thế. Những tay hồi nao dát như cáy, nay có nhà, có chức lên mặt coi trọng, coi khinh nhau. Trong khó khăn có thể nhường nhau bát cơm, viên đạn vì chẳng biết sống chết lúc nào, hòa bình rồi thì “ miếng giữa làng vẫn hơn sàng xó bếp “ thế là chân lý đành rành ra đó. Đáng buồn hay đáng vui đây, nào có khác gì “ ngẩng mặt nhìn trời than ai thấu, đen bạc tình đời đánh đuối nhau “.
Nỗi thua thiệt của ông lại còn thêm sự trì chiết của vợ làm ông xính vính đau lòng. Thản hoặc ông có định loe hoe lên tiếng thì bà vợ kê ngay cái tủ đứng là ông im tiệt. Bà lấy sự hi sinh của một thằng con và cảnh mất tích của thằng con khác làm ông cứng họng. Bà chẳng rêu rao ai mà chỉ nói ra sự thống khổ của chính gia đình nhà, khóm phường có nghe chướng tai thì cũng chỉ đến khuyên can là hết. Chả nhẽ lại bảo hai ông bà làm sai chính sách.
Cho nên càng cất công gánh vác giang san nhà chồng, càng chia xẻ nỗi vui buồn với ông, càng phải lội ao trồng rau, cắt bó, bà càng dễ nổi khùng vô lối. Cho dù mình bà chẳng cáng đáng hết, ít nhiều phải dựa vào lân bang thì rốt lại cũng chỉ có vợ chứ nào ai khác. Trước thì bà đánh tiếng góp mua giống ăn chia, sau nghe vợ tôi than một đồng một chữ không dính túi thì bà lại đề nghị giúp cho bà.
Mỗi đợt rau mọc dầy, bà ăn không hết thì hì hục cùng rủ vợ tôi cắt buộc thành bó. Hôm ấy thế nào gia đình cũng được tí màu diệp lục tố trôi trong bánh canh. Ngoài ra nếu vợ tôi nhận ôm mẹt ra góc chợ ngồi thì lại được tính công thêm nữa. Chả có việc to việc lớn để làm thì thôi đành ôm mẹt có sao, của còn chẳng tiếc, tiếc chi thân. Đời vốn đã vêu vao vì đổi thay thời thế thì con người có chịu thêm nỗi chán chường cũng thấy thấm thía hay ho.
Tôi phục vợ tôi ở điểm này. Việc gì cũng làm được, miễn là lương thiện. Có lội xuống ao lềnh bềnh phân người hay xác chuột thì cũng là thân phận buộc đành phải vậy thôi. Chỉ tội cô nàng đêm đêm khó ngủ, mớ ú ớ hoài vì những ác mộng đan xen.
giavui
12-06-2014, 06:29 PM
Phần 6
Những năm, những tháng nằm chết dí ở xóm Cụt, tôi như con sâu bị đạp nát nhàu. Không gian của tôi thun thút quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là chiếc phễu được tận cùng bằng cái đáy thắt bò ra ao rau muống. Thỉnh thoảng buồn buồn ra đứng ở cửa, nhìn vẩn vơ, chạm mặt với những căn hộ đóng cửa im thin thít. Đảo một vòng thì chạm phải cái cầu lộ thiên, lêu khêu như cái chòi canh tôm hay cái lô cốt nhỏ. Tầm mắt bị chắn ngang chắn dọc, tình người vốn dửng dưng.
Lắm khi nghĩ thân phận như bị gò bó, tù túng, muốn vươn lên mà lơ lửng, châng lâng, chẳng ai cho bám, chẳng ai đoái hoài. Vợ tôi thấy nỗi buồn mênh mông của tôi thường cất lời an ủi : sông có khúc, người có lúc, anh đừng buồn mà tan rã ý chí đi. Rồi một mai… cô nghẹn ngào không nói tiếp được về một mai thế nào, ai mò đoán cho ra.
Một đôi lần nhớ về thời xưa cũ, lần lượt gặp lại những gương mặt chiến hữu, bạn bè, kẻ còn người mất, phiêu dạt những đẩu đâu, trái tim như bị ai bóp vò xé tan nát. Nghĩ những ngày cùng nhau mằm sương nhịn đói, nhịn khát, ai có dè thời huy hoàng quá chóng vánh để giờ đây ủ dột cõi lòng.
Có lúc nghĩ quẩn, giá gì được nằm xuống như dăm ba đồng đội, có lẽ lúc này ngửa mặt thênh thang, không còn phải bận tâm vì cơm ăn, áo mặc vì bị phân biệt đối xử. Thế nhưng chợt nghe tin hôm qua nghĩa trang quân đội này bị san phẳng, bữa sau lại nghe bia mộ bị đập bỏ tan tành, mới thấy cả người sống lẫn kẻ chết, chẳng một hai yên thân cả
Ngày trước nghe câu hát “ đàn bò vào thành phố.. người chết hai lần “ đã nghe mênh mang chua xót làm sao. Bây giờ bưng bát gạo hẩm, lẫn lộn những đầu khoai sùng, bo bo, sắn lát càng ê chề nỗi nhục kẻ bị thua.
Đêm từng đêm dài như thế kỷ. Nằm lơ mơ trong giấc ngủ chập chờn, bên cái ba lô được nhét vội dăm bộ quần áo vá, chỉ chờ tiếng xe thắng kít ngoài cửa để trỗi dậy lại thêm một lần làm kiếp tù khổ sai. Những giấc mơ quái ác lúc nào cũng lởn vởn vây quanh xé ruột, xé gan bởi những nụ cười hềnh hệch nhạo báng hay những cặp mắt vằn đỏ hận thù.
Quê hương tôi cùng chung một nguồn một gốc mà sao thâm thù nhau đến tận thiên thu. Những câu nói lạnh băng : lũ chúng mày chỉ đáng băm vằm ra trăm mảnh mới hết tội, nghe mà khiếp hãi vô cùng. Những buổi trưa nghe tiếng đá ném rào rào vào các cô nếch nhốt người cùm kẹp như chính mình đang bị hành tội để nhĩ tai vỡ bụng và máu nhộn nhạo trong tim. Những đêm hốt hoảng nghe tin tù trốn trại và lời hăm he đâu nằm đó lạnh lẽo như oan hồn, chẳng biết cái chết nào sắp ụp xuống trên đầu lũ bạc số.
Còn nỗi đau nào phải theo chân người lính thắng trận ra gom xác bạn bè nơi vòng kẽm gai rỉ sét. Những tiếng van thê thiết để rồi vẫn phải lãnh một băng đạn ân huệ vì dám chống báng lại chủ trương trại. Mớ hình hài đó được bó vội, hở đầu hở đuôi trong manh chiếu để dăm người khiêng tiễn ra vùi lấp cho xong.
Ngày mai, có một người mẹ, người vợ lên thăm con chỉ nhận được tin “ anh ấy mất vì bệnh “ và không cho ra viếng mộ, trong khi những người sống sững sờ vì được lênh cấm loan truyền sự thực về cái chết của anh bạn. Ôi còn nỗi đau nào to lớn hơn chăng ? Và trải bao nhiêu năm trại tù hiện diện, những cái chết câm nín như thế đã diễn đi diễn lại bao lần ?
Hồi đó, tôi đã nguyện trong lòng sẽ có một lần được hé ra cho vơi bớt lòng dằn vặt, vậy mà về tới nhà vẫn ngủ giật mình vì những giấc mộng hoảng kinh. Con sâu kèn còn có chiếc lá khô để cuộn mình trú thân vào ẩn nhẫn. Còn tôi có cái gì để dấu mặt buồn hiu ?
Hai con tôi sức ăn sức lớn bỗng đói vêu thật tội vô cùng. Lẹt đẹt học lên đến cấp 2, tròm trèm muốn bò lên cấp 3 thì cụng đầu với lai lịch. Nỗi hớn hở được vào lớp chuyên chưa kịp chớm thì một gáo nước lạnh dội rét buốt đêm đông. Nó về than với tôi : con được báo không cho theo lớp nữa vì con được xếp vào hạng E-7 nên không đến lượt mình. Ôi những sắp hạng làm người cha khóc ròng ròng vì có lỗi với con quá quắt. Ôi những vô tình làm mái đầu người mẹ càng bạc đi vì nỗi thương con.
Xóm Cụt vẫn dửng dưng không hề hay biết đến. Tôi đã toan tự thú với các con : bố xin lỗi vì bố không làm tròn trách nhiệm, nhưng vợ tôi đã bao lần ngăn cản ý tôi. Nàng nói : đâu phải một mình gia đình ta chịu nạn lớn, anh đừng tự dằn vặt mình. Hai vợ chồng âm thầm ôm nhau nức nở giữa canh trường, gặm nhấm sự tê tái triền miên.
Tôi thường tra vấn mình liệu còn yêu thương vợ như ngày trước. Câu hỏi băng đi như chiếc diều đứt dây, chúi đầu qua bờ qua bụi, để thực tế là chân mỏi gối chồn giữa thảm cảnh cả một lũ heo lúc nhúc nằm bên nhau, sướng vui gì mà còn lo be bờ hạnh phúc ?
Một hôm, thấy một anh đeo toòng teng trên cột điện, ai gọi nhất định không chịu xuống. Lối xóm phải gọi công an, cứu hỏa đến, người ấy vẫn nhăn răng cười trừ. Cái áo trây di bạc màu xòe cũn cỡn, anh một tay ôm cột điện, một tay hình dung thành ngọn súng bắn ùng oàng. Bàn dân thiên hạ ai cũng bảo hắn điên. Tôi nghĩ liệu lần nào thì sẽ đến lượt tôi cũng sẽ như anh vậy.
Mãi người ta mới đưa được anh xuống và không còn ai thấy, hoặc biết anh ra sao nữa. Một hiện diện mù tăm để giữ cho thành phố không nhếch nhác, bụi bặm. Lác đác, người qua lại nói lảm nhảm nhiều dần, họ như đang nói thầm với chính họ hoặc đang phân bua về một việc gì đâu. Thiên hạ còn bận tâm chạy lo tránh kinh tế mới, kiếm miếng cơm cho đỡ đói lòng nên chẳng mảy may quan tâm về những điều như thế.
Càng ngày tôi thấy mình càng mọc rễ, mọc lá ra, những ngọn lá vừa nhú đã héo queo vì thiếu nước. Vợ tôi lo lắm, cứ thủ thỉ thù thì. Nước mắt cô đã vắt sau bao lần lặn lội thân cò đi nuôi tù thì giờ lại rớm máu vì chồng càng ngày càng đâm ra ngớ ngẩn. Tôi đã có lần nhìn trộm cô nói với các con : bố chúng mày lúc này muốn điên được, bảo nhau đừng để ông buồn. Ôi, tiếng kêu trầm thống như tiếng con hoẵng nhỏ nhoi bị con hổ vồ xâu xé.
Thản hoặc một lần trời đi vắng, bất chợt ông thương binh về hưu chạm mặt tôi. Cả hai cùng tiu nghỉu và ngượng nghịu. Tôi rón rén đã đành, nhưng còn ông cũng rụt rè mới lạ. Định gật đầu nhanh rồi biến cho xong, chẳng may ông lại kề cà mở lời trước : tôi có nghe ông mới về, mừng cho ông. Tôi có nhã ý hôm nào mời ông qua chơi, chúng ta uống chén nước.
Ông ấy đối với tôi như thế vì lẽ gì. Ngày xưa, nếu gặp nhau ngoài chiến trường chắc tay súng sẽ chẳng nương nhau để giành sự sống. “ Khôn sống mống chết “ là lẽ tự nhiên giữa khói lửa chiến tranh, có viên đạn nào có mắt để nhìn ra đâu là mục tiêu, ai là cái bia để nhắm tới. Bây giờ hòa bình rồi, ông có mất mát, chúng tôi cũng có mất mát, liệu chân tình có sớm nở ra chưa ?
Tôi mang câu mời của ông như mang một cái nghiệp vào thân. Dù hứa hay không hứa thì mỗi lời gieo ra đều là nhân của một quả đang kết. Tôi đem kể với vợ, nàng lửng lơ chêm vào : em thấy bà ấy có vẻ cũng chân thật, xem ra không phân biệt gì đâu.
giavui
12-06-2014, 06:30 PM
Phần 7
Tôi lựa mãi mới được một ngày để “ thưa “ với vợ (vì tôi đang bị vợ con quản lý mà) : này bà, cái ông thợ sửa xe ngoài đầu ngõ rủ tôi ra làm chung. Vợ chẳng ừ hử gì cả, tôi cáu tiết, quên luôn đang bị vợ giáo dục, nên mắng ào ào : bà có nghe không mà sao nín thinh vậy. Vợ tôi sụt sùi muốn khóc, tôi ân hận vô cùng. Định dịu giọng dỗ, nhưng cục tự ái đứng sừng sững chặn cổ họng, tôi bỏ đi.
Vợ gọi giật lại : em đâu còn đồng nào góp vốn với ông ấy để anh ra làm nên em chẳng biết nói sao. Tôi cảm động thưa thốt : ông ấy vốn là phe ta ngày trước nên rủ rê anh ra làm cho vui, cho khuây khỏa, chứ bó rọ ở nhà mãi khùng mất.
Và để vợ khỏi băn khoăn, tôi nói luôn : ông ấy chẳng cần góp vốn gì cả, lại chia việc rành rẽ, phần kỹ thuật ông ấy lo, anh chỉ chờ có ai bảo bơm thì nhấn xịt xịt một lúc, được bao nhiêu ông ấy dành cho anh tất, bảo để hút thuốc hay mua quà cho bọn nhóc.
Mắt vợ tôi dân dấn, cô không ngờ thời buổi này còn có kẻ chịu cưu mang nhau đến vậy. Tuy thế, nàng cũng lưu ý tôi : liệu mình làm thế có lợi dụng ông ấy không ? Tôi điếng vì chưa nghĩ đến ý này bao giờ.
Chờ hoài không thấy tôi lảng vảng ra chuyện trò, nên lần thoáng thấy tôi, anh thợ sửa xe kêu inh lên : ông thầy, sao chuyện làm ăn tính tới đâu rồi. Tôi chân thật kể hết lời vợ với anh. Anh gãi đầu xoành xoạch : chèn ơi, sao lúc này mà cô còn cố chấp vậy chớ. Và anh đon đả giữ tôi lại, không cho về, còn nhắn nhe : để chiều em qua thăm thưa chuyện với cô luôn.
Tôi không ngờ mình tệ hại đến thế. Việc hết sức đơn giản mà không tự nói gẫy gọn với vợ, nhưng thời buổi thuộc về một đẳng cấp khác mất rồi làm sao tôi mở miệng nổi. Thế là từ đó sáng sáng tôi theo chân anh ra, cùng bán mặt cho trời, phơi lưng cho nắng, rủng rỉnh cũng có đồng ra đồng vào uống cốc nước, ăn que kem hay nói đấu láo với nhau khi vắng khách.
Tình chiến hữu không khơi cũng đầy ăm ắp, chẳng mấy chốc coi nhau còn hơn ruột thịt trong nhà. Tôi mượn tâm tình một bận hỏi anh : có khi nào anh được tin cô ấy ở đâu chăng ? Anh lặng đi, ngẫm nghĩ, thở dài, lí nhí nói : nếu biết thì nói làm gì, ông thầy. Đằng này cô ta đi biệt… và như sực nhớ ra, anh chêm thêm : chưa chừng cô ta hoặc gửi xác ngoài biển cả, hoặc bị bắt vào tay bọn hải tặc, chớ nếu không ít nhất cũng phải có một lần gởi tin về..
Mắt anh bỗng quắc lên dữ tợn, nhìn thông thống lên trời, nghiến chặt răng trách bâng quơ : thế giới làm ngơ để bọn bất nhân chặn đường hiếp đáp người vượt biển. Tôi thấy bàn tay anh co lại thành nắm đấm đập bình bịch vào lòng bàn tay kia. Tôi muốn cất một lời an ủi mà cổ họng nghẹn cứng. Chẳng có nỗi buồn nào kém nỗi buồn nào vì tất cả đều chung một xuất xứ vô phúc như nhau.
Tệ hại nhất là mùa mưa, nước chợt đổ ào ào, nắng chợt nóng hun dữ dội, y hệt cô bé đỏng đảnh làm duyên làm dáng. Anh thợ cụ bị đầy đủ nên hễ thấy trời ui ui, mây đen giăng kín kịt là vội căng tấm bạt được nối với nhau bằng những bao đựng gạo ni lông tháo banh ra. Bốn đầu anh cột bằng sợi dây lòi tói gá nhờ vào gốc cây hoặc hàng hiên của căn nhà gần đó.
Trời miền Nam õng ẹo đến hay. Mưa chẳng ra mưa, nắng chẳng ra nắng, ào ào giận dữ trút một hơi như hắt nước vào mặt rồi êm re. Bởi mới nóng hiu nóng hắt. Những giọt nước còn đọng trên nhánh cây, cành lá kế đó rớt độp độp từng chặp, nghe thật là buồn. Những lúc đó, anh thợ thường đặt cho tôi những câu hỏi mà tôi ngọng không sao giải thích được : hổng lẽ cuộc đời cứ dai dẳng như vầy hoài sao hở ông thầy.
Sau biến cố, tôi nghĩ rằng lòng ai cũng nát ngấu như tương, âm ỉ một tương tư chỉ cần ai khơi là bùng lên cháy dội. Nhưng biết nói thế nào khi mà quyền lực hay cơ hội mảy may đều bỏ ta đi, không nhìn lại nữa. Hai anh em chỉ còn biết an ủi nhau qua quít cho xong.
Mỗi khi khách ghé đến kêu bơm bánh xe, ai cũng than ruột vá đi vá lại hoài mà hơi không giữ được. Người thì kêu đầu van bị hư miếng chặn, người thì nói vỏ được lót chằng lót đụp mà xẹp vẫn bị xẹp, không nói ra ai cũng biết còn thứ gì trụ lại sau một thời điên đảo. Keo chẳng ra keo, ruột mọt tưa như cám vụn thì làm sao mà bền bỉ xài hoài.
Giả như ngày trước chỉ cần chạy loáng ra chợ mua cái lốp mới, ruột mới là xe lại chạy nhong nhong. Bây giờ đất nước đang “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội “ thì thứ gì cũng thiếu. Các ông ấy bảo tại hậu quả do Mỹ ngụy để lại nên từ từ sẽ khắc phục. Thản hoặc lâu lơ lâu lắc nghe kháo nhau có lốp Sao Vàng mới về, thì chế độ phân phối chỉ dành cho cán bộ ưu tiên. Vậy nhưng có tiền thì của gì cũng có, cũng mua được.
Hàng tuồn ra hoặc từ nhân viên cửa hàng mậu dịch, hoặc qua trung gian con phe con phẩy, thậm chí còn từ chính các cán bộ thấy giá hời thì bán quách lấy một món tiêu đã. Cho nên manh nha việc áp phe, kết bè kết cánh, hoặc bắt tay nhau bòn rút tiền, hàng để gây dựng tài sản riêng. HÌnh như máu tham nhũng cũng từ chế độ trước truyền lây sang cho những người về từ rừng núi ngày nao.
Ngồi nhìn anh thợ tẩn mẩn dùng chiếc đục tháo từng mắt xích, lộn trở lại để nối kết với nhau, anh bảo đó là lộn ổ xên, chăm chăm chút chút lúc chẳng có việc làm. Hoặc rảnh nữa thì vơ quàng mảnh giấy báo đọc không còn chừa một hàng, một chữ. Anh thợ bảo từ ngày có tôi thì đỡ nản hơn, dù gì cũng ba hoa chích chòe được vài câu dăm tiếng. Phần tôi cũng đỡ bực bội vì quanh quẩn trong xó nhà, bớt được những nghĩ suy yếm thế và tuyệt vọng. Bọn nhỏ khi ở trường, lúc chạy chợ buôn nước bọt hay nhận chạy hàng để được chia tí tiền còm. Vợ tôi thì lăng xăng cơm nước, hay lội ra ao cắt rau, phụ dọn chuồng nuôi lợn với bà xã ông cán bộ.
Cuộc sống làng nhàng cho qua ngày đoạn tháng, cố tình thu nhỏ người để khỏi bị phân bổ đi kinh tế mới. Có lần bà vợ về nhỏ to với tôi rằng bên bà cán bộ hứa nếu bị bình bầu phải giãn dân thì bà sẽ góp lời bênh vực hộ với phường khóm để gia đình tôi không rơi vào tình huống không mong đó. Chả biết thực sự lời nói vào của ông bà có tác dụng được ai chăng, thế nhưng sống giữa cảnh trên đe dưới búa thì y như anh buồn ngủ vớ được mảnh chiếu rách hay mục cũng còn hơn là không có gì hết.
Lầm lũi thời gian trôi đi, năm đầu tiên lệnh cấm đốt pháo ngày Tết, nhà ai chẳng thăm nom, tay khu vực là đến xông đất nhà tôi. Nói là đạp chân ngày tư ngày tết là nói cho có vẻ, chứ thực tình là tay ấy muốn củ soát xem gia đình tôi tuân lệnh cấm thế nào. Quả thật miệng ăn còn chưa ra, lấy đâu tiền mua lăng nhăng đốt cái toẹt tan xác, thế nhưng vì tôi là đối tượng nên có dịp hù dọa được thì chẳng ai mà không muốn nạnh họe.
Điều này chẳng phải là tôi hình dung mà chính từ cửa miệng tay khu vực huênh hoang nói : kể ra chú cũng biết sợ đó chứ và thế là rồ máy xe chạy mất. Tôi giờ như con dế bị bẻ càng, cánh bị rách thủng, có muốn cọ để thành tiếng gáy te te cũng lịt xịt không ra hồn ra dáng. Vả chăng, tránh voi nào xấu mặt, dại gì khua môi múa mép với người luôn nhằm đến mình nên vạn nhất làm thinh là tuyệt hảo.
Anh thợ sửa xe có phần bạo dạn hơn tôi nên đôi lúc còn ngang phè lí lắc. Anh phàn nàn với tôi : các bố khoe mẽ là tử tế, sống có văn hóa mà lườm nguýt nhau như cáo. Anh này tị nạnh anh kia, nhìn nhỏ nhau như rình trộm, ngày xưa cùng trong cảnh lận đận thì yêu nhau ra rít, bây giờ anh có quyền lờ tịt bạn cũ hồi nao.
Anh có vẻ tự hào về nếp sống tình nghĩa của chúng tôi. Anh đâm thọc một câu làm tôi nghe ớn : các bố trước xúi khôn xúi dại đấu tranh ở nơi nào có áp bức, bây giờ mà tay nào cứ mửng đó đem ra xài là bị thí chốt liền. Cho nên ông Thiệu có thể sai sót ở đâu không biết, chớ câu ông ấy dặn “ chớ nghe những gì Cộng Sản nói…” là trúng phóc.
Riêng về ông thương binh hưu chẳng thấy có cái xe dù chỉ là xe đạp nào cả. Tháng tháng lên phường lĩnh gạo, lĩnh tiền thì lóc cóc lội bộ, vác lệch vai, lệch lưng. Thế nên bà vợ cay cú cứ moi việc này ra càu nhàu : tội nghiệp chồng tôi, bằng khen, huy chương thì lắm mà chỉ có đôi chân làm phương tiện ưu tiên. Ông cán bộ có mắng át thì bà càng mạnh miệng : phải, ông chê tôi là đần là chậm, nhanh như ông mà không chớp vội một cái ghế yên lành để ngày nay trẻ ranh cũng mắng mỏ, bắt tình bắt tội ông được.
Thời thế, thế thời, đúng là vận vào câu “ thằng mù cõng thằng què nhếch nha nhếch nhác “. Thế nên, đi đâu ông cũng ba chân bốn cẳng, miệng nói chân bước, ngoe nguẩy thoáng lẩn liền. Lắm khi, tạt ngang gian hàng sửa xe, ông chỉ kịp “ chào các ông bạn “, hai anh em tôi chưa kịp đáp thì ông đã lặn mất vào trong xóm. Chả bao giờ thấy có khách đến chơi hay rì rào tiếng mời ăn uống, hai ông bà củ mỉ cù mì nhấm nhẳng lẫn nhau và lăng xăng với ao rau, chuồng lợn.
giavui
12-06-2014, 06:30 PM
Phần 8
Trong số những chuyện tán gẫu với nhau khi vắng khách đến sửa hoặc bơm xe, hai anh em chúng tôi thường cùng nhau bàn luận những sự việc đã qua. Đành rằng có nói gì đi nữa thì cũng chẳng gỡ được thân phận mình, nhưng ít nhiều anh em cũng hả hê vì gạt bớt được một vài ấm ức ghim trong dạ.
Gẫm lại hơn 20 năm chinh chiến, biết bao máu đổ thịt rơi, biết bao người trai trẻ cả ở hai bên giới tuyến hằm hè giết nhau vô tội vạ, cuối cùng hai anh em vẫn chẳng hiểu tại sao lại có cuộc chiến này.
Ở phía bờ Nam có lúc được gọi là tiền đồn của tự do ngăn chặn Cộng Sản thì dường như chiến tranh chỉ ở vào những người kém thân, kém thế, hoặc ở những ai quá chậm chạp, thật thà. Bởi không thể chọn con đường nào khác, vào chiến khu thì sợ thiếu ăn, hứng bom đạn, lại vi trùng sốt rét đeo đẳng tàn phá suốt cuộc đời, còn ở lại thì tiền chẳng có, quen chẳng lớn, biết chạy đâu ra một chân du học hay một chỗ an toàn miễn dịch.
Cho nên, tiếng là hi sinh để bảo vệ cuộc sống, giữ vững mảnh đất cuối cùng mà quanh đi quẩn lại chỉ là con nhà thường dân hay bần cố. Cóc thấy một mặt con các tướng nào xông pha nơi trận mạc. Nói mạnh miệng như thế e có võ đoán và hơi quá đáng, song con số những nhà nòi chịu dấn thân vào chinh chiến e không quá một bàn tay.
Chúng ta đã có một Đỗ Cao Luận chết khi bị địch tràn ngập hoặc một vài người nữa và chỉ thế thôi. Còn hiếm có một Bernard De Lattre De Tassigny dám bất cần bám hơi danh bố để chết tại Vĩnh Phúc Yên chẳng hạn. Các cậu ấm, cô chiêu chỉ nhông nhổng quanh thủ đô, sáng điểm tâm chiều vũ trường và đàn đúm làm những chuyện tào lao, bậy bạ.
Chúng ta cũng có những anh, những chị chấp chổm vừa qua mảnh tú tài là gia đình lo chạy đôn chạy đáo để được Bộ Quốc Gia Giáo Dục cử đi du học. Buồn là những người này ơn mưa móc chạy trốn đau thương từ một chế độ dung dưỡng để rồi khi sang đến nước người lại chọn đứng vào hàng phản bội nơi đã ưu ái cho mình ra đi. Mạnh miệng kêu gào ngưng chiến chính là những cái loa ông ổng này.
Trong khi khắp từ những vùng dầu sôi lửa bỏng như Tam Quan, An Nhơn, Thiện Giáo hay An Lộc, Pleime, Quảng Trị, Kontum đều đỏ lửa mịt mùng thì các cậu ấm hết bù khú với nhau bằng sâm banh, rượu đỏ lại pác ti này, lễ hội nọ với nhau.
Lãnh đạo hầm hè nhau tranh ghế, buôn chức, buôn quyền. Các bà lớn xúm nhau làm áp phe chạy tỉnh, quận trưởng. Ai cũng nghe rõ mười mươi bà trung tướng này, ông thiếu tướng nọ ngang nhiên xẻ nhà xẻ đất cho bọn đàn em để tìm vây cánh. Những vụ buôn còi hụ Long An đều có bàn tay các bậc phu nhân dúng vào, song khi bại lộ thì chỉ những con dê tế thần bị đem nướng.
Chả thế mà người chiến binh khi về đến thành phố bực bội vì những cảnh trái tai gai mắt đã biến thành kiêu binh hay quậy phá. Tội nghiệp là hết đợt này đến đợt khác, hàng hàng lớp lớp thanh niên xô nhau vào Dalat, Thủ Đức, Đồng Đế, Lam Sơn, Sông Mao, Hòa Cầm để học bò, học lăn, học ngắm, học bắn.
Những đoạn đường chiến binh thấm đầy mồ hôi lính, dây tử thần mỗi khóa cho phép thí dăm ba con, mỗi ngày những chuyến trực thăng tải thây, tải thương đổ về các quân y viện hay nhà vĩnh biệt Nghĩa Trang Quân Đội không ít những người hi sinh hoặc bị đạn cùng người.
Chiến tranh chỉ có nơi những người như thế. Cùng sinh tử như nhau mà bản thân binh chủng này, quân chủng nọ vẫn còn hoặc xem thường, hoặc gắn bó nhau vì huy hiệu mang nơi cánh tay hoặc đồng hoặc dị.
Bảo sao mà ngay giữa thủ đô chẳng thiếu những bài hát “ gia tài của mẹ là khúc nhạc buồn “. Bảo sao văn chương không có những bài thơ kiểu “ đêm Sông Mao vô nhà đĩ uống rượu, quên chút đời cực khổ ngoài kia “.
Chiến tranh còn ở tận đâu đâu. Cho nên ông nhà thầu khai thác gỗ vẫn ngang nhiên đưa xe be vào rừng. Một mặt chịu đóng thuế cho du kích hoặc nhận mua thuốc men, gạo thóc tiếp tế để được dễ làm ăn. Một mặt chịu chi cho khắp các quan để hợp đồng một thì tham lam khai thác thành hai, ba, bốn. Bởi vậy mới gọi là nghịch lý điên đầu.
Những tay càng bị báo chí phanh phui làm bậy thì càng thăng chức ào ào. Thậm chí một ông buôn khét tiếng chính quyền miền Tây mà bỗng thăng thành Cố Vấn mới lạ. Có một dạo người ta đồn : thượng cấp thì buôn chức, trung cấp thì áp phe, hạ cấp thì buôn bằng, có nơi nào đánh giặc mà cứ như cưỡi ngựa xem hoa đủng đỉnh thế chăng ?
Đó là phía bên này, còn phía bên kia thì sao ? Đã gọi là gốc gác Việt thì ở đâu cũng thế. Những người được phân về các sư, trung, tiểu, đại đội đều là con em nông dân hết cả, cũng có các cấp chỉ huy nhưng chữ thọ của họ vững vô vàn. Miền Bắc khác mình là họ dám làm những điều mình e ngại, ai không nghe họ dám bóp chết không tha. Họ dùng hộ khẩu và chế độ tem phiếu để xiết chặt lòng trung thành, cho dù ngoài mặt vẫn được bọc nhung rất êm mềm, mịn dịu. Họ dựng đứng những sự việc không có mà vẫn đốc thúc được căm hờn khiến ai cũng hăm hở ra quân. Người nhẹ cân phải lận dấu đá cho đủ để được hãnh diện trúng tuyển vì nhỡ bị loại thì nhục vô cùng.
Cả một trường rủ nhau xung vào đoàn “ vượt Trường Sơn đi cứu nước “. Ai nghe rằng dân miền Nam đang bị đói ăn, thiếu mặc, bị kìm kẹp mà chẳng ham đi “ giải phóng “ đồng bào. Người đi cứ đi, hậu phương chắt chiu ki cóp dành “ hũ gạo kháng chiến, thước vải tình thương “ để cưu mang miền tổ quốc thành đồng.
Mọi người ngây ngô đều tin đó là sự thực, đó là chân lý, đó là cứu cánh cần phải đạt tới. Một thế hệ, một lớp tuổi có phải hi sinh thì cũng đáng giá chớ sao. Những gia đình có hàng dăm ba con thành liệt sĩ, bàn thờ chưng ảnh mà vẫn cho là mình làm đúng việc cần làm. Những người vợ có “ chồng đi biền biệt “ vẫn tin là người yêu mình đang đi cởi trói cho lê dân.
Có ai biết đâu đường Trường Sơn đã nuốt đi bao nhiêu thân người đang ăn đã cuống cuồng vứt cả cơm mà chạy bom dội. Những cô gái vừa trông thấy nhau đã khóc vì chẳng còn biết người bạn thây gửi nơi đâu. Những quyển nhật ký được viết cho Mẹ, cho Chị, cho Vợ, cho Em để rồi ngày hòa bình đều được san nhuận và bổ đính lại, in thành sách để vớt vát nốt ý đồ đánh bóng một thần tượng.
Trước chiến tranh, người ta rêu rao “ nơi nào có áp bức thì ở đó có đấu tranh “. Giờ hòa bình, đất đai là của công, nhưng riêng các quan thì được phép bán, dổi, chia chác, sang cho bạn bè, con cái, bên chồng lẫn bên vợ. Hẳn nhiên người ta đưa ra danh xưng rất đẹp như là xây công viên, hội trường để rồi vỡ lẽ ra thì không là khách sạn cũng là cho tư bản nước ngoài thuê để làm sân cù hay cơ xưởng.
Thế thì đất là của công sao lại chỉ các ông được phép bán chia còn dân chúng thì không. Ai hó hé, tương ngay cho một án “ gây rối loạn trật tự “ là êm xuôi hết. Đúng là chân lý ở bên này dãy núi Pynérées và bên kia thực rất khác hẳn nhau. Cũng là một hình thức bất công mà đấu tranh với phía đối nghịch thì được, còn hô hào (chỉ hô hào thôi) với phía ta thì phạm pháp rành rành.
Bây giờ tỉnh ra thì ai cũng lặc lè chịu chết. Chẳng những đồng bào trong Nam mà ngay các gia đình mấy đời có công, có người nằm xuống cho chế độ vinh danh thì nay cũng là nạn nhân tuốt tuột.
Thành phố anh em chúng tôi ở rất nhỏ, hiền hòa, vậy mà xầm xì đã nghe nhiều tiếng than van của các bà mẹ có con đi núi. Có người mạnh miệng hô toáng lên : ngày xưa ai nuôi bọn mày, giờ nỡ xử tệ trả công. Có người còn tỏ ra tiếc nuối : biết thế hồi đó tao xối đại nước sôi xuống hầm bay cho xong. Ôi những lời da diết nghe mà muốn trào nước mắt.
Thành phố anh em chúng tôi có một dạo đi đâu cũng đọc thấy lời viết bằng sơn, bắng phấn : Ùm Cối mà chẳng ai hiểu muốn nói cái gì. Ai cũng cho đó là lời ngơ ngẩn của người điên thời đại nên chỉ lặng lẽ nhìn nhau thầm hỏi mà thôi. Mãi đến khi ba món phim bộ Hồng Kông, Đài Loan nhập vào, người ta buồn đua nhau mướn coi cho qua ngày đoạn tháng. Nhà nước cũng khuyến khích để bàn dân thiên hạ mãn lo thương vay khóc mướn vì những vai diễn Tàu, Nhật, Hàn Quốc mà quên phéng đi chuyện nhỏ to khiến họ phải nhức đầu.
Thế rồi nghe xí la xí lô trong phim Tàu tiếng Ầm Cói mới biết là họ lăng xăng cám ơn nhau thay cho tiếng “ tố chè “ thuở nao. Thì ra thiên hạ đổ xô nhau cám ơn mà chẳng biết cám ơn ai. Có thể cám ơn nhờ hòa bình mà mình mới biết thế nào là bo bo, củ sắn hay bắp hột to cầy xấy dùng nuôi ngựa. Có thể cám ơn nhờ có đổi đời nên mới vỡ lẽ ra “ sáng mắt sáng lòng “ là sao. Cũng có thể cám ơn nhờ có thế này mới hiểu ra thế nào là đắng cay, nhục nhã.
Người say cứ xỉn suốt ngày. Bất kể giờ nào chỗ nhậu cũng tươm tướp khách. Tiền đâu ra lắm thế hay là nhậu quắc cần câu cho quên buồn, quên tủi. Người cà nhỏng cứ nghêu ngao hát lén lút lang tàng “ như có… trong thùng phuy đậy nắp “ để rồi một ngày bỗng dưng đẹp trời tay khu vực vớ được gởi đi lao động cải tạo mút mùa. Ai cũng tưng tửng, khùng khùng, gọi văn hoa thì là tam tam, còn gọi thẳng thừng là mát dây, đứt chến.
Tuổi trẻ bắng nhắng đua nhau ghi danh thi hoa hậu, duyên dáng hết tỉnh đến thành, lan ra cả nước rồi ngông nghênh làm luôn cái toàn cầu cho bảnh. Con đại gia, cán lớn thì đua nhau mở blog, họp fans, chát chót suốt ngày, đua nhau sắm hàng hiệu không đụng mác, đổi xe, đổi áo, đổi bạn và dám đổi cả vợ/chồng tới luôn. Một đêm ca nhạc, vũ trường đủ cho vài gia đình thiếu ăn sống lây lất cả tháng.
Loạng quạng anh an ninh, cảnh sát nào đến yêu cầu vặn bớt tần số “ vì đêm khuya mọi người cần nghỉ ngơi để hôm sau còn lao động “ là sinh chuyện. Tử tế thì lịch sự mời nhau đi chỗ khác chơi, hung hãn thì tặng nhau vài quả phật thủ. Có đưa nhau ra đồn thì chỗ người nhà, anh em xin nhận lỗi, bảo lãnh cháu về, hứa sẽ giáo dục, quan tâm.
Có muốn làm căng lôi ra tòa thì luôn có các luật sư tài ba viện lý lẽ cháu nó vốn tí ti tâm thần nên dễ nổi nóng và xong. Con bần cố mà thế có là đi tù mãi mãi không về, nhưng con cháu các ông dù có cầm gươm, cầm súng thì cũng được diễn là đồ chơi con trẻ chứ có phải vật giết người chính cống đâu cơ chứ.
giavui
12-06-2014, 06:31 PM
Phần 9
Những năm, những tháng sống vùi đầu nơi Xóm Cụt, tôi nghĩ mình mọc rong rêu ra đến nơi. Ngồi đâu buồn thiu buồn thồi ra đó, tay chân dài ngoẵng, móng mọc vêu vao, tưởng như mọc rễ chằng rễ đụp ăn sâu xuống lòng đất. Nhìn vào đâu cũng thấy có quầng có vệt, y như con mắt cũng bị ruỗng ra, chẳng khác khúc cây khô bị mọt đục. Tai luôn điếc đặc vì cái loa phóng thanh ở đầu ngõ luôn chĩa thẳng vào nhà mình.
Những điều không muốn nghe cứ phải lải nhải nghe, những điều không muốn thấy cứ phải mở căng mắt ra mà nhìn. Lòng cứ bã ra như mảnh chiếu rách người ta quẳng trôi sông lạc chợ. Không sáng nào, không chiều nào không phải nghe cái ông Phó Thủ Tướng họ Lê Thanh rang rảng khoe sự tự động của người dân hồ hỡi nhau đi xây dựng kinh tế mới. Thế mà vừa ra ngõ đã gặp lềnh khênh người nằm ngủ vạ vật khắp nơi.
Hỏi ra họ đều từ ở cái thiên đường đầy mật ngọt đó bỏ về và nói năng bất cần giứ ý giữ tứ. Họ than là chết đứ đừ rồi, còn cóc gì mà sợ nữa. Nhà cửa đã hiến, tin rằng lên tới đó chợ búa đã sẵn, trường lớp đã có, trạm xá y viện đã nhiều, nhưng có đi có biết, họ phượu ra chứ nào có gì, ngoài một mé rừng đầy cây bụi và lơ thơ dăm miếng tôn mục để ra đó. Muốn ở thì cha con, chồng vợ, con cháu tự mò mẫm chặt cây, ghép cột thành sườn, thành cột mà trú; còn không thì cứ nghêu ngao nằm ngửa mặt nhìn trời chờ sao rụng mà há mõm ra chực.
Trong những nỗi hận tràn lòng thì nỗi hận chính người lãnh đạo phe mình đánh lừa lê dân ở lại rồi các bố tếch biệt mới là đau hơn hoạn. Đó đây đã có những câu chửi rủa tục tằn để xả bớt nỗi oan khiên phải chịu vì bị bỏ rơi, thù còn hơn là thù kẻ thắng trận hay bạn đồng minh tệ bạc.
Tôi ví như con sâu đo bị người đời đặt chân di đi di lại đến ứa cả lòng ruột chất nhầy ra ngoài. Tôi như cành lá mục rơi trên bãi lầy còn bị thêm dòng nước đen ngòm khỏa lấp nát tan. Vậy mà xem ra người ta vẫn e dè, nghi ngại bọn tôi.
Ngoài cái anh khu vực lăm lăm lúc nào cũng dõi theo như mắt diều chực bắt gà con, năm thì mười họa vài người lại bá vơ nhận được cái giấy mời làm việc mà run cầy sấy trong lòng. Nghèo xác mồng tơi, người nào cũng phải cụ bị bao thuốc Vàm Cỏ để làm quà ra mắt, dù có người chẳng hề biết chất khói thuốc ngay từ ngày bé ra sao. Bởi rét với cái lý do lơ lửng như lưỡi dao chém treo ngành vắt vẻo trên đầu cột. Một dòng chữ ghi khô khan mà lạnh buốt hơn gươm : yêu cầu có mặt đúng giờ, lý do sẽ cho biết sau.
Trong những nỗi tai ương hồi hộp thì cái lối nói bắt bí này đáng sợ nhất. Có khi họ mời tới hỏi han lăng nhăng ba điều dăm chuyện rồi thả về, hẹn hò lâu lâu gặp lại. Có khi họ yêu cầu kể rõ thêm những chỗ mà hồi nào khai báo chưa gẫy gọn, phân minh. Có khi được mời lên mời xuống hết ngày này qua ngày nọ chỉ vì một lý do người khách nào đó đến anh nói chuyện gì.
Còn thân phận nào thê thảm hơn chăng. Bữa nay nghe tin mấy ông đi cải tạo về đang say sưa tới bến ngoài quán với nhau thì bị hốt sạch để hỏi xem nguồn tiền đâu ra mà nhậu lắm thế. Cuộc sống cá nhân bị những con mắt tọc mạch nhìn xuyên suốt đáng sợ. Mai lại nghe phường này phường nọ bắt đầu gom mấy tay tù mới tấp tễnh về để gửi vào trại lao động thêm vì vẫn chưa thông, còn lè phè chây lười lao động.
Tôi đã hơn vài lần thuộc vào trường hợp được mời trôi nổi như thế. Tôi lo bằng chết, vợ cứ phải mạnh miệng trấn an : không sao đâu, người ta muốn tìm hiểu xem anh làm ăn, sinh sống thế nào, có khi xem coi anh có bị địa phương chèn ép hay gặp khó khăn thì họ gỡ cho. Em nghe nhiều bà vợ ở vào các trường hợp như anh nói như thế.
Ôi cái xã hội mà ai cũng mù mờ hệt nhau tất cả, chỉ đồn loan các tin nghe ngóng được thế thôi, còn tuyệt nhiên chẳng hề ai dám nói là hiểu rành, biết rõ. Tôi có cẩn thận đến thăm dò tay trưởng khóm thì lão cũng ngớ ra. Thậm chí địa điểm gặp là công an phường mà khi đến đó cũng chả ai biết mô tê gì hết. Đưa tờ giấy mời thì họ dẫn vào một cái bàn rộng thênh thang, bảo ngồi ì ra đó đợi, sẽ có người trên thị hay tỉnh xuống gặp gỡ.
Xưa rày, chẳng có anh dân ngu khu đen nào mong được bạn dân từ tỉnh hay thị xuống hỏi han mình, cho dù bất kể thuộc chế độ, thời đại nào cũng vậy. Dường như người yếu thế kỵ với những sắc phục vốn luôn âu yếm đến dân, cứ nhìn cái dùi cui của họ và cái còng số 8, ai cũng muốn lỉnh đi cho được việc.
Ngược lại từ những ngày, những tháng sống với cuộc đổi thay, tôi cũng nhận ra được nhiều kỷ niệm hay ho. Lần đầu tiên đổi tiền tôi còn nằm trong rọ, sau này về nghe kể lại nhà nước vung tin là có bão lớn, cấm dân ra đường để chặn truyền tay nhau nhận đổi hộ tiền. Thế nhưng người dân biết hết, phần lớn chẳng ai còn nhiều tiền mà gửi, với những tay khôn ngoan thì họ còn cố giữ chi ba mảnh giấy lộn của một chế độ đã tàn. Họ đã cụ bị từ khuya bằng cách sắm vàng, kim cương hay lỉnh kỉnh trăm thứ giá trị khác, và họ gửi đâu, dấu đâu thì có trời biết, đất biết và họ biết với nhau mà thôi.
Kín như thời gian đi tù kéo dài bao lâu mà ngày hôm trước mới vào trại hôm sau đã nghe nhong nhóng bàn nhau. Các tay rành rọt phán : Liên Xô giam trên 10 năm, Trung Quốc 9 năm, còn ta thì ít là phải 3 năm mới tạm gọi là đủ. Tin truyền tai này rất nhanh được ban phát, trại lồng lộn lên mắng mỏ anh em : các anh tội ví trời tru đất diệt, cách mạng đã tha chết mà chẳng chịu học hành. Cứ bàn tán linh tinh, ai bảo các anh là tù binh mà tự buộc rịt tiếng ấy vào mình. Các anh là học viên rõ chưa, nhà nước tập trung cốt để các anh học hiểu thì về, chứ nào ai bắt tình bắt tội làm gì. Ấy vậy mà chỉ dăm tháng ngắn ngủi thì mọi người bị tập trung với tin đồn chuyển trại để rồi được xối cho một gáo nước đá giữa đêm đông, ai nấy mới hiểu ra : kể từ nay các anh chẳng là học viên gì cả, đích danh các anh là tù tàn binh nghe rõ hay chưa.
Thời gian tôi ở Xóm Cụt cũng thế. Những tin đồn tới tấp bay về, người nghe mừng rơn, người dửng dưng bịt tai, bịt miệng. Chẳng hạn cái tin Mỹ sẽ cấp cho những ai chịu ở lại quê nhà 5000MK làm sinh kế nuôi thân, hay cái tin sớm muộn gì thì chuyện “ mã quy “ cũng sẽ tới.
Dạo đó, tôi không tin với tin trước vì nghĩ dù Mỹ giàu mấy đi nữa, việc xuất 5000 cho mỗi đầu quân, dân, cán, chính của VNCH đâu phải nhỏ, có quốc hội nào chấp thuận nổi ngân sách đó chăng, huống chi là chưa ai nắm được rõ con số thực sự người bị kẹt lại độ bao nhiêu để mà thảo một dự án to lớn như thế.
Về tin sau thì đầu óc tôi mụ mị mất tiêu nên chẳng thắc mắc đoán nổi “ mã quy “ là gì, không dám xen xỏ có ý kiến vào. Sau dần dần họ kháo huỵch toẹt ra “ mã quy “ tức “ Mỹ qua “, ai cũng cười hề hề cho là các tay ngủ mơ vì có đâu Cộng, Quốc dễ hòa hợp tới vậy.
Sự đời nào ai đoán trước được diễn tiến, “ hồi nao thù hận đáy thiên giờ đây bầu bạn nhãn tiền mới hay “, Mỹ bỏ cấm vận, rồi lại bang giao, rồi bỏ thứ này thứ khác, chỉ có những ai ngây ngô tin nghĩa tình trước sau như một mới bé cái lầm.
Lại nảy tin đồn rùm beng, nhà nước sắp chấp thuận cho tù bị nhốt cải tạo ra đi, ai cũng cho là huyền hoặc. Thậm chí có người còn rêu rao nguồn tin ví như tin đài Catinat hồi mồ ma chế độ trước, bây giờ thay vào người ta gọi là tin đài hành lang sở ngoại vụ. Lẩm rẩm các tin đồn lại trở thành sự thực mới biết. Có nhiều người ở rải rác khắp các tỉnh được công an địa phương đến tận nhà buổi tối mời làm đơn để sớm ra đi vì có sự yêu cầu của phía Mỹ.
Ai nghe cũng bàng hoàng, người may mắn thì hí hửng, còn các “ con bà phước “ thì băn khoăn. Cái khoản lo dịch vụ để được xét đơn ra đi, tốn kém vì lếch thếch lôi thôi đi phỏng vấn, rồi lịch tiêm thuốc ngừa, bắt uống thuốc vì có bệnh và lòng nôn nao chờ đợi ra đi làm cho mắt gia đình nào cũng sâu hoắm và những đường nhăn trên trán càng sâu hơn.
Chỗ nào cũng có môi giới để khẻ tiền. Diễn tiến ở các văn phòng xuất nhập cảnh rất nhiêu khê, bạn có đến tìm hiểu thủ tục thì đều được nhã nhặn mời ra xem thông báo nơi tấm bảng đen đặt trước sở. Ở đó người ta chỉ thấy ghi một câu : văn phòng XNC được phép nhận hướng dẫn cách thức để hoàn tất hồ sơ ra đi. Cho nên có biết bao nhiêu người lòng muốn được thoát đi mà chỉ vì thiếu cái khoản phí lo liệu mà đành bỏ phí cơ hội.
Cả đến lúc hồ sơ đã được chấp thuận, phỏng vấn cũng đã qua mà khâu moi tiền vẫn chưa nhả. Điều lạ lẫm là lắm ông chờ lượt lấy chuyến bay ra đi, chỉ còn phải qua phần chụp ảnh phổi lần chót mà vì nôn nóng cũng cố chạy một hai chỉ vàng, nhờ bà hàng thuốc lá lẻ nào đó nói với bác sĩ khám để có một bản chụp quang tuyến X trắng sạch.
Tôi nghiệp làm sao và liệu ai may mắn ở bên ngoài đất nước có cảm, có thương, có cám cảnh cho những nỗi âu lo bất tận này chăng ? Dạo ấy, có những người chăm chăm dò la địa chỉ bạn bè, thân nhân, bà con ở nước ngoài để xin viện trợ chút tiền làm lộ phí mưu việc ra đi. Cũng có anh nhặt được ở đâu ra chỗ ở của một hội binh chủng ngày xưa để lâu lâu nhận được khoảng 50MK xem ra mình quá ư may mắn.
Chuyện ra đi cũng gây lắm chuyện khóc cười vô cùng. Một bà vợ vì thấy chồng mình xác xơ lỡ vận, quen ăn sung mặc sướng đã vội phụ tình đi lấy một tay cán cối bên kia. Bây giờ đùng cái “ người ấy “ sắp đi Mỹ, cái cô bá vơ là bà sau nghênh ngang sửa soạn đi theo cùng chồng, tủi thân hờn phận nên lén la lén lút cầu xin chồng tha thứ. Gieo gió phải gặt bão, người gây nhân phải hái quả, đành nuốt hận nên quay qua nài nỉ xin chồng cũ cho con cái đi theo.
Ngặt cái thuở nào hăm hở ra đi thì huỵch toẹt xóa hết tờ khai gia đình nên con cái từ lâu không còn sống chung với bố. Giờ có bổ khuyết thì cũng chẳng ai chấp nhận vì sự thực chứng tỏ là các đứa con đâu cần sự chăm nom của bố từ lâu rồi.
Ôi, cái thời thế sao mà nhộn nhạo, xáo trộn lung tung lên hết vậy nhỉ ?
giavui
12-06-2014, 06:31 PM
Phần 10
Hôm ông thương binh về hưu được mời lên phường đột ngột, ra về, ông chạy hấp tấp đến vấp lên vấp xuống mấy lượt. Nắng chấp chới tận trên đầu ngọn cây, chẳng chiều thẳng vào người mà cũng làm ông chóa mắt. Ông không nhận ra sự vui, sự buồn, nhưng dù sao nguồn tin vẫn làm ông có một chút hả dạ.
Ừ, ít cũng phải là như thế. Dù có đem lại cho ông một nỗi đau lòng thì thà dứt giạt một đằng. Ít gì cũng hàng chục năm trời rồi, u u minh minh chẳng ra làm sao sất. Chết thì bảo là chết, sống thì nói là sống, chứ còn lơ lửng mất tích là sao. Chẳng lẽ phải cần một điều gì đó làm bằng cớ thì tình trạng hiện diện hay không hiện diện của một con người mới được xác định.
Hơn hai mươi năm đánh nhau đã có bao nhiêu phần trăm con người chết hay sống được xác định rõ rệt . Những trận ném bom không dứt ở giữa rừng, con người chạy tứ tán đi hết cả. Máy bay tếch đi rồi, mãi mới lục tục kéo nhau ra, ai bò về được thì kể như còn sống, nhưng ai vắng mặt thì sao.
Giao liên chẳng từng thập thò kể lại với nhau gặp bọn người rừng ngơ ngác, biết đâu đó chẳng là bạn đồng đội bị hơi bom xé rách màng tai đến thành hóa điên, ngộ dại, chẳng tự nhận ra mình là vượn, hay người. Có người còn kể thêm gặp cả người rừng nữ mọc đầy lông lá trên thân, âu là họ có phịa ra thêm chăng nữa, nhưng quả thật chiến tranh đã nuốt vô tội vạ lắm mạng người.
Bây giờ thì phường đã có tin về đứa con của ông được ghi là mất tích. Họ bảo nhờ phái đoàn đi tìm xác của phía Mỹ tình cờ phát giác ra được. Ở tít mù tắp nơi một buôn mãi giữa rừng già tận vùng Plei Ia Drang, thổ dân đã chỉ dẫn để nhóm tìm kiếm đào được một ngôi mồ, nhặt nhạnh chỉ còn mớ xương và quyển sổ tay ghi tên người chết.
Ông thương binh nôn náo đòi xin phường giao lại quyển sổ của người con ông, nhưng ban thương binh xã hội cũng chịu mù tịt vì nào có được ai trao món kỷ vật đó đâu mà đưa lại.
Hai anh em tôi ngồi nhấm nháp ly cà phê lõng bõng màu xác trà pha loãng thì nhìn thấy ông nhớn nhác chạy qua. Anh em chưa kịp hỏi, ông đã ríu rít khoe : tôi có tin thằng cháu thất lạc rồi các cụ ạ. Lúc đầu chúng tôi cho là ông đang bộc bạch với bạn bè nào, nhưng nhìn quanh buổi trưa vắng ngắt làm gì có ai khác, mới biết là ông quá vui nên gặp ai cũng nói để chia xẻ.
Đột nhiên, cả hai đều thấy ly cà phê uống giở đắng ngòm. Tôi đưa cái ly lên cao khỏi tầm mắt và nheo nheo mắt nhìn như tìm một lớp bã cặn nào trong đó. Anh thợ sửa xe chặn ngang : ông thầy tìm gì trong đó, thời buổi này cái gì lại chả có cặn. Huống chi hàng quán độc quyền, muốn mua phải trầy vi tróc vảy và chấp nhận hạn chế mới được.
Mà thực vậy, bao lần anh lãnh trách nhiệm đi mua cà phê ở cửa hàng giải khát quốc doanh nơi chợ cạnh đó quả thật lâu lắc, tôi tưởng ngủ gục đến nơi. Thấy bóng anh bưng bợ hai cái ly sóng sánh chất nâu non, mặt nhăn như cái bị rách, tôi tò mò muốn hỏi thì anh đã văng sự bực mình : mấy mụ phục vụ eo xèo làm khó, chỉ thuận bán mỗi phần một cốc. Em nài nỉ khô cả cổ, nói mua thêm cho ông thầy vì chân yếu, các chị cũng lơ tuốt. May sao có một chị nói hộ vào vì không muốn em mè nheo cắt đứt chuyện tán gẫu của họ, mới được bán thêm cốc nữa, lại dặn dò phải đem trả ly, nếu không bận sau cạch mặt không bán.
Tôi nói với anh : thời buổi này là thời buổi của những người kênh kiệu. Các mợ nghĩ là có uy quyền nên giở thái độ gia ơn, thôi thì cố mà nhịn, chú. Cãi với họ chỉ thiệt. Anh thợ vẫn chưa nguôi còn cố cà khịa : ông thầy nghĩ xem em nhắp thử thấy đắng nghét, xin thêm xí đường, các chị nghĩ là em sắp đụng vào của cải riêng nhà họ nên nhấm nhẳng nói tạt vào mặt em “ ở đây chỉ có thế, muốn ngọt thì tìm chỗ khác mà mua “. Em ức muốn nổ cổ.
Tôi can gián anh, bởi vì nếu chấp nhất thì mình ấm ức, bực bội, giận dỗi suốt đời. Những ly cà phê loãng như nước ốc, như nước điếu thải ra, vậy mà cũng đẩy trôi được cái nóng trưa hè hừng hực nơi cổ họng. Tàng cây phượng rưng rưng như giọt máu, vẩy vung vít từng sắc nóng khắp nơi, con chó già rung lông và ghẻ đầy nằm thè lưỡi dưới chân cái trụ điện thở hồng hộc không dứt.
Hai anh em bàn tán với nhau, hẹn chiều về cùng ghé thăm vợ chồng ông thương binh xem sự thể tin tức con ông ta thế nào. Tôi có vẻ e ngại, anh thợ sửa xe cố làm cho tôi mạnh dạn lên : ông thầy tập xem mọi việc như pha, mình có đến xin gì đâu mà né, hàng xóm láng giềng lẽ đâu nhà ai có chuyện mình lại làm lơ coi không tiện. Vả chăng cô cũng qua lại với bà vợ ông ta, em xem sự thể ông ấy cũng không phân biệt hay định kiến gì đâu, ông thầy.
Ôi những buổi trưa ngồi bó giò bó cẳng, mắt thẫn thờ mong ngày tháng trôi mau. Những buổi trưa càng nóng càng làm mềm đi chí khí, càng vắt kiệt tâm hao. Lại thêm thời buổi việc gì cũng hiếm khó, nghĩ lại giống như khắp người bị buộc bằng những sợi tơ nhện giăng đầy.
Càng ngày người ngỗng càng bu vào quanh các con đường dẫn vào chợ để chia chác nhau một công việc kiếm sống. Lác đác, có thêm một ông thợ bơm mực bút bi vừa ra tiệm mới toanh. Nhìn cái lối ngồi vẹo đầu vẹo cổ, nước da tái sạm đen dỉu, không hỏi ra cũng biết ngay cùng một lũ thất thời phe ta chẳng ai cho làm gì khác hơn nữa.
Thấy ông bạn chăm chăm chút chút, không buồn hỏi han ai, mới hiểu thật không còn hạng người nào dốc lòng, dốc sức và nhẫn nhục hơn người của mình đã từng trải qua một thời đi tù. Nỗi nhẫn nhục biểu lộ bằng sự thu gom, nhặt nhạnh từng hào bạc và lóe sắc mừng khi vớ được cây bút hiệu BIC ngày xưa.
Ông ta sẽ loay hoay tháo hòn bi tí xíu, cất ngay vào cái hộp nhựa để chỉ thay cho ai chịu trả tiền hời, vì chắc chắn viên bi sẽ chặn không cho mực bơm phùn ra từ đầu ngòi làm ướt đẵm cả ngực áo khách. Thời gian đó, nhiều người phải dở khóc dở cười vì có bút dù chẳng đụng đến mà mực cứ tự động trào ra ở cả đầu hay đuôi trông đến lạ.
Sau này lại có thêm một chỗ xay xát gạo. Ai muốn chà gạo mà lấy cám thì trả tiền công xay, còn ai bằng lòng nhượng phần cám cho chủ máy sẽ không phải trả tiền. Thực ra, đây cũng là một việc công bằng sòng phẳng vì nhà nào cũng cố nuôi thêm con gà, con lợn, gọi là tham gia phong trào chăn nuôi với phường khóm và cũng chứng thực mình thuộc gia đình lao động thực sự, hay gia đình văn hóa mới.
Tiếng máy chạy xình xịch suốt ngày làm bưng tai những người chung quanh đó và đồng thời cũng gây những cơn ngủ gà ngủ gật đến hai anh em tôi. Anh thợ sửa xe lâu lâu pha trò : điệu này mà được lăn quay ra đánh một giấc chắc là vui, ông thầy nhỉ. Tôi gãi đầu gãi tai vì chợt nghe rôm sảy cắn rần rần.
Ôi thời gian bình dị hồi nao sao giờ như một xa xỉ khó còn mơ ước với tới được.
giavui
12-06-2014, 06:31 PM
Phần 11
Hai anh em ghé nhà vợ chồng ông thương binh về hưu thăm hỏi sau khi hết việc. Dường như lâu ngày ông cũng đang thiếu một người bạn nên trông thấy chúng tôi là vồ vập ngay. Bà vợ cũng lăng xăng, thật tình như đón khách.
Sau vài câu qua loa thăm hỏi, ông thương binh quay qua lần lượt nói với hai anh em : chú này (ý nói anh thợ sửa xe) tôi biết đã lâu, dù chưa có dịp tận mặt han hỏi. Rồi quay sang tôi, ông nói rất thân tình : còn ông mới về, tôi cũng dặn lòng hôm nào sang làm quen.
Để khỏa lấp sự ngượng nghịu cho cả hai bên, ông toang toang nói luôn : ấy, chiến tranh đào sâu hầm hố với nhau như thế, giờ hòa bình rồi mà vẫn khó lấp kín lại những cách biệt. Hồi xưa, bất đắc dĩ chúng ta phải ghim đầu nhau giữa hai trận tuyến, nếu không, khó ai giữ vững được mạng sống của mình. Cũng may, cả ông lẫn tôi còn sống sót lại được, nhưng bao nhiêu lần lá xanh đã thi nhau rụng nhiều. Lá vàng như bọn mình hóa ra thành chứng tích của nỗi buồn đất nước. Biết bao giờ, mọi người được thảnh thơi, ông nhỉ.
Tôi nghe quặn thắt trong tim, nhưng nỗi e dè lớn quá khiến tôi không muốn bặp ngay vào những sự thể tế nhị. Tôi khề khà cốt đánh trống lảng cho qua, nhưng trong thâm tâm tôi nghĩ tại định kiến làm cho người ta càng phải buộc lòng ngăn cách. Thí dụ như ngay lúc này người chiến thắng đối xử lịch thiệp với kẻ bị thua thì tôi e hóa ra cái chính nghĩa được nhân danh để xua nhau thành thù địch là ngớ ngẩn hay sao.
Có lẽ, ông thương binh đoán ra được chỗ lắt léo tâm tư của tôi nên vội xuề xòa quay sang hướng khác : được ông đến chia xẻ với gia đình, thật không gì quí hóa bằng. Vợ chồng tôi xin cám ơn hai người và mong thời gian sẽ là liều thuốc bổ để ta xóa đi cái ranh giới ké né.
Sau một hồi xã giao vô thưởng vô phạt, chúng tôi chia tay. Anh thợ sửa xe tẩm ngẩm tầm ngầm nhìn tôi, nhưng không hề đả động một lời. Tôi về nhà, vợ và các con đang tíu tít vì bữa cơm dọn sẵn. Vẫn là những cục bột sắn đun sôi trộn với gạo thành bữa, những bữa ăn cốt để sống chứ không dám màng đến chất dinh dưỡng ra sao.
Người ta vẫn kháo nỗi khó khăn còn lớn quá, ta giờ cốt có cái ăn đã, rồi dần dần sẽ tính tới ăn ngon, ăn bổ và mặc đẹp. Câu này dường như người ta rêu rao đã từ lâu rồi, sao vẫn chỉ là ước mơ, hoài vọng.
Phải chăng thời thế cố tình tạo ra như thế để mãi mãi con người có cái đích mà đấu tranh lăn xả. Nếu không thì ai cũng ngủ quên trên chiến thắng, lơ là trách nhiệm cố tạo ra cho được một thế giới đại đồng. Người ta cứ luôn nhắc với nhau : bây giờ ta tạm làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu, một mai nào đó ta sẽ tiến đến chỗ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu.
Ôi, chân lý nghe thật vô vàn quyến rũ, nhưng một mai là bao giờ, chịu, chẳng ai giải thích được. Trải qua gần 20 năm kẹt lại quê nhà, tôi thường vẩn vơ tự hỏi chỉ riêng với mình như thế mà không sao tìm ra lời giải đáp.
Tôi như con ốc bơ vơ nằm trên cát một mình. Những sóng nước triều mạnh bạo tràn lên vùi sâu thân ốc vào cát. Ngoi mãi mới trồi lên được, lấm lem, lạo xạo những hạt sạn cứa vào da thịt đau rần, chưa kịp hít chút không khí lại bị một làn sóng triều khác dồi vào làm lao đao nghiêng ngửa.
Tôi nghĩ mà buồn cho thân phận những kẻ hẩm hiu chúng tôi. Giờ đây, thượng cấp, bạn bè và những người may mắn mấy ai lẩm nhẩm đếm xem còn bao nhiêu đồng đội bị sót lại. Hay là những cuộc vui suốt sáng, trận cười thâu đêm, những vinh hoa phú quí đã xóa sạch sành sanh hình ảnh những người đã một thời cùng sống cùng chết với mình.
Có khi các vị, các ngài ấy còn cười mủi tự khen sự thức thời, nhanh chân của họ để rồi mỉa mại, chê trách bọn chúng tôi chậm đụt phải đem thân làm kiếp khổ sai. Kinh nghiệm những năm thắc thỏm vì tiếng kẻng giữa rừng già u tịch, vội lồm cồm thức dậy cụ bị cuốc xẻng đi lao động, khát đói triền miên, đau không có thuốc, vợ con không thăm, mà thấy lòng ức đau vô hạn.
Tôi không đến nỗi cực đoan thề không bao giờ chịu ra đi, nhưng quả lòng hận các vị đem con bỏ chợ thì chắc là có. Tôi nuôi ý chí một ngày nào được gặp lại những bộ mặt câng câng trơ trẽn đó để chỉ xin được thưa thớt một điều : xin các bố bớt phét lác đi, chúng con đã lỡ một lần bị các bố đánh lừa nên thất điên bát đảo, vợ con có đứa đã bỏ mặc để đi lấy kẻ giam hãm chồng mình. Chỉ thế thôi, không hề mang thù mang oán.
Đã bao lần đối mặt mình với mình, nằm nghe cái sâu lắng mênh mông và cảnh vợ con nheo nhóc ngủ vờ ngủ vật, áo hở vai còm, tôi đã tự dằn vặt tôi : đây có phải mình đang sống chính trên quê hương. Tôi hoàn toàn bơ vơ, lạc lõng, lắm lúc nghĩ mình sắp điên đến nơi.
Nhìn những chuyên viên khách các nước anh em một dạo và sau này là những đoàn du khách các nước ào ạt ghé quê nhà, tôi càng có cảm tưởng mình bị vong thân tàn nhẫn. Khách thân mật hỏi thăm mà chính mình ú ớ không dám tiếp xúc vì sợ những con mắt tị hiềm nào đó theo dõi cho là mình còn mơ đến ngoại bang này khác.
Có đời thuở nào mà một con người phải nép mình chịu đựng đến vậy chăng ? Người ta tự đánh lừa tự ví : ngày xưa Câu Tiễn… để tự ủi an và còn một chút can đảm mà sống, chứ ai cũng biết rằng mình đã tự lừa dối mình.
Người vợ thân yêu của tôi đã bao lần trong đêm rúc vào người tôi bật khóc. Bởi vì lúc chiều nghe con than không được theo học chuyên ban, nỗi xót thương của bà mẹ đã khiến cô không kịp giữ lời chì chiết chồng : tại ông mà con cái không ngóc đầu lên nổi.
Ôi, lý lịch, hai chữ đơn sơ mà nặng ngàn cân với một con người. Nó là một bản án không tuyên nhưng sẽ không bao giờ gột sạch. Nó đeo đẳng từng số kiếp đoạn trường trải 3 đời liên tiếp thông nhau.
Bây giờ, trong nghĩa tình chồng vợ, nàng nấc lên xin tôi tha thứ. Hai vợ chồng như hai xác mắm khô rã rời bị vắt kiệt nước, đến yêu đương cũng đã tắt lặn từ lâu, nhưng nước mắt thì lúc nào cũng dư để rửa cho nhau nỗi buồn cắt ruột.
Tôi đã bao lần cám ơn đời, cám ơn người, những người cùng chung số phận nhưng còn biết can ngăn vợ tôi đừng làm chết đuối thêm tâm hồn một người thất thế. Lới chân tình, đậm đà đạo đức của ai đó đã khiến tôi còn nhen nhúm một chút tin tưởng trong tâm.
Người bạn đã khuyên can vợ tôi :chị không nên làm khổ thêm anh ấy nữa. Vợ chồng có lúc vui lúc buồn, ngày trước chị đã chẳng cùng anh trải một thời hoan lạc thì nay đừng vì dĩ vãng mà đẩy anh đến chỗ buồn đau. Sông có khúc, người có lúc, lẽ đâu cứ phải chịu sống mãi thế này.
Ôi ! Những lời nói như cơn gió thoảng giữa trưa hè sôi bỏng, như ngụm nước được nhắp môi khi khát cháy buồng gan. Xin cám ơn đời, giúp cho tình người nở hoa giữa miền khô cằn sa mạc. Xin cám ơn người còn gieo cho nhau một lóe sáng trong đêm thẳm âm u.
Chỉ với bấy nhiêu, chẳng ai bảo ai, cả hai cũng cố nén những tiếng thổn thức để đám con đừng thức giấc vì nỗi niềm đắng cay của bố mẹ. Những giề bột được chia phiên nhau xay nhuyễn để khuya hôm tôi thức dậy nhúm lửa lay vợ dậy đổ bánh bò. Những nghề ngỗng học lóm nhau mạnh dạn đem ra thị trường làm cái cần câu con cá sặc mà sống ủ ấp lẫn nhau.
Những rổ bánh bò èo uộc nở và tịt theo thời tiết và chất lượng của bột vớ được. Thằng trai lớn và tôi thi nhau chạy long tóc gáy, giao cho các quán hàng, không vội nhận tiền để sẽ trở lại lấy khi sáng bạch. Những ngày mưa cũng như những ngày nắng, những hôm bão cùng những hôm lạnh se sắt cuối năm, cuộc đời lênh đênh theo mớ bánh bò bán được thì hí hửng, không bán được thì vợ chồng con cái nuốt thay cơm.
Có trải qua những thời thê lương như thế mới thấy đoạn trường tang thương ngẫu lục, mới thấy buốn cho cảnh “ sông kia rày đã nên đồng, chỗ thì nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai “, hay cám cảnh cho thân phận “ đêm nghe tiếng ếch bên tai, giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò “.
Những năm tháng chết tiệt, mịt mờ, sâu hoắm như vết lở sâu quảng đục ruỗng tế bào rấm rứt đêm đêm.
giavui
12-06-2014, 06:32 PM
Phần 12
Gần 20 năm sống với xóm Cụt, quả thật tôi mới nhận biết ra nỗi sợ là thế nào. Cho dù tôi đã cố gắng ví mình như đui mù, què sứt, điếc lác, tam tam thì nỗi sợ vẫn không tha. Vợ tôi thấy tội nghiệp cho tôi nên hết lời năn nỉ, khuyên can, dỗ dành hơn trẻ nít. Các con nhìn vẻ lì lì của tôi cũng nhận ra chính thân phận chúng mà ít dám lớn tiếng nói cười.
Chúng miệt mài lăn vào việc học, dù biết rằng chẳng để làm vương làm tướng gì, song có dăm chữ cũng đỡ hơn là dốt. Ngoài việc học, chúng bị sên vô các buổi lao động chùa, cơm nhà làm công lênh thiên hạ vẫn bị đánh giá là con cái kẻ hư thân. Chúng không ranh ma cũng hóa ranh ma, tập tõm học đòi chen chân chạy chợ. Con lớn đã biết chạy đôn chạy đáo dẫn hàng ăn hoa hồng, hoặc bắt mánh moi hàng từ các hiệu quốc doanh ra kiếm chút cháo.
Những đứa lèng xèng thì hùng hục với mẹ xay bột, đãi gạo, nấu ăn, nhồi bánh và gỡ bánh bò ra cho hai bố con tôi chạy. Tôi được ưu tiên hơn hết là cho đi ngủ sớm để khoảng 2 giờ thức dậy nhóm bếp và khua vợ con dậy đổ bánh bò. Lắm hôm ti toe định ghé bà xã tí ti thì nhận ngay bộ mặt lãnh đạm của bà đáp trả và hẹn hò nhau : anh chịu khó cực khổ ít lâu mà giữ sức.
Tôi nghe lênh láng nước muối đổ vào lòng. Dù ở tịt trong nhà mà tin tức gì không thiếu. Con bé lớn suốt ngày nhông nhông ngoài chợ nên có gì cũng biết, không thua cái loa thông tin của khóm kêu ông ổng từ sáng tới khuya. Có những tin nó loan còn nhanh lẹ, chắc ăn hơn là tin chính thức, từ loại tin xe cán chó đến tin chuyện thường ngày ở huyện.
Hôm thì nó kể : bữa nay có một chuyện thấy kỳ, tự dưng cái bà đứng mua sổ gạo ở cửa hàng lương thực bị tay công an còng đưa về đồn tẩn tra. Bà ta bị buộc tội ăn cắp sổ lương thực của nhà ông ấy nên đi đòn tán mạng. Đến khi được thả ra hết còn lết nổi chớ đừng nói là đi. Rồi nó hỏi tôi như đánh đố : ba biết rồi sau ra sao hôn ? Tôi mù tịt, nó thở phào như chê tôi cù lần và lẩm rẩm nói : thì huề chớ còn sao nữa. Nhà công an bố ai vào mà ăn cắp được sổ gạo, chẳng qua con em ổng thiếu tiền đi ăn chơi với bạn nên chôm sổ ra đưa cho bà. Tay buôn nào thấy lợi hổng ham nên trả tiền cho nhỏ, nào dè ông anh ra cửa hàng nghe nói bà ấy bà nọ mua rồi thì cứ quơ về tẩn cho đã, nếp tẻ gì sẽ hay. Nghe đâu, bữa sau trưởng đồn khệ nệ bê hộp sữa và tí tiền nhét phong bì vào tận nhà thương thăm vừa xin lỗi vừa hăm he nếu muốn còn làm ăn thì bãi tố. Thế là xong.
Tôi nghe chỉ còn biết thở dài. Mạng người thua con ngóe, có miệng mà câm, ai đời nào có thấu. Lại có bữa cũng con nhỏ xí xọn đó về mét : ba ơi bữa nay trường con vui lắm, có ông cán bộ vô lôi xềnh xệch bà cô mắng đã đời. Chẳng qua tại quí tử của ổng ham chơi hơn ham học bị cô rầy, nó về mét là cô nói “ con cán bộ mà ngu “. Chẳng cần biết đầu đuôi, ông đến tóm ngay cô la nhoi : mày nói ai ngu, ngu mà trị được cả lũ nhà mày. Tôi chẳng biết nói năng ra sao, chỉ còn lén nhìn con mà tự an ủi : thời buổi bây giờ như vậy đó.
Thằng tửng tôi có vẻ khôn ngoan hơn. Nó là bản sao của tâm tính tôi nên ít ăn, ít nói. Lời nào mà nói ra đều thật kinh khủng vô cùng, cho nên tôi tâm đắc coi nó là nguồn tin được xếp vào loại A1, tức là có cơ sở. Như cái vụ đánh tư sản, nó to nhỏ với tôi : con nghe phong phanh nhà nước ký một mảnh giấy sẵn, nội dung trắng tinh để ông phó vô Nam diệt mại bản.
Tôi nói với nó : mày đừng xạo, loại tin mật cỡ đó mà mày biết được, đúng là dóc tận mạng. Coi chừng bị gài ở tù đó nghe mày. Nó trâng trâng cãi lại tôi, ai dè chỉ vài hôm lảng vảng thấy đám thanh niên ở đâu lạ hoắc ngầu ngầu bổ về vây những nhà gọi là điểm. Và họ đánh thật, người ra vào ùng oàng, khiêng cơ man vải vóc, bị, gói và lỉnh kỉnh trăm thứ hà rầm khiến cho đối tượng mặt mày méo xệch, lơ láo như bị thiến. Tội nghiệp có người chỉ vì có nhà ngày trước cho mỹ hàn thuê hay ti toe bắt tay buôn với ông này bà nọ giờ bị dện cho cái mác : “ tư bản mại bản “ thiếu điều muốn bậy trong quần.
Đã hết đâu. Một bữa, thằng tửng còn hỏi nhóng tôi : ba nè, nhà nước sắp cho người Hoa ra đi, đóng 2 cây theo đầu người, ba tính kỳ này có theo hôn. Tôi nổi sùng thì ít mà nghĩ con ghẹo chọc thì nhiều, tôi đâm vặc : tao còn có mỗi củ khoai lận bụng, mày coi có ai mua thì bán để tao đi. Bà vợ tôi nghe cha con choảng nhau nạt thêm : mày không thương ba mày sao còn phá ổng để nhà cửa om sòm. Thằng tửng phụng phịu : thì con nghe góp ý, ba không có tiền thì thôi, sao ba nói nặng con.
Tía con tôi thường có những cơn nổi khùng như thế. Thiệt là điên chẳng ra điên mà tỉnh chẳng ra tỉnh. Những kẻ cùn đời chỉ cắn cấu nhau như chó chạy rông. Đầu tôi lúc nào cũng như bị búa bổ, lắm đêm ngủ mê còn nghe rõ tiếng “ cốc “ khô rang của trái dừa già bị ngọn rựa chém phập vào. Tôi ú ớ như bị ma đè khiến bà vợ phải lay tỉnh để rồi cứ nằm trợn trừng nghe cái âm u thông thống tràn dâng.
Nhiều lúc tôi thở than với vợ : bà này, đời mình cực quá, còn cố nuôi bọn nhóc đi học làm chi. Vợ tôi giận quắc mắt nhìn tôi hỏi vặn : không cho đi học để ở nhà đi lao động dài dài à. Tôi như con cuốn chiếu bị đạp nhăn nheo, vừa được thả chưn ra thì quán tính lại khiến co vòi vón cục lại. Vợ thấy tôi tiu nghỉu thì mềm lòng, ngao ngán trách nhẹ tôi : tui đã muốn điên cái đầu, ông còn muốn khêu lên để vợ chồng cẳng rẳng nhau chi nữa hổng biết. Những câu nói như ngọn lao phóng đi, trúng trật đâu chưa biết mà sao cánh tay bị lọi cảm thấy rã rời.
Có lúc tẩn mẩn tôi ngồi nghĩ một mình mà ví cái tên Xóm Cụt thực cũng không khác gì nỗi bơ vơ cụt ngủn đời tôi. Tuy nhiên có một điều tôi ghim trong bụng mà không hé ra, dù ngay cả với vợ con, là việc tôi lẩn thẩn đièu nghiên và phân chia thời thế ra thành nhiều giai đoạn. Hẳn nhiên, đây hoàn toàn là chủ quan nhận định của tôi và có thể là trật lấc nên nói ra chi để bị chê cười.
Theo tôi, lấy dấu mốc 75 làm tiêu điểm thì đại khái cuộc diện đã, đang và sẽ trải qua những chặng đường như sau. Thời gian đầu là thời gian xóa sạch, xóa từ tên gọi, cung cách đến cảm nghĩ, lý luận nhỏ hay to. Kế tiếp là thời gian bứng gốc nên hễ thứ gì dây dưa với cũ là tháo bằng hết, kể cả nguồn gốc, nhà cửa, xe cộ và luôn con người. Chặng ba là sàng xẩy, chỉ cho phép lưu lại những gì hợp và cần thôi.
Sau khi đã rửa sạch tay thì lúc ấy mới bắt đầu thời hãnh tiến. Cho nên, những ngày tháng tôi về Xóm Cụt có thể đang ở vào cuối giai đoạn 1 sang đầu giai đoạn 2 nên đời tôi có lao đao lận đận cùng là thường tình của nhân thế.
Cũng may là tôi còn được gá tí ti vào cái mác có người nhà không dính dáng gì đến giặc, cho dù đó chỉ là thứ cà nông bắn xa cũng không tới, thế nhưng có còn hơn không. Chính người nhà tôi đã rỉ tai bao lần : chú đừng dại mà bỏ thành phố, tiêu tùng là cái chắc. Tôi xin cám ơn lời dạy khôn dạy khéo cho tôi. Cho nên hễ rục rịch nghe thằng tửng tôi nói : ba ơi tuần sau lại bình bầu đi kinh tế mới là tôi vội sấp ngửa tìm cách vọt. Tôi vơ quàng vơ bậy bất cứ cái cọc khô nào, thậm chí biết rõ mười mươi đi làm sẽ chẳng có đồng lương mang về, tôi cũng nhào đầu theo hơn là bị dính chấu.
Có kỳ tôi đã lặn lội lên tận Bù Đăng, Bù Đốp làm thợ vịn cho các công trình xây dựng. Lão chủ thầu khai danh sách toàn thợ xịn mà chính thực là lợi dụng bọn tôi làm thợ xây, thợ mộc chí chát. Lão móc nối được trưởng phòng xây dựng nên tường có cong, cửa có lệch vẫn được nghiệm thu và thanh toán đàng hoàng.
Tiền đó lão chủ chi vào đãi đằng khắp lượt từ kỹ thuật đến tài vu, ngân hàng hay o một cô nào đi miết, chỉ cần quẳng bao gạo cho công nhân ì ọp nấu ăn, thức ăn là bứt trộm hoa bầu hoa bí hay chung nhau mà mua tí lạc về giã ăn dần. Thế nên, bọn tôi có thằng đi kiết lòi dom cũng cố mà làm hay quơ bậy mấy cái lá mơ, la thúi **** nhá nuốt mà làm tiếp.
Ôi, những ngày tháng dìm thân nơi rừng già, chiến tuyến cũ. Đêm nghe mênh mang đồng đội cũ về kêu đói xin ăn. Thằng đói nhường người chết đói hơn, bọn tôi giữa khuya cũng lo ki cóp chạy xin nắm nhang của bà con gần đó làm chút hương ủ ấp truy niệm những người chết trận ngày nào. Tự dưng thấy buồn và thương cho những người lạc lõng bơ vơ, trong khi các quan to “ giờ này ông ở đâu “, liệu có biết cơ man dọc dài đất nước những người một thời đã đắng cay nằm xuống để quí ông vênh vang bán đất, bán nhà, đợ vợ, buôn con, buôn cả xì ke, đĩ điếm và choảng nhau liên tục vì cái chỗ.
Bây giờ rừng già tuy xanh cỏ, nhưng oan hồn tức tưởi vẫn chưa được siêu thoát thênh thang. Thản hoặc, trong khi đào móng, anh em chúng tôi vẫn cuốc nhằm những lóng xương lổn nhổn, vôi vàng thu nhặt rửa sạch và tìm cái bao cát ni lông ngày xưa làm nơi trấn thủ để gói ghém mà vùi nông anh em một tấc, tiễn nhau trong cảnh ngậm ngùi, sau khi đã xì xụp khấn phù hộ cho nhau để công trình xong tươm tất.
Thời gian đó, nào ai còn biết Giáng Sinh hay Phật Đản là gì. Chỉ còn nghe tiếng rế và tiếng côn trùng thi nhau rỉ rả gáy và bóng đom đóm lập lòe như ma trơi đang diễn binh giữa bóng tối triền miên
giavui
12-06-2014, 06:32 PM
Phần 13
Có một dạo đi đến đâu cũng nghe mọi người trong nước than bị bệnh ghẻ xâm nhập vào mình. Đây không phải là những nốt ghẻ mọc ở những nơi bình thường mà ranh ma chỉ tìm các kẽ ngón tay, khoeo đầu gối, dưới nách hay quanh bẹn mà tấn công. Ngặt thêm đây còn thuộc loại ghẻ mủ, gây đau nhức, nên trông ai cũng nhăn nhó, khệnh khạng như anh mang bệnh lậu.
Có người cứ phải luôn luôn xòe các ngón tay ra vì nếu kẹp lại bình thường thì các nốt ghẻ cấn cái làm cho khó chịu. Bực nhất là ai bị ghẻ ở quanh bẹn thì chẳng khác người nổi hột xoài, đi lênh khênh như người mang bệnh kín.
Không ai biết xuất xứ căn bệnh từ đâu đến mà đồng loạt ai cũng ít nhiều đều bị. Người thì nói là tại các bộ đội đem từ Bắc vào, kẻ lại bảo là tại ăn loại sắn Ấn Độ dài ngày nên sinh ra mụn nhọt.
Người ta còn giảng rành rẽ giống sắn này bên Ấn chỉ dùng để nuôi súc vật, bây giờ trở thành món ăn chiến lược của toàn dân nên gây ra tai họa. Họ kháo nhau cứ thử ngâm sắn trong nước một ngày đêm sẽ thấy bốc mùi thối khăm khẳm, hắt đổ ra quanh đó thì cỏ dại gì cũng thối rễ mà gục hết.
Vậy mà có giai đoạn cả miền Nam đều phải nhận phần sắn chủ lực này làm trọng lượng lương thực thay gạo. Còn mì sợi, khoai hay các thứ có chút ít dinh dưỡng hơn chỉ ưu tiên dành cho cán bộ, công nhân viên hay gia đình có công mới được hưởng chế độ đặc biệt.
Tội nghiệp mấy nhóc của tôi chẳng đứa nào thoát khỏi những mụn mủ mọc như đơm hoa trên thân, lâu lâu mủ vỡ ra gây nhức nhối, nặng mùi, rên như đạp phải đinh hay ăn phải mật gấu.
Dạo đó, phòng khám y tế đông như kiến, ai cũng kè rè đem tay chân đến xin khám và nài xin thuốc. Cũng chỉ mấy viên xuân tâm liên kèm lơ thơ mấy hạt B1 gì đó là hết. Do muốn chóng được trị lành bệnh để còn đi lao động kiếm cơm nên ai cũng nài nỉ tuyến phường chuyển lên bệnh viện da liễu thì xem như hạn chờ mưa, không được để tâm đến.
Tôi có nghe lao xao những lời đồn không khống này nhưng chỉ dám nửa tin, nửa ngờ vì không có chứng cớ chính xác. Chẳng hạn ở Xóm Cụt chỉ duy nhất có anh thợ sửa xe và gia đình tôi là bị nạn, còn ông bà thương binh và nhà bán máy thì vẫn dửng dưng. Con bé ngồi chợ về lăng xăng lít xít kêu rùm cả chợ ai cũng co tay, nhón cẳng, thấy mà ớn.
Thằng tửng tôi thì rên rẩm suốt ngày, thở dài sườn sượt, bung xung như chó tháng bảy. Đôi khi bực mình tôi khẹc nó : mày cho là tại tao mà mày sinh ra ghẻ phỏng. Rồi tôi khua vung vít tay chân, nhảy choi choi như đứng ở tổ kiến. Nó sợ nên chỉ thút thít khóc. Thét rồi nó hết dám than vãn với tôi, gặp đâu cũng thấy mặt nó nhăn nhó như cái bị rách, nhưng với mẹ thì nó tỉ tê suốt ngày.
Một đêm tôi đã nghe bà xã rụt rè nói với tôi : ông à, thằng Tửng bảo nghe nói vì chất sắn lưu cữu làm cho khó thẩm thấu được nên sinh ghẻ. Nó còn nói thêm nhiều nhà đã thử ăn một bữa nấu toàn gạo là thấy ghẻ bay đi cả. Tôi nghe như huyền thoại, nhưng ở cái thời buổi chỉ tiêu mỗi tháng có 3 cân gạo/người mà nó đòi có một bữa không ăn độn thì họa nó là con vua, cháu chúa hay là ông “ cán bộ con “ mới có.
Tuy nhiên, lòng thương con vẫn dâng tràn trong tôi, ngặt cái tôi cũng lúng túng chẳng biết giải quyết làm sao nên giả tảng đã ngủ quay cu lơ rồi. Tôi nghe bà xã than : người gì dễ ngáo, mới đó mà đã hò kéo gỗ ngay được. Thế là mẹ mẹ con con rủ rỉ bàn với nhau sao đó, tôi thấy con bé nhà tôi chạy liên chi hồ điệp ở chợ và một chiều dù trời chưa đẹp, nắng chưa trong, con bé khệ nệ bê về một túm đủ thứ và khoe um nhà : bữa nay nhà ta liên hoan lớn.
Tội nghiệp, con bé chạy sấp chạy ngửa để có được đồng tiền, rồi lại nịnh khéo nịnh khôn để mua được tí gạo ngoài chỉ tiêu, nó đãi cả nhà một bữa cơm trắng đàng hoàng. Những hạt gạo thơm tho (do tưởng tượng để đời còn thấy lên hương tí xíu) làm cả nhà ăn mà muốn chảy nước mắt, thằng Tửng xem ra hí hửng nhất.
Mà lạ, chỉ ăn duy nhất có một tối, hôm sau đã nhìn nó có vẻ thong dong. Nó chìa hai bàn tay như các cụ ta xòe đủ 5 ngón ngay ngắn khi ngồi chụp ảnh và trịnh trọng nói với tôi : bố này, các mụn hết cương mủ rồi.
Tôi nghe mùng thì ít mà thấy xót dạ thì nhiều. Có đời thủa nào đến bệnh cũng chỉ cần được ăn một bữa tầm thường mà hết chóng vánh như thế. Tôi ngẫm ra hay vì tại thiếu quá nhiều chất cám mà da trở nên bì bì, dễ bị nhiễm khuẩn cũng nên chăng.
Tôi đem kinh nghiệm này phổ biến với ân nhân truyền nghề bơm xe cho tôi, anh bạn vội đánh bạo chi tiền làm một bữa thì con ghẻ của anh cũng vội dông đi hết. Tôi khôi hài gọi đoạn đường trải qua thời gian đó là “ con đường khốn khổ “, y như tựa đề một tập truyện dịch từ nhà văn Liên Xô rất lưu truyền dạo ấy.
Những ngày ở Xóm Cụt còn để vương lại nơi tôi nhiều kỷ niệm vừa ngộ nghĩnh, vừa đau lòng như vậy. Tôi nghĩ suốt đời sẽ không sao quên được, cho dù sau này tôi có được sống một cuộc sống tươm tất hơn, hay cho dù có được đổi thay bằng một thời hoan hỉ đến mấy thì chắc không sao xóa hết những thời gian khốn khỗ này.
Tôi sống bằng nghề bơm bánh xe và trộn lẫn với những kỳ đi chu du làm thợ vịn mất đến sáu năm hơn. Những cuộc chạy chính sách bất đắc dĩ khiến tôi biết nhiều vùng đèo heo hút gió. Ngày còn ở quân ngũ, tôi đã từng biết Kontum, Thiện Giáo, Quảng Đức, Daksong, nhưng so với những địa danh sau này thì vẫn còn “ văn minh “ hơn nhiều.
Bây giờ thì chuyện nằm ngủ trên đống gạch chờ xây chất cao giữa trời, đêm vẫn còn âm ỉ tỏa sức nóng và gần sáng thì nhoáng nhoàng chạy vì sương phủ toát là chuyện cơm bữa. Còn cảnh bị đem bỏ chợ, ăn uống cực thiếu dinh dưỡng, sinh kiết lỵ, đổ máu cam hay làm mà tay run, lương bị quịt, thì chẳng còn lạ lẫm gì.
Ai chê dại tôi xin chịu, bởi vì khôn gì ở thời buổi lúc bấy giờ. Dại mà còn bám được thành phố thì cũng hơn khôn mà đem thân giam vào kinh tế mới, để bị hành suốt từ hèn đến sang. Có thấy mấy tay du kích lúc nào cũng khinh khỉnh hăm he, mới thấy dù gì cực ở phố hơn là sướng ở thôn.
Tôi đã bao lần bị mấy nhóc cỡ tuổi con cháu mình, mỉa mai, hoạnh họe, nói xóc óc mà cứ một điều thưa anh, hai điều thưa anh rối rít. Điều này tôi cóc dám nói lại với vợ con để khỏi thấy họ buồn lây, ích gì.
Hòa bình đến, địa bàn gom chung rồi lại giãn ra, lúc gộp thì gộp hằng hai ba tỉnh thành một, chừng bát nháo đòi tách chia thì lại xoèn xoẹt làm ngay. Bởi mỗi lần thay đổi cơ chế hành chánh là một lần dựng xây vô tội vạ.
Rừng bắt đầu được hạ một cách phóng túng, gỗ mặc sức xẻ lềnh khênh, công trình sử dụng một thì đám kên kên bu vô ăn có gấp hai ba. Có những cây lâu năm vòng ôm hằng ba bốn người nắm tay nhau không giáp kín, vậy mà thi nhau hạ để làm ván bìa dựng vách.
Những hôm mưa đã nghe gió thịnh nộ giông cuồng. Những con nước nguồn đã từ rừng băng băng đổ xuôi, gây lụt lội triền miên khi mưa đến. Người đông, của khó, ý thức bảo vệ nguồn tài sản sơn lâm xem nhẹ chẳng ai nghe, cuộc sống cơ cực khiến ai cũng sẵn của thiên nhiên hùa nhau làm thịt.
Bằng lăng, cà te, gõ, cây cày, hương, trắc, người biết hay chẳng biết đều đua nhau chặt đốt than lậu tít trên triền núi cao và ban đêm chuyển đi bán lén lút. Kiểm lâm có ngăn chặn thì hoặc là được dấm dúi chi tiền, hoặc bơ vơ sợ ăn đòn nên lơ là hay thỏa hiệp cho xong.
Những năm đó, người đi tìm trầm hương, cây gió cũng nhiều. Phần lớn là các anh em quân nhân cũ, ai cũng nghĩ làm vài chuyến may ra vớ được của trời, nhưng lắm người đi mà chẳng thấy về, tin đồn bị cọp, beo sơi thịt ở đâu đó.
giavui
12-06-2014, 06:34 PM
Phần 14
Gia đình ông chú ở rìa ngoài thị trấn cách tôi chừng nửa giờ đạp xe (sau biến cố 75, ai cũng lấy đơn vị xe đạp làm thước đo đường trường vì ngoài xe đạp thì chẳng còn loại phương tiện nào khác, hoặc nếu có thì cũng phủ chăn đậy cất vì không mua được xăng, hoặc đem phát mãi cho cánh cán bộ chập chững từ Bắc vào, rất thích con Hon Đa của đế quốc). Ông chú thuôc bên nội là đồng tông với bố tôi. Ông chỉ có mỗi một mụn con trai còn thì toàn bốn cô gái. Anh trưởng này hên là có tật ở bàn tay phải từ ngày bé nên suốt thời gian chiến tranh chẳng phải lo lính tráng hay bị cảnh sát hỏi thăm sức khỏe đưa vào trung tâm nhập ngũ gì cả.
Trong số các con gái, có cô thứ ba đã từng đi làm công chức quốc phòng, làng nhàng cũng chỉ sắp giấy tờ vào hồ sơ. Cho nên phải nói là lý lịch cả nhà ông chú rất sạch, lại nữa ông cũng có một thời đi núi và bị bắt sao đó.
Sau này biết tôi là lính tráng, ông luôn than van chính tôi đã bắt ông. Tôi giải thích hết lời, tôi là quân đội ngành chuyên môn kỹ thuật thì làm sao nhúng vào nhiệm vụ bắt thường dân như cảnh sát được, nhưng ông nhất quyết nhớ là không sai, nên tôi cũng im cho xong.
Cô con gái của ông do tôi giới thiệu vào một cơ quan bạn, còn các vách tường nhà ông cũng do tôi xin bạn bè các thùng lớn đựng quân nhu viện trợ nên ván ép thuộc loại dày có thể chịu đựng mưa gió, rét mướt suốt từ bao lâu nay.
Vậy mà đùng cái, gia đình ông dắt díu đi xây dựng nông thôn mới ngay đợt đầu. Tôi nghĩ giá ông và các em có trụ lại cũng nào ai thèm rớ tới, vì nhà ông lụp xụp núp sau xa một ngôi nhà to dựa quốc lộ, muốn ra vào phải đi nhờ một lối mòn băng qua vườn nhà chủ. Tôi đem thắc mắc này hỏi chú thì ông thành thật kể với tôi : bạn bè kháng chiến xưa am tường về gặp đều báo với ông chính sách giãn dân. Theo các ông bạn thì trước sau dân sở tại cũng sẽ bị bứng đi hết vì đất đai quanh vùng chỉ dành cho cán bộ, viên chức nên khuyên chú tôi đi sớm còn được chọn vùng gần gần.
Vậy là gia linh ông chú com cóp đìu bòng nhau vào một thôn dưới chân núi cách đó hơn 1 giờ đạp xe nữa. Khi dọn dời thì tôi còn đang theo học làm con người mới chưa tốt nghiệp xong, mãi khi về sau gần cả năm chui rúc trong nhà, tôi lóc cóc đạp xe đi thăm thì thấy nhà cửa ông chú vẫn tuềnh toàng chưa ra cơ ngơi gì cả.
Dạo đó, khối người ở quanh tôi hăm hở kéo về làm dân ở đây vì nghĩ dù sao cũng còn gần thành phố một chút. Ông chú chỉ trỏ nhà này cho biết mới đi tù về, nhà kia vốn là dân buôn cũ ở phố. Tôi có hỏi sao khi đi không dọn theo mớ ván ép để đến đây có sẵn dùng thì ông chú nói nghe họ trả giá hời bán quách cho đỡ nặng.
Lên ở chỗ mới, anh con trưởng trần thân đi chặt cây làm cột, kèo, rui, mè và đi cắt lá kè về lợp che làm mái, chả thấy than tay bị tật hay đơ gì sất. Còn các cô con gái xoay nhau mở đủ nghề, người đúc bánh căng, người làm bánh bò, lại còn xoay vần việc nhà nông vì bị bắt buộc gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Chính kỹ nghệ bánh bò gia đình tôi lấy làm kế sinh nhai cũng do được từ các em chuyền chỉ cho. Vì học vội học vàng nên thường bị bột vật cho trần thân khổ ải, bữa nở, bữa chai, bừa lì, bữa lịt. Cũng may dạo đó, người đông của hiếm nên trời thương cũng cho lây lất qua truông.
Thời buổi đó, ông Võ Tòng Xuân cổ vũ đưa giống lúa nổi về trồng thử nên khắp nước đều đua nhau gieo và thu. Ngặt cái, đất đai phần mới giỡ, phần bỏ hoang hóa lâu năm, nay cả nước mở phong trào, đòi hỏi phải tốn nhiều phân, thuốc mới có kết quả. Mọi dịch vụ cung cấp sản phẩm phục vụ cho nghề nông đều nằm trong tay nhà nước nên giá cả, điều lệnh ra sao đều do họ qui định hết, dân nông chỉ có è cổ ra chịu.
Lại thêm chế độ công lênh theo kiểu “ cha chung không ai khóc “ nên làm chăng hay chớ, trốn lỉnh là nhiều, nợ tràn đìa lây lất, trả mùa này sang mùa khác vẫn không đủ. Gặp kỳ đến thăm chú đúng vào hôm thu hoạch, cả thôn tấp nập khuân chuyển thóc rơm ra nộp cho hợp tác buổi tối. Tiếng đong đếm rào rào, tiếng bàn tán xôn xao, cấp bộ kiểm tra xong cho lệnh ủ che, sợ hớt hao hay bị mưa thóc úng mục, thế là bà con mượn cơ hội giới chức đã đi, lén nhau hốt trộm đem thót về nhà. Vì bụng đói quá, làm việc nhiều mà công chấm ít nên nông dân liều lĩnh làm bậy.
Đến khi nhiều nơi tự phát âm thầm cho nông dân nhận khoán thì chẳng cần kẻng báo, loa giục họ cũng tự động hăng hái ra đồng. Khởi xướng từ miền Nam, nhưng một là phải im hơi kín tiếng, hai là có tranh đoạt danh hiệu cũng chẳng được (công đầu bao giờ cũng thuộc về miền Bắc ưu việt đã), nên hiên tượng Thái Bình quê hương 5 tấn mới được báo đài ông ổng ca vang.
Trước nhà nước còn hăm he là nông dân làm chưa có lệnh của lãnh đạo, nhưng rồi thành quả như con nước vỡ bờ cuốn hút theo mọi ì xèo để thành khoán 10, kể công tài ba của cấp lãnh đạo với cả nước.
Giai đoạn bình bầu đi kinh tế mới xoành xoạch như cơm bữa, cô em thứ ba thỉnh thoảng có ghé xuống thăm xem tình hình gia đình tôi ra sao. Bọn nhóc được cô cho dăm tá bánh tráng ngọt thì thi nhau nhá chóp chép có vẻ khoái chí. Nghe vợ tôi tỏ nỗi lo có thể bị bứng thì cô em đề nghị hay là tôi “ di tản chiến thuật “ lên chỗ ông chú ít lâu, khi nào tan việc cắt cử lại về.
Kể ra bất cứ xã hội nào cũng khó lấp hết các kẽ hở, chứ nếu không thì ai thoát cho nổi. Dù đang bù đầu bù óc với lo lắng bất an, tôi cũng phải phì cười vì câu “ di tản chiến thuật “ của cô em. Nó nhắc với tôi một thời từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4-1975 mà bao người phải cười đau khóc hận vì mệnh nước.
Chính quyền có thể làm bất cứ chuyện gì, nhưng không sao lấy thúng úp voi cho nổi. Việc phân chia phường này phường nọ, chỉ cần từ bên này đường tếch sang bên kia đường là hai bên đương sự đã có thể nghinh nhìn nhau chẳng sợ chi. Cũng nhờ chỗ lắt léo này mà dân miền Nam mới lập mánh sống và thoát. Những người buôn chạy biết thân phận họ nên chẳng khi nào chịu mở cửa hiệu hay lập chỗ bán hẳn hoi.
Chị bán thuốc lẻ chỉ cần dùng các tút không bỏ lơ thơ dăm bao thuốc xé lẻ hay mấy bó thuốc quấn, nhưng ai hỏi bất cứ gì cũng có, từ số điếu đến cả bao. Lăn lóc các vỉa hè, lề đường ta thấy bày các chai không hiền từ, nhưng ai cũng hiểu muốn mua xăng là có, dù lúc ấy xăng chỉ bán theo giấy giới thiệu hay phiếu mua và thường chỉ hàng cán bộ hay công nhân viên mới có tiêu chuẩn.
Phương chi nếu tôi chọn đi lánh nạn chiến thuật chỗ ông chú thì ai biết đâu mà mò. Nhưng tôi không chọn giải pháp đó vì vẫn còn tạo bấp bênh cho vợ con và chính tôi cũng bị ghép vào lỗi đi không khai báo. Cho nên, tôi chọn lối chắc ăn hơn là xung phong vào các đội xây dựng làm việc cho nhà nước để cốt có cái giấy chứng minh thư công nhân quèn, công nhân vịn mà có nộp cho ban bầu chọn là xong. Sau này khi tôi đã tập trung hơn mười giấy chứng nhận công nhân thì coi như hóa giải khỏi thành phần bị gọi đi kinh tế mới.
Không phải chỉ có duy nhất cách của tôi, mà mỗi người đều có sáng kiến hay ho cho riêng mình. Anh tình nguyện vào thanh niên xung phong, chị nhận làm chị nuôi cho các đoàn đi thăm vùng kinh tế mới, họ đều mưu tìm một số bảo đảm cho thành tích lao động tích cực của họ để có lợi thế khi bị bình bầu.
Có thời đại nào con người bị điêu linh và vong thân đến vậy không nhỉ ? Những con người bề ngoài tưởng là bằng phẳng êm tịnh nhưng bên trong đều là biển thái bình dậy sóng, những đợt sóng ngầm chực chờ dìm sâu đời họ vào phong ba bão táp mà không biết lúc nào ngưng.
giavui
12-06-2014, 06:35 PM
Phần 15
Sống giữa xóm Cụt tôi như nằm trong cái hộp, bốn bề vây quanh bằng những gờ tường cao lừng lững. Tin tức phần thì bị bưng bít, phần bản thân tôi cũng ít quan tâm. Nỗi ám ảnh lời dặn dò của tay chính ủy nói riêng với tôi khi được gọi làm thủ tục về với gia đình còn văng vẳng suốt ngày.
Anh ta ngầm ngầm nhìn tôi rồi nhẩn nha kể lể : tôi biết các anh rắn đầu lắm, còn ở đây thì còn nhũn nhặn, ra về đối mặt với thực tế, đôi khi dễ chóng quên. Tôi chắc thâm tâm anh không muốn quay lại đây lần nữa vì chẳng có cuộc tập trung “ cải tạo “ nào xem ra nhẹ nhàng cả. Các anh không muốn, chúng tôi càng không muốn hơn, hòa bình đã nhiều năm mà nào tôi đã được trở về thăm quê. Nỗi nhức nhối đó đôi khi làm tôi hận các anh, giá đừng có chuyện người bị giữ thì làm gì có cảnh người canh tù. Vậy ra về anh hãy giữ gìn cẩn thận, đừng dại dột đối đầu với người muốn gây sự với anh. Dưới mắt họ, anh chẳng là gì hết, cụng nhau chỉ bươu đầu sứt trán, phần thua thiệt vẫn ở phía anh. Đừng bất đắc dĩ để chúng ta gặp lại nhau lần nữa ở chỗ này, chẳng vui gì và còn kéo dài thời gian vô ích.
Tôi hết sức cám ơn anh ta, một lóe nắng giữa mùa đông rét mướt. Về gia đình, tôi mới thấm thía lời của anh. Dạo Trung Quốc rục rịch choảng người đồng chí “ môi hở răng lạnh “ của mình, bọn quan quân chúng tôi bị tập trung ắc ê gọi là tập tành quân sự.
Đúng là điếc không sợ súng, dù gì chúng tôi cũng được huấn luyện gần cả năm hoặc lâu hơn tại các lò luyện đánh nhau, thế mà vẫn phải đóng kịch lơ láo đến ngồi nghe một tay du kích phường chỉ vẽ cho cách lấy đường ngắm vũ khí. Tếu nhất là tôi được gọi ra chất vấn thế nào là đường ngắm đúng, làm tôi suýt bật cười mà vẫn cố bặm môi nghiêm trang đọc vanh vách lời định nghĩa ở liên trường võ khoa dạy thuở xưa.
Đã thế, nào được xem là xong. Tay nhóc con ngồi gác chân lên ghế hút thuốc lá vặt nghe xong còn phán một câu xanh dờn : anh định nghĩa tạm được, dù chưa đủ hoàn toàn, làm cả bọn tôi nhìn nhau láo liên như rớt từ cung mây xuống.
Không gì cay đắng và khổ nhục bằng mình hóa ngọng hóa nghịu, hóa đui hóa điếc, hóa ngẩn hóa ngơ. Cho nên thôi thì nhắm mắt, bịt tai, lấy keo dán miệng cho qua. Thế nhưng thằng tửng nhà tôi thì không chịu như vậy. Nó đúng là cái ống nhổ để thiên hạ có gì trút toẹt vào, dù hay dù dở, dù xấu dù đẹp.
Khơi khơi khoảng cuối những năm 80 bước sang đầu 90, nó về khoe nhặng xị với tôi : bố này, mình sắp mở cửa, nghe đâu các nước sắp đổ vào làm ăn buôn bán. Tôi nạt nó nói bậy : đời nào lại có chuyện này. Đánh nhau hằng chục năm, hy sinh hằng mấy triệu người để đạt cái chính danh “ đánh cho Mỹ cút “ hoặc “ hoàn tất con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “, chẳng lẽ lại nhanh chóng nhận phe phái ngày nao đánh nhau vỡ đầu thì còn gì là “ đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản “ nữa. Phương chi, các nước thập thò đến làm ăn nếu không là Pháp, Úc, Anh, Nhật, Đài Loan, Đại Hàn thì cũng dây dưa đến bọn tư bản thù hằn mới đây, chừng đó ăn làm sao nói làm sao với các gia đình liệt sĩ hay có công vì đánh nhau tóe khói để lại rước họ vào.
Tôi bỏ lơ lời nói của thằng con, có lúc còn nghĩ là nó nói khùng nói điên cho đỡ nản. Thế nhưng hôm nghe báo chí loan tin trân trọng chuyến bay Air France đầu tiên ghé Saigon, bay rất thấp để ai cũng nhìn thấy loáng thoáng dáng vóc phi hành đoàn thì tôi thấy thằng tửng có thể đi làm thầy sờ mu rùa kiếm tiền được rồi.
Lại thêm, những tin thằng chó đem về ngày thêm giựt gân hơn nữa. Một hôm nó không oang oang như thường lệ mà thập thò như thằng ăn cắp, nó lôi tôi sền sệt vào sau nhà mà dặn : bố đừng nghe ai rủ rê làm đơn xin đi Úc là sập bẫy đó nghe. Mấy hôm nay họ hốt đám này dữ lắm vì ai ngây thơ nghĩ đã có sự thỏa hiệp giữa hai nước Việt Úc là coi như tự đút đầu vào túi.
Hồi đó, tin tức loạn xạ, khi thế này lúc thế khác. Không khống người ta bung tin sắp cho người đi ra ngoài nước, chủ yếu là các ông đi tù về. Ai cũng nháo nhào theo dõi xem độ xác thực đến bao nhiêu. Rồi lại có tin Mỹ sắp tặng gia đình nào không chịu đi số tiền 5000MK làm vốn sinh sống. Ôi chao, giữa cảnh bo bo, khoai độn, gạo hẩm, bụng không no mà nghe khơi khơi sắp có 5000 tiền đô thì ai mà chẳng hám.
Nhưng dần dần các tin tương tự đều tự hóa giải vì chả ai hiểu nguồn gốc từ đâu mà loan ra. Y như người đi đường dài, thỉnh thoảng lại nhóng với nhau sắp tới chỗ nghỉ để còn hơi sức mà đi tiếp.
Đến cái tin nhà nước sắp cho người Hoa ra đi bán chính thức với điều kiện nộp một món tiền theo đầu người thì thằng tửng nói là chắc chắn hoàn toàn, nhưng gia đình tôi có vặn răng cũng chẳng ra được một hạt bụi vàng thì làm sao mưu toan đi đây. Chuyến đầu tiên ra khơi đó trot lọt, dù có tin là người ta gửi hết mớ này đến mớ khác, khiến ghe khẳm muốn chìm, hoặc người Hoa tương kế tựu kế giả đem củi theo để nấu ăn dọc biển mà thực ra là họ tráo đem trầm hương hầu chuộc vốn bỏ cho chuyến đi.
Dư luận thế giới cũng hùa nhau phê phán nên sau chuyến này thì tịt luôn. Những người rắp tâm đợi xem kỹ càng mới hành động thì đành ngậm đắng nuốt cay vì tiền đã đóng mà thuyền thì không ra khơi nữa.
Lại thêm, cái tin đã có sự âm thầm chuyển thư gửi xin tị nạn LHQ qua hệ thống bưu điện. Thằng tửng nói rõ quầy số mấy của bưu điện Saigon chịu nhận chuyển đi với tiền lót tay ra sao đó, còn kèm thêm ai muốn làm đơn bằng tiếng Pháp hay tiếng Anh đều có “ cò “ nhận giúp ngay tại quầy viết cạnh đó. Ôi chao, những cái tin làm lao xao tấm lòng hạn hán đang mong vài giọt mưa cho mát mặt.
Cho đến một bữa khác thằng tửng khoe là gia đình một người nào đó vừa nhận được thư gửi thẳng từ Mỹ về không phải dùng con đường lòng vòng qua Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Đan Mạch v.v…
Rồi hải quan thông báo cho lập sổ nhận tiền, nhận hàng, dù còn hạn chế mỗi năm vài bận, nhưng thứ gì mặt này cho thì lại mặt kia bày ra thủ tục để kiếm chút cháo. Cấp phường trực tiếp xem ra vớ bở nhất vì đơn từ hay giấy tờ gì cũng đều phải qua sự chứng nhận của họ thì mới có giá trị hoặc được hay không.
Những thùng hàng, những hộp thuốc cưu mang gửi về, dù phải lặn lội vào Saigon hay ra Đà Nẵng để nhận thì mọi người cũng cố vay mượn mà đi. Chợ thuốc Tân Định đặt người tại các trạm, mời bán hay ghi chép địa chỉ để theo đến tận nhà điều đình. Những cò mua lại hàng, hay các chủ ứng tiền cho mượn đóng thuế, mục đích bắt buộc người lãnh phải bán, nhượng lại cho họ với giá hời vì ân huệ nhờ đó mới lấy hàng ra được.
Rồi những tin kể lại với nhau về xin khéo, mua khéo để mau mắn được kiểm sớm, thuế giảm và có người còn cường điệu bằng cầm lên sấp hàng mới nhận để đón lại cảm giác mùi vị của một thời lãng đãng còn rơi rớt mới đây. Ai cũng đau hơn bị bò đá mà cắn răng chịu vì có nằm mơ cũng không nghĩ là đột nhiên mình nhận được ơn mưa móc thế này.
Những giọt lệ thút thít, những tình cảm lưu linh, những bức thư kể lể cho nhau nỗi nhớ nhung của người ở xa với người kẹt lại, dù đằm đằm mà sao đâm nhói vào tim óc của nhau.
Một hôm, bất chợt ông thương binh về hưu gặp tôi. Cả hai cùng ngượng ngùng mất mấy giây, rồi ông ta hỏi thăm : tôi nghe nói nhà nước đã cho các ông được nhận quà của thân nhân ở nước ngoài, vậy ông có được bạn bè hay bà con gửi giúp đỡ gì chưa.
Tôi nghẹn vì nhớ ra chẳng có ai hết. Bạn bè thì hoặc là không biết ai còn ai đi, hoặc là chân trời góc bể nên mù mịt mọi bề, còn thân nhân thì ai biết và biết ai đâu. Tôi giả tảng nói nước đôi để khỏi chạnh lòng và cũng để không gây cho ông hàng xóm nỗi buồn lây của mình.
Phần 16
Cuộc sống càng lúc càng trở nên chật vật. Thực phẩm khan hiếm, hàng tiêu dùng ít ỏi. Lại thêm chế độ tem phiếu rắc rối, phiền hà làm cho con người đã khốn đốn càng khốn đốn thêm. Gạo thóc, thịt thà, vải vóc cho đến cây đinh, bát chè đều được bán theo tiêu chuẩn và rất mực hạn chế.
Khổ nhất là những gia đình dính dáng đến chế độ ngày trước, mất lương, mất chỗ ở, mất mọi thứ, lại còn bị phân biệt đối xử nặng nề, nên nhìn vào ai cũng thấy như bị đeo đá, cùm gông.
Phường khóm đặt ra đủ thứ khai báo : tạm trú, tạm vắng, lại còn chịu những phận hẩm hiu về số gạo mua theo đầu người, thời hạn được mua v.v… Hẳn nhiên, những người đang đi tù cải tạo đều không được kể là đang có mặt trong hộ khẩu, bị mất phần thụ hưởng như mọi người.
Vậy mà đôi ba tháng một lần, ki cóp đi xin được một giấy phép thăm nuôi trầy vi tróc vẩy thì tấm lòng người vợ ở nhà thể hiện sự chắt chiu biết bao để mua cho chồng từ gói bột sắn, đến gô thịt ram xả, bánh thuốc lào, gói đường thẻ, mong ủi an người xa nhà sống trong cảnh thiếu thốn tứ tung.
Những bà vợ xưa nay chỉ trông vào đồng lương của chồng, một thời bị lên án theo địch ăn bơ tàn sữa cặn, lười lao động hay sống bám dựa linh tinh, nay mọi nguồn lợi bị cúp hết, họ vẫn can đảm sống tự lo thân, gánh vác cho đám con cái tiếp tục đi học, lại còn nuôi báo cô ông chồng đi học mút mùa mà chưa thấy tiến bộ để về với gia đình.
Khốn khổ thay những ai lại còn bố mẹ già hai bên, nuôi chính người trong gia đình đã khó, lại phải nghiêng vai gánh vác cả giang sơn nhà chồng mới thiểu não làm sao. Những người có chức quyền bị hành hạ đã đành vì ở vào địa vị thua phải chịu dằn vặt, nhưng những anh em hạ sĩ quan, binh lính hay thương bệnh binh nào cũng có hơn gì đâu.
Họ cũng bị qui vào thành phần phải giãn dân, đi xây dựng kinh tế mới hay sống cầu bơ cầu bất tự kiếm ăn ra sao thì mặc. “ Đi đâu cũng gặp anh hùng, đi đâu cũng gặp thằng khùng, thằng điên “, đó là câu ca dao thời thế dạo đó ai cũng nghe, cũng biết.
Nhiều người ta thán sao thành phố nhếch nhác đầy những người lẩm nhẩm một mình, bơ bơ như chẳng cần thiên hạ. Và nạn ly thân, ly dị bát nháo cũng xảy ra. Nay nghe tin nhà này đổ vỡ, mai nhận tin nhà nọ chia tay.
Xóm Cụt tôi ở, tuy chỉ lơ thơ dăm nhà mà cũng thấy lung lay tận gốc. Anh thợ sửa xe đã nhỏ to với tôi : cỡ này chắc em cũng tính đi buôn chuyến quá, ông thầy liệu có muốn cộng tác với em hôn ? Tôi đâm ngọng nghịu vô cùng. Hoàn cảnh tôi không cho phép tôi làng xàng chường mặt ra xã hội, mỗi bước đi của tôi đều bị theo dõi hay bắt buộc phải khai báo hơn ai hết. Xin thì chắc là không cho, mà liều sẽ bị cường điệu lung tung, chắc chắn chuyện trở về “ trại “ sẽ không thoát. Nói đến “ trại “ chỉ mới nghe danh thôi đã ớn ợn rùng mình, còn nói chi trở lại để biết mùi đời thì chắc là không ai dám.
Người đời phóng túng đi buôn, ai đàng hoàng thì nhắn nhe bắn tiếng, ai dấm dúi đi cũng chẳng người nào biết đấy là đâu. Một mặt, chính quyền cũng ngơ ngơ vì người đâu kiểm soát cho hết, một mặt tuy họ là dân con của vùng địch ngày trước, nhưng chưa đến nỗi liệt vào đám có thành tích, nên thôi thì cũng để họ ngóc ngách tìm cái sống, chứ chẳng lẽ để họ lăn quay ra đó khi mà nhà nước chưa với tay nuôi họ sao.
Hầu như mười nhà hết bảy tám các bà thay chống xắn tay lăn vào xã hội. Gom góp tí vốn, bán dần bán mòn thứ này thứ kia, chồng còn đi tù hay về nhà, mỗi lần các bà đi phải lo từ miếng ăn để lại cho lão ấy và lũ nhóc, rồi lênh đênh trên đường giụi mặt vào gió bụi cuộc đời.
Chưa hồi nào tài xế và lơ xe có giá và huênh hoang đến thế, muốn cho ai đi, muốn đuổi ai xuống là thuộc quyền sinh sát của họ. Có vé đàng hoàng nhưng vẫn phải chịu lép ngồi ở ghế do họ chỉ định. Có trăm ngàn duyên cớ để họ hoạnh họe khách đi xe : đến trễ, phòng vé bán lộn, ai bảo không ra trước v.v…
Nói ngọt không xong thì nói xẵng, gay cấn nữa thì a lê hấp mời xuống xe và quẳng lủng mủng túi, bị theo liền đó. Kêu ai, nào biết kêu ai, trời xanh cao quá mà đất thì chỉ biêt nghe chứ chẳng trả lời. Thân phận người đi buôn tùy thuộc hoàn toàn vào những người nắm quyền ban ơn bố thí này.
Nào đã hết. Bọn tài, lơ nắm được chỗ yếu của các bà/chị đi buôn, ai cũng lo mất vốn, ai cũng sợ hàng không lọt nên một mặt mè nheo, một mặt có thiểu số tấn công tình luôn với những người khốn khổ. Ai dễ dãi thì ngã quị luân thường, coi như “ qua sông phải lụy đò “, còn ai khó khăn thì lơ vừa là hung thần vừa là chỉ điểm khi đến trạm kiểm soát.
Dọc dài trên những con đường lớn nhỏ từ thôn, ấp ra tỉnh và từ tỉnh này sang tỉnh khác, cơ man là các trạm kiểm soát được đặt ra. Chẳng cứ là cấp có trách nhiệm mà kể cả du kích cũng lộng hành. Chỉ cần vài tay quấn băng đỏ và ngang nhiên chặn một cái bàn thổ tả giữa đường là uy quyền cát cứ của một sứ quân coi như vô hạn.
Tha ai, tịch thu ai chỉ cần không khống, chẳng biên bản, chẳng kêu ca vào đâu được, rồi chẳng ai biết những đống hàng đủ thứ kếch xù đó đi về đâu, liệu nhà nước thu được bao nhiêu hay là vớ vẩn chia chác nhau giữa tối mò chở đi đẩu đâu ai biết.
Tội có nhiều người con đau, mẹ yếu cần phải chạy lo tìm đồng mua thuốc, miếng ăn mặc bản thân cũng nhếch nhác, yếu đuối vì tuổi đời chồng chất mà hết bị đám ôn con hành hạ lại còn bị chửi mắng lên đầu.
Có bà đáng tuổi nội/ngoại hay có thể đẻ ra những người kiểm soát chỉ vì cố lăn vào xin xỏ lại chút hàng bị tịch thu đã bị họ nhẫn tâm đạp xô, ngã nhào với lời riếc móc : mày liệu chết được thì chết ngay đây đi cho tao xem. Ôi thời buổi. Ôi đạo lý luân thường.
Giả như công bộc quốc gia làm việc công bằng thì âu cũng đành, đằng này kẻ buôn hàng đầy xe thì thoát, trong khi người chen chân tủn mủn dăm bị, mấy bao bị nghiến xén sạch sành sanh.
Nói của đáng tôi, đôi khi đám buôn lớn cũng bị mất, song chỉ dăm thì mười họa, hoặc lâu lâu phải hi sinh để đám nhân viên vớt vát uy tín. Chính tai tôi đã từng nghe mẩu đối thoại giữa một tay buôn sành và đám quản lý thị trường : sao mày ác thế em, lột gì lột sạch chị vậy. - Thì lơ cho bà chị mấy chuyến cũng phải chặn một phen chứ.
Cà rề cà rang, bên bắt bên xin, ngả giá nhau dăm lần bảy lữa, rồi : thì đây cho bớt chị 2 bao cà phê, 3 bao lỉnh kỉnh gì đó. Năm bao thả cho nhà giàu bằng nuôi được bao gia đình nhi nhoe đi buôn còm, chỉ mong kiếm ít đồng sắm quà đi nuồi chồng sắp đến, hay lo cho nhóc vào trường gần đây.
Ôi chân lý, ôi siêu việt. Đã bao nhiêu nước mắt đổ ra dọc dài con đường gập ghềnh khốn khổ. Đã bao gia đình tan vỡ vì những chuyến xe buôn chạy lại qua. Đã bao cái đồn được người dân buôn diễu là mang tên “ sơn trạch “ vì mỗi lần ngang đó là đều bị lột “ sạch trơn “ đúng nghĩa trăm phần trăm.
Cho nên, khi vợ tôi một đêm tối trời bò vào với tôi đã nói : hay là để em đi thử một vài chuyến, tôi đã gắt om lên không khứng. Tôi nêu lý do gia cảnh đã đói, dồn tiền để bị mất thì có nước bị gậy ra đường ăn mày. Còn không thì trước sau gì vợ chồng cũng xào xáo, chi bằng nếu vợ tôi định đi buôn, hãy cùng nhau tính chuyện chia tay để mặc ai muốn làm gì cũng được.
Dằn vặt nhau xong, cả hai cùng sụt sùi, không biết thương cho đời, thương cho mình hay chỉ buồn nỗi vu vơ. Ôi thời buổi của những trạm canh, những ba ri e, những đồn quản lý thị trường mà ai đã một lần sống qua vẫn còn bị ám ảnh dằng dai không dứt
giavui
12-06-2014, 06:36 PM
Phần 17
Năm 1975, miền Nam trở thành một mối thống nhất với cả nước. Năm 1976, nhà nước vội vã họp Quốc Hội để sắp đặt lại hệ thống lãnh đạo, xóa toẹt cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam và Chính Phủ Lâm Thời miền Nam Việt Nam.
Báo chí ca khen cái gọi là thống nhất về măt nhà nước và đề cao khẩu hiệu “ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Ở đâu cũng oang oang về 3 phong trào cách mạng : quan hệ sản xuất, khoa học kỹ thuật, văn hóa và tu tưởng, trong đó quan trọng nhất là cách mạng khoa học kỹ thuật.
Trại tập trung nào cũng khoe khoang là chúng ta phải xóa bỏ nhanh cái cảnh “ con trâu đi trước cái cày theo sau “, nhưng thực tế bao nhiêu máy cày, máy bơm, máy xới vốn lềnh khênh ở miền Nam thời trước đều bị đem gán trả nợ hoặc xếp xó vì xăng khó mua.
Ì à, ì ạch miệng thì bảo phải dứt khoát tiến đến khoa học kỹ thuật mà thực tế thì ví như các ông bà lão hết gân. Từ cái đinh, quyển vở đều theo chế độ phân phối, hoặc bán với giấy giới thiệu, dĩ nhiên làng nhàng là người dân khó mà có được cái ưu tiên này.
Năm năm một lần họp Đại Hội Đảng để vạch kế hoạch cho 5 năm sắp tới, đồng thời cắt đặt người vào các địa vị lãnh đạo. Có đại hội băng băng được cử hành xuôi rót, có đại hội rặn mãi không xong, thậm chí dời tới dời luôn mà vẫn còn trắc trở.
Đó là những giai đọan gay cấn vì băn khoăn không biết sắp xếp sao cho yên. Đại loại là phân chia vai số 1, số 2, số 3 không ổn thỏa, lớp vì chia chác theo kiểu địa phương, miền không ổn hay vây cánh này kèn cựa vây cánh khác bát nháo, dây dưa.
Chính phủ, tổ chức Đảng im im, nhưng người dân thì rì rào kháo nhau tin hành lang và lạ là gần đúng chóc. Không kể thời ông Ba Duẩn hay ông Trường Chinh còn nhân đà chiến thắng, phán sao ai cũng răm rắp nghe, sau thời độc tôn này thì chẳng mấy ai còn nghe ai nữa.
Tin đồn ầm ầm, nay tên này mai tên khác, cứ như thả bong bóng thăm dò. Có lúc tưởng ông này lên đến nơi thì bỗng tuột dốc thê thảm. Ngày ông Mười Cúc lên nhận chức Tổng Bí Thư, đảng rêu rao là đã đến thời mở cửa, đảng khoe đã chọn đúng người tài.
Một phần vì ông Muời Cúc là dân Nam Bộ, mẫu người chân chất, xuề xòa. Cái tính chất ăn no ngủ kỹ, nhậu xả láng, sống thảnh thơi ăn sâu trong tiềm thức và cung cách làm cho cánh miền Nam nổi tiếng cởi mở và dễ chịu.
Chả thế mà từ từ các nước vốn một thời thù địch ngày xưa, nay nhân thấy làm ăn có lợi thì ùn ùn kéo nhau vào xuất vốn rất nhanh. Có một dạo, báo chí cũng kêu ca là vốn nước ngoài chỉ tập trung nhiều ở miền Nam hơn là các nơi khác.
Người dân lẳng lặng cười thầm. Hồi nao chính những cái miệng chửi oang oang thằng Nam Triều Tiên, thằng này, thằng nọ thì bây giờ lại mau mắn đón họ thân mật như chưa bao giờ thân mật đến thế.
Đồng tiền quẳng ra, thù thành bạn, bạn thành thù, dễ và nhanh biết bao. Dần dà đất đai trở thành món hàng trao đổi có giá lớn, đắt tựa kim cương. Bệnh đua đòi, trấn áp, mánh khóe ào ạt bung ra, dân bị bứng đuổi để lấy chỗ mọc xí nghiệp đùng đùng. Dân được dỗ ngon dỗ ngọt, nghĩ là vì lợi ích chung nên khi lỡ dọn ra với đồng tiền bồi thường bọt bèo, sau mới biết các bố bán, sang cho nước ngoài gấp trăm gấp ngàn lần trị giá mà ngân sách nhà nước thì chẳng tăng ra thêm.
Chưa thành hình ai ngồi, ai ra đi, ai giữ chức gì thì trong dân gian đã vanh vách thao thao kể ra ông X, ông Y, bà Z chắc chắn sẽ ngồi vào chỗ này, chỗ nọ. Người ta còn kể chi tiết ông này bà nọ phải được bố trí như thế vì là người miền này, miền khác, phân chia như thế mới hợp lý và công bằng.
Phần đông, người dân nhìn vào tổ chức thành phố miền Nam để đoán định và lần lần cả tin là có sự sắp xếp, tập tành để người ấy, người nọ chuẩn bị nắm chức lớn trong tương lai. Sự cao rao này không khác tin tức phút cuối bao nhiêu, độ sai lệch chỉ chừng 2-3% đổ lại.
Đôi khi, thiên hạ cũng xì xào tiếc là chỉ vì một sai sót bất chợt mà ông kia bà nọ bị văng cái chỗ ao ước, như trường hợp ông Nghiệp, ông Sang v.v… Mỗi phen đại hội như thế, tốn bao nhiêu là thì giờ, công sức, thật gay go vì diễn ra từ cấp thấp lên cấp cao hơn dần.
Đại để na ná như nhau : báo cáo thành tích, đánh giá kết quả, bầu đại biểu tham dự cấp kế tiếp, rồi thì là liên hoan và sau đó lúc nào cũng khen lấy khen để “ thành công mỹ mãn “.
Năm năm là đại hội lớn, còn giữa 2 năm lại mở đại hội bản lề, gọi là củ soát và hứa hẹn. Nhất là từ dạo nảy ra phong trào các đại biểu đi dự ra về đều nhận phong bì chi phí kèm theo thì xem ra việc họp hành càng hăng say và nhiều vô kể.
Cứ theo báo đài thì “ ba phong trào cách mạng làm gỏi chế độ tư bản đến nơi “ và nói theo sách vở thì “ chế độ tư bản tự đào mồ chôn sống tắp lự “. Vậy mà đùng cái bức tường Bá Linh bị phá đổ, rồi cả một khối Liên Xô thịnh trị cũng bị hất văng, khiến ai nấy bàng hoàng, ngơ ngẩn.
Rồi mấy anh Rumani, Ukraine, Ba Lan, Tiệp ro re làm cách mạng xanh, cách mạng vàng, cả khối rã như giấy bồi bị thấm nước mưa thì chẳng ai bảo ai đều lao xao chẳng hiểu mô tê ất giáp gì sất.
Đại hội 5 công khai chấp nhận Khoán 10, tỉnh Thái Bình được đề cao là “ quê hương năm tấn “, lãnh đạo cho là mình thấy xa, thấy rộng nên đã mở thoát cho đất nước. Nếu ai tỉnh táo còn nhớ trước đó cũng cái khoán 10 suýt làm lắm tay lao đao, lận đận vì dám vượt quyền hạn thi hành không được sự chấp thuận của trên.
Phần 18
Trong đời một con người, không gì trơ trẽn và nhục nhã bằng mình tự dối mình. Bụng đói như điên, nhưng gặp ai hỏi đều cười khì thưa : cám ơn cũng tạm ổn. Hằng ngày bị chà lết dưới chân mà khi ai thăm đều khoe : nhờ ơn cũng sống yên lành.
Yên gì mà cái ba lô giúi mấy bộ đồ cứ chực chờ ngay bên cạnh, chỉ sợ đột nhiên các bố vào gọi mình ú ớ quên không kịp lấy. No bụng gì mà cứ ước mơ có một vài viên xíu mại điểm tâm, cái món ngày xưa mình quẳng đi không hết giờ muốn ăn chẳng có.
Cái nhà hàng củ tiếu, phá lấu, giò chéo quảy quen đã dẹp tiệm đóng hụi chết theo chuyến vượt biên do nhà nước tổ chức cho đi một lần duy nhất. Bây giờ chỉ còn rặt cửa hàng ăn uống quốc doanh, hàng vừa dở vừa ôi mà mụ nào cũng mặt vênh như tấm thớt.
Ông Mười Cúc lên nhậm chức, tờ báo trung ương thỉnh thoảng đã có bài “ Nói và Làm “ ký tên NVL. Đọc nghe cũng rỉ rả thấy hay hay vì dám chạm vào những cái tổ con chuồn chuồn trì trệ. Ai cũng hi vọng rằng cuộc sống tháo gỡ rồi. Nhưng chẳng mấy chốc thì các bài tương tự lại trở về cõi im lìm như chùa bà Đanh vắng ngắt.
Thét rồi chẳng ai còn nhớ ông NVL là ai và cái ma két “ Nói và Làm “ cũng tuyệt nhiên bị gỡ bỏ. Cái ngôi thứ nhất của ông Muời Cúc cũng chóng vánh lu mờ, ngắc ngoải vừa đúng một nhiệm kỳ là rớt.
Tôi thở dài buồn bã, chẳng thiết soi gương ngắm mặt mỗi ngày. Chỉ sợ nhìn vào thấy một người chẳng ra người, ngợm chẳng ra ngợm. Hãi nhất là đối chất với chính mình mà cứ ngỡ thấy thằng cha căng chú kiết nào đó.
Chẳng những tôi độc đoán với tôi mà ngay cả trong nhà tôi cũng hung hăng vô lý như vậy. Tôi hét inh bắt giỡ hết các vật có thể soi phản hình bóng, đưa ráo ra bán chợ trời. Tôi bảo : đắt rẻ gì thảy quách mua tí gạo sắn nhét bụng còn hơn.
Léng phéng làm sao một bữa tôi bắt gặp con gái đang giúi giúi mảnh gương rẽ ngôi chải tóc, tôi nhào đến vớ lấy đập vỡ tan tành. Con bé ngẩn tò te, nhướn mắt to nhìn tôi, tưởng rằng sắp cha con đụng trận, vậy mà con bé cười xòa ngay được mà ỏn ẻn : con yêu bố.
Nói rồi nó vừa chạy vừa khóc. Tôi ân hận mà thấy tủi vô cùng. Vợ tôi lấm lét nhìn tôi, rồi cũng chỉ nhỏ nhẹ nói bâng quơ : sao ông lạ thế. Từ đó, con bé dấm dúi cất cái mảnh bể nhặt lại để trong túi, mỗi lần vì xã giao sắp đi chợ lại lén lấy ra soi mà nhìn ngang nhìn ngửa như kẻ trộm. Ôi, con gái sinh ra chi thời nhiễu nhương để phải lén trộm soi gương ?
Ôi thời buổi sao kỳ lạ, tựa hồ như tâm hồn bị rệu rã hết trơn, sinh khí đều mất sạch. Thằng tửng đôi khi mời rủ tôi ra quán uồng cà phê. Tôi hét với nó : mày tìm gì trong đó mà rủ rê tao. Nó hé môi cười : thì nhìn đời qua cái màu đen cũng thấy hay hay chớ bố. Tôi lắc đầu chịu thua : bọn trẻ thật hơn tôi xa lắc.
Vậy mà có một bận bưu điện giao cho tôi cái phiếu gọi nhận hàng. Tôi cố moi óc tìm hiểu xem ai còn nhớ cưu mang tôi ở chặng đất bùn này. Tôi đã định bỏ lơ, nhưng vợ và con gái cứ thúc đi nhận. Tôi cấm cảu hỏi : lấy gì đi. Vợ tôi thụt ý kiến, nhưng con gái căng cổ : bố để con lo cái vé tàu.
Khổ nỗi có bao giờ tôi biết cái chuyện nhận hàng như thế nào. Tôi mù tịt thể thức phải làm sao để đem món gì đó về nhà. Con bé chạy hỏi han linh tinh, làm đơn xin đưa phường ký và ra hải quan lập sổ. Tôi tránh đối mặt để khỏi nhận những tiếng mỉa mai.
Dạo đó, hàng từ ngoại quốc về đều phải nhận hoặc từ cảng Tân Sơn Nhất hay Kho 4 Khánh Hội. Tôi lóp ngóp lên tàu cà xịch cà tang suốt một đêm đen. Toa tối thui, hàng buôn lềnh khênh chật choán hết lối đi, gầm ghế và lổn nhổn đầy các chỗ.
Tôi chẳng có vai vế, phe cánh gì nên dù có vé mà cũng phải chịu nằm trấn ngay chỗ cửa buồng vệ sinh khai khẳm. Dù cửa bị khóa nghiến bên trong để dấu hàng mà chuyện dọn dẹp lâu ngày lưu cữu nên mùi hôi chưa xóa sạch cứ lồng lộng dâng cao.
Tôi mới hiểu ra cái chỗ ưu việt mà tôi đang được thụ hưởng. Tôi nằm co ro trên miếng áo mưa ni lông, nghe gió thốc dưới gầm toa xe, nghe dập dềnh tiếng bánh xe lướt qua các mỗi nối, nghe u u tiếng xé gầm của không khí lòn dưới đường tàu.
Chiều mênh mang qua Ngã Ba rồi Cà Ná, Ma Lâm, Mương Mán, Suối Vận, đêm ập xuống khi tàu vào Rừng Lá, Sông Phan, Suối Kỉết, Sông Mao. Rưng rưng nhớ một lần đi cứu cấp đoàn tàu bị phục kích để đau đớn nhận đón xác bạn bè, đàn em cháy thui vì bị mìn và lửa đốt.
Ngậm ngùi nhớ lại một ngày nào, lòng đau như cắt, nức lên tiếng khóc mình ên. Tàu âm u không một ngọn đèn, cái địa ngục trần gian xen với chốn địa ngục dưới sâu ba tầng đất sao mà chẳng khác nhau một mảy.
Những người chết giờ liệu đã được siêu thoát vãng sanh hay vẫn còn lẩn quất giữa rừng già oan ức. Những người bị mìn phải cưa chân, cụt tay dù chỉ thấp hèn là một kẻ đi buôn xui xẻo gặp ngày tàu bị nạn, bây giờ họ làm gì, sống ra sao và phiêu dạt nơi đâu.
Tự nhiên, tôi thấy mình có lỗi. Tôi nghe cay xè nơi đuôi mắt, tôi nghe rát rạt ở da, mồ hôi hay lệ đã chảy ra để nhớ, để thương về một thời dĩ vãng. Bất chợt, tôi nấc lên, dấu mặt mình trong đôi lòng bàn tay mà kêu xin nho nhỏ : hãy thứ lỗi cho tôi, hỡi những hồn oan bóng quế.
Tờ mờ sáng tàu lướt Trãn Táo, Bàu Cá, Dầu Giây, Trãng Bom để đổ vào Hố Nai, Biên Hòa và gập ghềnh trên ván lót của cầu Đồng Nai. Những quán bán bưởi chưa dọn hàng, cái ba ri e vẫn hững hờ chặn hai đầu dốc, một nhóm dânđi làm sớm ngơ ngác đứng nhìn tàu chạy qua.
Ngọn núi Chứa Chan thấp toẹt, con sông dập dềnh sóng nước. Nhớ quá, thời gian như một nét vẽ phác lờ mờ trong bụi cây lá cỏ. Chợt buồn khi đoán lờ mờ đây là chỗ Nghĩa Trang Quân Đội ngày xưa. Trái tim chợt se căng lỗi nhịp, nhói lên một đau thốn nghẹn ngào.
Tượng Tiếc Thương hẳn là đã bị giật sập, nhưng ngôi mộ nào còn, ngôi mộ nào bị phá tan hoang. Ôi, những thượng cấp, đồng đội, anh em, quen hay không quen, tại sao đến khi chết vẫn còn bị văng vật.
Triều đại nào rồi có lúc tàn, người chung một giống sao nỡ hành hạ nhau quá thể. Ngày xưa có những xe chở quan tài bị mìn thảy văng xác tứ tung, người chết dù hai lần cũng chẳng qua tại tình cờ xui xẻo. Ngày nay người chiến thắng thù hận cả thây ma, sao lại cứ nhân danh và nhận mình là đạo đức nhất như chưa từng có.
Cái thế giới đại đồng kêu rổn rảng rồi ra “ ta sẽ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu “ sao lại được chuẩn bị khởi đi từ thù hận. Kẻ buông tay nào còn cựa quậy được mà trút hận thêm lên họ làm chị.
Tôi ôm tiếng lắc lư của con tàu như ru trái tim tôi bắt đầu nhỏ máu từng giọt.
giavui
12-06-2014, 06:37 PM
Phần 19
Tôi để hồn dập dềnh theo những tấm ván lót trên hai cầu sắt bắc trên sông Đồng Nai. Gió sớm mênh mông lùa vào toa như đánh thức mọi người vươn vai trở dậy sau một đêm dài suốt dặm trường. Con tàu mệt nhoài nên giảm tốc độ, bỏ lại màu nước đỏ ngầu phù sa trôi về mãi tận đâu.
Còn sớm quá vậy mà lác đác đã có người ra sông tắm giặt, dòng nước quyện lộn nhộn những hạt bùn đỏ bám vào vải vóc để căng ra mà sống. Tôi vừa qua con sông hồi nao ông Tổng Thống họ Ngô và ông Đại Tướng họ Dương tay trong tay đến dự khán cuộc biểu diễn vượt sông của những con cua đồng M-113, bắt đầu được quăng vào chiến trận. Hồi đó tôi mới chỉ là anh sinh viên sĩ quan Thủ Đức tập tọng học ắc ê, hát ông ổng “ đường trường xa, con chó nó tha con mèo “ (xin lỗi tôi đã ngoa ngoắt sửa lời ca, nhưng đó chính là lời ca quả được đặt ra ở Liên Trường Võ Khoa) nghĩ là triều đại chắc bền vững mãi mãi. Có ai ngờ sau này loáng một cái chính tay ông thuộc hạ lại im im để người ta giết béng chủ mình, ôi thời cuộc nhiễu nhương thật quá quắt.
Bây giờ con sông vẫn còn đó, nhưng người xưa nay ở đâu. Những con cua đồng M-113 cũng bặt mất, thì ra chẳng có gì tồn tại miên viễn cả, kể cả đời một con người. Con tàu phì phà vào Dĩ An, con đường sắt lẻ loi len qua một góc phố nhỏ, một ngôi chợ.
Loáng thoáng hồi nao tôi về ghé lại đây, mỗi chiều mò ra chợ nhâm nhi ly bia. Bây giờ con đường nhựa heo hắt quá, chợ lơ thơ vài gian hàng. Tôi bò ra ngồi ở bậc lên xuống toa tàu đón ngọn gió ban mai, đội lên đầu cái mũ lưỡi trai thằng cu con đã vội trao dặn dò : bố đội nó để che cái nắng miền Nam.
Chưa kịp ngồi vững thì vút cái chiếc mũ lưỡi trai bị đoạt mất. Cái thằng lỏi hí hửng đang cầm trên tay vật đó đi dần vào con đường đất kế bên ga. Nó khinh khỉnh cười nhạo tôi, vẫy vẫy tay loạn xạ. Thời buổi đến lạ, đến cái mũ bèo nhèo mà cũng khoắng của nhau. Đói và giành giật nhau đến vậy rồi sao ?
Tàu lại dềnh dang vào Sóng Thần, cái ga xép nhỏ nhoi một thời có cả một đoàn quân anh dũng tung hoành giờ xẹp lép thảm thương. Những anh lính mũ xanh mang tên Trâu Điên, Ó Xanh giờ ở đâu, tôi nghe đầu óc oang oang có hàng ngàn, hàng vạn cái búa đang dọng lên đó.
Tim tôi nghẽn lại, nhói đau, máu ứ trào, mắt kèm nhem gay gắt. Tôi đưa tay vuốt, không sao dập được những nhịp đập sai lạo nhạo trong huyết quản tôi. Saigon của tôi loáng thoáng đây rồi, thành phố của những cây me đến ba bốn người nối tay nhau vẫn không ôm kín gốc.
Bao nhiêu hình ảnh ào ào kéo tới. Saigon của Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Tự Do. Saigon của Pole Nord, rạp Rex, thương xá Tax, Quốc Hội. Saigon có thời mỗi tháng tôi vào dự hội thảo bàn về kế hoạch hay trở ngại tiếp vận khi thời thịnh trị còn mạnh.
Saigon của trại Trần Hưng Đạo uy nghi, nơi đặt bộ Tổng Tham Mưu để điều động quân binh khắp 4 Vùng Chiến Thuật mà nay sao hoang vắng quá vậy. Sắp tới tôi sẽ vào Tân Sơn Nhất để nhận hàng tình nghĩa do ai đó gửi cứu nạn, làm sao tôi chịu được khi đi ngang qua nơi doanh trại ngày xưa.
Saigon. Saigon… Những tiếng sấm đùng đùng đang vò xé tim tôi, làm nổ toang cái đầu vốn khật khừ tê dại. Tôi sao yếu mềm để lệ long lanh nơi khóe mắt. Lảng vảng tôi chợt nhớ góc này góc kia còn vương lại bóng hình cõi xưa. Queen Bee, Joe Marcel, Đêm Màu Hồng, Quốc Thanh, Nguyễn Văn Hảo, chợ Bến Thành, bến Bạch Đằng, Ba Son cùng Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Chu Văn An, Trưng Vương, Gia Long, Pétrus Ký, dù nay đã thay tên đổi họ vẫn không sao tan biến trong tâm tưởng mọi người.
Ôi, Saigon, trải qua cuộc đời đã bị bao lưỡi dao của người đời, thời thế đâm không thương xót, mà sao Saigon không chết, vẫn bất diệt ngẩng lên. Người Saigon có thể bên ngoài vờ thờ ơ như không để ý tới, nhưng đêm nào chẳng có không ít người nhỏ lệ khóc thầm. Có thể nhất thời người ta nhạo báng, khinh miệt Saigon, nhưng sau khi trầm lắng chẳng ai không tiếc Saigon, kể cả những người chiến thắng cũng vậy.
Dù chưa thực sự đặt chân lại Saigon sau gần mười năm xa cách mà sao lòng đã chuếnh choáng men say. Ly rượu nào đã chuốc cho tôi thành hư ảo, mềm môi để bước lung linh giữa bầu trời Hòn Ngọc Viễn Đông.
“ Ngày xưa “ vào Saigon tôi đi với hai bàn tay không vì chẳng thứ gì không có. Hôm nay, tôi vào Saigon phải mang kè kè theo cái bao cát đựng ít lon gạo. Đây là quà của tôi vào biếu nội các cháu vì không gì quí bằng để nội khỏi phải lo vì thêm một cái miệng ăn.
Suốt đêm, nằm ngửi mùi khai trong toa không mệt mà việc lo canh cánh giữ túi gạo mới nhọc làm sao. Chỉ sợ có tí quà lại bị kẻ gian cuỗm mất. Mà tàu đông người, biết ai thực, ai gian. Đến cái mũ cũ kỹ mà còn bị giựt nữa là.
Con tàu xập xình về Gò Vấp, Phú Nhuận, loáng thoáng Saigon đã hiện ra. Vẻ tiêu điều với rặt toàn màu áo đen, nâu và dép cao su ở nơi dân lẫn chính làm cho cái thành phố ọp ẹp hẳn đi. Cũng phải thôi, tàn dư đế quốc cần phải nhanh chóng gỡ bỏ để cái mới vươn lên, cho dù cái mới chỉ là bước lùi so với thời đại.
Dân Saigon nhậy lắm. Nhìn ai chỉ mũ cối dép râu là biết ngay vị thế làng nhàng, còn nếu thêm cái xà cột lủng lẳng bên hông mới là hàng cán bộ vai vế. Còn nói chi, vẻ nhìn, lời nói, thái độ khinh khỉnh hăm dọa của họ làm ai chẳng thấy ớn lòng.
Họ chẳng cần dấu diếm kỹ trong lòng thù hận mà phun ra ở miệng : bọn chúng nó chỉ đáng beng một phát vì tội “ đất không dung, trời không tha “, chẳng biết sao đảng lại dung dưỡng để họ còn ngáp ngáp mỗi ngày.
Thực ra họ có thương yêu dân Nam Bộ không ? Điều đó cần nên quan sát kỹ, chẳng qua thời thế chưa đến lúc, vả chăng họ còn nghi hoặc của cải miền Nam còn rải rác dấu diếm quanh co đâu đó, đợi đến khi tóm hết sẽ tính.
Điều này càng rõ khi những anh em tù cải tạo đều được nhắn nhe phải khai báo tất tật, không được dấu điếm điều gì, cho dù chỉ nghe đồn như hầm ngầm, nơi chôn dấu, cơ sở mật dù của bất cứ ai, nhất là trong các căn cứ của Mỹ cũ.
Nhiều gia đình nửa chân trong nửa chân ngoài còn cho thấy rõ điều này. Tôi nhận ra ở họ có đến 3 lối nói : lối nói ở hội trường, lối nói giữa đồng chí với nhau và lối nói chỉ riêng nhỏ to ở gia đình. Tôi đoan chắc ít nhất một lần những con em miền Nam có người thân tham gia phía đối diện đã từng nghe dặn dò : nếu tìm ra cách đi được nên cố mà đi, không ở yên được đâu.
Lai rai, bàn dân thiên hạ cũng nghe biết những bà mẹ chiến sĩ, những gia đình nuôi bộ đội miệt Bảy thôn vườn Trầu, An Phú Đông, Củ Chi, Đồng Tháp Mười, ngay cả vùng Bến Tre, Chợ Đệm đã từng đào hầm nuôi cách mạng bắt đầu eo xèo, phàn nàn về thái độ bất nhất trước sau đến với chính họ.
Phần 20
Cuối cùng đoàn tàu vứt toạch tất cả hành khách xuống một nơi nào đó. Dù mang máng biết mình đang ở bên rìa thành phố, nhưng sao cái ga tổng đình này chẳng khác đồng không mông quạnh thế này. Chả biết tay thầy hù nào cố vấn đường sắt chọn cái ga hẻo lánh này làm bãi đỗ của thủ đô.
Điều này tôi đã nhận khi tàu lướt qua cầu xi măng Gò Dưa với những bao mủng hàng hóa lao vút từ cửa sổ, bậc lên xuống lăn ba vạ ra dọc hai bên đường tàu. Những tiếng í ới gọi nhau : “ chị Ba, cô Năm, hoặc 3 giỏ 5 bị, hoặc 2 càn xé 4 túi “, thi nhau đổi trao, người trên toa, kẻ dưới đất, chẳng để tôi hiểu ra sao cả.
Đến cái chỗ ngồi cá kèo của tôi ở bàn đạp lên xuống cũng bị bứng đi. Mấy bà đi buôn và mấy tay bặm trợn đầu gấu yêu cầu nhỏ nhẹ tôi xê ra để họ nhờ một tí, song nếu tôi kèn cựa không nghe là có chuyện ngay. Tôi hiểu thân phận tôi lúc này nên nhũn mà nghe cho xong việc.
Người ta đói, xáo lục vùng vẫy tứ tung, chỉ cần vô tình mình làm một cục đá cỏn con để họ đạp phải nhói chân cũng đủ khiến họ nghiến răng trợn mắt đấm cho dăm cái. Cuộc sống bấp bênh, lấn chăn nhau khiến họ phải lăn xả vào giành giựt ăn thua đủ, trốn lủi đủ kiểu, mồm năm miệng cười thì mới có cơ hàng thoát, qua mặt quản lý thị trường mà đem chút tiền về nuôi cha mẹ hai bên, con cái lẫn cả cái ông chồng còn đang đi “ học tập “ chẳng biết đến bao giờ về.
Ôi những bà vợ, em, chị, bồ bịch của đồng đội tôi, nếm mùi đổi đời sao lao đao, vất vả thế. Tôi ứa nước mắt cho dù thấy cảnh đang diễn ra thất thoát vô vàn. Thấy tôi ngớ ngẩn, ai đó tay còn đùn hàng mà miệng nhắn nhủ tôi : tới Bình Triệu rồi, chú đi tay không sao hổng lo xuống, còn đứng áng đó làm sao tui lăn hàng kịp.
Ùn ùn nhứng dân cư gần nhà bên đường sắt lũ lượt kéo túa ra ôm vội các thứ chạy chuyển đi biến vào mấy con đường hẹp quanh đó. Trông tưởng loạn xạ mà có mối manh kỷ luật, chẳng ai tham cướp lỏng của nhau.
Đây là một kiểu hợp đồng làm ăn mới, qua mặt từ hỏa xa, thuế vụ, công an đến quản lý thị trường. Dân vác hàng về, sẽ xé lẻ ra, đóng vào những cái cà ròn nhỏ rồi sau đó xe ba gác, xe đạp ôm sẽ chuyển dần đến các chợ. Cuộc đấu trí tay đôi giữa người cầm quyền và bọn dân ngoan cố miền Nam xem ra gay go và không dứt.
Cấm kiểu này họ thay kiểu nọ. Không cho buôn cà phê, gạo thì họ buôn cá, mắm, rau củ linh tinh. Ngăn không cho xuất cá sống từ địa phương này sang địa phương khác thì họ hấp, họ kho từng ơ, từng nồi ngang nhiên qua trạm, những tay khám hoạnh họe họ giở mọi lý ra đương đầu. Lệ đổi thay xoành xoạch cũng không chặt đứt được cái khôn lỏi của “ Nam Bộ thành đồng đất nước đi trước về sau “. Thêm nữa, người lăn lưng đi buôn là ai, nếu chẳng phải là những người mà chồng, cha, ông, cậu họ đang chúi đầu trong các nơi được gọi mỹ miều là “ trại tập trung “.
Tôi lê gót bước ra bằng cổng chính nhà ga, trong khi ở những lỗ đục thủng trên vách đan bê tông lũ lượt nhiều khách đi tàu đang chui ra, có thể họ có vé, có thể họ đi chui, song ai cũng hấp tấp chạy đua với đồng hồ để còn nhanh chóng kịp lên chuyến tàu chiều quay về. Ở nhà, canh cánh những cụ già, con trẻ đang đợi, ngong ngóng mong họ thoát chuyến để có chút thức ăn. Tội nghiệp biết bao cái thời chờ đợi lê thê ngày “ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu “.
Tôi trở về thành phố nơi tôi được sinh ra mà ngơ ngáo như mán ra tỉnh. Cái ngã tư tráng nhựa lở lổm chổm bắc ngang con quốc lộ chính và đường vào hai dãy phố bát nháo làm sao. Đền thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Fatima vươn lên cao nghệu mà số người đến cầu xin thưa vắng.
Tôi chợt nhìn ra những vày đen thui của cầu sắt Bình Lợi. Dĩ vãng ùa về, ở đây có một lần đảo chính, cái ông trung tướng lập công cứu được nhà Ngô đã nghễu nghện ngồi đu chân trên về cầu, trong khi thượng cấp của ông khoanh tay đứng dưới đất. Ai dám bảo kỷ luật được duy trì tột độ trong quân đội, khi mà bóng dáng chính trị và kiêu mạn đã loáng thoáng chen chân.
Cái bao cát đựng gạo bỗng oằn trệ, cánh tay tôi thấy đau nhói vô cùng. Tôi bảo với tôi : cậu bắt đầu lẩm cẩm rồi, có vẻ già khụm nữa. Nắng loe hoe rọi những tia đầu ngày mà sao chợt bỏng rát. Hàng quán theo cuộc thế mọc vô tội vạ, xem ra cửa hàng ăn uống quốc doanh khó chọi lại với đầu óc ăn nhậu miền Nam. Người bán người mua tíu tít, đua nhau ăn, gỡ gạc như sợ rằng không còn được ăn nữa.
Tuy đã trải qua một đêm nhịn khe mà bụng không thấy đói, có lẽ ý tưởng sắp thăm lại nội các cháu và niềm vui len lén được về thăm Saigon làm tôi cảm no bụng chăng. Tôi lách qua những ô bán thức ăn ngào ngạt thơm, nhanh thoát ra khỏi chỗ..
Các anh xe ôm túa đến mời, tôi phân vân lơ đãng. Phần tiền đem đi quá ít, phần e bị cứa giá cao nên tôi xun xoe cám ơn và bước đi. Tôi chủ tâm muốn hỏi thăm bến xe buýt, nhưng có một anh cứ lẽo đẽo theo mời. Cái mũ lưỡi trai của lính trên đầu lờ mờ cho tôi đoán anh là phe ta ngày trước. Một hai anh khích động tôi : lên xe tôi đi, chả lẽ tôi lại chém người ngã ngựa. Tôi lấy giá phải chăng thôi vì cả hai cùng dựa nhau để cố sống mà.
Tôi nghe chả biết nên chua xót hay mừng rỡ. Tuy vậy, tôi chẳng dám tin ai được, cứ phải cò kè trả giá và khi thấy thuận người thuận mình thì tôi tót lên ôm chặt anh vọt đi. Saigon lụm khụm lắm, nhưng nhóc nhách vẫn gượng nghểnh cổ lên, sinh hoạt thưa thớt, nhưng cũng còn sinh khí hơn tỉnh lẻ.
Tôi dò hỏi anh về việc lãnh hàng, anh thao thao bày kể đủ ngóc ngách và hỏi tôi có cần giúp bất cứ gì anh đều có tuy dô chắc ăn hết. Tôi trớ đi nào còn có ai gởi quà cáp gì đâu, chợt nghe thì muốn hỏi cho biết. Anh bảo tôi về cách mấy tay len vào cho vay tiền đóng thuế hòng bắt chẹt mua rẻ hàng sau khi lãnh ra, hoặc chớ tin mấy tay cò bặm trợn có khi chúng lấy mất sổ, mua chuộc lãnh hàng rồi dông tuốt đó nghe.
Tôi nghe muốn toát mồ hôi. Xe lượn lờ qua những con phố. So ra vẻ nhộn nhịp không còn, Bình Hòa, Bà Chiểu, Tân Định đâu đâu cũng gượng gạo. Anh xe ôm đưa tôi từ Phan Thanh Giản cũ quẹo xuống Hai Bà Trưng để về Nguyễn Thông. Khi xe chạy tới con hẻm nhỏ gần những tòa nhà kín cổng cao tường, tôi vọt hỏi anh : bễ tắm ngựa vẫn còn ở trỏng chứ.
Anh xe ôm ớ ra, có lẽ anh biết tôi ít nhiều cũng từng là dân Saigon. Anh đáp : còn, còn dù chẳng ai nuôi ngựa làm gì, còn xe thổ mộ thì bị tắt cấm từ lâu. Tôi lại đau đầu vì cảnh “ dấu xưa xe cộ hồn thu thảo; lầu cũ lâu đài bóng tịch dương “ (TQ).
Đột nhiên, tôi không cầm được tiếng nấc. Vai tôi rung lên, cọ vào người anh lái xe. Anh có vẻ hoảng : ông sao thế. Và chợt như hiểu ra, ông nghẹn ngào : tôi biết, đau lắm ông…
Cả hai cùng im bặt.
giavui
12-06-2014, 06:37 PM
Phần 21
Chiếc xe ôm sắp trờ tới đầu đường Trương Minh Giảng thì tôi gọi giật lại. Tôi yêu cầu anh lái cho tôi ghé bến tắm ngựa một chút. Anh có vẻ không hiểu nên hỏi lại : dường như ông vừa sực nhớ ra một người quen nên muốn vào tìm. Tôi trả lời anh chẳng đâu vào đâu hết : xin vui lòng giúp tôi đi, tôi muốn gặp lại một dĩ vãng.
Anh xe ôm có vẻ biết cái sự lừng khừng của người dân ở thời buổi nực cười này nên không nói gì thêm mà lẳng lặng quay đầu xe. Tôi lướt qua những dãy nhà thấp lè tè,bên đường, đối diện một dãy chúng cư nhiều tầng và mấy biệt thự im thin thít. Tôi chợt nhớ ra thời đại nào cũng thế, đoạn đường này đều đặc ân dành riêng cho mấy tay chóp bu, nghe đâu giờ thành ủy đang ở đó. Loe lóe tôi thoáng nhìn thấy một chỏm mũ cát kết có một mảng viền nỉ đỏ với huy hiệu công an ló ra từ cái chuồng cu bê tông để hiểu những gì xảy ra như giấc mộng.
Xe quặt phải vào một hẻm chắn bởi gờ tường dài của một ngôi nhà mặt đường tựa lưng vào con ngõ. Chạy một loáng gờ tường hết, nối theo là những ngôi nhà nhỏ nhoi với những con đường đất dẫn xuống sông.
Tôi cố moi óc tìm, tất cả đều lạ hoắc, không sao nhận ra được. Nhưng thật sự là mắt đang thấu cay, màn lệ thập thò nơi đuôi chân chim ngày tháng. Chốc chốc anh lái xe lại hỏi : sắp tới nơi chưa ông. Tôi thở dài : lâu quá rồi tôi không về nên chẳng nhìn ra được. Bất ngờ tôi xin anh quay ra.
Anh lái xe vẫn thắc mắc nên rụt rè hỏi : ông muốn tìm lại nơi người yêu ngày xưa hả. Tôi lắc đầu, không ngăn nổi giọt lệ trào mà thổn thức : tôi cố tìm căn nhà nơi mẹ tôi có thời trú ngụ mà không ra. Nỗi nghẹn ngào, tức tưởi làm buồn lây anh lái xe, nên nghe anh ỏn ẻn : tôi xin lỗi đã chạm đến vùng kỷ niệm thiêng liêng của ông.
Để đánh tan nỗi buồn thiu vừa nhóm, tôi chuyển sang hỏi thăm anh về thủ tục nhận hàng. Lãng đãng như tò mò chứ không phải đề cập một việc có dính dáng đến tôi. Anh lái xe cho biết lãnh quà ở Tân Sơn Nhất chỉ một lần trong ngày vào sáng sớm, ai có giấy mời phải tập trung tại trụ sở Air Vietnam trên đường Phan Đình Phùng, gần đài phát thanh quân đội cú để chờ xe đưa đón một lượt, ai trễ phải đợi qua ngày sau.
Saigon đã đổi chủ, mọi cơ quan, tổ chức đều đã đổi tên, tại sao người Saigon nói với nhau vẫn dùng cái đích đã bị phế bỏ. Họ không gọi trường đại học tổng hợp 2 mà vẫn gọi đại học văn khoa hay đài phát tuyến, đài truyền hình chứ không dùng danh xưng mới. Tôi nghiệm ra Saigon đã ăn sâu cốt lõi vào tâm tư, tình cảm của mọi người, cho dù bây giờ có thay họ đổi tên thì người Saigon vẫn như trước kêu tên miền thân yêu cũ kỹ ngày xưa.
Tôi về Phú Nhuận trú tại nhà cô cháu. Lóc cóc ra trụ sở khai tạm trú, tạm vắng linh tinh, tay du kích lật ngang lật ngửa tấm giấy công an địa phương cấp như tìm cho ra một dấu vết giả mạo để xích đầu người trình lại.
Cũng may chồng cô cháu là tổ trưởng dân phố nên chẳng bị hoạnh họe. Trái lại chỉ nghe mấy tay rủ nhau bữa nào nhậu là hết. Xa Saigon lâu quá, con đường Võ Di Nguy với hẻm Cô Giang, Cô Bắc vẫn vậy, nhưng nhà mọc ra nhiều làm con đường thu hẹp còn một tí, tôi nghĩ nhỡ có hỏa hoạn thì chẳng biết làm sao bò chạy ra.
Đêm Saigon nóng quá, túi gạo vẫn chưa biếu nội các cháu vì lấn cấn chút việc riêng. Nội đã bỏ gia đình từ 45 để đi miết. Bây giờ nội về mang danh cán bộ hưu nhưng lại đèo thêm bà vợ khác cùng mấy em con bà hai.
Tôi không mặc cảm vì éo le thời cuộc mà thương vì mẹ tôi đã chờ, chờ hoài cho đến chết để rồi giờ bố lại mang tình riêng vợ mọn về. Các ông em tôi ba hoa chích chòe, cứ khăng khăng là nhờ có các chú cụ bị đầy đủ hồ sơ, giấy chứng nhận nên tôi mới sớm được thả về.
Dù là ơn từ đánh võ mồm, nhưng tôi không muốn gây xích mích vì bố tôi còn sờ sờ ra đó. Tôi cố tránh gặp gỡ chừng nào hay chừng đó để anh em khỏi hoặc nhau. Tôi nhớ hôm bố vào tận trại cải tạo thăm tôi, cha con đã ngỡ ngàng vì thời gian đã làm con người già nhanh chóng.
Tôi đã chuyển lại bố lời trăn trối của mẹ tôi, coi như hoàn thành một phó chúc được giao dặn, bây giờ giữa bố và tôi vẫn lờ mờ có một khoảng cách chia lìa. Có lẽ bố tôi cũng hiểu như vậy nên không tỏ ý cản ngăn tôi.
Đêm nằm lại thành phố ngày xưa sao nghe râm ran tâm tình tủi hổ. Bao nhiêu hình ảnh chợt hiện, chợt mất nối nhau. Ngôi trường tiểu học Dakao, ngôi trường Trương Minh Ký, ngôi trường Tôn Thọ Tường và ngôi trường Pétrus Trương Vĩnh Ký với những năm lận đận bỏ học dở dang chợt như những bàn tay nhẫn tâm vả vào mặt tôi những cái tát đau điếng.
Con đường Phan Đình Phùng buổi trưa lết bộ về bụng đói nhặt trái chùm bao đập vỡ cạp ăn tạm đè cơn nhói bụng. Con đường Gia Long mùa mưa rụng lá me đầy với dáng mẹ còm cõi chờ chồng. Tôi không khóc mà sao nước mắt tuôn ràn rụa.
Saigon của thời đi lính, xót chua khi gặp những chiếc áo sơn chữ “ LCĐB “ ở lưng. Ôi những đồng đội của tôi sinh không phùng thời, hoặc bất mãn, hoặc chán chê cảnh tranh giành của đám chóp bu mà thành có tội. Bao nhiêu người đã chết vì đạn pháo, vì mũi súng giặc khi phải ôm vác những hòm đạn với tay không. Bao nhiêu người đã chết oan vì hòn đạn vốn mù lòa hung hãn tương tự.
Ngược lại tôi cũng nhác nhớ tới chiều thứ bảy Saigon tấp nập, con đường Lê Lợi dìu dặt bóng người, thậm chí có lần tôi thấy rõ một em gái ngông nghênh mặc áo chẳng cần lót đứng tán hươu tán vượn không hề mảy may e thẹn.
Saigon của mặt trái mặt phải, Saigon của nửa nọ nửa kia. Bây giờ Saigon rệu rã, người đi đã ra đi, ở lại toàn những người chậm chân, tiếc của mà đành cam chịu nhục dài dài. Chiều nay tôi vừa qua chiếc cầu xi măng nối Tân Định với Phú Nhuận. Dòng sông con hồi nao nước trong chảy nay bốc toàn mùi hôi đen ngòm của bùn dơ tù đọng. Lơ thơ có mấy cái ghe neo chặt dựa vào vách của dãy nhà bên xóm Stacindo làm nơi thường trú lâu niên của họ.
Phối nào chứa nổi những mùi hôi lưu cữu và không khí nào sạch trong sẽ len lỏi được vào hô hấp của người ta. Tôi buồn rũ cả người, lơ mơ như chính mình có tội. Tôi lầm thầm gì đó mãi khi xe vọt qua khỏi cầu mới vỡ là tôi đang xin lỗi con phố ngày xưa vì bất lực để rơi vào tay kẻ hủy hoại.
Tôi ôm thổn thức chìm vào giấc ngủ dật dờ. Chồng cô cháu nằm cạnh nói chuyện cho vui phải lay tôi mấy bận vì những giấc mơ khổ sở quấn quanh tôi. Anh cũng là một trung sĩ không quân hồi trước nên ra chiều thông cảm. Chú cháu nhìn nhau, giọt vắn giọt dài, đêm Saigon không còn bóng hỏa châu mà sao vẫn nghẹn ngào, nức nở.
Phần 22
Tưởng rằng chỉ ở những địa phương xa mới xảy ra cảnh tiêu điều, ảm đạm, nào dè về ghé thủ đô xưa của miền Nam một thời, tôi thấy cũng không hơn. Saigon bây giờ vắng quá, xe cộ thưa thớt, hàng quán đìu hiu.
Cho dù ông Mười Cúc lên nắm Tổng Bí Thư đã hé mở chiều hướng cải cách và cho dù ông Sáu Dân nắm chức Thành Ủy cũng năng nỗ săn tay, bộ xậu Saigon có những gương mặt bạo miệng, bạo làm cỡ bà Ba Thi, Sáu Nghiệp, vậy mà Saigon vẫn im lìm như cõi chết.
Đêm vắng tanh, nhà nào nhà ấy đóng kín cửa, cha con, chồng vợ xúm xít than thở với nhau. 3 giờ sáng, tôi thức dậy, người cháu lóc cóc đi theo đến địa điểm chờ xe của hãng Hàng Không Việt Nam đưa vào chỗ nhận hàng.
Tôi ngỏ ý để tôi đi một mình cũng được, nhưng anh cháu không nghe, bảo : đi với chú cho vui, đã lâu cũng không biết Saigon đêm ra sao nữa. Len lỏi qua những vì tường của các căn nhà nhô ra thụp vào như hàm răng bà lão trong con hẻm sâu, hai chú cháu than với nhau : ngữ này xảy hỏa hoạn, chỉ nội chạy giẵm lên nhau cũng đủ chết, chứ không cần nhà đổ hay lửa cháy.
Saigon vốn dĩ đã đông, nay lại càng đông hơn. Chủ cũ hiến nhà đi kinh tế mới bị lừa kéo nhau bò về sống bê tha hoặc dựng đại chòi tạm trú, bất chấp chính quyền, công an khu vực mè nheo họ cũng ì ra chẳng sợ.
Còn gì nữa đâu đối với họ, giá có ai đoàng cho một phát để họ chết nhanh, có lẽ hay hơn. Những con đường vùng Phú Nhuận len lách tối tăm, điện chỗ có chỗ tắt. Nhưng tên phố lạ hoắc nghe chối tai, chẳng ai biết đó là những anh hùng khỉ khô gì.
Ra khỏi ngõ Cô Bắc, hai chú cháu bắt vào con đường Huỳnh Văn Bánh đi lẹt xẹt với đôi dép cao su. Dân Phòng ngả ngớn nằm lăn hẳn ra lòng đường nghêu ngao hát hay chuyện khào, những chiếc gậy canh phòng bỏ chỏng trơ lăn lóc dưới đường, khua lạch cạch khi có người chạm vào hay bị đá xô lệch vì ai đó ngủ quên.
Thấy hai chú cháu đi ngang, đám tâng công nhỏm dậy, dòm lom lom như xem chừng coi có phải gián điệp hay trộm đạo gì mò đi khoắng của sớm. Tôi đã được anh cháu dặn dò thây kệ chúng vì lúc này dây vào phần bất lợi ắt sẽ lãnh đủ thiệt thòi là phía ta.
Tôi cảm nhận mình lơ ngơ quá mức. Cái thành phố nơi tôi đã được sinh ra, lớn lên và từng tóm thâu rất nhiều kỷ niệm bây giờ trở nên lạ hoắc, lạ huơ. Thản hoặc có dịp tạt qua cửa Tây chợ Bến Thành để nhìn lại căn nhà ngày xưa chắc tôi cũng không nhận ra đuợc.
Còn nói chi những nhà thuốc tây Cường Lắm, tiệm vàng Nguyễn Thế Năng, Nguyễn Thế Tài hay văn phòng luật sư Vương Quang Nhường v.v..kéo dọc quanh khu gần đó. Tuy vậy, tôi vẫn lờ mờ nhận ra tiềm lực của Saigon ẩn dấu đâu đây. Bề ngoài xem Saigon lử đử lừ đừ, nhưng dường như sự câm nín của Saigon cũng mang một ý nghĩa thời cuộc.
Trai thanh, gái lịch của thủ đô bây giờ miệt mài trong hàng ngũ thanh niên xung phong phân tán khắp các vùng thủy lợi, thủy điện Trị An, khu du lịch Cát Tiên, nông trường 19-5, hay cả vùng kinh tế mới Gia Lành, Phương Lâm. Cho nên Saigon vắng càng thêm vắng, người ta có thể chẳng ưa gì chế độ, nhưng phải ngậm miệng qua sông để mong còn bám được Saigon, hoặc theo lời khuyến dụ, hoặc do sự răn đe, hoặc bàn lén nhau để cố giữ cái chân “ người dân thành phố “.
Tôi nghĩ mình đi đã sớm vậy mà đến trạm vẫn có người còn đến sớm hơn. Lác nhác vài người từ tỉnh xa cho biết cả đêm đã nằm vạ vật trên nền đất vì không ai có bà con, thân quen gì cả.
Tòa nhà đồ sộ vàng ệch một bóng đèn, hai cửa khép kín dửng dưng. Những người đi lãnh hàng xì xào bàn với nhau, từ cung cách kiểm xét, đến nhân viên hải quan ngỏ ý xin một món nào đó, thậm chí còn chỉ luôn mánh khóe làm sao để được giảm thuế. Lai rai, có vài anh gạ gẫm cho mượn tiền đóng thuế với điều kiện nhượng ưu tiên cho họ mua một số hàng sắp lãnh.
Saigon bao giờ vẫn thế, vẫn có những cây tầm gửi sống bám vào những cội cây khô. Bất cứ ở đâu đều lảng vảng đủ thứ “ cò “ nam lẫn nữ, lòn cúi điếu đóm công nhân viên để lọt được vào kiếm ăn. Ở mỗi tầng lớp đều có giá ngầm và chia ra vai vế rõ rệt. Chẳng hạn muốn làm ăn ngay tại Tân Sơn Nhất hay Kho 4 thì phải chi thế nào, nhờ cậy ai, mối lái ra sao.
Cứ như thế Saigon phân ra nhiều hạng ngạch, đám lau nhau ở trạm đưa đón là lèng xèng nhất, tuy vậy vẫn không ai xâm phạm, léo hánh vào lãnh địa của ai, dù nếu có họ sẵn sàng dùng băng nhóm thanh toán nhau cạn láng để quyết không nhả địa bàn sinh sống của mình.
Tám giờ sáng mới thấy anh gác cổng ra mở cửa rồi ngồi uỵch ra cái bàn, mặt khó đăm đăm như một vị gia ân. Có người sốt ruột mon men hỏi khi nào xe đến thì liền bị nạt ngang : ở đó mà chờ, hỏi linh tinh bỏ mẹ.
Saigon bây giờ là thế đó. Những nét lịch sự, duyên dáng xem như cùng theo chân Mỹ ra đi theo. Mặt ai cũng cau có, hiếm thấy một nụ cười và lúc nào cũng đằng đằng sát khí. Hỏi chỉ được nhận những câu đáp cấm cảu, hoặc mắng mỏ người dân. Thét rồi chẳng ai buồn mở miệng.
Chín giờ chiếc xe ca đầu tiên ghé lại. Tài xế đẩy cần mở cửa bên hông xong, nhảy phóc vô tán gẫu với anh lao công. Khách nhận hàng tranh nhau len lên cửa xe. Ai cũng hối hả sợ trễ, chẳng ai quan tâm cho biết sự thể thế nào.
Tội nghiệp, bản tính người dân vốn đã tranh giành nhau lên thì lên trước, xuống cũng xuống mau, trông nhếch nhác như sợ không còn chuyến khác. Chừng thấy xe đầy, anh tài lững thững ra, bước lên xe bằng cánh cửa của tài xế và chẳng cần hỏi han gì, đóng xoạch cửa lại và phóng xe chạy.
Những người không lên kịp ngơ ngác chẳng rõ thế nào. Tôi là một trong số người chậm châm. May sao có vài vị chắc từng đi lãnh hàng nhiều lần và những mối lái cho vay nói “ bà con cứ yên tâm, họ sẽ quay lại chở khi nào hết thì thôi “. Bấy giờ tôi mới thở phào.
Nghĩ đến sự lẩn thẩn của mình, tôi cười nụ cười méo mó thảm hại. Nào đã lâu lắc gì đâu mà sao tôi bệ rạc vậy nhỉ. Anh cháu đã bận đi đâu, chứ nếu còn nán lại chắc đến cười tóe nước mắt và nói “ chú dạo này sao đụt quá “.
Cám ơn, sáng sớm Saigon còn giúp tôi che đậy bớt vẻ lóng ngóng, quê mùa. Tôi bước lên khoang xe như chui vào một cái rọ. Gió Saigon ban mai chưa gì đã lợn cợn, tôi nghe ran rát nơi đuôi mắt. Xe chạy đi, con đường Phan Đình Phùng bị hắt toẹt sau lưng. Cây ăng ten đài truyền hình vẫn lập lòe bóng đèn đỏ đánh dấu chiều cao để phi cơ bay ngang không đâm xầm vào gây nạn.
giavui
12-06-2014, 06:38 PM
Phần 23
Lụi hụi tôi cũng leo lên chuyến xe chót để được đưa vào Tân Sơn Nhất lãnh hàng. Đây là khu vực dành cho phi trường quân sự ngày trước, khoảng gần câu lạc bộ Huỳnh Hữu Bạc ăn thông ra cửa Lăng Cha Cả.
Hầu hết những dãy ba rắc ngày xưa giờ là chỗ chất hàng và ngăn thành những nơi kiểm xét hải quan. Phần đông những người đi lãnh đều tới lui nhiều bận nên quen thuộc. Gia đình nào có bà con, thân nhân ở nước ngoài đều làm sổ nhận tiền, hàng cho tất cả những người trong gia đình. Sở dĩ vậy là vì dạo đó mỗi năm mỗi người chỉ được phép tối đa nhận quà từ nước ngoài về 2 lần, cho nên nhà nào muốn nhận được nhiều phải lập sổ để luân phiên nhau mà theo đúng thủ tục cho phép.
Từ ngày đi tù về, tôi chẳng còn mảy may ham bon chen, nhờ vậy chuyến xe tôi lên chỉ lưa thưa còn lèo tèo vài người, điều này khiến tôi thấy hết sức thoải mái. Mấy người bâng quơ hỏi thăm tôi và khi tôi đưa họ xem giấy gọi thì ai nấy đều cho biết người nào đó gởi cho tôi đã chịu hết mọi chi phí, thuế cước nên tôi khỏi phải lo bị tính tiền gì nữa hết.
Tôi bỗng thở phào, có lẽ ai đó hiểu rõ hoàn cảnh gia đình tôi nên đã giúp là giúp cho trót cũng nên. Tưởng rằng mình đúng tên đúng địa chỉ gọi đi lãnh thì nhanh chóng xong kịp ra về, nào dè sự làm việc lề mề, theo tính cách gia ân khiến tôi mất rất nhiều thời gian chờ đợi.
Mãi đến sau buổi trưa, tôi mới đến lượt được gọi tên. Nhìn ai cũng thùng nào thùng ấy nặng trĩu, lỉnh ca lỉnh kỉnh trăm món, trong khi hàng của tôi đưa ra chỉ vỏn vẹn một chiếc hộp cỏn con. Mọi người nhìn có vẻ giễu cợt, song với tôi đó là cả một hạnh phúc tuyệt vời, chắc là có nằm mơ tôi cũng không tưởng tượng ra nổi.
Nhân viên kiểm soát hàng của tôi gồm 2 người, một nam, một nữ. Họ đều mặc đồng phục hải quan vừa làm vừa đủng đỉnh pha trò nói chuyện. Tôi vào nộp giấy, họ đối chiếu xong vào kho kế bên lấy hàng ra. Tôi hồi hộp chờ.
Chợt nghe cô nhân viên hỏi : chú có biết ai là người đứng tên gửi quà về cho chú không ? Tôi thấy có vẻ lạ vì tên người nhận và địa chỉ đúng của tôi sao còn truy hỏi ai gởi để làm chi. Nhưng tôi vẫn nhũn nhặn trả lời : tên những thân nhân của tôi thì đều đã ghi rõ trong sổ nhận hàng, tôi chắc không ngoài một trong số những người đó.
Hai nhân viên hải quan so tên nơi sổ với tên ghi ngoài hộp hàng và cho biết không phải những tên tôi đã khai. Và họ đòi hỏi tôi phải cho biết tên người gởi để xem quả có liên hệ thân hữu với tôi chăng thì mới phát hàng ra được.
Nào tôi đã được lãnh hàng bao giờ mà biết sẽ gặp cảnh đánh đố nhau tận tình đến vậy, nhưng tôi nghĩ cũng phải vặn hết đầu óc ra mà suy xem ai còn nhớ đến tôi ra tay tế độ cứu vớt cho đây.
Việc này quả thật ngoài tầm hiểu biết. Cho đến lúc này tôi hoàn toàn mù tịt chẳng biết bạn bè, thân quen ai đã may hay không may thoát ra được hồi biến cố vừa rồi. Còn nói chi ai ở, ai đi và nơi nào họ đến thì càng hoàn toàn không đoán nổi.
Có lẽ thấy tôi ngu ngơ, cô nhân viên hải quan mớm cho một thoáng hé mở : người này ở Mỹ chú ạ, xem ra không phải bà con mà như là bạn cũ của chú thì phải. Tôi càng ngớ người ra, tự hỏi ai đây. Hai nhân viên hải quan cũng không có vẻ thúc, lẳng lặng nói chuyện khào chờ đợi tôi.
Tôi xoay trong đầu, moi trong trí, đoán lờ mờ xem liệu ai có thể còn nhớ đến tôi. Thỉnh thoảng tôi nêu ra một tên hú họa nhưng đều bị xem là không đúng. Sau cùng tôi đánh bạo hỏi ngược hai người : thưa anh và cô, theo tôi nếu bắt buộc phải khai đúng tên người gởi mới được nhận hàng thì làm sao tôi biết được. Thú thực khi nhận được giấy gọi tôi cũng đã băn khoăn dữ lắm. Vì người cho có lòng, chắc họ không nghĩ ra nhiêu khê bên nhà phải đối mặt. Chả lẽ đúng tên mà tôi lại bỏ lơ không đi.
Lời tôi có vẻ gây xúc động sao đó nên cô nhân viên nói : cháu nhắc sơ sơ để chú cố nhớ. Đây là tên một cô gái nghe có vẻ hay hay, chắc trước đây là bạn với gia đình. Chú thử nghĩ xem may ra có phải không. Và để đánh tan nỗi thắc mắc của tôi, anh nhân viên phân trần : chúng cháu không muốn làm khó ai đâu, song luật lệ buộc chúng cháu phải hỏi cho rõ.
Tôi lại cà kê dê ngỗng nhớ được tên nào thì đọc ra, có đến năm sáu tên bạn nữ mà vẫn chẳng xuôi. Sau cùng chợt tôi lóe sáng khi sực nhớ tới vợ anh bạn hồi nao làm báo Chính Luận của ông Đặng Văn Sung, có lần đã ra ở nhà tôi hơn 1 tuần, biết đâu nay cô thương tình mà muốn đỡ đần vợ chồng tôi chút ít chăng.
Tôi đành đưa tên cô ta và may mắn sao cô nhân viên hải quan cũng reo : đúng đó chú. Bấy giờ thủ tục kiểm hàng mới khởi sự. Tiếng lưỡi lam rọc nắp hộp kêu xoèn xoẹt, lôi ra hai sấp vải vừa sa tanh vừa lụa hoa, vài cái áo lót nữ, một bó bút Bic, một ít lưỡi dao cạo Gillette, mấy hộp thuốc cảm, ho, tiêu chảy, thế thôi.
Tôi nhìn muốn hoa cả mắt, mùi hàng mới bay xực nức, cơn xúc động dâng lên tôi có cảm tưởng đuôi mắt đang ngần ngận nước. Hai nhân viên để riêng từng thứ ra, cầm lên lại bỏ xuống.
Tôi nghe cô nhân viên nói : cháu muốn gửi mua chiếc lót loại này lâu mà không tìm ra ai quen. Nay chú nhận được mấy cái, liệu chú có thể nhượng cho cháu một chiếc, cháu xin gửi tiền lại chú nhé.
Tôi nào biết giá cả thế nào mà bàn và dù là lần đầu lớ ngớ đi lãnh quà, tôi cũng đã nghe và thuộc nằm lòng lối khơi mở đề nghị của các cô chú hải quan khi thấy hàng ngoại. Có người còn cho biết thêm là nếu dễ dãi biếu cho họ món gì thì việc nhận hàng càng nhanh và có khi thuế má lại được nhẹ nhàng hơn.
Tôi nghĩ đây quả là của từ trên trời rơi xuống, giá không có gì cũng vậy thôi nên mau mắn nói với cô nhân viên hải quan xin biếu cô một chiếc cho xong. Cô rối rít cám ơn và thu gom từng món nhét lại vào hộp, ràng buộc và lấy băng keo dán cho tôi cẩn thận. Cô nhẩm đọc địa chỉ của tôi, ân cần dặn dò đi đường giữ gìn và nhất là đừng vội vàng bán ngay tại cổng vì lớ ngớ dễ bị con phe ăn chặn hay mua rẻ.
Không gì bằng “ có qua có lại mới toại lòng nhau “ nên tôi cám ơn và lui ra. Hoàn tất việc đi nhận hàng gần hết cả một ngày. Chiếc đồng hồ trong khu ghi con số 4 giờ 30 chiều, tôi mới nhớ suốt từ sáng đến giờ chưa ăn chưa uống gì cả.
Tôi ôm chiếc hộp ra, lao xao có người hỏi mua hay hỏi cho biết nơi tạm trú lát sau họ sẽ tới. Tôi ừ hử cho xong. Lúc vào thì xe chở, nhưng lúc ra thì ai nấy tự lo phương tiện về nhà. Tôi lừ đừ ôm cái thùng mà nhìn quanh nhìn quất, sợ đủ chuyện. Mấy anh xe ôm bu vào gạ mời, giới tắc xi cũng ơi ới gọi theo, lại thêm mấy tay mặt lì lì đeo làm tôi hoảng hốt.
Tôi phóng đại lên chiếc tắc xi về nhà anh cháu. Vác được cái thùng vào đến tận trong nhà mới yên chí. Tôi quáng quàng ăn vội tí chút, rồi vơ túi gạo và chút quà đến biếu nội các cháu. Tôi ở chơi đến gần khuya xin phép về để sáng sớm trở ra cho kịp chuyến tàu lửa.
Anh cháu khuyên tôi không nên để nguyên cái thùng giấy khiến ai cũng chăm bẳm nhìn theo. Hai vợ chồng giúp tôi nhét mọi thứ vào một chiếc bao và dặn dò đi tàu nằm chặn lên mà ngủ kẻo tàu đông bị cướp giật.
Tôi vội vã bỏ Saigon về bằng chuyến tàu 6 giờ sáng, cà tịch cà tang ghé hầu hết các ga, trạm lớn nhỏ, nhường ưu tiên hết tàu thống nhất lại các chuyến tàu nhanh nên mãi đến 6 giờ sáng hôm sau tàu mới bỏ tôi xuống ga cuối.
Tôi gọi xe về nhà, vợ con còn chập choạng ngủ. Tôi đánh thức cả dậy và lao nhao mở cái bao ra cùng ngắm nghía với nhau. Không nói, mắt ai cũng loang loáng nước. Thẳng tửng vốn háo hức cái xe ba gác nên nhân cơ hội xía ngay vào : chuyến này mình sắm được xe rồi đó bố. Nào dè mẹ nó trợn trừng mắt cắt ngang, anh ta cụt hứng im thin thít.
Phần 24
Giá như thời buổi hồi nao, mớ quà này xem ra chẳng là gì cả. Thế nhưng trải qua một thời gian dài quá thiếu thốn thì lại hóa ra vô cùng quan trọng. Cả nhà tỉnh hẳn khi trời còn lấm lem tối. Ai nhìn cũng lặng đi, không biết nói sao. Đối với bên nhà, từng thước vải, từng lưỡi dao, từng cây bút đều quá quí. Chẳng những chúng nói lên tấm lòng người ở xa nghĩ đến kẻ kém may mắn mà chúng còn khiến cho người nhận cảm thấy quá bùi ngùi.
Kèm theo một lá thư ngắn, nhưng đọc lên không giữ nổi nước mắt đừng tuôn : anh chị mến, đã lâu lắm chúng ta không gặp nhau. Tình cờ anh Sâm sang, em biết được tin anh chị. Em cầu mong chút quà nhỏ nhoi này sẽ đến tay anh chị như lòng em nhớ. Bây giờ nhắc lại chuyện hồi xưa, chắc năm tháng đã xóa sạch rồi. Nhưng em vẫn giữ trong lòng ngày ra thăm anh chị, khi về lỡ tiêu béng các món, em đã tạm vay của anh chị tiền mua vé máy bay. Em hứa mãi sẽ trở ra thăm và hoàn lại, để rồi thình lình mọi việc sai lệch hết. Em còn mang nợ anh chị, nay em xin được đền bù. Ước mong anh chị tha lỗi cho em…
Vợ chồng, con cái nhìn nhau, không biết nên vui hay nên buồn. Sự im ắng làm cho buổi sáng đâm nặng nề quá đỗi. Tôi phá tan cảnh tịch mịch của nhau : này mẹ nó nên giữ sấp vải may cái quần mặc kỷ niệm. Vợ tôi lặng đi một lúc mới rụt rè lên tiếng : thời buổi này cần miếng ăn, chứ không cần chưng diện. Em nghĩ cả nhà nên hi sinh để đãi ngộ nhau một bữa cho tất cả được vui. Đứa con gái chạy chợ nhận trách nhiệm giải quyết khoản quà cáp, nhưng vợ tôi nói để hỏi xem bà vợ ông thương binh về hưu có định mua không rồi sẽ tính.
Thế là món quà chóng vánh được thanh toán. Từ ngày xảy biến cố, đến râu ria cũng e dè chuyện bị phân bổ kinh tế mới mà chẳng dám loe hoe mọc rộ ra, nên mớ lưỡi dao tôi nghĩ là cũng không cần thiết. Bọn nhóc giá không còn lẽo đẽo đi học thì chắc mấy cái bút BIC cũng không được giữ lại làm chi, thành ra chỉ làng nhàng một vòng là coi như xong liền.
Tôi chẳng biết nên vui hay nên buồn nữa. Thời gian đó thật muôn vàn nhăng nhố, ai có thân nhân dần dần quà cáp gửi về hoài, cuộc sống đâm ra có mòi dễ chịu. Thế nhưng bên cạnh những tình nghĩa yêu thương cũng nảy sinh ra lắm điều đầy đọa lẫn nhau.
Có nhà dù anh, chị, em, con cháu thay phiên nhau gửi quà về cho từng tên người khác nhau ở bên nhà để không bị vi phạm qui định mỗi năm tối đa nhận 4 lần quà và 2 lần tiền mà vẫn chưa thấy đủ. Nay thư sang kể cảnh đau yếu, mai tin sang xin tiền sửa mộ, lợp nhà. Nhiều gia đình còn tự tha hóa mình để gây xúc động cho người ở xa.
Thậm chí bạn bè tôi có người chỉ chăm chăm đi dò la bạn bè, đơn vị để kể khổ, kể khó xin trợ giúp. Có bà mẹ liên tục gửi thư xin con gái đến nỗi anh chồng của cô phải cất lời van xin nếu má còn thương vợ con là con của má xin thư thả để chúng con lo liệu, chứ má cứ thúc giục luôn thì chắc vợ con đến sớm chết mất.
Ôi thời buổi bung xung, lộn tùng phèo lên hết cả. Những ông thợ chụp hình vớ bở luôn được các gia đình này chèo kéo để đạo diễn những bức ảnh lâm ly thảm khốc hầu moi tiền những đứa con ở xa. Tôi từng biết, có người chụp đi chụp lại cái xẻo lá ngụy trang ở ngay sau vách tường nhà họ để đánh động tình thương của những người con hộc tốc chúi đầu chúi cổ đi làm, cày chết bỏ để có tiền gửi về chi viện cho thân nhân.
Thằng tửng tôi hay phê phán chuyện nhà người thẳng thừng : con không hiểu sao lòng tham của con người quá quắt. Tôi phải nạt nó : mày không được bép xép, chuyện thiên hạ mắc gì đến mày. Tại tao không nhớ và không tìm ra được ai quen, chứ biết tao cũng dám làm như họ để sống thoải mái. Nào dè nó dám nghênh ngang trả lời tôi : bố quả có ý đó thì con không còn muốn ở trong nhà này nữa. Đến nỗi vợ tôi phải réo lên : bố con nhà ông đâm lẩn thẩn cả, chuyện đẩu đâu cũng tự buộc vào mình.
Tôi đã bao lần nằm vắt tay lên trán nghĩ hoài mà không ra. Điều gì đã làm cho con người sa đọa vào lừa dối nhau trắng trợn thế nhỉ. Thiếu thốn, bức bách, bụng đói, rét mướt, hay vốn dĩ sẵn chố dựa, không nài cũng uổng, mà ngay nguời trong nhà cũng chẳng còn biết quí nhau. Có thể người ở bên phía này mặt trời cho rằng phía bên kia là mỏ vàng, mỏ bạc, chỉ cần vói tay ra là hốt vô biên. Cho nên mới kêu nạy luông tuồng. Có khi chính vì lòng thương nhau đặt không đúng chỗ cũng làm cho sự ỷ lại, dựa dẫm tăng mau. Trách ai, nào biết trách ai bây giờ.
Sau này mỗi lần nhìn bà vợ ông thương binh hưu trí mặc chiếc quần từ sấp vải của vợ tôi bán lại, tôi thấy lòng tôi ngấm muối xót xa. Tôi nghĩ đến lọn cải muối dưa bị khú cũng không đến nỗi bốc mùi hăng thậm tệ như vầy. Vợ tôi nhìn được vẻ đắng cay của tôi, bà mở nụ cười méo xệch vớt vát : em cũng từng được mặc những thứ ấy rồi mà anh.
Những năm tháng kẹt lại quê nhà là những mùa dài thương đau buồn tủi. Cuộc đời ôm cái ống bơm nhấn xịt xịt cho xe khách lại qua, tôi thấm thía như chính tôi là chiếc xăm cọc còi, mục rã. Có những mùa lá rụng đầy, gió thổi bay làm xác khô kéo xào xạc trên mặt đường, tôi tưởng cõi lòng tôi cũng khô khốc như thế.
Mùa mưa biển dữ dội, mây ùn che kín bầu trời, Chớp giật, sấm vang, tôi chỉ mong bầu trời rách nát ra, chôn vùi một lần cho xong đời đầy đọa. Mùa bão dâng, màu nuớc biển đỏ quệch đẫm buồn, tôi nghĩ máu đã pha vào cả những hạt cát làm băng hoại đi màu xanh biếc của thiên nhiên.
Có bao giờ tôi tin sẽ đến một lần thoát ra khỏi ngẫu hứng tang thương đang giăng giăng cùng khắp. Anh bạn sửa xe thấy tôi lúc nào cũng buồn buồn thường ủi an tôi : ông thầy đừng nản chí, ít ra ông thầy còn chút vốn tù vạ, biết đâu sẽ chẳng là cơ duyên để ông thầy đi được. Tôi định hỏi anh ta : lấy gì làm vốn ra đi, nhưng thấy im.
Thời gian đó, trong nước xảy ra việc ông Chu Phạm Ngọc Sơn sáng chế được loại sơn lót gì đó, bỗng dưng được nhà nước cuỗm coi là công trình sáng tạo tập thể dưới sự dẫn dắt của đảng. Ông Sơn không chịu, kêu réo, dù lúc ấy ông đang là một trong những người tham gia Hội Trí Thức Yêu Nước. Tưởng rằng thái độ khăng khăng của ông sẽ bị phê phán gắt gao, ấy vậy mà lại được thu vén để hoàn trả chính danh lại cho ông, cho dù công việc được làm cách im im, nhưng vẫn không dấu được lời xầm xì của bàn dân thiên hạ.
Chuyện này xảy ra, tôi có nghe loáng thoáng ông thương binh về hưu ca cẩm mà không hiểu ông đề cập đến ai lúc bấy giờ. Hôm ông toang toang ra lời là hôm ông vừa gặp bạn nhậu về, chân nam đá chân chiêu, ông nhủng nha nhủng nhẳng kể lòng dân ví như bầu trời, định lấy cái que chống thì đỡ sao cho nổi. Tôi lờ đi như không hay biết, nhưng anh bạn sửa xe hí hửng thúc hông tôi bỏ nhỏ : ông thầy nghe chớ. Nghe thì ai chẳng nghe, nhưng miệng còn có đâu mà nhận…
giavui
12-06-2014, 06:39 PM
Phần 25
Người gằm ghè gia đình tôi nhất phải nói là anh công an khu vực. Đành rằng “ ăn cơm chúa phải múa tối ngày “, nhưng anh quá tích cực với cá nhân tôi. Nhiều khi đang lui hui lo việc gì đó không để ý đến ai, thì tôi nghe tiếng xe chạy qua và quay vòng ngay lại. Chưa thấy người đã nghe tiếng : chú dạo này khỏe chứ. Hỏi dăm điều ba chuyện, chưa đâu ra đâu, thì như sực nhớ anh căn dặn tôi phải làm lại tờ khai lý lịch.
Tôi thường điên đầu vì công việc này, hết trích dọc lại trích ngang, quãng 3 tháng một lần, mà tôi biết chắc sẽ không bao giờ lưu hồ sơ gì hết. Chẳng qua anh muốn hù tôi nể mặt anh ta thôi. Tôi mấy lần định hỏi sao làm đi làm lại nhiều bận, nhưng bà vợ can gián : việc của người ta, ông đừng ý kiến vào mà mang họa.
Tôi ấm ức, vợ tôi càng ấm ức hơn, tôi thì nín khe, còn bà xã sang phàn nàn với bên nhà ông thương binh hưu nhân được gọi sang giúp việc. Có lần bà về khoe với tôi : bà ấy hứa sẽ bảo ban để anh khu vực đừng chú ý đến ông. Nghe thì cứ nghe, nhưng tin thì tôi không tin.
Việc này tôi có nói lại với ông nội các cháu. Cha con không bằng lòng nhau nhiều khoản, nhưng “ một giọt máu đào (vẫn) hơn ao nước lã “ nên ông cụ thông cảm giúi cho tôi cái bằng khen để về nhá treo ở nhà. Thời buổi thật kỳ lạ, nguời thật việc thật chẳng có cà ram nào trong việc xử thế lẫn nhau, vậy mà mảnh giấy lại làm nên tích sự mới điên.
Tôi đem bọc nhựa và đính mảnh bằng khen ngay ở gian ngoài. Anh khu vực đến giục tôi nộp tờ khai lý lịch, nhác thấy vội nói bận công tác gì đó, hẹn sẽ quay lại lấy sau. Chả bao giờ thấy anh trở lại nữa. Thì ra người ta sợ bóng sợ gió khi nhìn thấy chữ ký của người cấp bằng.
Sau này tôi nghe ông trưởng khóm kể lại tay khu vực bảo gia đình tôi thuộc loại có công với nhà nước nên thôi không chăm chú dò xét nữa. Công lênh gì đâu chớ, chẳng qua bố tôi vốn có thời gian làm cửa hàng trưởng tân dược, chả hiểu sao lại vớ được cái bằng khen đáng đồng tiền bát gạo này, thế là thấy thằng con trai lao đao lận đận thì cụ nhín cho để làm lá bùa hóa giải chưởng lực đối phương.
Ôi, nếu phải kể những nỗi gian nan của tháng ngày không ngóc đầu lên nổi thì cơ man nào cho hết. Tôi mượn tạm cái bằng khen chỉ một lần đâu chừng nửa tháng rồi lại cẩn thận giao hoàn lại cụ, vậy mà ép phê kéo dài mãi đến tận sau này.
Từ đó, việc xin tạm vắng tạm trú không còn bị ì xèo nữa, thậm chí lại được mớm cứ việc đi làm ăn họ sẽ lơ là cho. Thế nhưng tôi vẫn cẩn thận nắm cán chớ không đánh đu chơi trò nắm lưỡi, nhỡ một ngày buồn buồn nào đó, các trự dở quẻ chỉ mệt vào thân.
Gần 20 năm trôi nổi sau ngày biến cố, tôi tưởng tôi chẳng còn ra giống người, loáng thoáng nhớ ông Darwin chứng minh thủy tổ chúng ta từ loại vượn, có lúc tôi nghĩ hay tôi đúng là vượn cũng nên.
Tin gia đình tôi có quà đến tai tay khu vực rất chóng. Anh xí lô xí la hỏi thăm đời sống, rồi rong rỏng phết cho một câu : chú sướng nhé, thỉnh thoảng có cứu viện. Mà thật, sau lần được ơn mưa móc bất ngờ, tôi như sẵn trớn có giấy gọi đi nhận quà tiếp. Lần này tôi bớt lúng túng vì đã biết trước người cho là ai.
Nguyên cụ tôi nhặt nhạnh mớ ảnh chụp gia đình ngày xưa đem đi in thêm ở hiệu, bất đồ sao ông chủ nhận ra người chị nuôi của tôi. Ông chủ vốn là chú bên chồng của chị nên hỏi thăm đến nơi đến chốn cụ tôi về liên hệ với bà chị. Cụ tôi kể hết ngọn ngành, thế là cha con cách xa nhau cả 40 năm tình cờ biết tin nhau lại.
Nỗi lòng người ở xa xót người bị kẹt nên quà cáp tuôn về tưng bừng, mục đích là cưu mang cụ tôi, nhưng tôi vẫn có chút phần ăn ké. Cụ gọi tôi vào, bọc cho vài sấp vải, một ít thuốc, chục cây bút BIC, một túi lưỡi lam và một lá thư.
Vợ chồng con cái lại hết nước mắt vì những lời chân thành an ủi. Tôi còn được anh chị hỏi nguyên do sao không “ gửi bớt vài cháu về quê “, tôi hiểu ngay anh chị muốn nói gì. Tôi tình thật kể lại khúc nhôi và bóng bẩy lấy tên các con anh chị để lòn lách tường thuật đến việc khó của tôi.
Sau đó, anh chị gửi riêng cho một thùng về chỗ tôi, đủ mọi thứ. Thời buổi đó đem thẩy cũng thu về được một món tiền to, có nằm mơ cũng chẳng đoán ra nổi. Thằng tửng tôi ngửi thấy mùi vải vóc, tính lóc chóc của nó diễu được ngay : mùi Mẽo có khác,
Những năm 80, gia đình nào thỉnh thoảng nhận được quà xem như phúc bảy mươi đời. Ai cũng nghèo quá nên ngóng sự giúp đỡ như ngóng mưa. Chả thế, việc quà cáp xem ra cũng có mặt này mặt khác. Người ẩn nhẫn chẳng nói làm gì, nhưng có lắm anh ngong ngóng hỏi thăm bạn bè, cấp chỉ huy cũ, hoặc địa chỉ một hội quân binh chủng nào đó để chăm chăm chú chú chạy xoay tiền tem gửi lá thư xin cứu trợ.
Có anh khoe với tôi đã nhận đuợc nhiều lần quà từ bên ấy gửi về. Thời buổi khiến con người quên đi lòng tự trọng, nhăm nhăm trông chờ vào sự cưu mang ở mãi tận xa. Chẳng biết sao là đủ, sao cho vừa, được một lại muốn có hai, cứ thế đâm mè nheo, xoay sở và làm phiền nhiễu bạn bè, thân thuộc.
Xã hội dần dần đã bớt cảnh kham khổ, túng bấn. Các nhóm chợ trời mọc tự phát ở khắp nơi, tỉnh thành nào cũng có. Con buôn không còn thuần túy làm ăn tại địa phương như trước, có người đã buôn rộng ra khắp nơi, mon men lại có cả người đổ dồn vào các tỉnh có đường xuyên ranh giới.
Miền Bắc chen chân lên các tỉnh biên giới, khuân đủ thứ hàng hóa từ Tàu sang. Miền Trung hay trong Nam chủ yếu lần mò len theo các đường buôn với Lào và Cam Bốt. Người ta rủ nhau đi chợ thành đoàn, khuân chẳng kể thượng vàng hạ cám. Đứa con gái tôi chấp chỏm cũng muốn đi, tôi phải nạt mới bỏ ý định. Không phải tôi sợ cụt vốn mà thấy thân gái đường trường không an toàn.
Đã có biết bao gia đình tan vỡ cũng vì vợ con đi buôn chuyến. Phương tiện di chuyển hạn hẹp, hàng hóa thứ gì cũng thuộc loại quốc cấm hay buôn chui nên lắm bà, lắm cô phải dựa vào lơ tài xe đò, xe tải để mong được dấu che thoát khỏi kiểm soát của quản lý thị trường, thuế má và công an giao thông.
Ai cũng có quyền sinh sát, ai cũng có quyền chặn bắt và ai cũng có quyền ban ơn. Thậm chí chỉ cần một địa phương xưng hùng xưng bá đặt nghênh ngang một cái bàn ra cạnh quốc lộ, đeo cái băng đỏ nơi tay là cũng hét ra lửa, mửa ra khói với bạn hàng buôn ngay.
Hàng hóa tịch thu có khi lập biên bản, có khi không, nhưng dù với dạng vẻ nào thì phần thua thiệt vẫn là về phía những người sống theo quốc lộ. Chưa có ai làm một bản thống kê mạch lạc, nhưng chắc chắn rằng số chồng bỏ vợ, con bỏ gia đình nhan nhản trong thời buổi mà những anh hùng xa lộ mặc sức hành hạ người đi xe.
Tôi chán ngán biết bao nên đành chọn sự thua thiệt để gia đình còn là của nhau hơn vì chút quyền lợi mà có khi cửa nhà tan nát. Những thùng quà nhận được đều tiêu pha hết sức dè sẻn, mong rằng sẽ có một dịp nào đó mình phải chi dụng để thoát khỏi sự bức bách vây quanh.
Càng ngày tin đồn Mỹ sắp nhận những người đi tù cải tạo càng dồn dập. Nay là tin những ai tù từ 10 năm trở lên sẽ có danh sách sẵn để được Công An đến hỏi lập thủ túc ra đi. Tin này, tin khác, trúng trật chẳng ai truy nguyên được. Có người còn bạo miệng nói Mỹ sẽ bằng lòng cấp cho mỗi gia đình 5000MK nếu không muốn ra đi khỏi nước. Và không thiếu người hí hửng tin và chờ như chờ sung rụng.
Các thành phố ngơ ngáo vì các mẩu tin đồn. Có lẽ vì quá khổ nên ai cũng đặt hi vọng vào những chuyện hão huyền cho bớt tủi. Như có dạo phong trào làm đơn nộp xin đi Úc, anh nào hấp tấp cả tin là dính chấu ngay. NHà nước gom nhốt luôn mấy năm mới thả, oi đúng là oan nghiệt.
Phần 26
Đầu óc tôi muốn nổ tung lên vì lượng thông tin dồn dập kéo đến. Tôi chóng mặt đến không nhìn đâu ra sự thật hoặc lừa dối. Thằng tửng tôi là người đầu tiên lay động tâm trí tôi : này bố, những người hoàn cảnh như bố sắp được ra đi đàng hoáng đấy. Tôi há hốc mồm tròn xoe, không tin vào cái tai nghễnh ngãng của mình. Tội nghiệp thằng bé thấy bố ngẩn tò te thì nói vun vào thêm : con nói thật, bố phải tin vào con.
Rồi nó huyên thuyên kể như sự việc đã mười mươi đến tận nơi : bố sướng nhé, chuyến này chả còn sợ ai bắt điều bắt nết mình nữa. Gia đình ta sẽ lên máy bay đàng hoàng nhé, ngang nhiên ra đi mà chẳng ai làm khó dễ ta.
Tôi cũng thấy nôn, nhưng không tin chuyện đời đâu lại có sự lạ tới vậy. Tôi gạt ngang nó : mày thôi bép xép cho tao nhờ. Mẹ kiếp hơn 20 năm giời, tao ví như con rệp khô nằm giữa khe mộng phản. Chẳng còn ai đủ mập mạp để con rệp hút máu họ sống lây lất cho qua, mày hãy để tao yên, đừng khuấy động rối lên mà lại tù rạc, con ạ
Thằng con tôi không chịu lép : trời ơi, con được bố rứt ruột đẻ ra, lẽ nào con đi hại bố. Cả thành phố người ta ùn ùn kéo nhau chạy đi hỏi han chuyện lo giấy lo tờ, chỉ có bố làng nhàng chưa biết thôi. Rồi như là tay cố vấn chuyên nghiệp, nó mach nước cho tôi : giấy tờ quân đội bố còn giữ đủ cả chứ.
Tôi ngây như phỗng đá, lẩm nhẩm tính trong đầu : thẻ quân nhân, chứng chỉ tại ngũ đốt béng ngay từ khi nhộn nhạo xảy ra, ba món quần áo lính thời gian đi tù mặc rệu rã, cũng rách bươm hết, hình ảnh cũng đốt sạch, sợ bị kết án còn nuôi mộng phản thùng. Tôi ân hận sao hồi đó mình khờ thế nhỉ.
Thằng con thở dài sườn sượt, tội nghiệp cho tôi sợ quá hóa ngu ngơ. Nó không nói ra miệng, nhưng cái nhìn sâu thăm thẳm của mắt nó cho tôi suy diễn ra quả nó đang nghĩ như vậy. Tôi bộc bạch tâm sự với nó như ân tình giữa hai người bạn : hồi ấy, ai chả thế, con. Tất cả mọi người dường như bị ăn cháo lú nên ngu đần hết trơn. Đời lính rõ mười mươi dẫu có lấy đất đắp lên phi tang cũng chả dấu được, thế mà ai cũng rét. Phương chi lối xóm đâu thiếu những thằng điếu đóm, nịnh bợ thời cuộc tâu hót, kết tội mình.
Tôi bật cười thầm nhớ lại những ngày nằm ấp, mắc chứng gì mà những chuyện không đáng cũng khai ra. Từ chuyện hồi nảo hòi nao đi hướng đạo hay đi hát hò vớ vẩn, có ăn nhập gì đâu đến đời lính tráng mà lắm anh cứ nghĩ “ thôi thì gan ruột có gì nói quách hết ra một lần cho nhẹ bụng, sau chẳng còn ăn năn, thắc mắc gì nữa cho rảnh “. Có ông nho nhoe kê cần lao, cần liếc gì đó từ đời tám tỏng cũng vơ vào “ thưa cán bộ tôi vốn thế nọ, thế kia “ để đến nỗi phải lận đận xách ba lô đi dài suốt từ Nam ra Bắc hàng bảy, tám năm dài mới vỡ lẽ ra sao mình dớ dẩn nhỉ.
Thời buổi ấy, lắm bà giận dỗi cũng chỉ vì các ông ngây thơ mở ruột ra cho người ta ngắm, nên bỏ luôn anh chồng khờ cho nhớ mãi cái ngu. Tôi đâm tẽn tò với thằng tửng. Có lẽ thấy tôi vẻ tội nghiệp nên nó lại trấn an tôi : chẳng sao đâu bố, miễn là bố cứ nhớ chắc số quân, đơn vị đã phục vụ và tên tuổi lần lượt các cấp trên của bố, chắc họ cũng sẽ truy nguyên ra thôi.
Có đời thuở nào một thằng nít ranh lại chỉ bày cho đấng sinh thành ra nó vanh vách như lão thầy bói dựa đoán theo ý của thân chủ để moi bạc hay chăng. Tôi càng đắn đo hơn khi được ông thương binh hưu cạnh nhà cho biết thêm sự việc. Ông chặn tôi vào buổi chiều khi đi ngang chỗ phục vụ của tôi. Ông khoe vừa đi họp chi bộ về và được phổ biến tin sắp tới sẽ có chiến dịch những người chế độ cũ ra đi trong vòng trật tự. Ông hỏi tôi có ý định ra sao. Thật quả những sự việc tế nhị này khiến tôi phải thập thò, tôi không dám tin vào bất cứ một ai để tỏ bày tâm sự. Tôi chọn giải pháp lửng lơ con cá vàng, vô thưởng vô phạt, cốt đưa đẩy cho qua.
Ông ta thông cảm nên không ép buộc sâu mà lại cũng vẩn vơ dặn dò : tôi nghĩ ông nên suy nghĩ cho kỹ, đừng quá đắn đo có khi bị lỡ dịp. Và ông quáng quàng nói thêm như một lời cuối khi chân đã chập choạng muốn bước đi : theo tôi, nếu có thể ông nên chọn sự ra đi, tốt hơn. Tôi ngẩn ngơ, phân vân trong lòng. Tiếng nhắn nhủ của ông sao giống hệt như những điều tôi láng máng nghe được từ những người thân của bè bạn : các anh đừng mơ tưởng hão sẽ được trọng dụng lại hoặc được xem đồng đẳng như nhau. Bởi vì trong cái xã hội này, chẳng ai tin tưởng các anh hết.
Anh bạn sửa xe cũng đốc thúc tôi nên dứt khoát. Lời chí tình của anh làm tôi thấy nao nao : ông thầy sắp có vận hội lớn rồi. Em ước gì được có điều kiện như ông thầy thì hay biết mấy. Tôi chợt nghĩ đến người yêu bé nhỏ của anh, tôi chắc vì anh muốn cất công đi tìm cô hơn là vì một ý nghĩa nào khác. Lối nghĩ cạn hẹp và hàm hồ này khiến tôi ân hận mãi đến sau này.
Thằng tửng tỉ tê với mẹ nó vì biết rằng sống trong giai đoạn này chẳng còn ai có thể thuyết phục được tôi hơn. Cho nên buổi tối nằm bên nhau, vợ tôi đã mở đầu chuyện mãi từ xa xôi dần dần kéo tôi về việc gần trước măt : mính ạ, em nghĩ mình nên ngỏ lời với anh chị giúp mình một cơ hội lúc này.
Tôi hơi sẵng muốn cự nự. Tính tôi không thích làm khăn khó cho chị tôi. Những người sống ở xa nào phải dễ đâu để mình dựa vào moi móc mãi. Đời tôi không muốn là kẻ chuyên ỷ lại bám vào bất cứ người nào. Thế nhưng nước mắt vợ con đôi khi vẫn làm bào hao, lay chuyển sự cứng cỏi, bướng bỉnh của tôi.
Một mặt, đứa con gái lớn năng nổ chạy chợ gấp bội lên, tích từng đồng kiếm ra, âm thầm cụ bị cho việc chi tiêu sắp tới. Một mặt thì tôi cũng đành bấu víu thì thọt xin anh chị tôi một lần cho xong. Tôi nghĩ làm để vợ con đừng trách cứ hơn là tin sẽ nhận được sự hồi đáp từ thân nhân.
Nào dè sự thành công vượt ngoài mọi dự đoán. Anh chị tôi gửi ngay về cho một món tiền khá lớn, trị giá lúc ấy tôi nghĩ không bao giờ nắm được trong tay. Tôi xông xáo đến cơ quan quản lý xuất nhập cảnh tại địa phương để thăm nom việc xin làm thủ tục. Tôi luôn được mời ra xem thông báo ghi ở tấm bảng phía ngoài. Tôi chẳng tìm được điều gì hơn một câu viết bằng phấn trên bảng đen “ nơi đây được phép nhận sự giúp đỡ của những người muốn xin ra đi hợp pháp “.
Tôi lờ mờ hiểu ý nghĩa bên trong của những lời này, cũng mong mọi sự trôi chảy cho xong, nhưng không nắm được đầu mối từ đâu để xin chạy lo cho được việc. Tôi mất nghiến cả tháng trời loăng quăng với những thủ tục kỳ quặc khó hiểu. Cho đến một hôm bất chợt có người giới thiệu với tôi về “ cơ quan dịch vụ xuất nhập cảnh bộ Công An “ ở Hà Nội.
Tôi gom góp những giấy tờ gì còn sót lại, đưa thị thực và gửi thẳng đi kèm với lá thư ngỏ ý xem trường hợp của gia đình tôi có hội đủ điều kiện được chấp thuận ra đi hay chăng. Chỉ một tuần sau, tôi nhận được hồi âm rõ rệt nếu đúng như những gì tôi đã nộp thì tôi nằm vào danh sách những người được cứu xét ra đi. Đồng thời trong thư cũng cho tôi biết giá thành của dịch vụ trọn gói.
Gia đình tôi vô cùng mừng rỡ. Vợ con tôi lo chuyển đổi phần nào món tiền anh chị giúp để nhanh chóng lo việc ra đi. Kinh nghiệm đã qua cho tôi thấy không nên vội mừng hay vội tính thu vén nhà cửa vì chưa có gì gọi là chắc chắn hết. Ai làm cứ làm, ai tính việc nhà cứ lo, cơ hồ như chẳng có gì thay đổi, vẫn thản nhiên như cuộc sống mọi ngày. Mọi người đều âm thầm giữ kín việc sắp đặt riêng tư để bên ngoài không ai đoán hay nghĩ ra chũng tôi đang tính toán gì trong bụng.
Thấm thoắt, thời gian hẹn nhận hộ chiếu đã đến. Tôi lóc cóc vào Saigon để nhận đem giấy tờ về. Xong giai đoạn đầu, tôi bước sang việc kế tiếp, sao lục lại các giấy hộ tịch, tờ khai gia đình và chụp ảnh người ra đi. Những công việc này phải tới lui phường khóm xin xác nhận hay ký thị thực. Do đó mới loáng thoáng có lời bàn tán về việc xin ra đi của bọn tôi, nhưng ai cũng khẳng định là chúng tôi làm cho vui thôi, chứ không sao đi được.
Thật quả, lắm khi tôi cũng thấy hoang mang. Nội sự việc nhà nước để những người lần lượt ra đi xem ra chẳng có một lý do thuyết phục nào hết. Tôi còn luôn mang máng trong đầu “ đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào “ và lời kiêu hãnh của các tay lãnh tụ “ nước ta vô cùng anh hung vì đã đánh tan những tay đế quốc sừng sỏ nhất thế giới Pháp, Nhật, Mỹ “, lẽ nào bây giờ lại bằng lòng để những người chống đối mình trở lại nơi kẻ thù vạn đại của mình ngày trước. Như thế chả hóa ra việc “ đốt cháy cả dãy Trường Sơn để thắng Mỹ “ là chuyện tào lao chăng ? Nhưng chính trị vốn dĩ là như thế, chả có gì là đúng là sai, là miên viễn. Đó chỉ là những giai đoạn cần thiết để thúc đẩy con người vào chém giết lẫn nhau thôi, khi tỉnh ra mới thấy thật hoàn toàn vô nghĩa.
giavui
12-06-2014, 06:39 PM
Phần 27
Đến khi cầm mớ hộ chiếu cấp cho cả nhà trong tay, vợ chồng tôi mới thấy mình đã sơ sót một việc quá lớn. Lẽ ra chúng tôi phải thưa trước ý định ra đi với cả hai bên nội, ngoại, rồi mới tiến hành lập thủ tục giấy tờ, đằng này chúng tôi đã làm ngược lại. Lý do nào khiến chúng tôi im ỉm thực hành như thế ? Phải chăng vì sợ các cụ ngăn cản ? Phải chăng vì muốn dấu hành động của mình ?
Chiến tranh ở đất nước này hơn 20 năm đã đặt ra cho từng gia đình những vấn đề nhiêu khê tương tự. Người ta hết còn dự đoán được phản ứng của nhau vì cơ hồ ít nhiều từng hộ đều có mắc mứu, liên hệ đến thời thế trên một phương diện nào đó. Người ta hết dám đặt hoàn toàn lòng tin ở nhau, nhất là dưới những mái nhà có người cùng tham gia làm việc ở cả hai đầu chiến tuyến.
Chả cần cứ phải lãnh nhiệm vụ cao hoặc cáng đáng một chức vụ lớn, chỉ nguyên sự cư trú của nhóm người này hay nhóm người kia thuộc vào một lãnh địa khác nhau cũng đã thành vấn đề. Lối sống, quan niệm rành rành có sự khác biệt nhau, cho dù cùng chung một huyết thống, một tổ tiên đi nữa.
Vả chăng, nào có gì gọi là chắc chắn đâu mà thưa với trình. Mọi quyết định đều nằm ngoài tầm tay mình, cho dẫu các thủ tục đã nắm trong tay, nhưng nếu giờ phút cuối người ta không khứng cho đi thì cũng thành công cốc. Kiện ai nếu không là kiện củ khoai. Cho nên xã hội đã khiến mọi người đều phải dấu nhẹm kín bưng ý định của mình, may ra chỉ còn vợ chồng với nhau mới dám tỏ lộ.
Bàn đi bàn lại, chúng tôi không thể nào ra đi nếu chẳng hỏi han, thưa chuyện với các cụ ít là một lần. Có thể các cụ sẽ giận, sẽ trách, sẽ mắng mỏ, sẽ hoạnh họe đủ điều, song làm sao hơn được vì chính các cụ còn chưa tự bảo vệ được cho các cụ, huống chi là để mắt đến lo toan cho con cháu.
Hai chục năm qua, đã bao lần nội ngoại chỉ biết “ động viên “ chúng tôi chấp nhận, chứ nào có chỉ vẽ được điều hay lẽ tốt nào. Các con tôi không thể được đi học bình thường, các cụ chỉ biết khuyên nước nhà còn “ khó khăn “ và hết. Hồ sơ các con bị từ khước thẳng rẳng dự thi ngành đại học (hoặc nếu có cho thi thì cũng chẳng được chấm đỗ), các cụ cũng đến thở dài thông cảm là xong.
Có lần, tôi đã định hỏi thưa : nghe “ bác “ nói “ thắng giặc Mỹ ta xây dựng hơn mười ngày nay “ mà sao hai mươi năm rồi vẫn chưa thấy nhúc nhích gì cả, rồi lại nhận thấy câu hỏi quá mắc mỏ đành ngậm miệng.
Cuối cùng thì hai tôi cũng phải dứt khoát cho trót. Chúng tôi đưa cả gia đình đến thăm từng cụ, kể lể khúc nhôi, các cụ ngồi im nghe và không nói năng gì cả. Thời khắc như dừng lại, đến tiếng vo ve của con diễn bay qua cũng nghe rõ, rồi sau rốt thì cụ nói : mấy chục năm qua tôi chẳng gần cận để tham gia ý kiến gì với anh chị thì nay việc anh chị quyết định đi hay ở cũng là tùy thuộc sự chọn lựa của anh chị thôi.
Chúng tôi mừng, nhưng lại như thường lệ các cụ vẫn chêm vào : mà anh chị đi làm gì, đến đâu chẳng phải lo làm lo ăn mà sống. Anh chị có ở lại chẳng ai bắt nê bắt nết gì anh chị hết, miễn là anh chị cứ nín nhịn cho qua.
Nhà tôi còn có chút chùng chình vì bổn phận làm con với cụ chưa một ngày báo đền đến nơi đến chốn, còn tôi thì đã quyết nên chẳng cảm thấy lung lay. Tôi đem lý lẽ ấy nhỏ to với vợ mấy lần mới tạo được cảnh “ thuận vợ, thuận chồng, tát bể đông cũng cạn “.
Vậy mà chúng tôi cũng phải chờ đợi thêm gần cả năm trời mới thấy hồ sơ có chuyển biến. Ngày nhận giấy gọi gặp phái đoàn phỏng vấn, lòng chúng tôi hồi hộp biết bao. Kinh nghiệm những người đi trước bày vẽ trăm chuyện, hư thực đều đoán mò, thậm chí đến cái “ ra đi ô ca ti na “ ở bên hông Sở Ngoại Vụ Saigon cũng loan ra những tin rối mù, loạn xạ.
Tôi chẳng đặt lòng tin vào bất cứ ai, tự lo sắp đặt giấy tờ, tài liệu, hình ảnh gia đình còn giữ được, trình bày theo một thứ tự rõ rang, cốt sao để nhân viên phỏng vấn nhìn vào thấy ngay sự chân thật của gia đình tôi. Thế nên, thời gian gặp phái đoàn của bọn tôi rất chóng vánh, kể từ khi vào phòng cách ly đến khi trở ra không đầy hai mươi phút.
Nhiều gia đình đồng cảnh nhao nhao hỏi “ rớt hả, rớt hả “ khi thấy chúng tôi rời phòng phỏng vấn quá nhanh. Nỗi vui quá lớn khiến chúng tôi khựng không biết ăn nói ra sao, song chẳng lẽ nín thinh, chỉ riêng tôi kịp đáp “ phái đoàn nói chờ đi tiêm ngừa “. Câu này gián tiếp cho biết cả nhà tôi đã qua được sự chấp thuận cho nhập vào quốc gia sắp đến mà không phải bổ túc thêm giấy tờ nào khác.
Có qua thời kỳ dự phỏng vấn mới thấy nhiều trường hợp dị kỳ. Nói rằng họ gian dối cũng không đúng mà nói họ thành thật cũng không hẳn vì mỗi nhà đều có những trường hợp éo le rất khác nhau. Một ông đi tù, bà vợ ở nhà vốn không chịu được cảnh thiếu thốn, vất vả, tễnh đi sống với một anh cán đang nhốt chính chồng mình. Họ nghĩ đâu còn cơ hội nào để người chồng của mình ngóc đầu lên được nữa.
Đùng cái chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho những tù chính trị ra đi, chị vợ bật ngửa, còn kịp đâu mà ghép vào danh sách của chồng. Cho nên mới xảy cảnh người lấy nhau rất lâu bị rớt lại, trong khi cái bà đến sau vì tội nghiệp cảnh sống bờ sống bụi của anh lính ngày xưa thì bỗng dưng lại đình huỳnh được đi theo đến nơi ở mới.
Các bà hớp tớp hồi nao đành muối mặt đến năn nỉ ỷ ôi người chồng cũ xin gửi gắm mấy đứa con chung ngày xưa để cũng được ra đi. Đời gieo nhân gặt quả, có làm có chịu, chẳng trách được ai. Hồi nao chị đã dứt giạt bỏ đi, đem theo con cái, nên cái gọi là “ hộ khẩu “ còn đâu có tên những đứa bé trong căn nhà của người thất trận. Cho dù giờ bố lũ nhỏ có động lòng muốn cưu mang con cái mình thì thời gian bặt tăm của chúng không gần bên bố khiến phái đoàn phải hiểu là chúng không cần đến bố chúng.
Đừng tưởng rằng thiên nhiên không có qui luật của nó. Người lơ đãng không chăm lo đến cuộc sống thích hợp đã bị vật vẹo ngay, huống gì lại gieo điều xấu, khổ cho người khác. Thời gian sống với/cùng cảnh đời khác đã có bao nhiêu điều tưởng là đương nhiên mà thật ra là vẫn chịu theo một qui luật thiện/ác rõ rệt.
Bao nhiêu sự kiện dồn dập xảy ra, bao nhiêu cảnh đời chứa đầy chộn rộn. Cho dẫu thời cuộc bày ra “ sông kia rày đã nên đồng, chỗ thì nhà cửa chỗ trồng ngô khoai “ thì trong tự sự, nó vẫn có một trật tự tối thiểu nào đó. Ai đem trút oán than cho người mà lại được hưởng sự an vui đâu. Chớ nghĩ cạn mà có khi không hối kịp.
Phần 28
Túc tắc lại chờ, lại đợi, nỗi chờ đợi đến dài cả cổ, vẹo cả đầu. Thời gian sao lê thê trôi chậm thậm thượt, lòng nôn như lúc nào cũng có lửa đốt. Hơn hai mươi năm sống với quê nhà, ai cũng chỉ mong việc gì đang lo toan đều mau xong nhanh chóng, bởi vì nỗi bấp bênh khiến ai cũng hoảng sợ. Có khi tốn tiền tốn bạc, chạy ngược chạy xuôi, nhưng bỗng chốc người ta xóa bài làm lại thì mọi chuyện trở nên công cốc. Chẳng những công việc đã bất thành mà khoản tiền bỏ ra chạy vạy cũng chẳng mong hỏi ai mà đòi lại được. Thầy đổ bóng, bóng đổ thầy, đùn đẩy nhau trớt quớt, đành hẩm hiu đón nhận cái cảnh “ cứt trâu để lâu hóa bùn “, chứ còn thở than vào đâu cho được.
Trong lòng tôi bồn chồn như lửa đốt mà ngoài mặt vẫn phải tỉnh bơ. Tôi vẫn cố làm ra vẻ bình thường, ngày ngày vẫn đưa mặt ra giữa trời làm cái chân bơm bánh xe, thu lượm từng đồng hào. Anh bạn sửa xe lúc rảnh rang thường than thầm vụng trộm với tôi : như vậy là ông thầy sắp được ra đi, cực nhọc gì cũng còn hơn bó chân ở lại mảnh đất này. Còn tôi biết chừng nào được cơ may như thế.
Tôi nghe mà sầu não, tại sao ta đang ở trên mảnh đất quê nhà mà ai cũng mong ngóng có dịp để ra đi. Có thời buổi nào tệ hại đến thế không ? Hai mươi năm chiến tranh, không ngày nào không có quan tài về thành phố, không ngày nào không có tiếng đạn bom rơi, không ngày nào không có cảnh mẹ khóc con, vợ khóc chồng, con khóc cha mà sao chẳng ai nghĩ tới việc từ bỏ đất nước. Bây giờ hòa bình rồi ai lại cũng ngong ngóng muốn đi.
Tôi đem tâm sự kể cùng ân nhân của tôi. Tôi đề cập đến cảnh “ trâu chậm uống nước đục “ và những nhiêu khê đang chờ đón gia đình, thực tâm tôi cũng ngán ngại khi tuổi đời ngày càng lớn, sức lực ngày càng mòn, liệu sang đến xứ người còn làm nên được sự gì để sống sót chăng ? Anh thợ sửa xe trái lại không cho đó là trở ngại, anh còn lạc quan nói cho tôi yên lòng : ông thầy nghĩ coi, xứ người nào phải là đồng bào mà sao họ còn thương yêu đùm bọc mình như thế. Đành rằng ông thầy sang sẽ có cảnh phải uống “ nước đục “, nhưng ít là còn có nước mà uống, chứ ở đây là quê hương, ở đây là đồng chủng mà ông thầy đã uống được ngụm nước nào dù là đục có chưa ?
Tôi nghe mà chua xót lẫn bàng hoàng. Hồi nao tôi hiểu đơn giản là người ta làm cuộc cách mạng để xóa diệt đi biên giới ngăn cách giữa nhau, chẳng những là hầm hào giữa những người bản xứ mà họ còn mong xóa tan ranh giới quốc gia để xây một thế giới đại đồng. Vậy mà chiếm được đất đai rồi thì khoảng cách càng rộng thêm ra nữa. Ngay đến cùng một gia đình cũng e dè nhau, vợ chồng cũng xa nhau, còn nói chi xã hội.
Bây giờ ở chốn địa phương dầu dãi này, những con người như chúng tôi hoàn toàn bị lạc lõng. Thậm chí nhiều người không có được một giấy chứng minh nhân dân để hộ thân bởi vì họ chưa thoát ra khỏi thời gian bị quản chế. Không có tấm giấy đó là coi như không gốc rễ, chẳng ai nghĩ họ sẽ sống bằng gì, hoàn toàn bị thả nổi, lêu vêu, với trăm ngàn mè nheo, ràng buộc.
Mỗi tuần họ phải lên trình diện khóm phường, mang theo sổ ghi chép sinh hoạt từng ngày để được kiểm, duyệt. Họ sẽ gặp những bộ mặt lãnh đạm, họ sẽ bị cật vấn bởi những câu hỏi đâu đâu : có ai đến thăm, nói gì, bàn gì. Đau đớn nhất, họ bị đặt dưới sự giáo dục của chính vợ và con họ, làm như một đứa trẻ phải được sự theo dõi của người lớn cạnh mình.
Có thưở đời nào phong tục, tập quán bị xới tung lên hết như vậy chăng ? Có người vợ nào, đứa con nào dám trịch thượng đi dạy chồng hoặc bố mình kỳ dị như vậy, song đó là một sự thật mà ai còn kẹt lại quê nhà, chẳng may lại dính dáng vào một cuộc cờ đã tan vỡ, thì đều bị hành xử tàn nhẫn như thế.
Lắm lúc, nỗi chờ đợi như chực rơi vào quên lãng, đến nỗi tôi đã nghĩ hay là số phận chưa chịu nở nụ cười méo xệch với mình. Tôi hầu như chán nản lòng không còn hi vọng gì nữa thì lại nghe nhúc nhích. Khi thì giấy gọi đi tiêm ngừa đợt 1, khi thì giấy dặn dò làm thêm thủ tục nọ kia.
Tính ra mỗi người ra đi đều phải qua một vài lần tiêm ngừa, tổng cộng chừng bảy mũi, nói tóm người ta có thể gộp chung làm ngắn gọn một lần, song chả hiểu sao họ lại phân ra thành đến 3 kỳ. Chính vì sự phân chia này càng gây hoang mang thêm cho người sắp ra đi. Phải chăng chính cơ quan cứu xét cũng chưa chắc là hộ người ra đi có được chấp thuận hay sao nhỉ.
Tôi và gia đình vào Saigon, chờ hết nước hết cái ở phòng tiêm dịch trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Người đông như kiến, lềnh khênh ngồi dựa dật nơi các ghế băng, lan tỏa ra khắp hành lang và cả ngoài cửa. Có khi phải chờ gần hết ngày mới được gọi vào, giúi giụi chừng 3 mũi là xong. Sau đó lại hen về chờ gọi đi tiêm đợt kế.
Người ở tại Saigon đã gặp nhiêu khê, khốn đốn, huống chi là người ở các tỉnh về. Ăn đâu, ở đâu, vệ sinh ở đâu, tắm rửa nơi đâu, tiền xe, tiền tiêu, ôi thôi nếu không có một sự yểm trợ từ thân nhân bên ngoài thì khó có ai dám mộng mơ chuyện ra đi. Ấy là chưa nói cảnh bị hoạnh họe bởi những nhân viên phòng tiêm ngừa. Họ làm việc được ăn lương của cơ quan Hoa Kỳ trả, nghĩa là chẳng có mảy may quyền hành gì về chuyện ấn định ai được ở, ai được đi, vậy mà họ vẫn làm ra vẻ cha thiên hạ. Họ xem như chính họ có quyền ban ân huệ cho đám người chờ lên đường nên họ hành sao cũng được.
Tại nơi tiêm chích, chẳng thấy ghi thông báo một tin tức gì nên bát nháo đều là tin đồn đoán với nhau. Người nào cũng nhắc lại là “ nghe nói “ chứ chẳng ai biết đích xác chuyện gì ra chuyện gì sất. Bởi thế, lập lờ mới có những đám “ cò “ len vào bày vẽ đường đi nước bước loạn xạ. Tội nghiệp những người khấp khởi chờ ra đi đều mong chóng vánh cho xong nên lắm khi bị sa vào trận địa mất nhiều món tiền khá oan uổng. Chỗ nào họ cũng câu kết nhau moi móc bằng được những người nhẹ dạ. Họ đồn công khai nếu chịu chi chừng này chừng nọ thì việc ra đi sẽ nhanh hơn. Làm như họ là thần thánh có thể chuyển đổi được thứ tự hồ sơ, vậy mà có nhiều người vẫn tin mới lạ.
giavui
12-06-2014, 06:40 PM
Phần 29
Đã qua tiêm ngừa đợt 1 thì hẳn phải tới kỳ 2 nên gia đình tôi lại chờ. Thế nhưng tin đến nhà lại không phải gọi đi tiêm ngừa mà là đi chụp phổi. Lóc cóc vợ chồng con cái lại kéo nhau vào Saigon, đến bệnh viện của ngành Công An trên đường Hùng Vương để chụp quang tuyến X.
Bọn nhóc chỉ qua một lần chụp là xong, còn vợ tôi và tôi phải chụp thêm lần nữa. Nguyên do vì ảnh không rõ, có những vết mờ sao đó nên họ phải thử cho chắc. Vợ tôi dẫu có tì vết nơi phổi thì cũng không ngạc nhiên vì trải qua 20 năm làm “ thân cò lặn lội bờ sông, gánh gạo (nuôi) chồng tiếng khóc nỉ non “ thì đến phổi có được tạo bằng I nốc cũng bị nám là cái chắc.
Huống chi còn phải vêu mặt ra chạy chợ, thức khuya dậy sớm, quần quật nuôi heo, sang làm cho nhà cán bộ, đúc đổ bánh bò, lội ao dơ bẩn, da chân không rã như giấy bổi mới là lạ. Phần tôi chẳng nói làm gì, những năm săn sóc mẹ bị lao, rồi chính mình cũng bị lây nhiễm, ngày xưa đã phải bơm phổi hàng năm dài, bây giờ mỗi lần chụp phổi đều thấy có những chỗ vôi đóng cứng nên tôi biết rõ bệnh sử của tôi mà chẳng nói năng chi.
Vào đến đâu cũng thấy cảnh vòi ăn hoặc “ cò kiếc “ diễn ra coi thần sầu phải biết. Chính tôi đã được ai đó rỉ tai nếu chụp có bị nám, muốn được ra đi nhanh thì cứ đến phòng khám riêng của ông này, ông nọ là xong tất. Khỏi lo phải uống thuốc từ 3 đến 6 tháng, khỏi lo phải băn khoăn thuê nhà ngay tại Saigon (vì người ta không chấp thuận cho bệnh nhân đem thuốc về tự uống, sợ quẳng đi phí uổng).
Cẩn thận hơn người ta còn dấm dúi chỉ cho tôi vị bác sĩ ấy, bác sĩ nọ đang thẩm xét kết quả chụp phổi kia kìa để tôi tin chắc là người có thẩm quyền trong việc quyết cho ai ra đi. Tội nghiệp thế mà cũng lắm người bặp vào, người lâm râm đã chi 2 chỉ vàng, người than còn đang bị mè nheo đòi thêm nữa.
Tôi vốn dửng dưng với những lời mời mọc này, không phải vì tôi muốn thí mạng cùi với thiên hạ mà vì tôi tin rằng chẳng có việc sai mờ nào giữ mãi được sự kín bưng của nó. Vả lại sống giữa một xã hội hơi chút phải chi tiền, nhiều khi chính vì sợ bóng sợ gió mà lắm tay phải trút hầu bao một cách oan uổng.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, ai dám chắc rằng việc của mình lo sẽ được hanh thông. Hai mươi năm trời bị bầm dập với hết tội này, tật nọ ai cũng ngao ngán, chỉ muốn thoát đi hoặc chết quách cho xong. Trừ những ai không còn cựa quậy vào đâu được, đành buông trôi thả nổi cuộc đời, muối mặt gằm đầu chịu số phận xúi hẻo.
Còn trăm người có điều kiện hoặc được sự trợ giúp của thân nhân thì ai cũng nôn nao tìm lách cho mau ra khỏi nước. Tôi qua lần chụp lại, còn bắt phải thử đàm. Một sáng tinh sương, những người cùng trường hợp như tôi đều tập trung nơi sân sau của bênh viện. Mỗi người được phát một cái chai đựng penicillin đã dùng hết để nghe theo sự điều khiển, hướng dẫn của một cô y tá : hít sâu vào, nín thở, bật ho mạnh và nhổ toẹt vào miệng chai lấy mẫu.
Có người chỉ một lần là lấy được, có người mấy lượt vẫn trơ ra, có thể những thời gian sống với cảnh “ đổi đời “, thậm chí đến chất cặn bã trong phổi cũng khô cạn ráo. Phần khác vì có ăn được món nào dinh dưỡng đâu mà sản sinh ra chất nhầy, một phần có khi “ rét “ vì thứ gì cũng bị chi nên cơn sợ làm cho thân xác cũng quắt khô đi.
Thế rồi cũng xong, hoặc không muốn xong phải cố mà xong. Sau này vợ tôi và tôi đều được cấp kè kè mẫu phim chụp phổi đựng trong cái túi xách có ghi chữ IOM để sẽ trình với địa phương nào mình tới định cư. Vậy là tôi biết chuyện ra đi càng lúc càng gần kề.
Sau đó, tôi được Sở Ngoại Vụ gọi gặp lần nữa để căn dặn những thủ tục phải làm trước khi lên đường. Nào là liên lạc sở thuế để chứng nhận không nợ nần nhà nước, liên lạc ngân hàng để chứng minh không bị ai kiện thưa vì quịt nợ, chạy làng. Lại còn phải đến Sở Xây Dựng để thanh lý nhà cửa, rồi lên phường để xin ký lý lịch ghép hồ sơ.
Bên cạnh những giấy tờ linh tinh, gia đình tôi còn phải làm tờ cam kết không được tham gia hoạt động chính trị hay nói xấu chế độ khi ra sống nước ngoài. Do đó, việc lên xuống phường và công an hầu như cơm bữa và tất nhiên không khỏi lọt đến tai ông cán bộ về hưu bên hàng xóm.
Có một lần ông ta cười lỏn lẻn nói với tôi : các ông thật có phúc nhé, thua trận mà còn được người ta đưa đi an toàn. Tôi lửng lơ thưa nào đã có gì chắc chắn đâu mà mừng vui. Ông cho tôi biết thêm phường nói việc tôi làm giấy là làm vậy thôi, chứ khó có thể ra đi. Tôi lại vin vào cớ đó để mạnh miệng nói cho ông theo quan điểm tương tự.
Tôi chẳng cần đôi co hay giải thích làm gì, bởi vì dù họ nằm trong hệ thống chính quyền song họ đâu có nắm hết mọi khía cạnh của sự việc ra đi. Thế lại hay để khỏi bị quấy nhiễu vì ba chuyện lăng nhăng không đáng. Tôi chỉ muốn thời gian này đầu óc được rảnh rang để tính việc sống ra sao khi sang đến đất người. Trăm nghìn thứ đăng đăng đê đê đang đợi chờ gia đình tôi ở nơi xa.
Tự dưng tôi thấy lòng nhuốm buồn. Mấy năm trời dựa vào lòng tốt của anh bạn hàng xóm sửa xe mà tôi đỡ nhàm chám vì cuộc đời rỗi rảnh. Bây giờ sắp chia tay nhau, ai chẳng thấy mềm người. Phương chi tôi vẫn hằng nghe anh bạn thở than mà chẳng biết giúp được gì cho anh ấy.
Tôi nhớ mãi câu nói của anh : chúng ta từng đứng chung một chiến tuyến, vậy mà giờ mỗi người nhận một hoàn cảnh khác nhau. Ông thầy được ra đi, rũ hết những tháng ngày vất vả và những cảnh ngang trái trên đời. Nhưng còn những gia đình tử sĩ, thương binh, những người cũng đã từng một thời xẻ chia trách nhiệm dưới chung một bóng cờ, biết bao giờ họ cũng được hưởng công bằng như ông thầy đây.
Tôi nghe như anh trách móc chính tôi, như lời thở than chí tình và một đòi hỏi chính đáng. Nhưng tôi có là cái thá gì để gỡ được cái nút thắt nơi tâm tư anh, nên chỉ biết lấy bàn tay lần tìm bàn tay anh bóp chặt với tiếng thở dài trầm thống. Tôi cúi đầu nhận chịu sự lên án của anh như đã nhận trách nhiệm trong ngày 30 tháng 4 năm nào.
Có lẽ thấy tôi nặng trĩu ưu tư, nên anh bạn sửa xe vội chuyển sang hướng khác : em xin lỗi ông thầy vì bức xúc đã làm ông thầy phải đau khổ. Rồi anh mau mồm mau miệng dặn tôi : ông thầy ngồi đây để em chạy mua mấy ly cà phê về uống mừng. Anh bỏ chạy đi như để trốn cái rạo rực trong tâm đang ngùn ngụt bốc cháy.
Tôi bỗng thấy đuôi mắt cộm có hạt bụi độn lên. Tôi lấy mu bàn tay quệt, nhưng hạt bụi vẫn nằm sâu trong mắt, rồi nước mắt đổ ra mà hạt bụi lì lợm vẫn chẳng chịu ứa ra. Khi anh thợ sửa xe đưa ly cà phê về, tôi giật lấy uống vội, như người đã bị khát từ lâu lắm. Và tôi nhận ra ly cà phê hôm nay sao đắng hơn mọi hôm. Tôi thật thà hỏi anh phải chăng anh quên bỏ thêm cho tôi một muỗng đường như thường lệ thì thấy anh mỉm cười nói đùa : nhiều khi cũng cần một chút đắng cay để thấy cuộc đời thêm đẹp, ông thầy ạ.
hết
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.