PDA

View Full Version : Phiên Tòa Dưới Âm Phủ



giavui
07-11-2014, 08:40 PM
Phiên Tòa Dưới Âm Phủ
Cha Sa Lan
http://www.vietfreefun.com/extras/upload/images/1405111215_phientoaduoiamphu_bia_med.jpg
Lời của người viết truyện

Trước hết, tôi xin nói rõ quyển sách này không phải là một tài liệu. Sách hoàn toàn không có tính cách tuyên truyền hoặc dính líu gì đến chính trị. Nó không ủng hộ, cổ động, hô hào cho bất cứ cá nhân, phe nhóm hoặc đảng phái nào. Sách, đúng nghĩa nhất là một truyện phiếm, cho người ta đọc và cười để giảm sự bực mình và âu lo sau giờ làm việc nhọc mệt hoặc đọc trong những khi nhàn hạ không có việc gì làm. Mặc dù được trích dẫn rất nhiều tài liệu, hồ sơ, bài viết; sách cũng chỉ là một sản phẩm của tưởng tượng hình thành từ những ý kiến chủ quan của người viết. Do đó nếu có điều không vừa ý hoặc không đúng với cái nhìn của độc giả thì đó chẳng qua cũng là ý kiến của một người, chỉ nhằm ” mua vui cũng được một vài trống canh ”. Thế thôi.

Sau cùng tôi xin cám ơn đồng thời cũng có lời xin lỗi đến nhiều tác giả của những sách, báo, tài liệu, hồ sơ hoặc bài viết tôi đã mang vào quyển truyện phiếm này vì lý do không thể liên lạc được để xin phép trước. Tôi xin lỗi vì đã đạo văn hay chôm thơ của người khác. Điều này chẳng qua là vì tôi có thừa cái ” đạo đức cách mạng của bác ” hay nói một cách không ngượng miệng là tôi noi theo gương của bác. Ngoài ra để cho phù hợp với nội dung của truyện, tôi mạn phép sửa đổi ngôn từ và nội dung, cắt dán, hoặc đôi khi chỉ trích-dẫn một đoạn mà thôi. Xin quí vị thông cảm.

Lần nữa xin cám ơn quí vị.

Bây giờ kính mời quí độc giả tham dự phiên toà dưới âm phủ.

MỞ TRUYỆN

Tôi có một người quen ở Việt Nam. Trước năm 1975 anh cũng ở trong lính. Nhờ không phải là sĩ quan cao cấp nên anh bị đi cải tạo có ”mươi ngày” rồi được thả ra. Trở về làng quê anh sống một đời lây lất trong buồn phiền và nghèo khổ. Đâu đó khoảng năm 1990, tôi được tin anh chết. Một cái chết lảng nhách. Một cái chết thảm thương. Chỉ có người dân trong xứ cộng sản mới phải chịu chết như thế. Số là anh đi ra ruộng câu cá đạp phải miếng kim loại đã bị rỉ sét. Không có tiền đi bác sĩ hay tới bệnh viện chữa trị nên anh chết vì vết thương bị nhiễm vi trùng cộng sản. Mấy chữ bị ” nhiễm vi trùng cộng sản ” là nguyên văn mà vợ anh đã viết trong thư gởi cho tôi. Thật ra chính tôi cũng không biết ”con vi trùng cộng sản” này mặt mũi ra sao, hình dáng như thế nào. Nhưng tôi tạm tin vào lý do mà vợ của người quen đã nêu ra. Nghe tin anh chết tôi buồn bực và tức giận. Tôi tự hỏi tại sao anh lại chết một cách lảng xẹt như vậy được. Phải chăng chỉ ở trong xứ sở mà các kẻ cầm quyền thường hay vỗ ngực xưng mình là ”đỉnh cao tri tuệ của loài chồn ” mới có người dân chết vì lý do tầm thường như vậy. Đêm hôm qua tôi nằm mơ, thấy anh hiện về, nói cho tôi biết là anh và triệu triệu người Việt Nam đã làm đơn kiện ” thằng cha đang nằm ở Ba Đình ” và các đàn em của hắn như Ba Duẫn, Năm Thận, Sáu Búa và Tô Tô… ở dưới âm phủ. Phiên toà bắt đầu vào 10 giờ sáng ngày 29 tháng 10 năm 2011.

Phiên toà xử ” thằng cha lúc sống không sợ làm những việc thối tha mà khi chết rồi lại không chịu thối rữa ” đang xảy ra dưới âm phủ đi theo thứ tự sau đây:

- Phần 1: Chuyện Bên Lề

1 – Bên Lề Phiên Tòa
2- Lá Thư Mời Từ Âm Phủ
3- Sinh Tử Phù
4- Không gì quí hơn ” TỰ DO ĐỘC TÀI “
5- Chủ Thuyết Tam Dân
6- Những ÔNG BÌNH VÔI ” của đảng
7- Nỗi Buồn “Màu Tím”
8- Con heo nọc quốc doanh

- Phần 2: Phiên Toà Dưới Âm Phủ

9- Cải Cách Ruộng Đất: Cải Cắt Tánh Mạng
10-Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán.
11-Cùng Hung Cực Ác
12- Ngài thủ tướng của ” tự do bán nước ”
13- Một tấc đất, một tấc vàng
14- Cháy nhà mới ra mặt chuột
15- Nhất tướng công thành vạn cốt khô
16- Nhà thơ làm kinh tế
Thống chế đi đặt vòng
17- Hai con dê họ Lê
18- Thi sĩ ‘ ấy ‘
19- Vô ác bất tác

-Phần 3: Con Chó của Tư Cộng

20- Người làm cách mạng ” đè ”
21- Con dê cụ của đảng
22- TÊN ĂN CẮP TÊN NGƯỜI
23- Tên ” lái buôn người ”
24- Đạo đức cách mạng thứ nhất của bác:
LỪA VỚI BỊP...
25- Đạo Đức Cách Mạng thứ nhi của Bác:
DỐi VÀ GẠT
26- Đạo Đức Cách Mạng thứ ba của bác:
ÁC TRÙM THIÊN HẠ
27- Đạo Đức Cách Mạng thứ 4 của bác:
Ngoài miệng thì niệm nam mô
Trong bụng thì chứa một bồ dao găm
28- Đạo Đức Cách Mạng thứ 5 của bác:
BÁN NƯỚC
29- Đạo Đức Cách Mạng thứ 6:
PHÁ HOẠI VĂN HÓA

giavui
07-11-2014, 08:41 PM
PHẦN 1:
CHUYỆN BÊN LỀ

- 1 -
Bên Lề Phiên Tòa

Chiếc Honda Civic đậu ngay trước cửa tiệm rượu. Bình ngồi im chưa vội mở cửa. 5 giờ chiều. Trời cũng gần cuối thu cho nên chỉ còn chút nắng hanh vàng yếu ớt le lói trên tàng cây phong lá vàng hực. Xứ này có bốn mùa rõ rệt song anh thích nhất mùa thu. Trời không lạnh lắm chỉ vừa đủ làm người ta cảm thấy co ro, cô đơn và buồn rầu dịu nhẹ để nhớ nhung và mơ mộng. Không biết nhớ nhung điều gì hoặc cái gì nhưng vẫn là nhớ nhung. Không biết mơ mộng gì nhưng vẫn mơ mộng. Mùa thu với lá vàng bay. Với sương mù lãng đãng trên đỉnh núi xa mà gần, gần mà xa. Ngọn gió thu phong rụng lá vàng. Lá rơi hàng xóm lá bay sang. Lúc còn ở quê hương anh không thể nào hình dung ra hình ảnh trung thực của hai câu trên cho tới khi sống ở một thành phố nhỏ của Ohio. Cứ mỗi lần có gió thổi là lá vàng ở trên cây của nhà hàng xóm lác đác bay đầy trên sân nhà của anh. Mỗi độ thu về toàn vùng lá bắt đầu đổi màu trừ những cây thông vẫn giữ được màu xanh của nó. Màu vàng, màu cam, màu vàng hực, màu đỏ, màu đỏ rực của lửa và màu xanh pha trộn với nhau làm cảnh trí đẹp lạ lùng. Sáng sớm tản bộ trên công viên để nhìn gió thu hiu hắt thổi những chiếc lá vàng rơi hay co ro trong chiếc áo ấm ngồi uống từng ngụm cà phê nóng nhìn cây cối rực màu vàng, xanh và đỏ để nghe lòng nhuốm u hoài của một người phải sống xa quê hương, xứ sở của mình.

Lôi trong túi quần ra cái danh sách mà Hạnh đã nhét vào sáng nay trước khi đi làm, Bình lẩm bẩm.

- Một chai Courvoiser VSOP cho ba của em, một chai Jack Daniel cho ba của anh, một chai rượu vang cho má của anh và má của em… Một hộp thuốc lá ba số năm cho ba của anh còn một gói Dunhill cho ba của em…

Bình lắc đầu mỉm cười thầm nghĩ.

- Ba má mình và ba má vợ theo Tây theo Mỹ uống rượu mắc tiền, còn mình là con cái có bổn phận uống trà đá hoặc sang hơn thời uống Bud Light…

Tối hôm qua trước khi đi ngủ Hạnh còn dặn đi dặn lại là phải mua nước suối Perrier để pha rượu chứ đừng có mua nước pha hiệu khác ba rầy anh ráng mà nghe.

- Thế là đi đứt tuần lương của mình rồi… Tiệc tùng ăn nhậu tốn tiền quá…

Ngày mai, thứ bảy là ngày thôi nôi Phương, đứa con trai đầu lòng của anh. Hạnh đã thảo một kế hoạch to lớn hơn ba tháng trước. Nếu anh không quyết liệt ngăn cản thời nàng đã mời cả nước tới tham dự thôi nôi đứa con trai đầu lòng yêu quí của nàng. Vì thế mà ba của anh và ba của Hạnh mới bảo hai vợ chồng tổ chức rầm rộ cho bạn bè và bà con hai bên tụ họp lại để vừa ăn thôi nôi vừa nhắc nhở lại thời đã qua.

Ngồi im giây lát Bình mới chịu mở cửa xe bước vào tiệm rượu.

- Good evening… How are you doing Mr. Binh?

Bob, chủ tiệm ân cần, vồn vả và lịch sự chào hỏi người khách quen và sộp của mình. Ít có người nào trong khu vực lân cận chịu tốn tiền mua rượu tây, rượu Mỹ với giá ba bốn chục đô la một chai trừ cái ông ” Vietnamese nghèo mà sang” này. Bob còn lịch sự hơn bằng cách đưa tay ra bắt tay ông khách quý. Bắt tay người sắp sửa lột tiền mình Bình cười.

- I’m fine… Thank you… I’m looking for some of your bottles…”

- Be my guest… Sir…

Mặt tươi rói Bob nói một cách lịch sự và lễ độ. Bình lẩm bẩm khi cầm lấy chai Courvoiser VSOP.

- Mua đại một chai 500ml ổng uống không hết mình ké…

Thêm một chai Jack Daniel, một chai rượu vang và một chai champagne, hai kết bia Miller, mấy gói thuốc lá, vài chai Perrier khiến cho anh cảm thấy túi quần của mình nhẹ hều khi ra khỏi tiệm rượu và tiệm tạp hóa. Anh chỉ có mỗi an ủi là ngày mai gặp lại anh chị em hai bên gia đình và bạn bè quen thuộc mà khá lâu chỉ chuyện trò hay thăm hỏi bằng điện thoại.

Đậu xe vào nhà xe xong anh đi ra thùng thơ. Toàn là junk mail hoặc bills ngoại trừ một phong thư là lạ. Nơi góc trái không có tên rõ ràng của người gởi mà chỉ đề ” Diêm Vương Điện – Bồi Thẫm Viện – Phòng Nhân Viên” Phần tên người nhận đúng là tên của anh với địa chỉ chính xác.

- Không biết thằng nào phá mình đây…

Bình lẩm bẩm. Anh nghĩ một thằng nào đó trong số bạn thân đã chọc phá bằng cách gởi cho mình phong thư lạ hoắc. Nhét phong thư kỳ cục vào túi quần anh lúi húi chất rượu và bia vào tủ lạnh trong nhà xe. Nghe tiếng xe anh biết Hạnh đi làm và đón con trai đã về tới. Anh hơi ngạc nhiên khi thấy chiếc Toyota Camry mới tinh theo sau xe của Hạnh.

- Chị Thoa… Anh Đức…

Hạnh reo lớn khi nhận ra vợ chồng Đức Thoa. Đức là bạn vong niên của Bình quen nhau ở Guam hồi năm 75. Hai vợ chồng lớn tuổi song không có con cho nên rất thương bé Phương. Họ ở cách anh nửa giờ lái xe do đó hai gia đình gặp nhau hoài. Bắt tay Bình, Đức cười cười.

- Tụi này tính mai mới tới song nhờ bả không có làm ” ô ” nên tới tối nay để hai đứa mình lai rai vài chai 33 và hót cho đã miệng…

Bình reo với giọng vui mừng như lúc còn nhỏ chờ má đi chợ về mua bánh kẹo cho mình.

- 33… Làm sao mà anh mua được bia 33…

- Thằng bạn thân ở Cali gửi qua cho anh…

Bình tặc lưỡi.

- Bia 33 mà nhâm nhi với khô cá lóc chấm nước mắm me thời hết sẩy…

Đức cười vỗ vai người bạn trẻ hơn mình những mười mấy tuổi.

- Anh có đủ hết. Một kết 33, một kí lô cá lóc và một gói me. Khô này là đặc sản của Cao Lãnh nghe chú…

Bình khều Đức.

- Đi anh… Trời mùa thu lành lạnh như vầy anh em mình nổi lửa than nướng khô lóc lai rai vài chai 33 là sẽ quên hết cái sự đời khốn khó…

Thoa lắc đầu cười nói với Hạnh.

- Nhận được kết bia 33 xong ổng nằng nặc đòi đi gặp chú Bình. Ổng bảo để lâu bia bay mùi mất ngon…

Ngồi quanh cái lò than nhỏ đặt trong góc sân sau Bình và Đức thong thả vừa nướng khô vừa uống bia. Đầu đội nón, cổ quàng khăn, co ro trong chiếc áo len, Đức thong thả hớp ngụm bia dường như để thưởng thức hương vị của bia 33 sau thời gian dài xa vắng.

- Anh thấy ra sao?

Bình lên tiếng hỏi. Đức cười cười.

- Chú phải nếm mới biết được…

Bình từ từ hớp ngụm bia. Thật lâu anh mới lắc đầu nói bằng giọng buồn buồn.

- Ngon thời có ngon nhưng lại không giống như xưa. Không biết có phải bia 33 bây giờ khác hay tại cảm nghĩ của mình khác ngày xưa. Tôi chỉ biết không giống như ngày xưa, cái hương vị mà mình tìm kiếm…

Bóc miếng khô lóc bỏ vào miệng Đức vừa nhai vừa chầm chậm thốt.

- Tất cả đều đổi thay mà chú…

Bình gật đầu trầm tư nghĩ ngợi. Đức hớp ngụm bia nhìn ra ngoài trời đêm mông lung. Dường như có tiếng dế gáy đâu đây. Gió lành lạnh lất lây ngọn cây maple ngoài sân. Hai người uống bia, chuyện vãn tới 11 giờ đêm mới đi ngủ.

giavui
07-11-2014, 08:42 PM
-2-
Lá Thư Mời Từ Âm Phủ

Bình mở mắt. Quay nhìn đồng hồ anh thấy năm giờ rưởi sáng. Lặng lẽ rời phòng ngủ anh đi ra nhà bếp rót ly nước lạnh rồi bước ra phòng khách. Uống có năm chai 33 mà người ngầy ngật và váng vất khó chịu khiến cho anh ngủ quên cả thay quần áo. Ngả lưng xuống ghế nệm anh mới thấy cồm cộm nơi túi quần. Thò tay vào túi anh móc ra chiếc phong bì gấp làm đôi. Bây giờ anh mới có thời giờ quan sát phong thư. Trên góc trái ghi rõ ba dòng chữ in đậm nét: Diêm Vương Điện – Bồi Thẫm Viện – Phòng Nhân Viên. Phần tên người nhận đúng là tên của anh với địa chỉ rõ ràng. Cau mày anh lẩm bẩm.

- Diêm Vương Điện… Không lẽ phong thư này được gửi từ âm phủ…Vô lý… Mình đã chết đâu mà…

Ngẫm nghĩ giây lát Bình chầm chậm xé phong thư. Mở tờ giấy trắng gấp làm ba anh đọc nhỏ.

Kính gửi ông Trần Quang Bình,

Thưa Ông,

Thừa lệnh Diêm Vương Phủ; chúng tôi, Bồi Thẩm Viện, Phòng Nhân Viên đệ đạt giấy mời ông làm nhân viên của bồi thẩm đoàn trong phiên tòa ngày 29 tháng 10 năm 2011, đặc biệt xử một số bị can có tên dưới đây.

1- Hình Chí Mô

2- Ba Duân

3- Sáu Búa

4- Võ Khôi Nguyên

5- Phạm Văng Vàng

6- Trườn Chui

7- Trần Nước Hòn

8- Tố Bồi Bút

Như ông đã biết đây là một bổn phận đồng thời là vinh hạnh của một công dân Việt Nam. Để cho việc đi lại được dễ dàng và tiện lợi, Bồi Thẩm Viện sẽ cung cấp phương tiện di chuyển cùng nơi ăn chốn ở của ông cho tới khi phiên tòa chấm dứt.

Kính thư,

Bồi Thẩm Viện
Phòng Nhân Viên
Chủ Sự Phòng Nhân Viên

Nguyễn Nhân Dân
Ký tên và đóng dấu

Đọc xong lá thư Bình nửa nghi nửa ngờ không biết thật hay giả. Quay nhìn tờ lịch anh buột miệng nói lớn.

- 29 tháng 10… Đúng là ngày hôm nay…

Đèn điện trong phòng khách đột nhiên chớp tắt mấy lượt rồi cháy sáng trở lại. Bình trợn mắt nhìn trân trân hai người xa lạ đang đứng im trước mặt mình. Người bên phải mặc y phục toàn đen, ngoài khoác chiếc áo choàng cũng màu đen và mái tóc đen dài chấm vai. Người đứng bên trái mặc y phục trắng toát, thêm chiếc áo choàng cũng màu trắng, tóc lại trắng như bông. Hai người chỉ có một điểm giống nhau là nét mặt lạnh lùng và đôi mắt sáng lóng lánh chớp ngời hào quang. Cả hai người lạ thoạt trông giống như ” alien ” tới từ thế giới nào xa lạ nhuốm đầy nét thần bí và ma quái.

- Hai.. Hai ông… là ai?

Rùng mình sợ hãi Bình ú ớ hỏi. Người áo trắng nhếch môi cười. Anh cảm thấy nụ cười của bạch y nhân cổ quái vô cùng vì không ra nụ cười mà chỉ là cái nhếch môi. Ông ta nói mà giọng nói kỳ lạ giống như máy nói và nhất là không có mở miệng hoặc hé răng.

- Kính thưa ông Bình… Ông đã đọc thư mời của Diêm Vương Điện?

Bình lẳng lặng gật đầu thay cho câu trả lời. Người áo đen nói với giọng khàn khàn. Giọng nói của người này kỳ lạ, không giống bất cứ giọng nói của người nào trên mặt đất mà anh đã nghe qua. Kỳ dị hơn là người này nói mà miệng không có động đậy hay nhép môi.

- Hai chúng tôi là sứ giả của Phòng Nhân Viên của Bồi Thẩm Viện. Thừa lệnh Chủ Sự Phòng Nhân Viên chúng tôi tới rước ông xuống âm phủ để làm nhân viên của bồi thẩm đoàn trong phiên tòa đặc biệt ngày 29 tháng 10 năm 2011… Kính mời ông lên đường kẻo trể…

Bình cảm thấy như có luồng hơi lạnh chạy trong xương sống của mình, bắt từ dưới xương chậu chạy lên tới tận đỉnh đầu rồi tỏa ra mọi nơi làm tê liệt thân thể. Anh lắp bắp.

- Xuống âm phủ. Tôi chưa chết mà.

Bạch y sứ giả mỉm cười. Có lẽ hiểu được nỗi lo sợ của Bình, ông ta cất giọng điềm đạm như để trấn an.

- Tôi biết là ông chưa chết… Vì vậy chúng tôi được lệnh ‘‘mời” ông chứ không phải “bắt” ông xuống âm phủ…

Bình thở phào. Dù có chút yên tâm song anh vẫn tìm cách chống chế để không bị mời xuống âm phủ.

- Tôi không thể đi liền được… Thứ nhất tôi cần phải nói cho vợ tôi biết để sửa soạn quần áo và vật dụng lặt vặt… Thứ nhì tôi cần phải xin phép sở làm nếu không tôi sẽ bị mất việc vì vắng mặt không có lý do chính đáng…

Người áo đen nhếch môi cười nụ.

- Chúng tôi đã lo liệu hết mọi chuyện… Vả lại ông chỉ vắng mặt có vài phút đồng hồ chứ đâu có lâu lắc gì mà phải xin phép…

Bình nhìn hai sứ giả của Diêm Vương Điện với vẻ hoài nghi lẫn phân vân. Hiểu ý người áo đen hắng giọng.

- Chắc ông có nghe nói tới Time Machine…

Bình gật đầu cười.

- Tôi có nghe nói và xem phim này; tuy nhiên đó chỉ là giả tưởng…

- Đối với một người dương thế như ông thời đó là giả tưởng song đối với âm phủ của chúng tôi, chuyện Time Machine đó lại là một điều thực nhỏ nhoi trong muôn vàn cái thực của âm phủ…

Bình mỉm cười nghĩ thầm.

- Ông này xạo…Làm gì có chuyện đi trước hiện tại hay ngược về quá khứ..

Dường như đọc được ý nghĩ của anh, vị sứ giả áo đen nhếch môi.

- Bây giờ là 6 giờ sáng ngày 29 tháng 10 năm 2011; đúng không thưa ông Bình?

Liếc nhanh chiếc đồng hồ treo tường Bình gật đầu. Sứ giả áo đen giơ ngón tay trỏ chỉ vào chiếc đồng hồ. Bình đờ người khi thấy ba cây kim đồng hồ từ từ quay ngược chiều rồi sau cùng ngừng lại. Lúc đó giọng nói của người xướng ngôn viên đài truyền hình vang lên rõ mồn một.

- Kính thưa quý vị…Bây giờ là năm giờ rưởi sáng ngày 29 tháng 10 năm 2011. Chúng tôi kính mời quý vị nghe phần tin tức địa phương…

Bình dụi mắt. Anh nghĩ là mình còn say rượu nên nghe lầm.

- Tôi xin nói cho ông biết là với quyền phép của âm phủ, chúng tôi có thể làm thời gian ngưng hoặc đi ngược lại, nên dù ông có xuống âm phủ năm ba ngày hay nửa tháng rồi trở về thời gian vẫn là 6 giờ sáng ngày 29 tháng 10 năm hai ngàn mười một… Vả lại một ngày dưới âm phủ bằng trăm năm trên dương thế thời ông vắng mặt đâu có lâu lắc gì…

- Tôi không tin ông có thể ngưng đọng thời gian hoặc đi trước hiện tại hay ngược về quá khứ…

Hắc y sứ giả nhìn Bình. Cái nhìn của ông ta nửa như thương hại mà cũng nửa như diễu cợt.

- Theo ông thời gian là gì?

Bình ấp úng trước câu hỏi này. Anh chưa kịp trả lời vị sứ giả áo đen tiếp.

- Thời gian là một ý niệm trừu tượng của con người…

Bình mím môi định cãi nhưng nghĩ sao anh lại im lặng. Như hiểu ý của anh vị sứ giả áo đen nhếch môi cười tiếp.

- Thời gian là một tưởng tượng của con người. Tôi biết là nó cần thiết cho đời sống của các ông. Tuy nhiên điều tôi muốn nhấn mạnh là, ông hay những người trên dương thế lại nghĩ thời gian là một cái gì có thật mà quên mất nó là cái chỉ có ở trong trí tưởng của ông. Thời gian là cái khả dĩ chấp nhận…

Bình cố vớt vát bằng một câu hỏi vặn.

- Như vậy ở dưới âm phủ không có thời gian.

Vị hắc y sứ giả cười trả lời một cách lững lơ.

- Âm phủ không cần thời gian. Người chết đâu cần thời gian. đâu biết thời gian…

Bạch y sứ giả chợt tằng hắng tiếng nhỏ như để nhắc nhở cho đồng bạn. Hiểu ý vị sứ giả áo đen cười nhẹ.

- Chuyện thời gian còn dài lắm cho nên hôm nào chúng ta sẽ bàn lại. Bây giờ tôi kính mời ông lên đường kẻo trễ…

- Chúng ta đi bằng phương tiện gì. Tôi sợ đi bằng phi cơ. Lúc này khủng bố dữ lắm hai ông biết không… Tụi nó đặt chất nổ trên máy bay hoài. Còn đi bằng xe hơi hay xe lửa tôi e quá chậm…

Không muốn bị ‘‘mời” xuống âm phủ cho nên Bình cố tình làm khó hai vị sứ giả của âm phủ. Sứ giả áo trắng cất giọng khào khào.

- Tôi biết… Phương tiện di chuyển của các ông trên dương thế chậm lắm. Phi cơ bay sáu bảy trăm cây số một giờ thời đi chừng nào mới tới âm phủ được…

- Vậy chúng ta đi bằng phương tiện gì?

Bình vặn. Vị sứ giả áo đen trả lời bằng một câu hỏi.

- Ông muốn đi bằng phương tiện gì?

Bình làm thinh không trả lời. Anh cố tìm kiếm xem thứ phương tiện nào nhanh mà con người có thể đi được để làm khó hai sứ giả của xứ âm phủ.

- Theo lời nhị vị nói thời âm phủ phải xa lắm cho nên tôi đề nghị mình nên dùng phi thuyền Columbia đi cho nó nhanh…

Nói xong Bình mỉm cười thích thú. Anh chắc mẩm là hai vị sứ giả của âm phủ không thể nào kiếm ra được phương tiện mà mình vừa nêu lên. Hai sứ giả của âm phủ nhìn nhau. Cuối cùng vị sứ giả áo trắng tằng hắng.

- Âm phủ cách quả địa cầu hàng triệu triệu năm ánh sáng. Phi thuyền Columbia của ông chỉ bay với vận tốc trăm ngàn cây số một giờ thời biết chừng nào mới tới…

Bình vọt miệng vặn.

- Vậy thì mình đi với vận tốc gì bây giờ…?

Nói ra điều này anh cũng lại chắc mẩm là hai vị sứ giả của âm phủ sẽ rút lui vì làm gì họ có thể đi bằng vận tốc nào nhanh hơn vận tốc của phi thuyền được.

Vị sứ giả áo đen nhếch môi cười bí hiểm.

- Đối với nền khoa học tân tiến và hiện đại của ông thời vận tốc của phi thuyền là vận tốc nhanh nhất… Tuy nhiên đối với âm phủ của chúng tôi thời vận tốc của nó cũng chỉ là vận tốc tương đối… Nó không nhanh bằng vận tốc của tư tưởng. Âm phủ của chúng tôi đi bằng vận tốc của tư tưởng…

Bình cười cười tự nghĩ vị sứ giả áo đen xạo. Hiểu ý của anh hắc y sứ giả của âm phủ lên tiếng.

- Ông hãy nhìn vào mắt của tôi và tưởng tượng là mình đang ở âm phủ…

Do dự giây lát rồi Bình cũng nghe lời nhìn vào mắt của người đang đứng trước mặt mình. Sứ giả áo đen bỗng nhếch môi cười nhìn đăm đăm vào mắt anh. Bình có cảm giác đôi mắt đó lớn dần dần lên. Nó tựa như cái miệng khổng lồ từ từ mở ra rồi sau đó một hấp lực lạ kỳ hút mình vào trong và thân thể của anh nhẹ tênh đồng thời tan biến vào cõi hư không vô cùng tận. Không biết bao lâu anh mở mắt ra. Giọng nói khàn khàn của sứ giả áo trắng vang lên đều đều và chầm chậm.

- Kính thưa ông Bình chúng ta đã tới âm phủ… Mời ông theo chân chúng tôi về chỗ trọ…

Bình im lặng theo sau. Cứ nghĩ là mình đang ngủ mơ cho nên anh nhéo tay của mình. Cảm giác đau buốt khiến cho anh biết mình tỉnh táo chứ không phải mê ngủ. Vừa đi anh vừa để ý quan sát. Hành lang xây bằng đá xanh nhẵn thính toát hơi lành lạnh. Điều kỳ dị là khi anh sờ vào vách đá thời thật sự không phải là vách đá cứng và lạnh như ở dương gian. Nó làm bằng chất gì mềm mại, dịu dàng còn hơn tơ tằm hoặc nhựa…

- Ông nghĩ vách tường là đá xanh hay nhựa như trên dương thế của ông hả. Nó là mây đó…

- Mây…?

Bình lập lại với vẻ nghi ngờ. Vị sứ giả áo đen cười cười.

- Tôi nói nó là mây để cho ông dễ hiểu chứ thật ra nó là hư không. Tuy nhìn thấy nhưng không có hình tướng…

Nhếch môi cười Bình vặn.

- Nếu không có hình tướng làm sao chúng ta thấy được?

Vị sứ giả áo đen liếc nhanh đồng bạn rồi mới thủng thẳng trả lời câu hỏi của Bình.

- Sở dĩ ông nhìn thấy được hư không là vì âm phủ đã tạm thời khai mở con mắt thứ ba của ông…

- Con mắt thứ ba…

Bình lập lại. Vị sứ giả áo đen cười gật gù.

- Chắc ông có nghe nói tới chiều thứ tư?

Bình lẩm bẩm trong đầu của mình.

- Cha này xạo… Cái gì là con mắt thứ ba và chiều thứ tư… Chả làm như âm phủ của chả văn minh hơn dương thế…

Tuy nghĩ như vậy song Bình lại lên tiếng.

- Tôi có nghe nói nhưng…

- Sau khi phiên xử chấm dứt tôi sẽ mời ông thăm viếng âm phủ. Lúc đó ông sẽ hiểu rõ hơn những điều tôi đã nói với ông…

Vị sứ giả của âm phủ cũng không bàn gì thêm nữa. Bình nhìn quanh quất hai bên vách tường. Đèn cháy lung linh mờ ảo. Anh thầm kinh ngạc khi thấy những ngọn đèn không biết làm bằng thứ gì, chất gì mà không có bóng đèn và giây đèn. Nó lơ lững, bay dật dờ dọc theo vách tường và theo từng bước chân của mình. Thuở nhỏ anh đã đọc truyện Mục Liên Thanh Đề tả cảnh âm phủ đầy huyền bí, ma quái với nhiều cảnh tượng khủng khiếp. Bất cứ ai trên dương thế nếu làm điều ác sau khi chết sẽ bị quỉ sứ bắt hồn đem về giam giữ nơi âm phủ. Rồi sau khi bị giam cầm một thời gian sẽ được Diêm Vương xét xử. Kẻ nào tội nặng thời bị đầu thai làm thú vật. Kẻ nào không có tội hoặc tội nhẹ hơn thời đầu thai làm người để đền tội. Khi trưởng thành anh không còn tin vào chuyện hoang đường huyền hoặc này nữa, song bây giờ đang đi trong hành lang của âm phủ những ấn tượng kinh khiếp lại hiện ra trong trí của anh. Tuy nhiên âm phủ này hoàn toàn khác hẳn cảnh âm phủ mà con người đã thêu dệt nên. Anh không nghe tiếng kêu khóc, than van hoặc thấy cảnh quỉ sứ hành hạ những người có tội. Âm phủ mà anh đang ở im lìm, tịch mịch và tĩnh lặng. Anh không có cảm giác nóng lạnh, nặng nhẹ, buồn vui mà chỉ thấy sự bình an và thanh thản.

- Ông thấy cảnh âm phủ này khác biệt với âm phủ mà ông đã đọc trong sách phải không?

Bình chầm chậm gật đầu. Giọng nói của vị sứ giả áo trắng vang lên đều đều.

- Chuyện các quỷ sứ hành hạ những kẻ có tội xưa rồi. Bây giờ là thế kỷ 21, thế kỷ của tự do và dân chủ. Do đó âm phủ của chúng tôi cũng theo thời mà sửa đổi cho thích nghi với hai chữ nhân quyền giống như trên dương thế của ông. Chúng tôi giam giữ và hành hạ những kẻ ác, kẻ có tội một cách khoa học và văn minh hơn. Mai mốt tôi sẽ mời ông thăm viếng địa ngục để mục kích cách thức mà chúng tôi giam giữ những kẻ gian ác trên dương thế…

Hai vị hắc bạch sứ giả dừng lại trước một bức tường màu xanh.

- Đây là phòng của ông. Kính mời ông vào…

Bình ngần ngừ chưa bước vào vì không thấy cánh cửa mở ra.

- Mời ông vào…

Hắc y sứ giả lên tiếng như nhắc nhở khiến cho Bình bất đắc dĩ phải bước tới một bước. Ngay lúc đó bức tường màu xanh tự động nứt ra thành một khoảng trống xong đóng lại liền sau khi khách bước vào. Không thấy đèn hay đuốc gì hết mà căn phòng lại sáng một thứ ánh sáng ấm cúng và dìu dịu. Từ tốn và thân mật hai vị sứ giả nói vài lời với Bình trước khi lui ra khỏi phòng. Còn lại một mình anh chậm chạp đi loanh quanh trong căn phòng để quan sát. Anh có cảm tưởng sàn nhà mềm mại như mây nõn cùng mọi thứ trong phòng như chiếc giường ngủ, cái bàn viết, ghế ngồi đều như ẩn như hiện, như có thực như không thực. Đi bộ giây lát anh tới ngồi vào chiếc ghế đặt nơi góc phòng. Anh chợt nghĩ tới Hạnh. Không biết giờ này nàng đã thức dậy chưa. Nếu đã thức dậy nàng có khám phá ra sự vắng mặt của chồng hay không. Điều mà anh lo lắng là sự vắng mặt bất ngờ của mình sẽ làm cho cha mẹ, anh chị em và bạn bè hoảng hốt. Chiều hôm nay đúng năm giờ tất cả đều tới nhà anh để ăn mừng thôi nôi của bé Phương.

Đèn trong phòng như sáng lên rồi giọng nói trầm và nho nhỏ từ trên trần nhà vọng xuống.

- Kính chào ông Bình… Chúng tôi trân trọng chào mừng ông tham dự phiên tòa đặc biệt sẽ được khai mở đúng 10 giờ sáng ngày mai. Trong những ngày lưu lại nơi âm phủ xin ông vui lòng theo dõi lịch trình cũng như giờ giấc của sinh hoạt hằng ngày. Giờ ăn sáng sẽ bắt đầu từ 6 cho tới 8 giờ. Ăn trưa từ 11 giờ đến 1 giờ và ăn tối từ 7 giờ tới 9 giờ. Ban đêm chúng tôi sẽ có phần trình diễn âm nhạc để giải trí…

Liếc nhanh đồng hồ treo trên tường thấy đã tới giờ ăn sáng Bình thong thả ra khỏi phòng. Anh dừng lại vì phân vân không biết phải đi theo lối nào để tới phòng ăn. Vừa lúc đó hai chữ “Phòng Ăn” hiện lên cùng với mũi tên chỉ về bên mặt. Lát sau anh bước vào một căn phòng trần thiết trang nhã và tinh khiết. Mấy chiếc bàn ăn hai chỗ ngồi được đặt dọc theo vách tường. Còn những chiếc bàn ăn bốn chỗ được đặt cạnh bên các cây cột cao và to. Ánh đèn từ trên trần nhà cao chiếu xuống khiến cho căn phòng ăn trở thành ấm cúng. Do dự giây lát Bình chọn một cái bàn cạnh vách tường ngay dưới khung cửa sổ nhỏ. Ngồi xuống anh đưa mắt nhìn vơ vẩn. Lác đác vài người đi. Cúi nhìn xuống mặt bàn bằng cẩm thạch giây lát anh hơi ngạc nhiên rồi sau đó lại mỉm cười thích thú khi thấy trên nền đá cẩm thạch màu xanh biêng biếc hiện lên cái thực đơn.

- Ạ… Thì ra thế… Âm phủ quả khác người…

Bình lẩm bẩm. Tuy nhiên anh đâm ra thắc mắc vì không có người hầu bàn để cho mình chọn thức ăn. Cầm chiếc đũa bằng gỗ mun lên anh chỉ ngay vào ba chữ “Cà Phê Sữa”. Tự nhiên ba chữ này sáng rực lên. Chừng mười phút sau một chiếc xe không có người lái xuất hiện. Khi chiếc xe ngừng lại tại chỗ mình ngồi Bình nhìn thấy tách cà phê sữa còn bốc khói. Bây giờ anh mới hiểu. Cử chỉ dùng chiếc đũa chỉ ngay vào ba chữ Cà Phê Sữa là hành động chọn thức uống và bằng cách gì anh không biết đã truyền xuống nhà bếp để họ làm cà phê sữa cho mình. Khám phá ra cách thức mới lạ này anh ung dung vừa uống cà phê vừa bắt đầu chọn món điểm tâm.

- Xin lỗi anh… Tôi có thể ngồi chung bàn với anh?

Đang cắm cúi nhìn thực đơn Bình ngẩng đầu lên khi nghe có giọng nói thanh thanh. Anh thấy một người đàn bà đứng tuổi, ăn mặc giản dị, không son phấn, đang đứng nhìn mình với nụ cười tươi vui và ánh mắt hiền hậu.

- Dạ được chứ chị… Mời chị ngồi…

- Cám ơn anh…

Người đàn bà ngồi xuống ghế. Bình cười nói tiếp.

- Đi xa mà gặp được người đồng hương thời còn gì bằng…

- Anh nói đúng… Bởi vậy mà tôi mới xin ngồi chung bàn với anh. Tôi tên Huyền nhưng trong nhà ba má và anh chị em gọi tôi là Ly Huyền…

Thấy Bình hơi ngơ ngác tỏ vẻ không hiểu mình nói gì Huyền cười hắc hắc giải thích.

- Ly huyền lỳ đó mà.

Tới phiên Bình bật cười vì câu nói của Huyền. Hớp ngụm cà phê sữa anh cười cười.

- Vậy tôi gọi chị là gì. Huyền hay Ly Huyền Lỳ.

Huyền cười hắc hắc đưa tay ra. Nắm lấy bàn tay mềm ấm của người bạn mới quen Bình cười.

- Tôi tên Bình… Chị từ đâu tới đây?

- Tôi ở Paris… Còn anh?

Hớp ngụm cà phê sữa nóng, Bình cười trả lời.

- Tôi ở Mỹ…

Huyền cười gật đầu.

- Anh uống cà phê sữa hả… Anh chọn thứ cà phê nào vậy?

- Ai mà biết. Cứ gọi đại cà phê sữa…

Huyền cười khúc khích.

- Tôi tới đây trước anh một ngày. Không có chuyện gì làm tôi đi lanh quanh và tình cờ khám phá ra nhiều chuyện lý thú lắm…

Cúi nhìn vào thực đơn nàng cười nói tiếp với Bình.

- Lấy tay chỉ vào ba chữ Cà Phê Sữa anh sẽ thấy nó sáng lên xong chỉ vào chỗ trống kế bên nó sẽ hiện lên mấy chữ như Việt Nam hay Brazil. Nếu anh chọn Việt Nam thời cà phê anh uống đúng là cà phê Ban Mê Thuột…

Cười cười Bình vặn.

- Sao chị biết đó là cà phê Ban Mê Thuột?

Huyền đáp không do dự.

- Tôi sinh ra và lớn lên ở Ban Mê Thuột mà anh. Tôi biết uống cà phê hồi năm tuổi…

Bằng một cử chỉ tự nhiên Bình đưa tách cà phê sữa của mình ra trước mặt Huyền.

- Chị thử cà phê của tôi xem có phải Ban Mê Thuột không?

Rất tự nhiên Huyền cầm lấy tách cà phê, nhấp một ngụm nhỏ đoạn gật đầu cười.

- Đúng cà phê Ban Mê Thuột rồi…

Đưa trả tách cà phê lại cho Bình, nàng cười tiếp.

- Anh gọi món gì chưa?

- Chưa… Chị cố vấn dùm tôi..

Huyền nói trong lúc cúi đầu xuống nhìn chăm chú vào mặt bàn cẩm thạch.

- Anh ăn bún bò Huế đi. Ngon lắm… Trời này lạnh mà ăn tô bún bò Huế thật cay.

Bình gật gù cười lấy ngón tay chỉ vào hàng chữ ” Bún Bò Huế “ rồi kế đó hai chữ ” cay vừa vừa “.

- Tôi ăn hủ tiếu Mỹ Tho…

Huyền lên tiếng nói bâng quơ song cũng nói với người bạn mới quen đang ngồi đối diện với mình.

- Chị ăn trước đi rồi cho tôi biết ý kiến…

Trong lúc ngồi chờ thức ăn Bình lên tiếng hỏi.

- Chắc chị cũng như tôi, được mời làm bồi thẩm trong phiên tòa xử tội Hình Chí Mô ngày 29 tháng 10?

Vò vò cái khăn ăn trong tay Huyền cười đưa lá thư ra trước mặt Bình.

- Anh cũng nhận được thư mời như thế này phải không?

Thấy Bình gật đầu thay cho câu trả lời, nàng thở hơi thật dài.

- Nhận được thư mời buổi chiều thời hai giờ sáng tôi bị hai ông thần, một áo đen và một áo trắng dựng dậy mang tôi tới âm phủ. Nghĩ tới chuyện đó bây giờ tôi vẫn tưởng mình nằm mơ…

- Chị không có mơ đâu. Tôi cũng bị tình trạng tương tự như chị. Hai ông sứ giả nói đưa tôi xuống âm phủ bằng phương tiện di chuyển gì tôi không biết nhưng theo lời họ nói thời…

Bình lắc lắc đầu như không muốn nhắc lại vì cho đó là chuyện hoang đường. Nhìn quanh quất anh thì thầm với Huyền.

- Âm phủ mà mình ngồi đây không giống như trong sách vở nói. Nó giống trên trần thế hơn…

Chiếc xe chở thức ăn hiện ra. Bình lấy tô hủ tiếu cho Huyền còn tô bún bò Huế cho mình. Cầm chai tương ớt lên Bình cười nhẹ.

- Tôi tưởng âm phủ không có ớt ai ngờ…

- Họ còn có ớt hiểm tươi nguyên trái nữa…

Bưng tô bún bò Huế lên hớp một hớp Bình gật gù.

- Ngon… Không ngờ âm phủ lại có tay đầu bếp Việt Nam trứ danh…

Nhìn Huyền anh cười tiếp.

- Tôi thắc mắc là tại sao âm phủ lại có cà phê Ban Mê Thuột cho mình uống. Chị có ý kiến gì không?

Huyền cười chúm chiếm.

- Tôi cũng tò mò như anh nên tôi tìm người hỏi và được trả lời…

Huyền bật cười hắc hắc như có điều gì hứng thú lắm. Sau khi húp muỗng nước lèo nàng cười nói.

- Sở dĩ dưới âm phủ có cà phê Ban Mê Thuột là do mấy ông bự của Hà Nội hối lộ. Mấy ổng, ông nào ông nấy tội lỗi đầy mình nên sợ sau khi chết xuống âm phủ sẽ bị hành hạ, bị cho đầu thai làm súc vật nên mấy ổng lo đút lót trước…

Bình bật cười ha hả.

- Âm phủ mà mấy ông đó cũng tìm cách đút lót được thời mấy ổng tài thật…

- Cái đó có gì lạ đâu. Bán đất, bán đảo, bán biển, bán quặng mỏ mấy ổng còn làm được thời sá gì mấy ngàn ký lô cà phê cứt chồn…

Bình bật la nhỏ vì ngạc nhiên.

- Cà phê cứt chồn… Chị nói mình uống cà phê cứt chồn à?

Huyền cười hắc hắc.

- Tôi đâu có nói mình uống cà phê cứt chồn. Tôi chỉ nói là mấy ông bự của cộng sản Việt Nam đút lót cho nhân viên của âm phủ mấy trăm ký lô cà phê cứt chồn mỗi năm…

- Cà phê cứt chồn ở đâu mà họ có nhiều vậy. Tôi nghe nói cà phê cứt chồn hiếm quí và đắt tiền lắm. Không dễ tìm đâu nghe chị… Ở bên Mỹ họ rao bán cả ngàn đô la một ký lô…

Huyền lại cười hắc hắc.

- Khó gì đâu mà khó. Cái ông khai sinh ra đảng cộng sản Việt Nam là con chồn tu luyện ngàn năm thành người nên có phép thần thông. Con chồn này đẻ ra cả triệu con chồn con. Rồi những con chồn-đảng viên này được cho ăn cứt chồn trộn với cà phê nên tụi nó ị ra toàn cà phê cứt chồn. Việt Nam mình ngày nay sản xuất cà phê cứt chồn nhiều nhứt thế giới cũng nhờ hơn một triệu con chồn của đảng đó…

- Ạ… Ai nói cho chị biết vậy?

Huyền thấp giọng xuống như muốn nói cho một mình Bình nghe mà thôi.

- Chiều hôm qua sau khi ăn tối xong tôi đi bách bộ cho tiêu cơm tình cờ gặp một ông già. Tôi với ổng nói chuyện qua lại. Ổng tiết lộ cho tôi nghe về vụ mấy ông gộc trong đảng cộng sản Việt Nam đút lót cà phê cho âm phủ…

- Ổng là ai mà biết được chuyện đó?

Liếc mắt một vòng xem có ai ngồi gần mình không nàng thì thầm.

- Tôi với ổng trò chuyện khá lâu. Tới khi từ giã ổng mới xì tên của ổng ra là Trần Đô Nặng…

Bình mỉm cười gật gù xong nhăn nhăn cái mặt.

- Thôi tôi không uống cà phê nữa.

- Tại sao vậy?

Đẩy tách cà phê ra tận góc bàn Bình cười giải thích.

- Cà phê này làm bằng cứt của mấy triệu con chồn-đảng viên của đảng cộng sản Việt Nam thời tôi ngu gì mà uống cứt của chúng. Chỉ có mấy thằng cha như Nguyễn Kỳ Cục, Phạm Di Truyền hay Đỗ Không Không mới khoái uống cà phê cứt chồn của chúng.

Huyền bật cười ròn tan khi nghe Bình nói và nhất là nhìn nét mặt có vẻ tức tức của anh. Với tay lấy tách cà phê nơi góc bàn nàng đặt trả lại trước mặt Bình rồi cười nói.

- Anh uống đi. Cà phê mà mình uống không phải là cà phê cứt chồn của mấy thằng cha cộng sản Việt Nam đâu. Nó chỉ dành cho nhân viên của âm phủ hoặc mấy ông lớn và đảng viên cốt cát đang bị giam ở âm phủ. Hạng dân ngu khu đen như mình sức mấy mà được uống cà phê cứt chồn.

Nghe lời giải thích rành mạch của cô bạn gái, Bình an lòng vui vẻ đưa ly cà phê lên uống một ngụm. Vừa nhai hủ tiếu Huyền vừa cười nói.

- Ông Trần Đô Nặng còn bật mí cho tôi biết là không những ở âm phủ có cà phê cứt chồn mà còn có cả thuốc lá Mẽo hay Ăng Lê nữa. Chuyện này nói ra cũng buồn cười mà chắc là có thật chăm phần chăm.

- Chị làm sao mà biết được nhiều chuyện vậy.

Huyền cười hắc hắc nhìn Bình.

- Đàn bà mà anh. Tò mò và thích tìm hiểu khiến cho tôi quậy nát âm phủ ngày hôm qua và khám phá ra đường dây buôn lậu thuốc lá và rượu từ Hà Nội xuống âm phủ.

- Trời đất. Chị nói thật hả?

- Thật mà anh. Thuốc lá Mẽo và rượu Tây là hai thứ được mấy ông lớn của bắc bộ phủ thèm nhểu nước miếng sau khi các ổng ngủm. Bác ghiền thuốc lá lắm, nhất là thuốc lá của tư bản Ăng Lê và tư bản Mẽo. Khi còn sống, vì hai chữ ” Quánh Mẽo Cứu Nước “ vả lại phải giữ thể diện và làm gương cho dân chúng nên bác phải cắn răng hít thuốc lá nội. Tuy nhiên khi nào ở trong phòng riêng một mình thời bác tha hồ phì phèo thuốc lá Mẽo hoặc Ăng Lê. Bởi vậy khi nghe tin Mẽo đổ quân vào miền nam Việt Nam bác mừng tưởng đi đứt luôn.

Không nhịn được Bình cười hăng hắc.

- Tại sao bác lại mừng muốn đi đứt khi nghe tin Mẽo đổ quân vào Việt Nam hả chị?

- Bác ghiền thuốc lá cho nên lính Mẽo vào thời bác tha hồ có thuốc mà hút. Ông Đô Nặng nói nhỏ cho tôi biết là bác đã bí mật ra lịnh cho me xừ Giáp cứ bám riết theo lính Mẽo mà quánh. Lý do mà bộ đội chánh quy của Bắc Việt cứ nhè lính Mẽo mà quánh túi bụi nói ra kỳ cục lắm anh. Họ quánh không phải vì chống Mỹ cứu nước mà vì lệnh của bác bằng mọi cách và bằng mọi giá phải tịch thu chiến lợi phẩm là thuốc lá và báo Mỹ. Thuốc lá Mỹ cho bác hút đỡ ghiền còn báo Mỹ cho bác đọc…

- Bác cũng đọc báo Mỹ à chị?

Huyền cười chúm chiếm khi nghe Bình hỏi. Hớp ngụm nhỏ cà phê, đưa cái khăn ăn lên chùi miệng nàng nói chậm và nhỏ.

- Bộ đội Bắc Việt đè lính Mẽo mà quánh túi bụi để tịch thu thuốc lá và sách báo đưa về bắc cho bác nghiên cứu. Biết người biết ta chăm trận chăm thắng mà anh. Bác nghiên cứu người Mỹ kỹ lắm, tường tận lắm.

Nét mặt của Bình hơi ngơ ngác dường như chưa hiểu được lý do gì mà bác lại đọc báo để nghiên cứu về người Mỹ.

- Bác đọc báo Mỹ để nghiên cứu và tìm hiểu người Mỹ. Mà bác đọc báo gì vậy chị?

- Bác đọc báo Playboy và Penhouse… Muốn biết người Mỹ nghĩ gì, làm gì thời bác đọc hai tờ báo đó.

Bình thò lõ mắt nhìn Huyền vì nghĩ cô bạn mới quen của mình nói cà rỡn.

- Người Mỹ cũng từ ‘‘cái đó” mà chui ra cho nên mọi suy tư của họ về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa đều bắt nguồn từ cái đó. Vì vậy muốn tìm hiểu người Mỹ thời bác phải nghiên cứu và tìm hiểu cái đó trước nhất.

Cái triết lý tinh diệu này chỉ có một mình bác mới thông đạt mà thôi. Bởi vậy mà muốn đánh đổ thực dân Pháp bác phải đi qua Pháp để tìm hiểu về cái đó của đàn bà Pháp. Lưu lạc ở Pháp để nghiên cứu về cái đó thời gian xong bác lại mò qua Mỹ để tìm hiểu về cái đó của người Mỹ. Cũng chính vì cái triết lý thâm sâu này mà người ta mới thấy bác có bồ, có vợ Pháp, vợ Nga, bồ Mỹ, vợ Tàu tùm lum tùm la. Còn ở Việt Nam vì lý do tìm hiểu dân tình nên bác phải học hỏi, nghiên cứu cái đó của đàn bà, con gái ba miền nam trung bắc và luôn cả dân tộc thiểu số của miền thượng du nữa là bốn miền. Đó là bác thống nhất đàn bà con gái lại thành một khối nằm xuống cái giường của bác… Ủa quên… Tôi nói lộn vậy xin nói lại cho đúng là nằm dưới quyền cai trị của bác…

Bình cười sằng sặc, cười ùng ục, cười thiếu điều văng nước miếng nếu anh không kịp lấy chiếc khăn bịt miệng của mình lại vì cách nói chuyện tiếu lâm và bình dân của Huyền. Đưa cái muỗng múc một muỗng nước lèo lên húp Bình gật đầu mấy lượt rồi chắt lưỡi.

- Ngon. Tôi không ngờ ở âm phủ mà lại có người nấu bún bò Huế ngon hơn ở Mỹ.

Huyền cười nhẹ lên tiếng.

- Ở bên Pháp họ nấu cũng dở hơn ở âm phủ nữa. Anh biết tại sao hôn?

- Chắc tại âm phủ có đầu bếp giỏi hơn.

- Anh nói đúng. Trong số mấy ngàn người bị bác ra lịnh cho bộ đội tàn sát hồi Tết Mậu Thân ở Huế có một ông già chuyên môn nấu thức ăn miền trung đặc biệt nhất là bún bò Huế. Bởi vậy mà tôi dám cá với anh là không có nơi nào trên dương thế của mình nấu bún bò Huế ngon hơn ở âm phủ. Người nào mà không tin lời tôi nói cứ bảo họ xuống âm phủ thử đi rồi mới biết.

Bình cười hắc hắc khi nghe câu nói cuối cùng của Huyền. Đẩy tô hũ tiếu Mỹ Tho chỉ còn chút nước sang một bên nàng hớp ngụm nước trà xong nhìn Bình cười cười nói đùa.

- Anh xong chưa để mình bách bộ một vòng âm phủ cho tiêu cơm. Ông Đô Nặng ổng hứa sẽ dẫn tôi đi gặp bác. Lúc đó anh muốn phỏng vấn bác cái gì thời anh cứ việc hỏi. Đây là dịp may ngàn năm một thuở mà anh…

Nói tới đó nàng lại thấp giọng làm ra vẻ bí mật.

- Tôi dẫn anh theo để anh có thắc mắc gì thời cứ việc hỏi.

Bình băn khoăn.

- Rủi bác thấy mặt tôi rồi không chịu tiếp.

Huyền cười chúm chiếm.

- Anh đừng có lo. Mình cứ mang theo quà cáp biếu cho bác thời bác sẽ vui vẻ mà đón mình. Có người nói cho tôi biết là bác và mấy ông lớn ở dưới này thường hay than phiền bị đàn em bỏ đói. Mấy ổng nói tụi nó ngày nay giàu sang vinh hiển, tiền rừng bạc biển là nhờ các đồng chí đàn anh học theo cách của Hàn Tín, cắn răng chịu khổ, chịu nhục, luồn trôn Tàu, bợ đít Nga xin súng đạn đánh Tây, đánh Mỹ, đánh Ngụy để cứu nước. Thế mà khi được ngồi trên đầu trên cổ và hút máu dân lành xong tụi nó lo ăn chơi phè phởn, còn dư bao nhiêu tiền bỏ băng Thụy Sĩ mà không thèm gởi tiền nuôi mấy ổng. Kỳ này ra tòa mấy ổng nhất định khai hết, không giấu diếm cái gì. Thôi mình đi để trễ.

Nói xong Huyền xô ghế đứng dậy rồi bương bả bước khiến cho Bình cũng phải đi theo.

giavui
07-11-2014, 08:43 PM
3.Sinh Tử Phù

- Mình đi đâu vậy chị?

Bình lên tiếng hỏi khi thấy Huyền ngừng lại nơi ngã tư.

- Mình đi thăm chợ trời anh à…

Nói nhỏ một câu xong Huyền nhìn quanh quất như tìm kiếm cái gì. Bình thì thầm.

- Chợ trời. Chị nói âm phủ có chợ trời.

Hơi mỉm cười nàng gật đầu.

- Cái này đặc biệt lắm anh. Tôi kiếm mua vài món cho bác. Phải có mấy thứ đó thời bác mới chịu cà kê dê ngỗng với mình.

Bình gật gù tỏ vẻ hiểu.

- Chị tính mua cái gì?

Quay nhìn Bình, Huyền cười hắc hắc.

- Tôi tính mua ba thứ. Dầu thơm và thuốc lá thời tôi mua được, còn thứ kia thời tôi không quen lựa nên tôi nhờ anh chọn giùm.

- Chị tính nhờ tôi chọn thứ gì?

- Tôi tính nhờ anh chọn vài tờ Playboy và Penthouse. Anh là đàn ông nên cái vụ chọn báo này anh phải rành hơn tôi.

Huyền cười hắc hắc khi nhìn thấy Bình đỏ mặt vì ngượng ngùng. Như muốn chọc phá Bình, nàng bồi thêm một câu.

- Tự xưng là cha già của dân tộc, tự xưng có đạo đức cách mạng, mà bác còn coi hình đàn bà uổng trờ của Playboy hay Penthouse thời một người dân tầm thường như anh nếu có coi cũng đâu có gì xấu hổ.

Nhăn răng cười Bình làm bộ nhìn qua bên kia đường chỗ thắp đèn sáng trưng. Ở đó người ta qua lại dập dìu.

- Chỗ đó bán cái gì mà sao thiên hạ đông quá vậy chị?

- Chỗ bán báo đó chứ chỗ nào. Anh hổng thấy mấy anh bộ đội đứng coi báo cọp đó à. Anh qua đó mua đi còn tôi lo mua thuốc lá và dầu thơm.

Nói xong Huyền rẽ về bên phải trong lúc Bình băng qua đường đi về chỗ tiệm bán sách báo. Tới gần anh nhận thấy tiệm bán sách báo này thật lớn và bày bán vô số sách báo đủ các thứ tiếng như Anh, Pháp, Tàu, Nga, Việt Nam. Người ta đứng quanh các xạp báo nhìn ngắm và xì xầm nho nhỏ.

- Mẹ kiếp. Tổ cha nó… Tờ Playboy mỏng dính như vầy mà nó bán năm đô. Đúng là tụi tư bản chuyên môn bóc lột.

Đang nhìn những tờ báo màu sắc sặc sỡ và hình ảnh hấp dẫn, Bình liếc nhanh hai người đứng bên cạnh. Không những ăn mặc khác lạ họ còn có vóc dáng và cung cách kỳ cục hơn những người chung quanh. Hai người này mặc đồng phục màu xanh cứt ngựa, đi giép làm bằng vỏ xe hơi có nhiều sợi dây buộc chung quanh bàn chân. Họ đội cái nón xùm xụp che kín hai bên tai.

Nghe họ nói bằng tiếng Việt Bình biết hai người này là đồng bào với mình. Vì thế anh mới bắt chuyện để làm quen.

- Hai anh chắc được mời xuống âm phủ để là bồi thẫm cho phiên tòa ngày mai.?

Người đàn ông lớn tuổi nhếch môi cười.

- Dân ngu khu đen như tụi này thời làm gì được mời xuống âm phủ. Tụi này ở âm phủ lâu rồi. Hồi Tết Mậu Thân lận… Hai thằng tui nghe lời xúi dại của người ta nên mới bị chết lãng nhách.

Nghe giọng nói miền nam của anh ta đầy hằn học, Bình ngạc nhiên hỏi vặn.

- Ai xúi anh làm chuyện gì vậy?

Người đàn ông lớn tuổi liếc nhanh bạn đứng cạnh rồi mới trả lời Bình.

- Bác chứ còn ai nữa. Nghe lời tuyên truyền đánh cho Mỹ cút Nguỵ nhào của bác nên hai thằng tui mới bỏ dô bưng theo cái lực lượng. cái.

Nói tới đây anh ta ngừng lại đưa tay gãi gãi đầu vì quên mất tên. Quay sang người bạn nhỏ tuổi hơn mình

anh ta nhăn răng cười hỏi.

- Lực lượng gì vậy mậy?

Nhìn Bình, thanh niên cười đỡ lời cho bạn.

- Không phải là lực lượng mà là mặt trận. Mặt Trận Phỏng Giái Miền Nam.

Phải dằn lắm Bình mới không bật cười khi nghe cái tên kỳ lạ này.

- Mẹ. Tụi này vì yêu nước, vì tinh thần chống xâm lăng nên quánh Mẽo hăng lắm. Tụi này được lãnh mề đai do bác trao tặng. Nhưng một bữa công đồn bị trúng tên lửa của máy bay lên thẳng của nguỵ thành ra chết tan xác.

Ngừng lại giây lát anh ta thở dài nhè nhẹ xong nói bằng giọng buồn rầu và chán nản.

- Chết xuống âm phủ rồi hai thằng tui và vô số đồng đội sống vất vơ vất vưởng như cô hồn các đãng và nghèo đói vì bị bác bỏ rơi. Mẹ, tui là sĩ quan, đại đội trưởng mà lương lãnh ra hằng tháng không đủ mua tờ báo Playboy của đế quốc để coi cho đỡ thèm. Biết thế tụi này chẳng thèm chống Mỹ, đánh Ngụy làm chi rồi chết tan xác.

Nghe nói Bình cũng cảm thấy bùi ngùi và tội nghiệp cho hai anh bộ đội. Móc tờ giấy năm chục đô trong túi ra anh cười nói với hai người đồng hương mới biết.

- Tôi biếu hai anh chút tiền mua báo xem cho đã ghiền.

Hai anh bộ đội mừng rỡ. Để cho hai ông lính lăn xăn lựa báo, Bình mua hai tờ báo như lời Huyền dặn xong đi kiếm cô bạn vừa lúc cô nàng từ trong tiệm bán mỹ phẩm bước ra.

- Chị mua cái gì vậy?

Bình hỏi khi thấy cô bạn gái của mình xách cái gói khá lớn.

- Tôi mua mấy cây thuốc lá và hai thứ đặc biệt này để tặng bác.

Huyền tủm tỉm cười lôi trong túi giấy ra chai dầu thơm hiệu Chanel 5 và một cái ”ear plug“.

- Dầu thơm. Bộ bác thích dầu thơm hả. Tôi tưởng chỉ có đàn bà mới xài dầu thơm.

Huyền cười cười.

- Cái này là ông Đô Nặng mách nước cho tôi. Ổng bảo bác cần chai dầu thơm để xịt cho thơm. Còn cái bịt tai này bác cần để ngủ cho yên.

- Tôi không hiểu bác cần hai thứ này để làm gì. Chị biết không?

- Bác cần một cái bịt tai thật tốt để không nghe lời nguyền rủa của thiên hạ. Hổng có nó bác ngủ hổng yên giấc. Còn dầu thơm thời chờ tới lúc gặp bác rồi mình hỏi. Thôi mình đi kẽo trễ.

Nói dứt câu Huyền bước đi liền. Vừa đi tới một ngã ba cô ta chợt thì thầm với Bình.

- Chết rồi. Ông thần.

- Ông thần nào?

- Ông thần áo đen.

Bình gật đầu dừng lại. Anh chăm chú vào vị hắc y sứ giả đang từ từ tiến tới chỗ mình đứng.

- Chào ông Bình và cô Huyền.

- Dạ chào ông sứ giả.

Huyền lên tiếng chào và giọng của nàng nhuốm chút cợt đùa. Hắc y sứ giả mỉm cười nói với Bình.

- Tôi kiếm ông để đưa ông đi dạo một vòng âm phủ như tôi đã hứa. Sẵn có cô Huyền tôi mời cô đi luôn cho vui.

Mặc dù muốn đi riêng rẻ để gặp bác nhưng biết khó lòng trốn khỏi sự kiểm soát của nhân viên của âm phủ nên Bình cười gượng.

- Tôi và cô Huyền đây cũng tính đi thăm viếng vài nơi.

Nhìn thấy hai người khách của âm phủ tay ôm tay xách quà, vị hắc y sứ giả nhếch môi cười nụ.

- Hai vị chắc đi thăm người quen?

Huyền nhỏ nhẹ lên tiếng.

- Dạ chúng tôi tính đi thăm bác.

Nói tới đó nàng kịp ngừng lại vì biết mình nói hớ. Vị sứ giả áo đen hiểu được cái ý của nàng. Nhếch môi cười ông ta nhỏ nhẹ giải thích.

- Hai vị không thể gặp mặt người đó được đâu. Diêm Vương vừa ban lệnh là tám bị can của phiên tòa ngày mai đều bị giam giữ ở một nơi riêng biệt có lính canh nghiêm nhặt lắm. Không có ai được gặp mặt họ nếu không có phép.

Huyền la nho nhỏ.

- Vậy sao. Chúng tôi lỡ mua quà rồi đâu có trả lại được mà cũng đâu có mang về dương gian được. Ông làm ơn.

Hắc y sứ giả mỉm cười nhìn Huyền khi nghe cô ta lên tiếng năn nỉ.

- Ông thông cảm.

Giơ mấy tờ báo Playboy và Penthouse với ba cây thuốc lá lên Bình cười tiếp.

- Tôi mà đem mấy thứ này về nhà là bà xã của tôi sẽ nổi cơn tam bành liền. Bả nghĩ là tôi đi bậy bạ…

Có lẽ nể lời Bình nên vị sứ giả áo đen khẽ gật đầu.

- Được rồi. Thông cảm cho hoàn cảnh khó khăn của ông nên tôi dẫn hai vị tới thăm người đó. Nhưng chỉ nói chuyện mười lăm phút thôi.

Dứt lời vị sứ giả của âm phủ đi trước dẫn đường. Ba người đi dài theo con đường nhộn nhịp và đèn đuốc sáng trưng. Vừa đi vừa ngắm nhìn quang cảnh xong Huyền lên tiếng.

- Ở âm phủ vui quá vậy mà tôi cứ tưởng âm phủ buồn và khổ lắm.

Vị sứ giả áo đen mỉm cười song im lặng không nói gì hết. Huyền nháy mắt với Bình. Hiểu ý cô bạn gái Bình đẩy đưa.

- Tôi thấy người nào người nấy đều nhàn nhã và thảnh thơi chứ không phải như trên dương thế của mình bận rộn và âu lo. Ông vui lòng…

- Hai vị chưa gặp đó thôi.

Vị sứ giả của âm phủ giải thích tiếp.

- Âm phủ của chúng tôi được chia thành hai khu vực riêng biệt để chứa những người chết. Đó là khu vực tốt và khu vực xấu mà chúng tôi đôi khi còn gọi là khu trắng và khu đen.

- Hóa ra âm phủ cũng kỳ thị trắng đen à.

Vị sứ giả áo đen lườm Huyền khi bị nàng xỏ một câu. Nhưng sau đó ông ta lấy lại vẻ tự nhiên và cười nói tiếp.

- Không phải âm phủ kỳ thị trắng đen hay phân biệt tốt xấu nhưng phân chia ra như thế để dễ kiểm soát. Khu trắng là khu tạm cư cho những người tốt. Còn khu đen là khu giam giữ kẻ xấu xa, ác độc, bê bối. Người tốt biết tự giác nên làm chuyện lương thiện và không hại tới người khác. Còn kẻ xấu thời buông lung làm toàn chuyện xấu xa và độc ác. Do đó phải áp dụng kỹ luật nghiêm khắc hay đôi khi dùng hình phạt đối với chúng.

Ba người vừa đi vừa trò chuyện rồi sau cùng ngừng lại trước một cánh cửa màu đen. Điều khiến cho Bình thắc mắc là không thấy hàng rào hay tường vách gì hết. Huyền cũng thầm ngạc nhiên vì thấy phía sau cánh cửa màu đen là khoảng tối mờ mờ, không có đền đài nhà cửa và người đi lại. Như biết được sự thắc mắc của hai người khách vị hắc y sứ giả thủng thẳng giải nghĩa.

- Phía sau cánh cửa màu đen đó là nhà tù, hay đúng hơn là nơi giam giữ kẻ ác. Hai vị thấy nhà tù ở âm phủ khác hơn dương thế phải không?

Bình liếc nhanh cô bạn gái và thấy cô ta cũng đang nhìn như ra hiệu cho mình trả lời. Tuy nhiên Bình chưa kịp lên tiếng thời vị sứ giả âm phủ đã nói trước.

- Nhà giam ở âm phủ hoàn toàn khác biệt trên dương thế vì một lý do đặc biệt là chúng tôi giam giữ cái hồn chứ không phải cái xác. Đối với cái linh hồn của con người thời hàng rào, tường vách làm sao có thể ngăn giữ được, nhất là đối với linh hồn của những tên đại gian ác. Người tốt sau khi chết xuống âm phủ thời chúng tôi cho họ tạm cư thời gian để chờ đợi. Vì biết mình sẽ được đầu thai trở lại dương thế do đó họ vui vẻ sống ở đây và tuân hành theo lề luật của âm phủ. Trong khi kẻ ác thời lại khác. Thừa biết mình sẽ bị giam ở âm phủ rất lâu và bị canh chừng ráo riết nên có nhiều tên gian ác tìm cách vượt ngục trở về dương thế. Vì vậy mà âm phủ rất bận rộn trong việc đối phó với kẻ ác.

Vị sứ giả áo đen ngừng nói khi thấy trước mặt ông ta hiện lên hàng chữ sáng mờ mờ. Huyền đọc thấy ba chữ ” Sinh Tử Phù “. Nàng thấy vị sứ giả của âm phủ đưa bàn tay ra trước mặt rồi trong cánh cửa màu đen có một tia sáng màu xanh biêng biếc quét dài lên năm ngón tay của ông ta. Sau đó cánh cửa màu đen chợt sáng dần lên lộ ra một khung cửa nhỏ.

- Mình vào được rồi.

Vị sứ giả của âm phủ nói nhỏ xong bước đi trước để dẫn đường. Huyền và Bình lặng lẽ theo sau. Đi được ba bước, như không dằn được tính hiếu kỳ Huyền hỏi nhỏ.

- Sinh tử phù là cái gì vậy ông?

Vị sứ giả áo đen mỉm cười khi nghe Huyền hỏi về sinh tử phù. Dường như ông ta có vẻ thích thú về ba chữ này. Ngay cả Bình cũng thắc mắc về chuyện này nhưng vì không có tính tò mò như Huyền nên anh không lên tiếng hỏi.

- Hai vị có đọc truyện Tây Du Ký?

Huyền liếc Bình và thấy anh đang mỉm cười.

- Tôi có đọc. Tề Thiên Đại Thánh với Thất Thập Nhị Huyền Công. Với bảy mươi hai phép biến hóa và cây thiết bảng ông ta rượt ông trời chạy thiếu điều sút quần…

Hắc y sứ giả quay nhìn Bình rồi cười nói một cách vui vẻ.

- Tuy nhiên dù có bảy mươi phép thần thông Tôn Ngộ Không cũng phải chịu thua cái vòng niền đầu của Phật Bà Quan Âm. Tề Thiên Đại Thánh bị cái vòng kim cang kiềm tỏa thời âm phủ chúng tôi cũng dùng sinh tử phù để chế ngự kẻ ác. Bất cứ kẻ ác độc nào khi chết xuống âm phủ, tùy theo trình độ gian ác của họ, sẽ bị cấy vào linh hồn một sinh tử phù. Lá bùa này sẽ ngăn ngừa không cho người ác làm bậy.

Huyền vọt miệng hỏi.

- Như vậy người tốt sẽ không bị âm phủ cấy sinh tử phù hả ông?

Vị sứ giả áo đen cười nhẹ khi nghe câu hỏi của Huyền.

- Bất cứ ai xuống âm phủ đều bị cấy sinh tử phù. Tuy nhiên lá bùa này đối với hạng người tốt có tác dụng như là một cái thẻ an ninh để chúng tôi kiểm soát và xếp hạng cũng như phân loại và cho họ đầu thai sang một kiếp khác.

- Như vậy tụi này khi được mời xuống đây cũng bị cấy sinh tử phù?

Vị sứ giả của âm phủ cười gật đầu.

- Đúng như vậy. Hai vị là khách mời của âm phủ cho nên sinh tử phù mà hai vị mang trong người như là một ID để chúng tôi kiểm soát và theo dõi trong trường hợp hai vị đi lạc hoặc trốn ở lại âm phủ. Với cái ID này chúng tôi biết hai vị đi đâu, làm gì và nhiều thứ mà xin lỗi tôi không được phép tiết lộ.

- Nghe ông nói tôi liên tưởng tới chương trình GPS…

Bình lên tiếng và vị sứ giả của âm phủ gật đầu.

- GPS của quí vị trên dương thế tuy hay nhưng chưa bằng âm phủ.

Huyền lẩm bẩm trong trí.

- Ông này làm phách quá ta. Cái gì ổng cũng cho là âm phủ hay hơn trên dương thế của mình. Mình tìm cách xỏ ổng chơi.

- … Lá bùa mà âm phủ cấy vào người của quí vị cho chúng tôi biết tường tận về đời tư, tính tình, cảm nghĩ, sức khỏe. Nói tóm lại là với sinh tử phù chúng tôi có thể kiểm soát người mang nó, có thể đọc được tư tưởng của họ.

Liếc nhanh Bình, Huyền cười hắc hắc.

- Anh Bình thời tôi không biết chứ phần tôi không thích âm phủ lắm.

Bình cười cười.

- Cực chẳng đã tôi mới xuống đây chứ tôi vẫn muốn sống ở dương thế hơn. Ở đây không thích hợp với tôi.

Vị sứ giả áo đen ứng tiếng.

- Mời ông cho tôi biết lý do tại sao ông không muốn ở lại âm phủ?

- Đời sống ở đây ngăn nắp, trật tự quá. Người ở đây an nhàn thảnh thơi quá. Vì thế mà thành ra chán nản. Phải có tiếng khóc người ta mới biết giá trị của nụ cười. Phải có đau khổ thời sự sung sướng mới quí giá. Ở dương thế, tôi có mắt để nhìn ngắm đàn bà đẹp, mũi để ngửi mùi hương, tai để nghe tiếng thì thầm dịu dàng và êm ái của vợ con. Còn ở đây chỉ là cõi tĩnh lặng, chốn thinh không. Âm phủ là cõi chết.

Quay qua nhìn Huyền, Bình cười nói đùa.

- Ở dương thế tôi còn có một cô bạn gái xinh đẹp như thế này thời có cho vàng tôi cũng không trốn ở lại âm phủ.

Hắc y sứ giả bật cười ha hả trong khi Huyền ửng hồng đôi má vì câu tán tỉnh của Bình.

- Tới rồi.

Vị sứ giả áo đen nói gọn khi dừng lại trước một vùng ánh sáng mờ ảo.

- Hai vị có mười lăm phút để nói chuyện với người quen.

Vị sứ giả áo đen lên tiếng. Bình liếc Huyền và thấy cô bạn gái cũng đang nhìn mình xong lên tiếng.

- Tôi có thấy ai đâu mà nói chuyện.

Huyền vừa dứt câu thời trong vùng ánh sáng mờ mờ ảo ảo một bóng người từ từ hiện ra. Đó là một ông già, tóc bạc phơ, râu ba chòm dài và xuông đuột. Ông ta mặc bên trong bộ bà ba còn bên ngoài khoác thêm cái áo choàng màu trắng cũ và nhầu nát. Thoạt trông Bình thấy ông ta phảng phất giống như các ông tiên trong truyện cổ tích. Ông ta có nụ cười hiền hậu và ánh mắt sáng rực, nhưng thỉnh thoảng lóe lên vẻ gì là lạ mà trong nhất thời và nhất là trong vùng ánh sáng mờ ảo này anh không thể nhận ra nét khác lạ trong ánh mắt nhìn của ông ta. Không biết ông ta đứng ở đâu mà đằng sau lưng của ông ta hiện lên hàng chữ sáng mờ. Phải chú ý hồi lâu Bình mới đọc ra hàng chữ ” Không gì quí hơn tự do độc tài”

- Chào ông. Ông có phải là.?

Huyền ngập ngừng. Ông già cười điềm đạm lên tiếng.

- Hai cháu cứ gọi tôi là bác đi cho thân mật. Mấy chục năm nay đồng bào đều gọi tôi là bác mà.

Huyền cười chúm chiếm.

- Dạ chào bác. Bác khỏe hông bác?

- Khỏe gì. Tổ cha cái thằng con bất hiếu của bác. Cái thằng bất nhơn. Là ông nhớn nhất nước. Cầm đầu cái đảng có đông đảng viên đứng thứ nhì trên dương gian mà nó quên cội nguồn, quên luôn cả cha mẹ. Nó bỏ đói bỏ khát bác mấy chục năm nay.

Huyền và Bình nhìn nhau, thắc mắc không biết bác chưởi ai. Cuối cùng nàng rụt rè hỏi.

- Dạ bác chưởi ai vậy bác?

Bác nói như hét vào mặt của Huyền và Bình.

- Thằng Yếu chứ thằng nào. Thằng con bất hiếu của bác chứ thằng nào. Nó làm lớn. Nó làm tới cái chức tổng bí đái… ủa… ủa bác già cả thành ra lộn… tổng bí thư đảng cộng sản rồi nó quên là bác đã truyền cái chức đó cho nó. Nó ở biệt thự riêng có bộ đội canh gác, có công an coi chừng nên không ai dám đụng tới nó. Còn bác ở đây trơ trọi có một mình, đói không có cơm mà ăn, khát không có nước mà uống. Còn hể đi ra thời lấm le lấm lét, phải bò phải chui, phải lủi, phải né vì ai ai cũng ghét bác, cũng đối xử tệ bạc với bác. Nếu âm phủ không có lính canh và luật lệ nghiêm khắc thời tụi nó dám bề hội đồng bác…

Nghe bác nói với giọng buồn bực và thảm não Huyền cảm thấy tội nghiệp bèn hỏi nhỏ.

- Ủa bộ âm phủ bỏ đói bác à. Cháu nghe nói bất cứ ai chết xuống âm phủ đều được cho ăn uống đàng hoàng mà.

- Thì họ cho ăn uống đàng hoàng tuy nhiên người ta sống đâu có phải là ăn uống mà còn nhiều chuyện khác nữa.

Ngừng lại giây lát bác chăm chú nhìn Huyền rồi quay sang liếc Bình một cái thật nhanh xong lại nhìn Huyền.

- Bác xem hai cháu lạ lắm. Dường như không phải là kẻ ở âm phủ.

Sợ lộ bí mật nên Huyền cười trả lời.

- Tụi cháu được âm phủ mời xuống đây thăm viếng. Nhân biết bác đang ở đây nên năn nỉ họ cho tụi cháu thăm bác luôn. Như vậy cháu khỏi về Hà Nội để xếp hàng thăm bác.

- Tổ cha cái thằng Duân… Tổ cha cái thằng Yếu và thằng Hèn. Đồ học trò… Đồ con cháu bất hiếu. Nó nghe lời ai hổng biết mà bày đặt làm chuyện ruồi bu.

Huyền và Bình nhìn nhau không biết bác nói tới chuyện gì mà lại đùng đùng nổi giận.

- Chừng nào hai cháu có trở lại dương thế thời bác nhờ nhắn lại với thằng Yếu và thằng Hèn là tụi nó nên đập cái nhà của bác ở Ba Đình đi.

- Sao vậy bác. Hai ổng cũng như dân chúng thương bác nên dù bác có mất đi họ cũng phụng thờ nhang khói quanh năm. Họ còn ướp xác để cho thiên hạ chiêm bái bác.

Trong lúc Huyền nói thời Bình để ý thấy bác mặt đỏ lên và quai hàm bạnh ra vì giận dữ.

- Đồ thằng con bất hiếu. Cả thằng Ba Duân và thằng Sáu Búa cũng vậy nữa. Là đồng chí của bác mà tụi nó lại thù ghét bác hơn ai hết. Hổng biết tụi nó nghe lời xúi dục của ai mà sau khi bác chết rồi lại không chịu chôn mà bày đặt ướp cái xác.

- Chắc bác sợ tốn tiền của nhân dân chứ gì?

Bình xen vào câu chuyện. Bác liếc Bình bằng nửa con mắt.

- Tiền của dân chứ tiền của bác đâu mà bác sợ tốn. Mấy thằng Ba Duân, Sáu Thụ, thằng Vàng, thằng Trườn Chui; tụi nó ghét bác nên khi bác chết tụi nó trả thù bằng cách ướp xác rồi đem để trong lồng kiến cho thiên hạ ngắm. Tụi nó chơi xỏ bác đó…

- Thì mấy ổng thương bác, nhớ bác mới làm như vậy. Bác.

Giận đỏ mặt tía tai bác nạt không cho Huyền nói hết câu.

- Thương cái khỉ khô. Nhớ cái mốc xì. Tụi nó chơi bác đó. Cháu không biết cái thâm ý của tụi nó đâu. Tụi nó hành hạ bác bằng cách đó.

Chớp chớp đôi mắt huyền đen láy Huyền cười thỏ thẻ.

- Bác nói gì mà cháu hổng có hiểu. Ai chơi bác đâu bác nói cho cháu nghe coi.

Bác cười hì hì nhìn Huyền. Bình cảm thấy ánh mắt của bác sáng lên vẻ kỳ cục.

- Cháu xinh đẹp, ăn mặc hấp dẫn và thân thể khêu gợi mà trí óc lại có hơi chậm tiêu một chút. Nhưng cũng không sao. Cháu mà theo bác để bác khai áo mở quần… ủa lộn… khai tâm mở trí cho bảo đảm cháu sẽ khôn ra.

Ngừng lại nheo mắt nhìn Huyền xong bác rắn giọng tiếp.

- Tụi nó chơi bác đó chứ thương nhớ gì bác. Nếu có thương, có nhớ, có kính thời tại sao tụi nó lại để cho bác nằm phơi ” củ cải ” mấy chục năm nay. Nhìn mấy em nữ sinh xinh như mộng, mấy cháu Việt Kiều hồi hương mặc áo hở cổ, mặc đầm đưa ngực, đưa đùi, đưa mông, bác thèm tới độ tê người mà có sơ múi được cái khỉ khô gì đâu. Tụi nó ướp xác bác cứng ngắt, nhúc nhích hổng được mà động đậy cũng hổng được thời còn nói chi mần với ăn. Đã không sơ múi gì mà lại nghe thiên hạ rủa mình. May mà tụi nó còn có chút lòng nhân đặt bác vào lồng kiến nên bác mới không bị người ta nhổ nước miếng hay bị ném cà chua và trứng hột vịt ung.

Huyền bật cười hắc hắc. Như vui lây cái trẻ trung của nàng bác cũng cười hì hì.

- Cháu xinh xắn và dễ thương quá. Có chồng con gì chưa?

- Chèn ơi cháu mà đẹp gì bác. Nếu đẹp đã có người thương rồi.

Nhìn lom lom vào chiếc áo hở cổ khá sâu của Huyền, bác cười hí hí.

- Vậy à… Tội nghiệp chưa… Thôi cháu ở lại đây với bác đi… Thương yêu đồng bào hay non nước thời bác còn ngần ngại chứ thương yêu đàn bà con gái bác năng nổ lắm…

Nhìn thấy Huyền và Bình xách hai cái túi bác sắm nắm hỏi.

- Hai cháu mua gì cho bác vậy?

- Dạ cháu nghe bác Đô Nặng nói bác thích mấy thứ nên mua biếu bác. Tụi cháu có lòng thành. Tụi cháu biếu bác mấy tờ báo, cây thuốc lá Mẽo, một chai rượu tây và mấy thứ lặt vặt.

Vừa nói Huyền vừa đưa cho bác gói quà. Kín đáo quan sát Bình nhận thấy bác có vẻ hả hê khi lôi ra hai tờ báo mới tinh. Vuốt chòm râu của mình bác gật gù cười nói với Huyền.

- Sao mà cháu biết ý của bác vậy. Mấy thằng con, nhất là mấy thằng đồng chí từng hoạt động cách mạng với bác mà tụi nó cũng hổng biết ý của bác gì hết chơn hết chọi. Khi bác xuống âm phủ, chúng nó gởi sách vở cho bác đọc mà gởi toàn sách về chính trị, tuyên truyền hay sách triết học gì gì đâu đọc buồn ngủ lại nhức cái đầu và chán bỏ mẹ. Tụi nó ngu đần và chẳng chịu khó suy nghĩ gì hết trơn. Muốn làm cách mạng để bành trướng chủ nghĩa Mác Lê; muốn chống thực dân và tư bản ta phải đọc mấy tờ báo này. Tất cả tinh túy của chủ nghĩa tư bản đều chứa đựng trong cái đó.

Bình mỉm cười khi thấy ngón tay trỏ của bác chỉ ngay vào ‘‘ cái đó ” của bức ảnh một cô gái khỏa thân nằm nơi trang trong tờ Playboy.

Huyền nháy mắt với Bình. Cái nháy mắt của nàng có nghĩa như thế này.

- Anh nghe bác nói chưa… Muốn làm cách mạng trước nhất bác phải nghiên cứu cái đó...

Bình cười gật đầu như hiểu ý. Quay sang bác đang gằm đầu vào tờ Playboy, Huyền tằng hằng.

- Dạ lời của bác nói làm cháu nhớ lại một giai thoại về bà Đoàn Thị Điểm…

Đang chăm chú xem hình bác ngước lên cười với Huyền như chờ nghe cô ta kể chuyện.

- Thời xưa, mỗi lần có đoàn sứ bộ của nước Tàu sang nước ta, triều đình thường kén chọn những người tài giỏi, lanh lợi, văn hay chữ tốt, thạo việc ứng đối, để giả làm các công việc như bán hàng, đưa đò, hoặc làm việc nơi các công quán, mục đích là để đối đáp với sứ Tàu làm cho họ kính phục nước Nam ta. Sử có chép, sứ bộ Mãn Thanh sang nước ta có hai vị đứng đầu là Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi. Trong số những người bán hàng trên đường sứ Tàu đi qua, có cô Đoàn thị Điểm và chú bé Trần Quang Trạch, con trai của ông Hoàng Giáp Trần Danh Ninh, mới hơn 10 tuổi mà đã giỏi văn thơ ứng đối. Bộ điệu sứ Tàu hống hách, thấy có cô bán hàng xinh đẹp thì nói đùa một câu:

Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh

(Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày). Sứ Tàu ngầm ý chế nhạo là gái Nam đều có tính lẳng lơ đĩ thỏa.

Cô Điểm liền đáp lại rằng:

Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.

(Các bậc đại phu của nước Tàu đều bởi đường ấy, chỗ ấy mà ra)

Nghe tới đó bác cười ha hả một cách thích thú.

- Hay quá là hay… Không những trẻ đẹp mà cháu còn biết nhiều hiểu rộng nữa. Tiếc quá… tiếc quá… Nếu mà bác gặp cháu lúc còn làm chủ tịt thời bác sẽ cho cháu làm thư ký riêng của bác. Thằng Quỳnh, hắn làm thư ký cho bác mấy chục năm mà cũng không hiểu ý của bác. Hắn đạo đức quá… Hắn không hiểu cái nghĩa thâm sâu của hai chữ ” đạo đức “…

Bình vọt miệng hỏi.

- Đạo đức còn có nghĩa khác nữa hả bác…

- Nhiều nghĩa lắm. Đối với ta đạo có nghĩa là đạo tặc, thành ra đạo đức là cái đức của phường đạo tặc… Đó là cái đức chôm chỉa. Đó là cái đức ăn cướp mà ta đã áp dụng để làm cách mạng…

Liếc nhanh Bình, Huyền cười nói nhỏ.

- Bác nói chuyện sâu xa quá cháu không hiểu. Cái đức chôm chỉa và ăn cướp là cái đức gì vậy bác…

- Cháu đúng là ngây thơ. Thôi để ta nêu ra một thí dụ là cháu hiểu liền. Đó là chuyện ta chôm con nhỏ Nguyễn Thị Minh Khai của thằng Lê Hồng Phong. Mặc dù biết Khai là vợ chưa cưới của Lê Hồng Phong, nhưng vì Khai hấp dẫn và dễ nhìn khiến cho ta động lòng do đó ta mới rình lúc thằng Phong đi công tác là ta trổ tài chôm chỉa. Tới chừng thằng Phong biết thời ván đã đóng tàu bằng bù lon rồi sức mấy mà gở ra được. Mấy đồng chí của ta, đứa nào có vợ đẹp là bị ta chôm liền như vợ thằng Võ.

Nói tới đó bác cười hả hả như khoái chí về thành tích chôm chỉa của mình.

- Còn nhiều lắm. Như cái vụ ta chôm cái đảng Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội của Nguyễn Hải Thần hay là ta chôm cái công cách mạng của tụi Quốc Dân Đảng…

- Bác làm như thế bác không sợ người ta cười cợt và chế nhạo bác à.

Huyền hỏi và bác lắc đầu quầy quậy.

- Ai cười mặc họ cháu ơi. ” Cứu cánh biện minh cho phương tiện “ mà cháu. Mấy thằng quốc gia thua ta là ở chỗ đó. Tụi nó thua ta ở chỗ không ăn gian nói dối, ở chỗ không biết lường gạt, ở chỗ không dám giết người nhất là giết người lương thiện… Hà hà… muốn làm cách mạng vô sản mà không chịu hi sinh xương máu của đồng bào thời làm sao thành công được… Như cái vụ cải cách ruộng đất đó… Ta mới giết sơ sơ có hai trăm ngàn thằng dân ngu khu đen cộng thêm vài ngàn đồng chí mà thiên hạ đã la rầm lên… Cháu hổng thấy bên Nga, đồng chí Sít vĩ đại của ta giết hơn hai chục triệu mà có nghe ai than phiền gì đâu… Cháu đừng có nghe lời tuyên truyền phản động của tụi Ngụy và tư bản Mẽo…

Nói xong bác xé gói thuốc con mèo ra rồi thong thả đưa lên mũi ngửi. Biết ý bác nên Bình vội móc hộp quẹt máy trong túi ra đốt. Hít hơi thật dài rồi lim dim mắt như để thưởng thức mùi vị của thuốc lá xong bác cười nói với Huyền và Bình.

- Ngày mai ta bị đưa ra tòa. Hai cháu có rảnh tới coi ta trổ tài ngụy biện… ủa quên hùng biện để cãi tay đôi với thằng Thôi Phán Quan…

Vừa lúc đó vị sứ giả áo đen xuất hiện.

- Đã hết giờ thăm viếng rồi. Mời hai vị theo tôi về chỗ trọ.

Không thể nấn ná lâu hơn nên Huyền và Bình chào tạm biệt bác rồi theo chân sứ giả áo đen. Đang đi ông ta quay đầu lại cười hỏi.

- Hai vị cảm thấy thế nào?

Bình liếc Huyền khi nghe vị sứ giả của âm phủ hỏi. Anh chưa kịp lên tiếng vị sứ giả áo đen cười nói.

- Cái ngữ hắn mà thành lãnh tụ thời đúng là đại họa cho dân chúng trên dương gian. Âm phủ chúng tôi sẽ có biện pháp làm cho hắn không bao giờ được làm lãnh tụ nữa. Hắn sẽ không bao giờ được dịp ăn gian nói dối, lường gạt hoặc chôm chỉa bất cứ cái gì của người khác.

- Âm phủ làm thế nào?

Huyền hỏi gọn. Vị sứ giả của âm phủ cười trả lời.

- Thiên cơ bất khả lậu. Bây giờ tôi đưa hai vị về chỗ trọ nghỉ ngơi cho khỏe khoắn để tham dự phiên tòa ngày mai. Đây có thể là phiên tòa dài, gay cấn, sôi nổi và nổi đình đám nhất ở âm phủ. Phiên tòa của thế kỷ 21.

Vị sứ giả áo đen lẩm bẩm. Bình đột ngột lên tiếng ngắt lời của Hắc Y sứ giả.

- Xin ông vui lòng nói rõ hơn tôi mới hiểu…

Hắc Y sứ giả quay qua cười nói với hai người đang đồng hành với mình.

- Thiên cơ bất khả lậu... Tôi biết mà tôi không được phép trả lời. Hai vị ráng chờ tới khi phiên tòa chấm dứt sẽ tận tường mọi việc…

Vị sứ giả lẩm bẩm điều gì trong lúc ba người bước ra khỏi cánh cửa màu đen.

giavui
07-11-2014, 08:43 PM
- 4 -
Không gì quí hơn ” TỰ DO ĐỘC TÀI “

Chín vị bồi thẫm tay bắt mặt mừng vì tình cờ được gặp gỡ nơi âm phủ. Sau màn chào hỏi và xưng tên họ xong Đán, người được âm phủ chỉ định làm chủ tịch bồi thẫm đoàn mới lên tiếng.

- Tôi kính mời tất cả anh chị em ngồi vào chỗ có tên của mình…

Đợi mọi người an vị xong xuôi Đán hắng giọng tiếp.

- Bồi thẫm đoàn của chúng ta có 9 người tất cả. Đại diện cho miền Bắc có ba người là anh Trung, anh Bằng và chị Linh. Kính mời ba vị bồi thẫm đoàn miền Bắc đứng lên cho mọi người chiêm ngưỡng dung nhan…

Mọi người đồng bật cười vì câu pha trò của Đán. Bình nhận thấy Trung độ bốn mươi, ăn mặc giản dị, vóc dáng cao lớn và khỏe mạnh. Trong lúc đó Bằng vóc dáng tầm thước song ăn mặc chải chuốt. Còn Linh ăn vận hơi có vẻ quê mùa dù nét mặt xinh xắn và nụ cười rất tươi tắn.

Giọng miền Trung hơi nặng của Đán vang lên như để giới thiệu tiếp.

- Anh Trung đang cự ngụ tại Hà Nội còn anh Bằng thời sống tại Hải Phòng. Riêng chị Linh đang sống ở Nga… Sau đây tôi xin nói sơ về ba vị đại biểu của miền Trung. Tôi đang ở Huế với gia đình một vợ bốn con. Anh Quá thời sinh quán ở Đà Nẳng còn chị Định đang ở Nha Trang…

Hướng về ba người còn lại Đán cười nói chậm.

- Ba người còn lại đại diện cho miền Nam đồng thời cũng đại diện cho đồng bào hải ngoại cư ngụ trên ba quốc gia có đông dân Việt cư ngụ nhất là Hoa Kỳ, Pháp và Gia Nã Đại. Anh Bình ở tiểu bang Ohio thuộc Mỹ, chị Huyền ở Paris còn chị Vui sống nơi Toronto…

Ngừng lại nhìn tám vị bồi thẫm giây lát, Đán rắn giọng tiếp.

- Đây là một phiên tòa đặc biệt do đó cách thức luận tội và hình phạt dành cho bị can cũng hết sức đặc biệt. Mỗi người trong chúng ta sẽ bắt thăm. Bất cứ ai trong các anh chị bắt trúng tên của bị can thời phải nghĩ ra hình phạt dành cho bị can đó. Để cho dễ hiểu tôi xin nêu một thí dụ sau đây. Nếu bắt trúng tên của Phạm Văng Vàng thời tôi phải nghĩ ra một hình phạt nào dành cho hắn. Các anh chị được quyền giữ lá thăm của mình; nhưng một điều tôi cần căn dặn các anh chị là không nên tiết lộ với bất cứ ai về tên của người mà mình bắt thăm trúng. Sau đây tôi mời các anh chị lần lượt bắt thăm…

Chín vị bồi thẫm lần lượt bắt thăm. Bốc lấy một lá thăm được gấp làm tư xong mở ra xem, Bình mỉm cười gật gù. Thấy Huyền nháy mắt với mình anh cười cười im lặng. Sau khi xem xong mọi người bỏ lá thăm vào túi của mình. Giọng nói rắn rỏi của Đán vang lên trong căn phòng rộng.

- Điều thứ nhì là sau khi Thôi Phán Quan trình bày tội ác của bị can thời chúng ta sẽ vào trong căn phòng này để góp ý với anh chị nào đã bắt thăm trúng tên của bị can về hình phạt dành cho hắn…

Bình vội đưa tay lên như muốn đặt câu hỏi. Thấy thế Đán cười lên tiếng.

- Anh Bình muốn nói gì?

- Tôi muốn biết là mình có bàn luận để xem bị can có tội trước rồi sau đó mới tìm ra hình phạt…

Đán lắc đầu nói liền.

- Chúng ta không cần bàn luận để xem các bị can có tội hay không có tội…

- Tôi có chỗ chưa thông…

Bình lại lên tiếng nữa. Đán cười gật đầu giải thích tiếp cho Bình đồng thời cũng cho bảy người kia nghe.

- Diêm Vương có nói cho tôi nghe là tội ác của các bị can đã rành rành ra đó ai ai cũng biết hết rồi nên chúng ta không cần phải làm việc đó. Việc kết tội các bị can là việc của Trời. Còn việc của chúng ta là nghĩ ra hình phạt dành cho các bị can…

Mọi người gật đầu tỏ vẻ hiểu ý. Đán cười đứng dậy.

- Bây giờ tôi mời anh chị em ra phòng xử vì sắp tới giờ khai mạc rồi…

Theo cửa riêng chín vị bồi thẫm đi ra phòng xử. Huyền và Bình được hướng dẫn tới ghế ngồi có ghi sẵn tên của mình. May mắn là họ được ngồi cạnh nhau nơi hàng ghế đầu. Quan sát Bình nhận thấy phòng xử rất rộng lớn. Nó được chia làm bốn khu rõ ràng và riêng biệt. Cuối phòng là khu dành cho người dự khán. Đối diện là khu dành cho Diêm Vương và nhân viên có nhiệm vụ điều hành phiên tòa. Phía bên phải từ ngoài cửa nhìn vào là khu dành cho bồi thẫm đoàn với chín cái ghế của chín vị bồi thẫm. Phía bên trái là một cái lồng kính. Bình tự hỏi tại sao người ta lại đặt cái lồng kính trong phòng xử. Khoảng trống chính giữa hàng ghế dành cho người xem và vành móng ngựa là hai cái bàn dài. Một dành cho bị can và một dành cho biện lý cuộc. Tổ chức về phiên tòa của âm phủ cũng na ná như ở dương thế. Diêm Vương cũng giống như chánh án, đại diện cho công lý ngồi nghe và điều hành phiên xử. Công tố viện có một đại diện là Thôi Phán Quan. Ngoài ra âm phủ cũng cung cấp luật sư để bào chữa cho bị can nếu họ muốn.

Chỉ còn mười lăm phút nữa tới 10 giờ. Đó là giờ phiên xử bắt đầu nên người xem đã ngồi chật hết ba dãy ghế dành cho họ. Chín bị can theo cửa hông đi vào. Thiên hạ xì xầm nhỏ to khi thấy người đi đầu là Hình Chí Mô. Lão ta mặc áo sơ mi dài tay, quần tergal, mang giày da và khoác thêm cái áo veste cũ kỹ. Tóc bạc phơ, râu ba chòm xuông đuột, thoạt trông giống như một ông tiên đầy vẻ đạo mạo và nhân từ. Có tiếng vỗ tay hoan hô ầm ỉ từ trong số người tham dự. Tuy nhiên cũng nhiều người la lớn ” Đả đảo Hình Chí Mô “. Như vậy lão cũng có người ghét người thương.

Tám bị can được đưa tới bàn ngồi chung với luật sư biện hộ. Có hai nhân viên giữ an ninh và trật tự đứng gần để bảo vệ bị can vì sợ họ bị khán giả hành hung. Vị lục sự hô tiếng lớn báo hiệu Diêm Vương xuất hiện. Huyền nhìn đăm đăm kẻ cầm đầu âm phủ, ông kẹ của người trên dương thế cũng như là nhân vật của huyền thoại mà người ta chỉ biết qua sách vở thời xa xưa. Tóc bạc phơ. Râu ba chòm trắng phau và xuông đuột, y phục đen, hia mão cũng đen, Diêm Vương là một người cao lớn, hai mắt ngời hào quang và cái nhìn nghiêm lạnh khiến cho nàng cảm thấy khó mà có cảm tình với ông ta.

10 giờ. Chiếc đồng hồ lớn gắn trên vách đá ré lên hồi còi báo hiệu phiên xử bắt đầu. Một người đàn ông đứng lên. Huyền khều Bình.

- Thôi Phán Quan đó.

Bình gật đầu chăm chú vào người mặc áo choàng đen bước tới khoảnh trống ngay trước mặt chỗ Diêm Vương ngồi. Đảo ánh mắt ngời hào quang một vòng từ chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi sang tới ba dãy ghế đầu dành riêng cho nhân chứng và sau cùng dừng lại nơi bàn của tám bị can, Thôi Phán Quan cất giọng. Bình chưa bao giờ nghe có ai nói bằng giọng rổn rảng, nghiêm lạnh, đanh thép và rõ ràng như ông ta.

- Thưa Diêm Vương.
Thưa chín vị bồi thẫm.
Thưa toàn thể mọi người đang ở âm phủ.
Thưa toàn thể mọi người trên dương thế

Hôm nay, Thôi Phán Quan tôi, trước thừa lệnh Trời, sau vâng mệnh của Diêm Vương, đứng ra đòi hỏi công lý cho triệu triệu người đã chết bởi tám bị can hiện diện trong phiên tòa này. Có công thời thưởng, có tội thời phạt. Đó là luật của trời. Tám bị can, lúc còn sống ở dương thế, dân gian vì khờ khạo, thật thà, chất phác nên đã bị chúng lừa gạt đến nổi phải vong thân táng mạng. Dương thế vì kỹ cương lỏng lẻo, pháp luật mù mờ, nên được thể chúng tự tung tự tác, gian dối, điêu ngoa và ác độc đủ điều. Chúng, hô hào vì dân vì nước, kéo bè kết đảng, lập ra hội kín, chu du khắp nơi để truyền bá cái đạo vô thần, không coi trời đất, thánh thần ra gì. Chưa hết, chúng còn cổ võ, khuyến khích dân chúng theo cái đạo tam vô để phá hoại cho tới tận cùng giềng mối của thiên hạ. Không xem gia đình là trọng, bỏ bê tổ quốc, khinh lờn tôn giáo, tên kia.

Chỉ ngay vào mặt Hình Chí Mô rồi chuyển từ từ ngón tay trỏ của mình sang bảy bị can ngồi cạnh, Thôi Phán Quan cao giọng.

- Hình Chí Mô và bè lũ cũng như cái hội kín của hắn đã gây tang tóc suốt ba miền nam trung bắc của nước Việt Nam hơn năm mươi năm. Người chết dưới tay hắn lên tới con số triệu. Hai tay hắn dính đầy máu tươi của đồng bào. Người bị hắn giết chật đất âm phủ. Tiếng kêu than vọng thấu thiên đình. Hắn lấy vợ người. Hắn chôm chỉa công lao cứu nước của người khác. Hắn bán đứng anh em cách mạng với hắn. Hắn thủ tiêu đồng chí. Hắn giết tình nhân. Hắn không nhìn nhận con cái. Hắn thủ tiêu bất cứ ai biết về thân thế giả mạo, lý lịch mơ hồ của hắn. Hắn ăn gian nói dối. Hắn lừa đảo điêu ngoa. Tội ác của hắn và bảy bị can đang ngồi đây nói bao giờ cho hết. Thế mà có ai phàn nàn, chỉ trích thời hắn cười bảo ” cứu cánh biện minh cho phương tiện “. Cứu cánh của hắn là gì? Là tròng vào cổ mấy chục triệu dân Việt cái ách nô lệ của chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Cứu cánh của hắn là gì? Là đem dân tộc để chết cho mộng bá chủ thế giới của chủ thuyết Mác-Lê. Tội ác của hắn và bè lũ tay sai dù có viết trăm ngàn trang giấy cũng chưa đủ. Thôi Phán Quan tôi, xin mượn lời người xưa để kể về tội ác của Hình Chí Mô. Cụ Nguyễn Trải viết Bình Ngô Đại Cáo trong đó có hai câu: ‘‘ Độc ác thay trúc rừng không ghi hết tội… Dơ bẩn thay nước bể không rửa sạch mùi”. Hai câu đó đủ nói lên tội ác của Hình Chí Mô và bảy bị can hiện diện trong phiên tòa này. Cho nên Thôi Phán Quan tôi, dựa vào câu nói của cụ Nguyễn Trải, mạo muội đứng ra đây, làm cái việc vạch trần tội ác của Hình Chí Mô để cho mọi người thấy rõ hắn là kẻ đại gian ác, không có yêu nước thương dân gì hết, mà chỉ vì tuân lệnh của đồng chí Mác, đồng chí Lê, đồng chí Xít để thi hành tham vọng bá chủ thế giới. Vì tham vọng lãnh tụ, họ Hình và cái hội kín mang tên đảng cộng sản đã thủ tiêu hàng chục ngàn đảng viên các đảng phái quốc gia đối lập. Cũng vì mê man quyền lực, hắn giết trăm ngàn người dân vô tội trong vụ cải cách ruộng đất ở miền bắc nước Việt vào các năm 1950. Hắn ra mật hiệu cho bộ đội thảm sát mấy ngàn dân vô tội hồi Tết Mậu Thân tại Huế. Hắn nướng trui mấy trăm ngàn bộ đội qua hai vụ tổng công kích cũng như trong mùa hè đỏ lửa. Cũng vì tham vọng điên cuồng hắn và bảy bị can này đã ném hàng triệu thanh thiếu niên nam nữ của cả hai miền Nam Bắc vào cuộc nội chiến tương tàn đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Ngừng lại giây lát xong hướng về 9 vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan rắn giọng.

- Kính thưa quí vị bồi thẫm. Quí vị là người Việt Nam, đại diện cho đồng bào của quí vị, được mời xuống âm phủ làm bồi thẫm cho phiên tòa lịch sử này. Quí vị sẽ lắng nghe, nhìn ngắm, nhận xét và thảo luận với nhau và sau đó tìm ra một biện pháp đặc biệt để bảo đảm là, Hình Chí Mô và bảy bị can này, dù có bị giam cầm ở âm phủ hay trở lại dương thế sẽ không bao giờ được khua môi múa mỏ, dùng lời gian dối để lừa gạt người, tuyên truyền láo khoét và sai khiến kẻ dưới quyền sát hại dân lành vô tội. Âm phủ bảo đảm với hàng triệu nạn nhân của Hình Chí Mô và người trên dương thế là hắn sẽ không bao giờ trở thành lãnh tụ nữa để tàn hại sanh linh.

Thôi Phán Quan ngừng nói. Hướng về Diêm Vương như xin lệnh, ông ta rắn giọng.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 bồi thẫm. Kính thưa quý vị khán thính giả. Bây giờ nhân danh Công Tố Viện của âm phủ, Thôi Phán Quan tôi xin mời bị can thứ nhất ra trước vành móng ngựa.

Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Đèn đang sáng trưng bỗng từ từ mờ dần dần rồi căn phòng xử biến thành vùng tôi tối khiến cho Bình có cảm tưởng là mọi người đều trở thành những bóng hình u linh phảng phất. Anh cảm thấy điều này rõ ràng hơn khi bên tai nghe tiếng rì rầm mơ hồ. Chỉ có một điều khiến cho anh an tâm là bàn tay ấm mềm của Huyền đang nắm chặt tay của mình cùng với tiếng nói dịu dàng của nàng thoảng bên tai.

- Sao họ tắt đèn vậy anh Bình. Tối hù ghê quá.

Giọng nói rền rền vách đá của vị lục sự vang lên.

- Bị can thứ nhất là Tố Bồi Bút. Mời Tố Bồi Bút lên ngồi vào ghế bị can.

Đèn chiếu theo bước chân di chuyển cho Bình thấy một người vóc dáng cao lớn và mập mạp đang chầm chậm bước tới chiếc ghế dành cho bị can. Sau khi Tố Bồi Bút ngồi xuống vị lục sự đọc lớn tiểu sử của bị can cho chín vị bồi thẫm và toàn thể người tham dự nghe.

- Bị can họ Tố tên Bút và chữ lót là Bồi nên được người ta gọi là Tố Bồi Bút. Tố sanh năm 1920 tại Huế. Lúc nhỏ theo học trường Quốc Học Huế, sau gia nhập hội kín do Hình Chí Mô làm lãnh tụ. Thuở còn thanh niên Tố Bồi Bút có tài làm thơ rồi lớn lên được các đồng chí phong làm thi sĩ. Thơ của hắn được gọi là thơ cách mạng, chứa đựng toàn sắt máu và ca tụng công ơn của các lãnh tụ cộng sản như Hình Chí Mô, La Ninh, Xít Ta Linh. Cũng nhờ cái bí thuật ”đỡ bi bác” nên bị can được cho giữ các chức vụ quan trọng như Phó Tổng Thư Ký Hội Văng Nghệ Việt Nam Dân Chửi, Phó Chủ Tịch Hội Liên Hiệp Nghệ Thuật Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ, Ủy Viên Dự Khuyết Bộ Chính Chị, Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương, Trưởng Ban Nói Láo Trung Ương, Phó Ban Ruộng Lúa Trung Ương, Phó Chủ Tịt Hội Đồng Bộ Trưởng. Năm 1996, bị can được nhà nước tặng Giải thưởng Hình Chí Mô về Văn Học Nghệ Thuật đợt 1. Bị can được đồng bọn tôn là nhà thơ nhớn của chế độ… Bị can làm nhiều thơ lắm trong đó có tập thơ nổi tiếng tên Việt Bắc…

Nghe tới đây Diêm Vương giơ tay ra hiệu cho lục sự ngưng đọc xong mới quay qua hỏi Tố Bồi Bút.

- Chà… Như vậy ngươi cũng thông chữ nghĩa và nắm nhiều chức vụ quan trọng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ hả…

Đang ngồi rung đùi lắng nghe lục sự đọc tiểu sử của mình, nghe Diêm Vương hỏi Tố Bồi Bút vui vẻ trả lời.

- Dạ cũng nhờ đảng khai tâm và bác cưng nựng nên Tố tui mới được cất nhét vào các chức vụ của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ… Chỉ có điều tui xin đính chánh là ông lục sự không rành chữ nghĩa đọc sai cái tên của tập thơ nổi tiếng của tui. Ổng đọc là Việt Bắc nhưng chính ra là Việt Bắt mới đúng…

Bị Tố Bồi Bút chê mình đọc sai lục sự cự nự.

- Ta đâu có đọc sai. Tiểu sử của ngươi là do nhà nước của ngươi cung cấp mà…

Thấy lục sự có vẻ giận, Tố Bồi Bút cười cười chữa.

- Dạ bẩm… Cái này không phải tại ngài sai mà tại vì mấy thằng đồng chí em út của tui trong Bộ Ăn Quá của nước Việt Nam Dân Chửi thời tui làm xếp nó dốt tiếng mẹ đẻ. Tui viết là Việt Bắt mà tụi nó lại in ra thành Việt Bắc. Hai chữ Việt Bắt của tui nó có cái ý nghĩa ‘‘cách mạng” lắm. Việt là tụi Việt Quốc, còn bắt là bắt giữ. Bởi vậy Việt Bắt là bắt giữ tụi Việt Quốc để cho tụi nó đi tàu suốt. Như vậy mới đúng cái ý của tui…

Diêm Vương gật gù cười.

- À ra thế… Hóa ra ta với mọi người hiểu sai cái ý của ngươi…

Nhân thấy Diêm Vương vui vẻ và chắc cũng cao hứng, họ Tố rụt rè nói tiếp.

- Bẩm Diêm Vương… Ngài có muốn nghe tôi đọc bài thơ Đời Đời Nhớ Ông… Hay lắm… Bảo đảm khi nghe xong là ngài sẽ đả thông tư tưởng liền…

Vuốt chòm râu xuông đuột Diêm Vương cất giọng sang sảng.

- Đâu ngươi đọc thơ cho ta nghe đi. Ta vốn trọng kẻ có tài bởi vậy nếu ngươi làm thơ hay thì ta cũng châm chế tội lỗi của ngươi…

Được Diêm Vương cho phép Tố Bồi Bút cao giọng ngâm nga bài thơ đã biến hắn thành nhà thơ nổi tiếng về tài ”nâng hòn đỡ bi” hạng nhất của đảng và nhà nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ.

- Bữa trước mẹ cho con xem ảnh
Ông Stalin bên cạnh nhi đồng
Áo ông trắng giữa mây hồng
Mắt ông hiền hậu, miệng ông mỉm cười
Trên đồng xanh mênh mông
Ông đứng với em nhỏ
Cổ em quàng khăn đỏ
Hướng tương lai
Hai ông cháu cùng nhìn
Sta -lin! Sta-lin!
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin!

Khi họ Tố đọc tới đó thời Diêm Vương chợt đưa tay như ra dấu cho hắn dừng lại.

- Ngươi đọc lại ba câu cuối cho ta nghe lần nữa…

Có lẽ biết Diêm Vương đã hơn mấy ngàn tuổi, bị ”hearing problem” nghe không rõ nên họ Tố cao giọng đọc lớn.

- Sta-lin!!!… Sta-lin…
Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin…

Vừa nghe hết tiếng cuối cùng Diêm Vương vỗ bàn cái rầm rồi hét oang oang.

- Cha chả… Ngươi đúng là thằng đại bất hiếu… Đồ vô ơn bạc nghĩa… Cha mẹ ngươi sinh ra ngươi mà không kính không thờ lại đi thờ cái thằng bất nhơn ác đức. Con cái mình đẻ ra phải cho nó nói tiếng nước của nó, phải dạy cho nó gọi cha mẹ hay ông bà chứ có đâu lại dạy cho ” tiếng đầu lòng con gọi Sta-lin “…

Thấy Tố Bồi Bút đang cười cười Diêm Vương nổi cơn tam bành lục tặc hét tiếp.

- Mày là thằng đại bất hiếu. Cha mẹ, ông bà tổ tiên không thờ kính lại đi thờ những thằng bá vơ…

Bị Diêm Vương xì nẹt Tố Bồi Bút sợ xanh mặt mày. Tuy nhiên suy nghĩ giây lát Diêm Vương cười bảo.

- Nói gì thời nói chứ ta cũng muốn nghe hết bài thơ. Đâu ngươi đọc tiếp coi…

Tuân lệnh họ Tố cao giọng ngâm nga.

- Mồm con thơm sữa xinh xinh
Như con chim của hoà bình trăng trong…
Hôm qua loa gọi ngoài đồng
Tiếng loa xé ruột xé lòng biết bao
Làng trên xóm dưới xôn xao
Làm sao, ông đã làm sao, mất rồi!

Ông Sta-lin ơi! Ông Sta-lin ơi!
Hỡi ôi Ông mất! Đất trời có không?
Thương cha thương mẹ thương chồng
Thương mình thương một thương Ông thương mười…

Nghe tới đây Diêm Vương lắc đầu thở dài ngao ngán rồi nói nhỏ. Tuy ông ta nói nhỏ mà ai ai trong phòng xử cũng đều nghe rõ mồn một.

- Loạn… Loạn mất rồi… Dương thế loạn rồi… Cái gì mà ” hương mình thương một thương Ông thương mười…” Cha mẹ, vợ con, anh em, đồng bào nó hổng thương mà đi thương cái thằng gian ác… Đúng là thời mạt pháp rồi… Loạn rồi… Thôi ngươi cứ đọc tiếp để cho ta biết ở trên dương gian loạn như thế nào…

Liếc nhanh về phía bồi thẫm đoàn Tố Bồi Bút cao giọng ngâm nga.

- Yêu con yêu nước yêu nòi
Yêu bao nhiêu lại yêu Người bấy nhiêu
Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có Người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày
Ngày mai độc lập ơn này nhớ ai…

Nghe tới đây Diêm Vương nghiến răng trèo trẹo.

- Láo… Láo khoét… Đúng là thứ an gian nói dối. Mày và các đồng chí của mày toàn là thứ ăn nói ngược ngạo. Mày làm thơ nói dân Việt Nam no ấm hả. Vậy mà tụi nó xuống đây đứa nào cân đo cũng thiếu tiêu chuẩn của âm phủ. Đứa nào đứa nấy ốm như cò ma, toàn xương bọc da, mở miệng ra là đòi cơm khiến cho nhân viên của ta chạy gạo cho tụi nó ăn muốn hụt hơi luôn. Thấy lạ tao mới tra hỏi thời tụi nó khai bị thằng hình thằng hồ gì đó bỏ đói cho chết… Tội nghiệp tao hỏi tụi nó muốn gì thì ngàn đứa như một nói muốn ”cơm… cơm”… Còn ngươi nói sau khi thằng hình, thằng hồ gì đó lên làm vua thời dân được tự do mà tại sao có nhiều người của nước tụi bây chết xuống đây còn bị còng tay cùm chân vậy…

Thấy Diêm Vương nổi trận lôi đình Tố Bồi Bút rụt rè lên tiếng.

- Bẩm Diêm Vương. Chắc mấy đứa mà ngài gặp là tụi tù cải tạo hay dân phản động nên bị bỏ đói và bị còng cho tới chết…

Nghe Tố Bồi Bút chối bai bải Diêm Vương giận quá vỗ bàn hét oang oang.

- Láo… Láo khoét… Cái ngữ chuyên ăn gian nói dối như mày thật là cứng đầu… Tội lỗi lút đầu mà còn chối…

Thôi Phán Quan chợt tằng hắng tiếng nhỏ như để nhắc nhở Diêm Vương biết là ông ta đang ở trong phiên xử. Hiểu ý Diêm Vương điểm mặt Tố Bồi Bút rồi nói một câu.

- Sau khi Thôi Phán Quan hỏi tội ngươi xong ta sẽ ‘‘có vấn đề” với ngươi… Thôi đọc tiếp đi…

- Ơn này nhớ để hai vai
Một vai ơn Bác một vai ơn Người
Con còn bé dại con ơi
Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông
Thương Ông mẹ nguyện trong lòng
Yêu làng yêu nước yêu chồng yêu con
Ông dù đã khuất không còn
Chân Ông còn mãi dấu son trên đường
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trắng những băng tang
Nối liền khúc ruột nhớ thương đời đời…

Nghe trọn bài thơ Thôi Phán Quan cười nhìn Tố Bồi Bút. Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cao giọng.

- Chín vị là chín người dân nước Việt chắc có nghe nói tới vụ Nhân Văn Giai Phẩm?

Đán, chủ tịch của bồi thẫm đoàn trả lời.

- Tôi biết chút chút về chuyện đó… Đó là cuộc đàn áp của đảng cộng sản Việt Nam dành cho giới trí thức và văn nghệ sĩ của miền bắc…

Bình phụ họa.

- Hồi còn đi học tôi cũng có nghe nói về vụ đàn áp này…

Gật gù mỉm cười tỏ vẻ bằng lòng, Thôi Phán Quan bước ba bước tới đứng đối diện với Tố Bồi Bút. Ánh mắt nghiêm lạnh của ông ta nhìn trừng trừng vào mặt tên bồi bút nặng ký nhất cùng với câu hỏi.

- Nhà ngươi có dính líu vào vụ Nhân Văn Giai Phẩm?

Họ Tố lắc đầu quầy quậy.

- Bẩm ông không có ạ… Tố tui hoàn toàn không có dính líu gì hết trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm… Tôi chẳng biết Nhân Văn Giai Phẩm là cái răng, cái mô…

Thôi Phán Quan cười nụ. Có lẽ ông ta thừa biết bị can sẽ chối tội. Cười cười nhìn xuống chỗ bảy bị can đang ngồi ông ta từ từ lên tiếng.

- Các người đã ác mà lại hèn. Có sức chơi mà không có sức chịu…

Dứt lời ông ta bước tới bàn của mình. Cầm một quyển sách cũ đưa lên cao, hướng về chín vị bồi thẫm ông ta cất giọng trầm lạnh.

- Thưa quí vị… Thưa chín vị bồi thẫm. Quyển sách mà tôi cầm trong tay đây mang tên ”Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toà Án Dư Luận” do Nhà Xuất Bản Sự Thật của đảng cộng sản Việt Nam in ra năm 1959. Còn đây là tờ báo Học Tập, một tờ báo cũng của đảng cộng sản Việt Nam được in ra năm 1958…

Cầm quyển sách và tờ báo đó đặt trước mặt Tố Bồi Bút, Thôi Phán Quan lạnh giọng.

- Ta yêu cầu nhà ngươi lớn tiếng đọc cho mọi người nghe bài “Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ”

Tố Bồi Bút tỏ ra bối rối khị bị bắt buộc phải đọc bài này, nhưng cuối cùng rồi hắn cũng hắng giọng đọc. Có lẽ hắn biết không đọc cũng không được.

- Dưới ánh sáng xã hội chủ nghiã đã bật rõ ranh giới giữa cách mạng và phản cách mạng, giữa cái mới và cái cũ; mỗi người yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội đều đã có thể nhìn thấy, phân biệt rõ ràng những con người và những con quỷ, những hoa thơm và những cỏ độc trong văn nghệ…

Không thể nào khác, muốn là “kỹ sư tâm hồn” xã hội chủ nghĩa, không thể nào không tự cải tạo bản thân văn nghệ sĩ thành những tâm hồn xã hội chủ nghĩa thật sự… Càng không thể để lén lút vào trong hàng ngũ văn nghệ, những con rắn độc thù địch phun nọc giết người…

Đọc đoạn văn đó xong Tố Bồi Bút ngừng lại nhìn xuống nơi bàn lão Hình Chí Mô ngồi rồi cúi đầu đọc tiếp. Giọng của hắn như gầm gừ đe dọa.

- Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ hay phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng?

Đã đến lúc cách mạng đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ và mỗi cán bộ văn hóa “duyệt lại” những tư tưởng, tình cảm của mình, những sáng tác và công tác trong ba năm qua, và dưới ánh sáng của tư tưởng xã hộ chủ nghĩa, làm một cuộc phê phán thật nghiêm trang, không khoan nhượng đối với mình, đối với bạn, đối với địch…

Thông qua cuộc đấu tranh lần này mà lột trần bộ mặt gian ác của những phần tử phản cách mạng, chống chế độ, chống nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất…

Chắc hứng lên sau khi đọc một đoạn do đó Tố Bồi Bút đọc sang sảng chứ không còn rụt rè như trước. Đọc tới câu ”Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất…” hắn còn dùng hai tay diễn tả nữa. Giọng của hắn gầm gừ đầy giận dữ. Hắn nói hăng tới độ văng nước miếng vào mặt Diêm Vương và vị lục sự ngồi bên cạnh. Hai người này nhìn nhau lắc đầu rồi lấy tay áo lau nước miếng.

- Chúng là những tên phản trắc, có kẻ họ Phan, một đời đã năm lần phản bội Tổ quốc, kẻ đã từng nhục mạ “người An-nam là chó, và đã là chó thì phải ăn cứt” để “thuyết phục” người khác đầu hàng địch, mà vẫn dương dương tự cho mình là “học giả tiết tháo”, và được kẻ đồng bọn phong cho là “anh hùng của ba trăm nô lệ”

Chúng là những con buôn “mác-xít”, “cách mạng” đầu lưỡi họ Trương, họ Trần, mà thực chất là những tên tơ-rôt-skit vô tổ quốc đã từng nấp dưới nách của địch chống lại cách mạng, suốt đời thù ghét những người cộng sản và tất cả những ai tin yêu… Chúng là những kẻ đầu cơ cách mạng, như Nguyễn-Hữu Đang. Gặp nhau trong một mục đích chung, chống Tổ quốc, chống nhân dân, chống chế độ, chống phe xã hội chủ nghĩa, chống Đảng lãnh đạo, tất cả bọn chúng đã liên minh thành một khối, phối hợp hoạt động phá hoại trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, trong các hội văn học nghệ thuật, một số cơ quan văn hóa, trong giới đại học, v.v… Trên thực tế, rõ ràng chúng đã làm như những tay sai của địch thực hành kế hoạch phá hoại của Mỹ-Diệm ở miền Bắc là “chống cộng trong lòng cộng”

Đọc tới đây Tố Bồi Bút ngừng lại nhìn xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi rung đùi mỉm cười đắc chí. Giống như Tố Bồi Bút lão cũng khoái vì những lời buộc tội đanh thép đó.

Ném cái nhìn sắc lẻm như lưỡi mã tấu xuống chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi xong họ Tố cao giọng tiếp.

- Cuối năm 1956, nói đến báo Nhân Văn và các tập Giai phẩm, Hình chủ tịch đã chỉ rõ: “Đó là những hạt giống xấu gieo trên miếng đất của những tư tưởng sai lầm”. Bởi vậy, vấn đề không phải chỉ là vứt bỏ những hạt giống xấu, mà còn là dọn lại đất cho tốt…”

Tố Bồi Bút ngừng lại. Thôi Phán Quan gằn giọng.

- Ai viết những dòng đó vậy?

Im lặng giây lát họ Tố mới trả lời thật nhỏ như không muốn cho mọi người nhất là chín vị bồi thẫm nghe.

- Bẩm tôi… Chính tôi viết…

Cầm lấy tờ báo và cuốn sách đưa lên cao Thôi Phán Quan rắn giọng. Giọng nói hàm chứa công lực tu vi mấy ngàn năm của kẻ chuyên buộc tội nơi âm phủ rền vang khắp tòa án.

- Thưa chín vị bồi thẫm. Đó là những dòng chữ mà Tố Bồi Bút đã viết trong bài ‘‘ Ý nghĩa một cuộc đấu tranh trong văn nghệ “ và được đăng trong tờ báo Học Tập số tháng 4 năm 1958…

Dứt lời ông ta bước tới đưa tờ báo cho Bình đang ngồi nơi hàng đầu. Chăm chú đọc xong anh đưa cho Huyền rồi chuyền tới tận tay các bồi thẫm còn lại và sau cùng trả lại cho Thôi Phán Quán. Bước tới đứng trước mặt Tố Bồi Bút, vị đại diện cho tòa án ở dưới âm phủ nhìn trừng trừng bị can như muốn hớp hồn, giọng nói của ông ta cất lên rang rảng vang dội trong căn phòng xử đông người mà lặng trang.

- Mỗi người của chúng ta khi sinh ra là được thượng đế ban cho những đặc quyền mà trên dương thế thường hay gọi là quyền tự do căn bản. Điều đó được viết thành giấy trắng mực đen trong hiến chương của Liên Hiệp Quốc. Một trong những quyền tự do căn bản này là tự do tư tưởng…

Tố Bồi Bút chợt đưa tay lên rồi nhìn Diêm Vương như xin phép được nói. Thấy thế Thôi Phán Quan ngừng nói.

- Bị can muốn nói điều gì?

Diêm Vương lên tiếng hỏi và Tố Bồi Bút nói nhỏ.

- Dạ chuyện của con xảy ra hồi lâu lắm rồi. Năm 1956, 57 thời miền Bắc của con chưa gia nhập Liên Hiệp Quốc mà chưa gia nhập thời không bắt buộc phải tuân hành…

Sầm mặt tỏ vẻ không bằng lòng song bắt gặp cái nháy mắt đầy ý nghĩa của Thôi Phán Quan nên Diêm Vương gượng cười lên tiếng.

- Bị can nói đúng. Khoảng thời gian đó miền bắc Việt Nam chưa có gia nhập Liên Hiệp Quốc nên không phải tuân hành…

Tố Bồi Bút ngồi rung đùi khoái chí vì bắt bẻ được Thôi Phán Quan. Bỏ Tố Bồi Bút, ông ta bước xuống đứng trước mặt Hình Chí Mô. Nhìn trừng trừng vào mặt lão ông ta buông một câu.

- Ta thường nghe dân chúng ở miền bắc hay lập lại một câu là ” Không gì quí hơn độc lập tự do “…

Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan cười lên tiếng.

- Có phải ngươi là tác giả của câu nói bất hủ đó?

Hình Chí Mô im lặng không trả lời. Lão là người khôn ngoan nên không chịu trả lời. Lão sợ lọt vào bẫy của vị đại diện cho Công Tố Viện của âm phủ.

- Phải ngươi là tác giả của câu nói bất hủ đó?

Thôi Phán Quan lập lại. Hình Chí Mô chỉ cười im lặng. Lát sau, hướng về Diêm Vương đang ngồi lão nhỏ nhẹ lên tiếng.

- Thưa Diêm Vương tôi có phải trả lời câu hỏi đó không. Tôi thiết nghĩ, nếu chưa ngồi lên ghế bị can thời tôi không bị bắt buộc phải trả lời câu hỏi đó…

Diêm Vương gật gù mỉm cười. Dù sao ông ta cũng phải nhìn nhận là Hình Chí Mô khôn ngoan và trí trá.

- Nhà ngươi không bắt buộc phải trả lời câu hỏi đó…

Bỏ chỗ Hình Chí Mô đang ngồi, bước về chỗ 9 vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng.

- Câu ” Không gì quí hơn độc lập tự do ” là khẩu hiệu của đảng cộng sản Việt Nam dùng để tuyên truyền khích động dân chúng ủng hộ chúng đánh đổ thực dân Pháp lúc đó đang cai trị Việt Nam. Cũng vì bốn chữ độc lập tự do đó mà triệu triệu người Việt Nam yêu nước đã ủng hộ cộng sản, đã hi sinh tánh mạng của mình để chết cho lý tưởng giành lại tự do và độc lập cho xứ sở. Điều mà tôi muốn nói ở đây là sau khi đất nước được độc lập thời Hình Chí Mô và các đồng chí của hắn đã không thực hiện lời hứa hẹn của mình. Chúng đã lừa bịp người dân. Khẩu hiệu ” Độc Lập Tự Do ” mà chúng huênh hoang tuyên bố đã biến thành khẩu hiệu…

Nói tới đó Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương. Nghe xong Diêm Vương cười gật đầu.

- Ý kiến hay… Ta cho phép…

Được sự chuẩn chi của Diêm Vương, Thôi Phán Quan vẫy tay ra hiệu. Hai lính quỉ giữ trật tự bước ra khiên cái lồng kính đặt chính giữa phòng. Chỉ vào lồng kính ông ta cao giọng.

- Kính thưa 9 vị bồi thẫm… Kính thưa quý khán giả… Muốn biết sau khi đánh đổ thực dân Pháp giành lại độc lập cho đất nước thời Hình Chí Mô và đảng cộng sản của hắn biến khẩu hiệu ” Không gì quí hơn Độc Lập Tự Do ” thành khẩu hiệu gì tôi mời Hình Chí Mô lên ngồi vào ghế của nhân chứng…

Đợi nhân chứng thề thốt xong, hướng về chín vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng thốt cốt ý cho tất cả người dự khán nghe rõ.

- Để biết khẩu hiệu ” Không gì quí hơn Độc Lập Tự Do ” biến thành khẩu hiệu gì, tôi mời nhân chứng Hình Chí Mô vui lòng bước vào cái lồng kính này…

Thấy nhân chứng chưa chịu đứng dậy ông ta rắn giọng.

- Nhà ngươi có hai chọn lựa. Hoặc là ngươi tình nguyện bước vào hoặc là ta sai lính quỉ ” mời ” ngươi vào lồng kính…

Ngước lên nhìn Diêm Vương như cầu cứu nhưng thấy ông ta ngoảnh mặt làm lơ, Hình Chí Mô do dự giây lát rồi lẳng lặng bước vào lồng kính. Khi lão vừa bước vào thời mọi người đều buột kêu ồ tiếng ngạc nhiên. Chín vị bồi thẫm cùng người dự khán đều thấy trên đầu của lão Hình Chí Mô như có hào quang chiếu sáng rồi sau đó hiện dần dần lên hàng chữ lớn mà dù ngồi ở xa người ta cũng đọc được. Riêng Bình, nhờ ngồi ở hàng ghế đầu vả lại ngồi ở vị trí cao nên thấy rõ ràng hơn ai hết. Đây là hàng chữ mà anh đã thấy ngày hôm qua lúc cùng với Huyền tới thăm bác.

Bước tới chỗ Tố Bồi Bút ngồi Thôi Phán Quan trầm giọng.

- Nhà ngươi đọc lớn cho 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe hàng chữ hiện ra trên đầu của Hình Chí Mô.

Tố Bồi Bút ấp úng rồi cuối cùng hắng giọng đọc lớn cái khẩu hiệu hiện lên phía sau đầu của lão Hình Chí Mô.

- ” Không gì quí hơn Tự Do Độc Tài “…

Quay nhìn về chỗ 9 vị bồi thẫm, vị đại diện cho luật pháp dưới âm phủ cao giọng.

- Người xưa có nói là khi cái tâm của mình nghĩ điều gì thời điều đó sẽ được hiển lộ ra bên ngoài. Câu nói này ứng vào họ Hình. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Sau khi nắm quyền sinh sát trong tay, lão Hình Chí Mô và bè lũ tay sai mà tên Tố Bồi Bút là một, đã đổi khẩu hiệu ” Không gì quí hơn độc lập tự do ” thành ra khẩu hiệu ‘‘ Không gì quí hơn Tự Do Độc Tài ”. Từ cái ý trở thành một kẻ độc tài, lão Hình đã ra lệnh đàn áp, thanh trừng, thủ tiêu và bỏ tù bất cứ ai chống đối lại hắn và cái đảng cộng sản của hắn. Từ tự do, độc lập hắn biến thành tự do độc đảng, tự do độc tài…

Giơ ngón tay chỉ thẳng vào mặt Tố Bồi Bút, Thôi Phán Quan gằn giọng.

- Tuân hành theo chỉ thị của Hình Chí Mô, tên Tố Bồi Bút đã dùng ngồi bút nô lệ của mình cảnh cáo, đe dọa giới trí thức và văn nghệ sĩ trong nước xuyên qua những lời tuyên bố sắt máu sau đây: ” Mỗi văn nghệ sĩ lại phải tự trả lời dứt khoát: ủng hộ hay phản đối đường lối văn nghệ của chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối văn nghệ phục vụ công nông binh, phục tùng chính trị, theo yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và phục tùng sự lãnh đạo của Đảng?

Đã đến lúc cách mạng đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ và mỗi cán bộ văn hóa ” duyệt lại ” những tư tưởng, tình cảm của mình, những sáng tác và công tác trong ba năm qua, và dưới ánh sáng của tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm một cuộc phê phán thật nghiêm trang, không khoan nhượng đối với mình, đối với bạn, đối với địch…

Thông qua cuộc đấu tranh lần này mà lột trần bộ mặt gian ác của những phần tử phản cách mạng, chống chế độ, chống nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Phải lôi chúng ra ánh sáng, xé toạc mặt nạ của chúng mà ném xuống đất… Trên thực tế, rõ ràng chúng đã làm như những tay sai của địch thực hành kế hoạch phá hoại của Mỹ-Diệm ở miền Bắc là “chống cộng sản trong lòng cộng sản “…

Ngừng lại như để cho mọi người chú ý tới những gì mình sắp nói ra đồng thời cũng để nghỉ mệt xong Thôi Phán Quan chỉ thẳng vào mặt Tố Bồi Bút.

- Ngươi tự vỗ ngực xưng là thi sĩ, nghĩa là người trong giới văn nghệ sĩ mà lại bán lương tâm cho quỉ, nào nâng bi, nào bợ đỡ cấp trên, chèn ép, bắt nạt kẻ dưới làm nhơ danh văn nghệ sĩ, làm tổn thương danh dự của người cầm bút. Học cái tốt không học, học cái hay không học; ngươi lại học cái gian ngoa, xảo trá. Nâng đỡ dân nghèo ngươi lại không làm mà lại đi nâng bi, bợ đít… Giúp đỡ dân lành ngươi không chịu làm mà lại bợ đỡ lãnh tụ. Ngươi, nhân danh nhà nước, dựa hơi bác và đảng đã bỏ tù văn nghệ sĩ. Ngươi bắt họ phải đi cải tạo, phải tự kiểm thảo. Ngươi bỏ đói trí thức. Ngươi hành hạ tinh thần lẫn thể xác của kẻ cầm cọ… Người xưa có nói một câu như thế này: ” Làm thầy thuốc mà lầm thời hại một người. Làm chính trị mà lầm thời hại một nước. Còn làm văn hóa mà lầm thời hại muôn đời…”. Ngươi là bậc trưởng thượng về văn hóa, tức là kẻ chịu trách nhiệm…

Thôi Phán Quan ngừng lời có lẽ để lấy hơi sức sau khi nói một hơi. Nhân dịp đó Tố Bồi Bút vọt miệng nói.

- Dạ oan cho tôi. Tôi đâu có làm. Tôi đâu có quyền gì mà bắt bớ ai hay bỏ tù ai…

Thôi Phán Quan cười hực.

- Được rồi… Ta sẽ mời nhân chứng ra đây đối chất với ngươi…

Tố Bồi Bút cười cười.

- Dạ ngài cứ việc gọi bất cứ ai ra cũng được. Tôi là kẻ vô tội…

Liếc thấy đồng hồ trên tường chỉ 12 giờ Thôi Phán Quán cười nói với bồi thẫm đoàn.

- Đã tới giờ ăn trưa rồi. Sau khi 9 vị dùng bữa xong tôi sẽ trình bày nhân chứng để quý vị thấy rõ mà tìm hình phạt tương xứng với tội ác của tên Tố Bồi Bút gian ngoa xảo trá này…

giavui
07-11-2014, 08:44 PM
-5-
Chủ Thuyết Tam Dân

1 giờ trưa. Đợi cho chín vị bồi thẫm cùng mọi người trở lại chỗ ngồi xong xuôi, Thôi Phán Quan mới cất giọng rổn rảng.!–more–>

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Sau đây tôi sẽ mời một số nhân chứng trong vụ án Nhân Văn Giai Phẩm ra trước tòa. Họ là nhân chứng đồng thời cũng là nạn nhân của tên Tố Bồi Bút nói riêng và các lãnh tụ đảng cộng sản mà ba kẻ liên hệ nhiều nhất là Hình Chí Mô, Trườn Chui và Tố Bồi Bút. Họ là những người đại diện cho giới trí thức và văn nghệ sĩ đã bị đàn áp, bị bắt bớ và bị bỏ tù chỉ vì tranh đấu cho dân chủ và tự do…

Hướng về nơi hàng ghế nhân chứng, Thôi Phán Quan cao giọng.

- Tôi xin mời nhân chứng thứ nhất. Kính mời giáo sư Trương Tửu…

Một người chậm chạp bước ra khỏi hàng ghế nhân chứng. Mọi người dự khán phiên tòa cho tới 9 vị bồi thẫm đồng đứng lên chào đón. Giáo sư Trương đi tới đâu tiếng vỗ tay hoan hô tới đó. Ngồi trên ghế chủ tọa tuy không đứng lên đón tiếp, song Diêm Vương cũng im lặng mặc cho mọi người vỗ tay hoan hô. Ngay cả Thôi Phán Quan cũng mỉm cười. Khi giáo sư Trương đi tới gần, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ kính cẩn nghiêng mình chào đón đồng thời hướng dẫn ông ta tới ngồi nơi ghế nhân chứng.

Tiện đây xin nói thêm một chút về việc xếp đặt phiên tòa dưới âm phủ. Diêm Vương là người chủ tọa của phiên tòa cũng giống như chánh án trên dương gian. Bên cạnh Diêm Vương và thấp hơn một chút là hai ghế. Bên phải dành cho nhân chứng còn ghế bên trái dành cho bị can. Giáo sư Trương ngồi vào ghế nhân chứng trong lúc Tố Bồi Bút ngồi ghế bị can, tức là ghế người bị truy tố và sẽ bị bồi thẫm đoàn trừng phạt.

Ngay lúc giáo sư Trương xuất hiện thời ai ai cũng thấy Tố Bồi Bút ” có vấn đề “. Riêng lão Hình Chí Mô và tên Trườn Chui thời dáng vẻ cũng lo ra chút chút. Cả ba lãnh tụ của đảng cộng sản đều cúi mặt nhìn xuống đất như suy nghĩ. Đợi cho tiếng vỗ tay và lời hoan hô chấm dứt cũng như nhân chứng đưa tay thề thốt sẽ nói sự thật, Thôi Phán Quan mới tằng hắng tiếng nhỏ như gợi sự chú ý của mọi người xong cất giọng.

- Thưa ông Trương. Tôi biết ông là giáo sư đại học, một người nổi tiếng trong giới trí thức và văn nghệ sĩ của nước Việt Nam…

Giáo sư Trương mỉm cười nhìn Thôi Phán Quan như tỏ vẻ cám ơn về những lời nói trên. Ông ta nhìn xuống chỗ lão Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đang ngồi đoạn dời sang ghế của Tố Bồi Bút nhưng cũng không nói gì hết. Cả phòng xử đều im lặng khi Thôi Phán Quan cất tiếng hỏi nhân chứng.

- Giáo sư liên hệ hoặc dính líu gì trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm?

Giáo sư Trương Tửu trả lời chậm và rõ.

- Tôi là người phụ trách tờ Giai Phẫm…

Mỉm cười vì câu trả lời giản dị của nhân chứng, Thôi Phán Quan bước trở lại bàn của mình. Đưa một tờ báo lên cao ông ta nói với 9 vị bồi thẫm cũng như có ý nói với mọi người trong phòng.

- Đây là tờ báo Giai Phẩm Mùa Thu Tập 2, trong đó có một bài viết của giáo sư Trương với nhan đề ”Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ”. Tôi xin mời giáo sư Trương đọc cho mọi người nghe để biết ông đã viết những gì, viết ra sao, viết như thế nào mà bị đảng và nhà nước trù yểm, đe dọa, bắt học tập cải tạo tư tưởng và giam lỏng mấy chục năm…

Thôi Phán Quan đưa tờ báo cho giáo sư Trương Tửu, nhưng ông ta cười lắc đầu.

- Tôi không cần đọc tờ báo đó. Tôi nói ra cho mọi người nghe cũng được…

Thôi Phán Quan cười gật gù.

- Tôi quên ông là một giáo sư từng diễn giảng…

Giáo sư Trương chỉ cười im lặng. Giọng nói sang sảng của ông ta vang lên trong căn phòng xử.

- Tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm Phan Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.

Sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ miền bắc. Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia được...

Giáo sư Trương ngừng lại rồi quay nhìn vào mặt của Tố Bồi Bút. Bắt gặp cái nhìn của ông ta, Tố Bồi Bút cúi đầu nhìn xuống đất như để tránh né. Hơi mỉm cười giáo sư Trương hắng giọng tiếp.

- Người văn nghệ sĩ đi tìm chân lý, đi tìm chính nghĩa, đi tìm tự do chứ không đi tìm cuộc đời nô lệ dưới hình thức này hay hình thức khác. Lấy sáng tạo nghệ thuật để làm lẽ sống chủ yếu, họ không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào. Với những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lãnh đạo độc tài, bè phái thì tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là tình trạng văn nghệ của ta từ sau 1949…

Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn ” yểm ” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó ” tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn “. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v… còn gì nữa?

Và phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều. Một số văn nghệ sĩ non gan biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất ức. Một số khác nữa ” cất kín ” cá tính và nghệ thuật xuống ” đáy ba lô “, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu “ đánh giặc đã!”. Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của Thường Vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị ” trù “, bị hành hạ, bị gạt sang một bên…

Căn phòng xử lặng trang sau khi giáo sư Trương Tửu dứt lời. Nhất là 9 vị bồi thẫm đều lộ vẻ suy nghĩ. Cùng lúc đó giáo sư Trương quay sang nhìn Tố Bồi Bút và giọng nói nửa mỉa mai, nửa châm biếm của ông ta vang lên. Chỉ cần nghe mấy dòng đầu người ta biết ông ám chỉ tới Tố Bồi Bút.

- Rất nhiều người trong giới văn nghệ sĩ, tôi biết có một đại thi sĩ của chế độ, ông ta có tâm lý sùng bái cá nhân lãnh tụ hay là thần thánh hóa lãnh tụ một cách trơ trẽn. Ở cửa miệng của ông ta bao giờ cũng nghe cái điệp khúc như thế này: ” Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh đạo Đảng không bao giờ sai lầm “. Tại sao họ sùng bái cá nhân? Họ sùng bái cá nhân để làm gì? Câu trả lời rất giản dị. ” Họ sùng bái một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy…

Họ quên mất một điều là : Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì, bảo vệ, phát triển tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phạm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật – để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, yêu những cái mà mình ghét, ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo. Giả tạo là kẻ thù của nghệ thuật. Giả tạo là tiêu diệt nghệ thuật. Một tác phẩm văn nghệ không tiết ra từ những cảm nghĩ thành thực và sâu sắc của chính tâm hồn tác giả sẽ là một phản ảnh nhạt nhẽo của thực tại. Nó khô khẳng vì thiếu chất sống. Nó bất thành nghệ thuật, và do đó, chẳng xúc động được ai cả. Người văn nghệ sĩ sống bằng tự do tư tưởng. Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ là bất khả xâm đoạt. Không có tự do tư tưởng thì không thể có nghệ thuật chân chính được. Đó là một chân lý bất di bất dịch…

Tiếng vỗ tay vang lên từ đám người tham dự phiên xử. Mặc dù không vỗ tay nhưng Diêm Vương cũng gật gù tỏ vẻ ưng ý với những gì giáo sư Trương Tửu đã phát biểu.

Nhìn xuống đám đông ông ta thủng thẳng phán.

- Giáo sư viết như thế đúng ý của ta lắm. Cả trăm năm nay ta mới được nghe những lời nói khẳng khái của một trí thức. Gần đây ta đọc bản báo cáo nói về mấy thằng tự xưng là trí thức, viết bài ca tụng tên Hình, thằng Hồ gì đó. Xưng có bằng tiến sĩ ở dương gian mà tụi nó viết thúi còn hơn cứt, làm thúi rùm cả âm phủ của ta. Tụi nó làm ” air pollution ” âm phủ của ta. Cái lũ trí thức đó là thứ trí thức ngủ, trí thức mù, trí thức nâng bi, trí thức bợ đít. Mai mốt tụi nó xuống đây ta sẽ có hình phạt đặc biệt dành cho nó…

Giáo sư Trương Từ cười quay qua hỏi Diêm Vương.

- Tôi mạo muội hỏi ngài có hình phạt hay biện pháp gì để chế tài những tên trí thức đó?

Diêm Vương vuốt râu cười quay qua hỏi lục sự.

- Ngươi nhớ tên mấy thằng trí thức đó không?

Lục sự lắc đầu trả lời.

- Trình Diêm Vương. Cái đám trí thức đó nhiều lắm hạ thần không nhớ hết tên tuổi. Chỉ nhớ mang máng có thằng xưng có bằng cấp tiến sĩ vật lộn… ủa thần nói lộn xin nói lại là vật lý…

Gật đầu Diêm Vương quay qua nói với giáo sư Trương Tửu.

- Đám trí thức vô lương tâm đó xuống đây là ta sẽ cho nó bị ‘‘ Parkinson’s disease ” để nó run rẩy tay chân viết không được…

- Thưa ngài… Thời đại tân tiến bây giờ họ đọc cho người khác viết…

Diêm Vương bật cười hà hà.

- Ta biết… Bởi vậy mấy đứa đó xuống đây là ta cho lính quỉ nạo lưỡi, dũa lưỡi xong rồi cho nó ăn ớt cay thật cay để lưỡi của tụi nó teo lại khiến cho tụi nó đứa thì ngọng, còn không ngọng cũng ú ớ không ra lời. Nó ” rặn ” cả năm không nói được một tiếng thời ai hơi sức đâu mà nghe tụi nó… Còn đứa nào cứng đầu hơn thì ta cho nó ăm cám xú, cho nó bị Alzheimer disease cho nó quên, nó lú luôn…

- Dạ dám hỏi ngài ớt đó tên gì vậy. Tại sao ngài không gởi lên dương gian cho người ta trồng để cho mấy ông trí ngủ hoặc nhà lãnh đạo độc tài ăn…

Diêm Vương cười khà khà khi nghe câu nói của giáo sư Trương.

- Thiên cơ bất khả lậu. Cái phòng thí nghiệm của âm phủ vừa trồng được 1 cây ớt và còn đang trong vòng thử nghiệm để xem có kết quả như thế nào. Nếu có kết quả mỹ mãn ta sẽ sai lính quỉ mang lên dương thế cho dân gian trồng. Mấy thằng ” trí thức- ngủ ” hể ăn ớt này là ú ớ liền…

Mọi người trong phòng xử đồng bật cười khi nghe Diêm Vương phán. Riêng Thôi Phán Quan cười hỏi giáo sư Trương Tửu.

- Tôi chưa bao giờ nghe một bài viết về tự do hay như vậy. Thế rồi những tên lãnh đạo văn nghệ đó đã đối xử với giáo sư như thế nào?

Giáo sư Trương im lặng trước câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Ông đừng sợ. Lãnh ý Trời, thừa mệnh Diêm Vương và nhân danh luật âm phủ, tôi bảo đảm là không có một thứ đảng, nhà nước hay thứ lãnh tụ nào có thể đe dọa hoặc bỏ tù ông ở tại âm phủ này…

Trong lúc Thôi Phán Quan nói, giáo sư Trương nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi giây lát mới hắng giọng.

- Tôi bị họ trù, họ ếm, họ yểm bằng mọi thủ đoạn thâm độc nhất mà họ có thể nghĩ ra và làm được… Họ không cấm tôi ăn mà họ làm cho tôi không có cái gì để ăn hay nói một cách khác là họ bỏ đói. Việc đầu tiên là họ khai trừ tôi ra khỏi đại học. Họ không cho tôi dạy học kể cả mở lớp dạy tư. Họ tịch thu nhà cửa. Đến chiếc xe đạp quèn họ cũng lấy lại. Họ cấm không cho người khác giao thiệp với tôi. Ai mà giao tiếp với tôi là bị khép tội ” mất lập trường, có vấn đề ”. Tôi đi đâu cũng có công an theo đằng sau…

- Họ có bắt giáo sư đi cải tạo?

Giáo sư Trường liếc nhanh qua chỗ Tố Bồi Bút ngồi rồi mới trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Họ bắt tôi đi cải tạo mấy lần rồi sau đó chắc cũng biết không cải tạo được tư tưởng của tôi nên họ chỉ cô lập và phong tỏa kinh tế…

Giáo sư Trương Tửu dứt lời. Cả phòng xử lặng trang. Dường như họ còn bàng hoàng về những lời tiết lộ của ông ta. Dường như họ không tin là những kẻ từng hô hào ” Không gì quý hơn Độc Lập Tự Do ” lại có thể đối xử một cách tàn tệ với dân chúng.

Sau khi Thôi Phán Quan hỏi xong tới phiên luật sư của bị can sẽ đứng ra chất vấn nhân chứng. Tuy nhiên luật sư Trịnh Thảo đã làm cho mọi người thắc mắc khi ông ta tuyên bố không có điều gì để hỏi nhân chứng. Dường như ông ta kỵ cơ với giáo sư Trương Tửu hoặc ông ta thấy không có lợi để đặt câu hỏi.

Đợi giáo sư Trương Tửu về ngồi nơi hàng ghế đầu dành cho nhân chứng xong xuôi, Thôi Phán Quan mới cao giọng nói trong lúc hướng về 9 vị bồi thẫm.

- Để tiếp tục phiên xử tôi xin mời nhân chứng thứ nhì. Kính mời thi sĩ Trần Dần…

Nhờ ngồi ở hàng ghế đầu cho nên Bình thấy rõ nhà thơ họ Trần là một thanh niên chừng ba mươi tuổi, ăn mặc giản dị và nét mặt thông minh sáng sủa. Khi thi sĩ đi tới gần, Huyền quay qua thì thầm vào tai Bình.

- Ổng đẹp trai ớn hả anh Bình?

Bình cười gật đầu khi nghe câu nói của cô bạn gái mới quen. Dưới sự hướng dẫn của Thôi Phán Quan Trần Dần lên ngồi vào ghế nhân chứng. Sau khi nhân chứng thề thốt xong Thôi Phán Quan tiếp tục phiên tòa bằng một câu hỏi.

- Theo như những tài liệu mà tôi đã đọc thời trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm thi sĩ là người đã bị trù yểm và phải hứng chịu nhiều hình phạt khốc liệt về tinh thần lẫn vật chất. Thi sĩ xác nhận điều này?

Trần Dần gật đầu. Tuy nhiên Thôi Phán Quan có lẽ không bằng lòng về cử chỉ xác nhận của nhân chứng. Bước một bước tới đứng ngay mặt nhân chứng ông ta lập lại câu hỏi.

- Thi sĩ xác nhận là mình đã bị ngược đãi cả về vật chất lẫn tinh thần. Có hay là không?

Im lặng giây lát Trần Dần nói lớn.

- Tôi xác nhận là có. Tôi bị bắt giam nhiều lần… Bị đưa đi cải tạo, học tập, kiểm thảo, bị cấm làm thơ, cấm sinh hoạt văn nghệ…

Thôi Phán Quan nghiêm giọng hỏi.

- Ai ra lệnh bắt ông?

Trần Dần ngập ngừng chưa trả lời, Thôi Phán Quan quay qua hỏi Tố Bồi Bút.

- Chính ngươi ra lệnh bắt Trần Dần?

Tố Bồi Bút ấp úng rồi sau đó lắc đầu.

- Tôi không biết… Tôi không có ra lệnh bắt ai…

Cười hực Thôi Phán Quan nói.

- Ta cho ngươi đọc tài liệu này rồi xem ngươi có chối được không…

Nói xong ông ta trở lại bàn của mình. Cầm một cuốn sách mỏng ông ta trở lại đưa cho Tố Bồi Bút xong gằn giọng.

- Ta muốn nhà ngươi đọc lớn đoạn này cho 9 vị bồi thẫm nghe…

Liếc nhanh mấy dòng chữ đầu họ Tố xanh mặt. Hắn quay nhìn Diêm Vương như hỏi ý kiến hoặc cầu cứu nhưng thấy ông ta im lặng hắn đành phải đọc lớn.

- Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần và của Tử Phác. Tố Bồi Bút bèn triệu tập mấy người đến họp như là Hoàng Cầm, Vân Phác (phụ trách tổ chức Bộ Văn Hoá), Chế Lan Viên… Tố Bồi Bút cầm cuốn Giai phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: ” Các anh thấy tập sách này thế nào? “

Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Bồi Bút. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: “ Cuốn sách đại phản động!“

Tố Bồi Bút hỏi Vân Phác: “ Hiện nay chúng nó đang ở đâu? “. Vân Phác: “ Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên “

Tố Bồi Bút lệnh – Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: “ Gọi nó về, bắt lấy nó! “

Thế là Vân Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần và Tử Phác…

Đợi cho Tố Bồi Bút đọc xong xuôi Thôi Phán Quan mới nghiêm giọng.

- Chính ngươi ra lệnh bắt Trần Dần?

Tố Bồi Bút gật đầu rồi sau đó thủng thẳng lên tiếng xác nhận.

- Chính tôi đã ra lệnh bắt hắn…

- Ngươi ra lệnh bắt thi sĩ họ Trần vì lý do gì?

Thấy Tố Bồi Bút ngập ngừng Thôi Phán Quan gặn.

- Ngươi bắt hắn vì tư thù?

Dù Tố Bồi Bút nói nhỏ song 9 vị bồi thẫm đều nghe rõ câu trả lời của hắn.

- Tư thù cũng có mà cũng vì chỉ thị của cấp trên bảo tôi bắt cũng có…

Được thể Thôi Phán Quan hỏi dồn.

- Chỉ thị của cấp trên. Ai ra chỉ thị cho ngươi bắt Trần Dần. Ai?

Tố Bồi Bút hơi run người khi nhìn nét mặt đanh lạnh và ánh mắt như lóe hào quang của Thôi Phán Quan. Ánh mắt đó như thôi miên khiến cho hắn lắp bắp mãi mới ra lời.

- Thưa… thưa đó là đồng chí Trườn Chui… Anh Năm nói với tôi là đã được chỉ thị của bác… Trần Dần có ba tội là: thứ nhất là hắn chê bai tập thơ Việt Bắt của tôi. Hắn nhạo thơ tôi là tí ti căm thù, tí ti tình yêu…

Mọi người bật cười cái rần khi nghe mấy tiếng ” tí ti căm thù, tí ti tình yêu ”.

- Tội thứ nhì là lấy vợ mà không được sự chấp thuận của đảng. Hắn làm đơn xin phép lấy một đứa con gái có đạo, cha mẹ bỏ đi vào trong Nam, làm vợ. Như thế là mất lập trường. Đảng không cho mà hắn vẫn lấy. Tội thứ ba của hắn là làm thơ đả kích chế độ. Thơ của hắn là thơ phản động. Hắn là thằng phản động nguy hiểm…

- Đâu ngươi đọc thơ của Trần Dần cho mọi người nghe xem hắn phản động như thế nào…

Liếc nhanh qua ghế nhân chứng, Tố Bồi Bút cao giọng đọc.

- Tôi ở phố Sinh Từ
Những ngày ấy bao nhiêu thương xót
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…
Em đi
trong mưa
cúi đầu
nghiêng vai
Người con gái mới mười chín tuổi…

Giơ tay lên để ngăn không cho Tố Bồi Bút đọc tiếp, Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi.

- Ngươi nói thơ của Trần Dần là thơ phản động, nhưng phản động ở chỗ nào đâu?

Nhếch môi cười Tố Bồi Bút trả lời liền.

- Thưa ngài … Mấy câu thơ này chỉ hắn phản động:

Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ

Đang ngồi lim dim có lẽ vì buồn ngủ, Diêm Vương chợt mở mắt rồi lên tiếng.

- Cái thằng ni lạ… Mấy câu thơ hay như vậy mà ngươi nói là phản động. Bộ mày muốn chụp mũ ai là phản động cũng được sao mậy… Người ta đi dưới mưa mà mưa nhiều quá nên không thấy đường, thấy phố, thấy nhà là chuyện thường…

Nghe Diêm Vương lên tiếng không đồng ý, Tố Bồi Bút nhỏ nhẹ trình bày.

- Bẩm Diêm Vương… Để con giải thích cho ngài thấy cái chất ” phản cách mạng ” trong mấy câu thơ của thằng Trần Dần. Nó có ý chê bai chế độ ở điểm là dưới sự lãnh đạo anh minh của đảng, nhà cửa và phố xá đều sập hết cho nên hắn không thấy. Thứ nhì hắn nói dưới sự lãnh đạo sáng suốt của bác mà hắn lại đói tới độ mờ cả mắt không thấy phố, không thấy nhà gì hết. Cái ý phản động của hắn nằm chình ình ở chỗ đó… Đã thế thôi đâu. Mấy câu thơ sau đây chỉ lời con nói là đúng y chang:

Gặp em trong mưa
Em đi tìm việc
Mỗi ngày đi lại cúi đầu về
- Anh ạ!
họ vẫn bảo chờ…
Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?
Trời mưa, trời mưa
Ba tháng rồi
Em đợi
Sống bằng tương lai
Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi
Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…

Hoặc nó viết những lời sau đây: “Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm… tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết..”

“… Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào. Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách “

Diêm Vương thấy chưa. Nó viết như thế là nó có tư tưởng phản cách mạng. Nó tuyên truyền cho toàn dân biết về tình trạng hổng có việc làm, tình trạng suy sụp của nền kinh tế định hướng xã rác chủ nghĩa…

Thôi Phán Quan ngắt lời Tố Bồi Bút bằng một câu hỏi.

- Ủa… Ta nghe nói Việt Nam có tự do mà…

Tố Bồi Bút gật đầu lia lịa.

- Bẩm ngài nói đúng lắm. Xứ của tôi là một trong những xứ có nhiều quyền tự do mà ngay cả ở những nước dân chủ cũng không có… Dĩ nhiên tự do nào cũng có giới hạn của nó…

Diêm Vương gật gù.

- Đâu ngươi nói về tự do ở Việt Nam đi chứ ta nghe dân ở xứ của ngươi đang kêu gào vì bị mất tự do…

- Bẩm Diêm Vương ngài đừng có nghe lời mấy thằng phản động hay chống đối. Tụi nó phao tin đồn thất thiệt đó. Xứ con dân có nhiều tự do lắm mà các xứ tây phương hổng có. Cái đám trí thức và văn nghệ sĩ kêu gào đòi tự do thì đảng với bác cho chúng nó tự do mà chúng nó đâu có thèm…

- Bác với đảng của ngươi cho dân tự do gì đâu nói ta nghe coi?

- Bẩm ngài đảng của con anh minh, bác con sáng suốt lắm nên cho dân tha hồ được hưởng tới sáu thứ tự do mà chỉ cấm có hai thứ nhỏ nhỏ mà thôi. Đó là tự do đói, tự do bị bóc lột, tự do ở tù, tự do bị bịt miệng, tự do bị đạp vào mặt và tự do chết. Đảng chỉ cấm có hai thứ là tự do ăn nói và tự do chống lại đảng thôi. Thằng Trần Dần và đám trí thức đâu biết là bác với các đồng chí trong bộ chín chị đang phải họp hành đêm ngày để thi hành chính sách tam dân…

Nghe Tố Bồi Bút nói tới đó Diêm Vương sáng mắt lên sắm nắm hỏi.

- Có thực vậy à. Ta nghe nói bên Tàu cũng có ông gì đó chủ trương cái thuyết tam dân… Đâu ngươi nói ta nghe cái thuyết Tam Dân của bọn ngươi. Nghe mà lọt lỗ tai là ta sẽ không bắt tội bọn ngươi…

Được Diêm Vương hứa hẹn Tố Bồi Bút rung đùi cười lên tiếng.

- Trình Diêm Vương. Bác của con là nhân tài có một không hai của nước Việt và luôn cả thế giới nữa. Bởi vậy bác mới được người người xem là đỉnh cao trí tuệ. Chính sách Tam Dân của bác vừa đem ra thi hành là ‘‘ bốn phương phẳng lặng, non sông vững vàng” liền…

Diêm Vương hơi nhỏm người dậy có lẽ vì bị kích thích bởi cái thuyết Tam Dân mà Tố Bồi Bút sắp nói ra. Ngay cả 9 vị bồi thẫm và mọi người tham dự cũng đều chú ý khiến cho phòng xử im lặng như tờ ngoại trừ giọng nói oang oang của Tố Bồi Bút.

- Sau ba ngày hội họp và bàn cãi, ăn mất hai con heo quay, uống cạn mấy chục hũ ngũ gia bì và mai quế lộ, bác và bộ chín chị đã quyết định ban bố chính sách Tam Dân. Đó là Dân Đói, Dân Ngủ, Dân Ngu…

- Ngươi nói sao ta nghe không rõ… Nói lại coi…

Diêm Vương lên tiếng hỏi dồn. Có lẽ cái giọng miền Trung của Tố Bồi Bút hơi nặng, hắn phát âm tiếng đói thành ra ” đọi ” do đó mà Diêm Vương không hiểu.

- Trình Diêm Vương chính sách tam dân của bác là dân đói, dân ngủ, dân ngu…

Mọi người nhìn nhau ngơ ngác không hiểu Tố Bồi Bút nói cái gì. Ngay cả Thôi Phán Quan cũng nhìn xuống chỗ giáo sư Trương Tửu như để hỏi ý kiến. Nhưng giáo sư Trương chỉ cười lắc đầu tỏ ra mình không biết.

- Hắn nói cái gì dân đói, dân ngu, dân ngủ… Tớ chẳng biết hắn nói cái đếch gì…

Mọi người xì xào bàn tán mỗi lúc một nhiều hơn khiến cho Diêm Vương phải gõ búa làm hiệu cho họ im lặng. Quay qua Tố Bồi Bút, Diêm Vương nghiêm giọng.

- Cha chính sách này coi bộ mới lạ à nghe. Ta cũng mới nghe lần đầu. Đâu ngươi giải thích cho ta và mọi người nghe thử coi..

Cười chúm chiếm họ Tố hắng giọng.

- Trình Diêm Vương chỉ có mình bác mới đủ thông minh và sáng suốt nghĩ ra chính sách tam dân. Nó được chia làm ba giai đoạn: thứ nhất là bỏ đói dân. Hể dân đói thời sinh ra dân ngủ và dân ngu. Con lấy thí dụ như vầy cho Diêm Vương và mọi người dễ hiểu. Ở các nước tự do dân chủ thời dân làm có 8 tiếng đồng hồ một ngày là đủ ăn rồi. Ngoài 8 giờ đồng hồ dành cho ngủ họ còn có 8 giờ để học hành, đọc sách báo, xem truyền hình để biết tin tức cũng như mở mang trí óc của mình. Cũng vì thế mà họ mới khôn ngoan, biết suy nghĩ đòi hỏi quyền lợi này quyền lợi nọ. Trong khi ở nước con, dân ngu khu đen phải đi cày 15, 16 tiếng đồng hồ một ngày mà chưa đủ ăn đủ mặc, về nhà mệt quá lăn đùng ra ngủ, mai sáng thức dậy đi cày tiếp do đó họ có thời giờ đâu mà học hỏi để biết tự do, nhân quyền và dân chủ. Cha mẹ nghèo quá không có đủ phương tiện cho con cái đến trường nên trẻ con nó ngu hết ráo. Rồi mai mốt thành người lớn nó cũng ngu luôn. Đảng con ban hành chính sách tam dân này được vài năm là không còn có ai chống đối, biểu tình đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền gì hết. Cả nước êm ru bà rù vì đói quá nói không nổi hơi sức đâu mà biểu tình hay xuống đường đòi hỏi…

Diêm Vương gật gù.

- Quả là chính sách độc nhất vô nhị. Ở dưới âm phủ này cũng có nhiều chính trị gia lỗi lạc mà ta chưa nghe họ nói về chính sách tam dân giống như của nhà ngươi nói…

Liếc thấy đồng hồ trên tường chỉ đúng 5 giờ Thôi Phán Quan xin phép Diêm Vương tạm ngừng phiên xử để mọi người nghỉ ngơi. Gật đầu Diêm Vương nói.

- Ta cũng cần phải về nhà uống thuốc. Nghe thằng Tố Bồi Bút này nói về thuyết Tam Dân, ta nghĩ ta bị lên huyết áp..

giavui
07-11-2014, 08:45 PM
- 6 -
Những ÔNG BÌNH VÔI ” của đảng

Hôm nay phiên tòa bắt đầu sớm hơn ngày hôm qua 1 giờ tức là bắt đầu lúc 9 giờ sáng. Trong ngày thứ hai của phiên tòa người ta thấy hai dãy bàn dành cho nhân chứng chật ních người ngồi. Dường như có thâm ý nào đó, Thôi Phán Quan đã mời thêm nhân chứng mà đa số thuộc giới văn nghệ sĩ. Người ta nhận thấy trong số nhân chứng mới này có sự hiện diện của Thụy An, Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Trần Duy, Tử Phác, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Sĩ Ngọc, Chu Ngọc, Văn Cao, Nguyễn Văn Tý, Phùng Quán, Hoàng Tích Linh, Trần Công, Trần Thịnh, Phan Vũ, Hoàng Huế, Huy Phương, Vĩnh Mai, Như Mai tức Châm Văn Biếm, Hữu Thung, Nguyễn Khắc Dực, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Yến, Thanh Bình, Yến Lan, Nguyễn Thành Long, Trần Lê Văn, Lê Đại Thanh…

Đợi cho Diêm Vương, 9 vị bồi thẫm và người tham dự cũng như Tố Bồi Bút an vị xong; Thôi Phán Quan tiếp tục vụ xử bằng câu nói.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quý khán thính giả tham dự. Để tiếp tục phiên xử tôi kính mời nhân chứng thứ ba. Đó là nhà thơ Lê Đạt…

Người mà Thôi Phán Quan gọi là thi sĩ Lê Đạt đứng dậy giơ tay vẩy mọi người khi đi lên ngồi vào ghế của nhân chứng. Đợi cho nhân chứng thề thốt xong Thôi Phán Quan nhỏ nhẹ hỏi.

- Xin ông vui lòng cho tòa và bồi thẫm đoàn và mọi người biết trước khi vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, ông đã giữ chức vụ gì trong đảng hoặc nhà nước của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ?

Hơi ngần ngừ giây lát nhà thơ họ Lê mới lên tiếng trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Tôi làm trong ban Tuyên Huấn, bên cạnh các ông Tố Bồi Bút và Trườn Chui. Tôi là bí thư văn nghệ cho ông Trườn Chui…

- Như vậy ông cũng là người có chức vụ trong guồng máy của đảng cộng sản… Ông được đảng ưu đãi trước khi có vụ Nhân Văn Giai Phẩm nổ ra…

- Tôi nhìn nhận có chuyện đó. Không cần phải làm một tên bồi bút, không cần phải nâng bi đảng và ca tụng bác, chỉ cần bưng mắt che tai, tôi cũng có thể sống ung dung và sung sướng như bao nhiêu người khác. Tuy nhiên tôi yêu tự do…

Gật gù mỉm cười tỏ vẻ hài lòng Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Ông có thể cho tòa biết ông đã làm chuyện gì mà bị tên Tố Bồi Bút nói riêng và đảng nói chung ngược đãi

ông?

- Thưa tôi làm báo…

Tố Bồi Bút vọt miệng.

- Trình Diêm Vương… Thằng đó làm ” báo hại” đảng và nhà nước nên bác mới ra chỉ thị đì cho nó chết luôn…

Diêm Vương trừng mắt.

- Chừng nào ta cho phép nói ngươi mới được nói. Ngươi mà còn nói leo lần nữa là ta sai lính dũa lưỡi nghe chưa…

Bị Diêm Vương xì nẹt Tố Bồi Bút cười im lặng. Hướng về các người tham dự đang ngồi nghe Lê thi sĩ nói chậm và rõ ràng.

- Tôi là một trong bốn người của ban biên tập tờ báo Nhân Văn. Tôi là người chịu trách nhiệm về nội dung bài vở của tờ Nhân Văn…

Thôi Phán Quan mỉm cười hỏi tiếp.

- Tôi nghe người ta khen thơ của ông…

Lê Đạt cười nhẹ.

- Cám ơn ngài. Tôi chỉ là một nhà thơ trẻ so với các nhà thơ nổi tiếng khác…

- Ai là một trong số các văn thi sĩ nổi tiếng khác?

Thôi Phán Quan hỏi tiếp. Hiểu ý của ông ta, thi sĩ họ Lê cười trả lời.

- Ba người trong số các thi sĩ lừng danh là ông Tố Bồi Bút, ông Chế Lan Viên và ông Xuân Diệu…

Thôi Phán Quan gật gù.

- Tôi nghe đồn họ nổi tiếng nhưng chưa biết rõ lắm… Dường như ngoài tài cầm bút họ còn nổi tiếng về cái tài khác…

Lê Đạt cười nhẹ không phát biểu gì thêm khi nghe Thôi Phán Quan nói. Từ dưới chỗ người tham dự ngồi vang lên giọng nói lớn.

- Ba thằng đó nổi tiếng về tài nâng bi với bợ đít chứ tài gì… Tôi rành tụi nó quá mà…

Mọi người cười cái rần. Thôi Phán Quan mỉm cười ý nhị khi thấy có người diễn đạt cái ẩn ý của mình. Quay qua nhà thơ họ Lê ông ta hỏi một câu.

- Ông có thể đọc cho 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một vài bài thơ của ông?

Thiên hạ vỗ tay hoan hô trước khi nghe thi sĩ họ Lê đọc thơ. Hơi mỉm cười ông ta cao giọng đọc. Giọng của ông ta nghe ấm và dịu.

Chế độ ta không cấm họ yêu nhau
Mà sao họ chết?
Người công an đứng ngã tư đường phố
Chỉ huy
bên trái
bên phải
xe chạy
xe dừng
Rất cần cho việc giao thông.
Nhưng đem bục công an
máy móc
đặt giữa tim người
Bắt tình cảm ngược xuôi
theo đúng luật đi đường nhà nước
Có thể gây rất nhiều chua xót
ngoài đời

Mọi người vỗ tay rần rần hoan hô những câu thơ rất mới, rất lạ và có ý nghĩa của thi sĩ. Đợi cho tiếngvỗ tay dứt xong Diêm Vương mới gật gù lẩm bẩm.

- Em này làm thơ nghe hay. Làm thơ như vậy mới đúng là thi sĩ. Còn cái thằng Tố làm thơ nghe mà điếc con ráy. Vậy mà nó cũng được làm lớn, được tặng giải thưởng văn học này nọ…

Quay qua Lê Đạt, Diêm Vương tươi cười phán.

- Em làm thơ nghe thấm lắm. Đâu em còn bài thơ nào đọc lên cho ta nghe coi…

- Trình Diêm Vương… Tôi ngại…

Hiểu ý Lê thi sĩ, Diêm Vương gằn gằn giọng nói.

- Em chớ sợ. Đây là âm phủ chứ không phải trần thế đâu. Thằng nào hù dọa hay chụp mũ em là phản động ta sai lính còng đầu nó liền…

Được lời hứa hẹn của Diêm Vương, Lê Đạt gật đầu cao giọng đọc. Giọng của ông ta nghe thật buồn.

- Trong khoảnh khắc / đối diện / cùng sự thật
Sởn tóc gáy / như kẻ sát nhân / đột nhiên / thấy / người mình thủ tiêu / lững thững / hiện theo về / đối chất
Anh có thể lừa /cha mẹ / vợ con / lừa cả nước
Nhưng thế nào / cũng có lần / anh phải lôi ra trước / vành móng ngựa bản thân anh…

Nghe dứt câu Diêm Vương vỗ bàn cái rầm cất giọng oang oang.

- Cha chả… Hay quá là hay… Đọc tiếp đi em… Để xong xuôi phiên tòa này ta sẽ sai trẻ tổ chức đêm ngâm thơ của em…

Được Diêm Vương khen thi sĩ họ Lê hừng chí cất giọng sang sảng.

- Tôi mới hai mươi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ giây vào mũi

Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Ỳ như một chiếc bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại

Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi…

Lê Đạt vừa đọc xong Diêm Vương nhìn Tố Bồi Bút khi thấy hắn đưa tay lên xin phép nói.

- Ngươi muốn gì nữa đây. Đàn ông mà sao ngươi nhiều chuyện quá vậy…

Quay qua Thôi Phán Quan ông ta hỏi.

- Cho hắn nói chuyện không?

Thôi Phán Quan cười nhẹ.

- Trình Diêm Vương… Cứ cho hắn nói chuyện thoải mái. Không cho hắn nói thời hắn lại đi tuyên truyền âm phủ sao giống Việt Nam không có tự do ăn nói, không có tôn trọng nhân quyền… Hắn sẽ rêu rao là âm phủ bịt miệng dân. Gì chứ nói láo là nghề của hắn và các đồng chí của hắn…

Được Thôi Phán Quan binh vực Tố Bồi Bút khoái chí vừa rung đùi vừa lên tiếng.

- Bẩm Diêm Vương… Ngài thấy thơ của nó phản động chưa, có vấn đề chưa. Nó chê mấy người sống lâu trăm tuổi như tui và bác Hình ỳ ra như chiếc bình vôi, càng sống lâu càng tồi, càng sống càng bé lại…

- Bởi vậy ngươi mới ghét hắn và thù hắn?

Thôi Phán Quan vặn và Tố Bồi Bút gật đầu không do dự.

- Không những ghét hắn, thù hắn mà tôi còn được lịnh viết bài đánh hắn…

- Phải ngươi viết như vầy không?

Thôi Phán Quan mở quyển Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận rồi lớn tiếng đọc.

- Cuộc tấn công vào chế độ ta và Đảng ta đã bắt đầu trên mặt trận văn nghệ từ đầu năm 1955, ngay khi hòa bình vừa lập lại.

Trong khi bọn gián điệp còn giấu mặt chờ đợi thời cơ, và bọn tờ- rốt-kít tích cực chuẩn bị lực lượng ở trường Đại học, thì bọn phản Đảng ẩn nấp trong báo Văn Nghệ của Hội Văn Nghệ cùng những tên phản Đảng trong phòng Văn nghệ quân đội, đã kết thành một bè phái chống Đảng trong Văn nghệ.

Như lời thú nhận của chúng, cuộc phê bình tập thơ Việt Bắt là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái “điệu tâm hồn ” ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.

Đương nhiên cái” điệu tâm hồn ” ấy của Lê Đạt xướng lên không thể nào hoà được với cái điệu lớn của cách mạng, và cũng rất tự nhiên nó chỉ hoà được với ” tiếng sáo tiền kiếp ” lóc gân của tên mật thám Trần Duy.

Cũng lúc ấy, bọn Trần Dần, Tử Phác – những đứa con hư hỏng của Hà nội cũ- nay lại trở về với” cảnh cũ người xưa ” bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội” nghẹt thở”, chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống trụy lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là ” những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong bên Trung Quốc, Trần Dần gióng lên ” tiếng trống tương lai ” chửi cán bộ chính trị là ” người bệnh “, ” người ròi “, ” người ụ Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh ” buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu ” của họ.

Họ đòi thực hiện những gì? ” Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội văn nghệ trực thuộc Hội văn nghệ, không qua Cục Tuyên huấn và Tổng cục Chính trị “. Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ. “

Đọc xong Thôi Phán Quan quay qua cười nói với nhà thơ Lê Đạt.

- Tôi xin ông thuật lại cho bồi thẫm đoàn nghe về chuyện ông bị bắt đi lao động cải tạo.

Trầm ngâm giây lát nhà thơ Lê Đạt mới từ từ lên tiếng

- Lúc đầu mới đi thì tôi cũng lao động, cũng hăm hở đi vì chắc là hai năm thì xong. Thế nhưng mà hai năm rồi cũng không thấy ai nói gì về vấn đề đó cả và lại tiếp tục hai năm nữa… rồi dần dần nó phai nhạt đi không ai nhắc đến chuyện đó nữa. Trong quãng thời gian bị lao động cải tạo thời lúc nào người ta gọi tôi đi lao động cũng được. Thời gian đó kéo dài 10 năm. Lẽ dĩ nhiên là trong 10 năm ấy, không phải lúc nào tôi cũng bị bắt buộc đi. Người ta gọi đi, rồi người ta lại cho mình về; về rồi, họ lại kéo mình đi, nghĩa là trong 10 năm là thời gian mình phải dành cho việc đi lao động cải tạo. Thế còn sau này hết 10 năm thì ở nhà. Nhưng mà ở nhà thì… Tôi không ngờ nó kéo dài đến thế. Cả thời kỳ đi lao động lẫn thời kỳ ” cấm ” là gần 40 năm. Mình thấy nó đằng đẵng mà mình coi như là số mệnh thôi…

Ngừng lại uống ngụm nước lạnh xong nhà thơ thở dài tiếp.

- Lúc bấy giờ, nếu tôi không có sự cưỡng lại thì tôi là một người vứt đi, thành một cái rẻ rách. Tôi cho cái việc rẻ rách hóa con người đó, đảng và nhà nước phải chịu trách nhiệm…

Lúc ấy, Thủy, vợ tôi mới 18 tuổi. Ngày nào cũng có những cán bộ tốt bụng đến vạch rõ bộ mặt phản động của tôi và khuyên vợ tôi nên cắt đứt với tôi. Thủy không được làm diễn viên nữa, bị đẩy xuống làm phục trang và bị đối xử như một con chiên ghẻ. Có một điều chắc chắn là không có vợ tôi, thì tôi đã thân tàn ma dại rồi. Tôi đã làm lỡ cuộc đời nghệ thuật của Thủy và vì tôi mà Thủy mắc bệnh suy nhược thần kinh cho đến bây giờ. Được phục hồi, tôi còn nhúc nhắc sáng tác được, nhưng Thủy thì được gì ngoài chứng bệnh suy nhược thần kinh, tê buốt khắp mặt đến mức nhiều khi không thể hé miệng được…

Tiếng thở dài buồn bả chấm dứt lời kể của người làm thơ. Không khí lặng trang. Lát sau Diêm Vương mới nói với Lê Đạt một cách thân mật.

- Em còn bài thơ nào nữa không đọc cho ta nghe chơi… Được Diêm Vương hỏi nhà thơ họ Lê cười vui.

- Bẩm Diêm Vương… Tôi xin đọc bài thơ CỬA HÀNG LÊ ĐẠT cho ngài và mọi người nghe chơi…

- Quý khách qua phố Trần Hưng Đạo
Hãy dừng chân / mấy phút / tham quan
Cửa hàng Lê Đạt.

1.

Lê Đạt nào ?
Có phải Lê Đạt / của Những người tự tử / của Những cái bình vôi
Chán thơ thẩn rồi sao / mà lại về mở hiệu
Hay vợ đau, con yếu / Làm thơ không đủ tiền
Hay bị phê bình / kiểm thảo
Giờ như chim phải tên / Động thấy cây cong / là sợ
Hay thơ tồi không người tiêu thụ
Phải bán kí-lô…

2.

Làm thơ đã đành là khó sống
Một bài thơ Văn nghệ trả / năm nghìn
Mua soẳn vừa hai hộp sữa
Nhưng kinh tế dân ta còn khổ / làm thế nào
Cả nước nghèo tần tảo nuôi nhau
Đủ sống làm thơ / thế là tốt lắm
Nếu không có mấy ông phê bình
Mác xít thiên binh / Duy vật chi hồ giả giã
Nhai chữ mòn răng / chưa vỡ sự đời
Mấy chữ i- tờ lòng người / không biết
Ngắt ngọn bao nhiêu suy nghĩ /tìm tòi
Ra chữ nghĩa / nhiều khi / cũng giết người
Có những ngày chán nản / Tôi muốn đi thật xa
Không muốn nhìn / không muốn nghe / không muốn viết
Có những ngày / tôi chỉ còn muốn chết
Nhưng thương vợ / thương con / yêu tiếng Việt
Tôi không đành đi
Quê lạnh thân cò lặn lội

3.

Trần Hổ đi phao tin
” Lê Đạt mở cửa hàng phở chó “…

Nghe tới đó thiên hạ bật cười rần rần. Diêm Vương cũng cười gật gù.

- Ta nghe ông Tản Đà gì đó khen thịt chó ngon lắm. Xong vụ án này chắc ta phải tới cửa hàng phở chó của em ăn cho biết mùi vị…

Tố Bồi Bút vọt miệng xen vào.

- Bẩm Diêm Vương. Dưới âm phủ đảng con cũng có cửa hàng bán thịt chó. Bảo đảm đầy đủ chất lượng như ở Hà Nội…

Hơi cau mày Diêm Vương vặn hỏi.

- Cái gì mà đầy đủ chất lượng. Ngươi nói gì nghe chói cái lỗ tai ta quá. Thức ăn mà nói là đầy đủ chất lượng. Mày đúng là dốt mà hay nói chữ…

Bị Diêm Vương xì nẹt Tố Bồi Bút cười hề hề. Thấy vậy Diêm Vương mới hỏi tiếp.

- Ngươi làm gì trong cái quán thịt chó đầy đủ chất lượng của ngươi?

- Dạ con làm công cho bác và đảng. Con phụ trách phần văn nghệ giải trí. Hể khách vào ăn thì con tiếp rước và ngâm thơ cho họ nghe… Khi đông khách quá thời con chạy bàn luôn. Bởi vậy khách ăn mới gọi con là ” thi sĩ bưng tô ”. Còn khi nào quán ế ẩm thì con phụ trách dọn dẹp và làm sạch sẽ bởi vậy bác và đảng cho con cái chức ” thi sĩ bưng bô “…

Diêm Vương mỉm cười khi nghe Tố Bồi Bút khoe khoang chức vụ. Ông ta chưa kịp nói gì, vị sứ giả áo đen hắng giọng.

- Diêm Vương đừng có tin lời hắn. Lúc tiệm bán thịt chó của bác và đảng của hắn mới mở thần có tới ăn thử. Thằng chủ tiệm là thằng chó chết nên hắn nấu toàn thịt chó thúi hoắc ăn không được…

Quay qua Hắc y sứ giả, Diêm Vương hỏi.

- Ai là chủ tiệm vậy. Ta muốn biết để rút giấy phép hành nghề của hắn… Để lạng quạng là toàn thể âm phủ sẽ bị hắn đầu độc hay bị lây bệnh…

Hắc Y Sứ Giả cười cười không trả lời câu hỏi của Diêm Vương. Giọng ngâm thơ của nhà thơ Lê Thành Tựu vang lên trong căn phòng im lặng.

- Anh em ôm bụng cười
Ô hay, sao lại cười
Tôi không định mở cửa hàng phở chó
Nhưng sáng tác cho đời thêm vài thứ phở
Chẳng là nên hay sao
Chẳng hơn ngồi nhai đi nhai lại
Mấy vần thơ thịt rừ
Bã nát từ thời cà cộ.
Một tý anh / một tý em
Tý ty nhiệm vụ / tý ty căm thù
Tý ty diễm huyền / tý ty mông vú
Đổ làm mấy chục thùng thơ
Bùi Thị Xuân (1) / nếu không còn hàng phở
Đời sẽ buồn biết đến bao nhiêu
Như Hồ Gươm không người làm xiếc
Như Hồ Tây vắng bánh tôm
Ta sẽ mất rất nhiều Hà Nội
Nước béo / mỡ gầu / tôm tươi / thơ mới
Áo nắng tuổi cờ thu chín tới Thủ đô

4.

Anh em tôi đẻ sau đến muộn
Mở cửa hàng / sinh sống / khó khăn
Bao nhiêu chỗ thơm / người ta “xí” trước
Hiệu 20 năm / Hiệu 30 năm / Hiệu ” nhất Thủ- đô “
Hiệu ” gia truyền chính cống “
Phong lưu sống nhờ độc một cái tên
Anh em tôi đành ra góc phố
Đăng ký mở hàng
Chưa có tiếng tăm / rồi sẽ có tiếng tăm
Miễn chịu khó làm ăn / cần cù / lương thiện
Bà con / cho mấy tấm ni lông
Lợp lên làm mái
Mấy tấm dù Điện biên / quây lại làm tường
Mới ra ở riêng / bạn bè thương giúp đỡ
Ôm lấy bóng đèn / Văn Cao vẽ một con mắt đỏ
Giải thích /” ngày đêm mất ngủ / đăm đắm sự đời”
Ngoài cửa hàng / Trần Dần treo / quả tim đồ sộ
Khắc mấy câu thơ Mai – A ” Yêu / ghét / khổng lồ “
Hôm khai trương / Hoàng Cầm giọng oanh vàng đất Bắc / Sẽ đến ngâm thơ
Nguyễn Sáng vẽ chân dung người đến dự
Tử Phác mắt Rômêô mơ buồn thả điệu “Quay tơ”
Phùng Quán ” vượt Đảo ” về múa micrô độc tấu…

5.

Cuộc sống thật vui / nhưng thật là vất vả
Méo mặt / lo cơm / lo gạo / lo ốm / lo đau
Lo hàng trăm thứ
Vật chất đã đành là hạ tầng cơ sở
Nhưng người ta đâu chỉ có dạ dày
Còn tim đòi rung / còn đầu đòi nghĩ
Hằng hà sa số nhu cầu
Anh thích đi câu
Anh thích đi píc-níc
Chị thích đầu xúc xích
Chị thích Uxi
Như sách nói:
Bách nhân bách thích
Anh hôm nay đi chơi /Trời cao thu mát
Gặp một tà áo bay phơ phất bên hồ
Con ruồi đậu mép ngẩn ngơ
Đêm khép cửa / lòng còn ngỏ gió
Còn anh / hai thứ tóc trên đầu / chưa vợ
Mưa dầm bến Nứa lỡ xe
Đầu gối ba lô xẹp mộng
Buồn như một sự hiểu lầm
Còn anh / con sài /vợ chửa
Sòn sòn / hai năm đôi
Quanh quẩn tã con / thuốc vợ
Còn anh / mơ ước trong đầu tấy mủ
Bao nhiêu dự định quay cuồng
Bức bối, tay chân / đói thèm cửa sổ
Tàu mơ neo nặng nợ rãnh đời.

6.

Xin các anh hãy đến hàng tôi
Nếu cần vui / tôi sẽ đi làm xiếc
Trồng cây chuối ngược / đánh trống thổi kèn
Tôi sẽ làm thằng hề / ” ới a “/ bông phèng nghịch ngợm
Giành giật mảnh vui / từ tiếng thở dài
Những người ít cười / thường hay chết sớm
Tôi sẽ xào thêm xanh thêm mộng
Tôi sẽ làm thầy tướng / Chấp mấy tử vi / mấy bói bài xì
Người làm thơ nào chẳng chút ít tiên tri
Nếu những cái hàng ngày ỉ eo đê tiện
Mốc nồm ăn meo khắp cả thân hình
Tim tro nguội đến mèo không thèm ngủ
Tôi sẽ chụm thơ tôi thành ngọn lửa
Sấy lại tâm hồn mưa phùn
Trên đường mưu sinh trường kỳ mệt mỏi
Tôi sẽ tiếp máu thơ nóng hổi
Lên dây cót lại trái tim
Bước túc tắc / phố xanh mùa tíc tắc

7.

Để tạo dựng một cửa hàng nho nhỏ
Tôi đã đổi những ngày hớn hở / mười tám đôi mươi
Những má gọi / những vườn cười chín tới
Tôi đã sống những ngày lầm lũi
Quên ngủ quên ăn
Tôi đã chịu đau thương bất công hắt hủi
Tuổi thơ làm hại tuổi trời (2)….
Tôi vẫn đi / như cung mệnh / sao Đà la đầy dọa
Cho đến lúc / trí trá / cường quyền / đểu giả
Không còn hành hạ con người
Sao ta chưa khai thác cung trăng / thành chỗ ở
Sao mới sáu bảy mươi / đời đã vội về già
Đến bao giờ mới có những thiếu nhi trăm tuổi
Ngậm ngùi thương ông Bành tổ chết non
Những bà mẹ vừa sinh con vừa hát
Chữ tự do mùa thật hạt bát cười…

Nghe xong bài thơ Diêm Vương gật gù khen hay xong tuyên bố tạm ngưng phiên tòa để mọi người dùng cơm trưa.

giavui
07-11-2014, 08:45 PM
-7-
Nỗi Buồn “Màu Tím”

2 giờ chiều. Đợi cho mọi người an vị xong, Thôi Phán Quan bước ra đứng nơi khoảng trống trước mặt Diêm Vương và dãy bàn dành cho bị can ngồi. Ánh mắt sáng rực của ông ta hướng về người dự khán xong di chuyển qua chỗ ngồi của bồi thẫm đoàn rồi sau cùng dừng lại nơi Hình Chí Mô. Mọi người nghe giọng nói rổn rảng của ông ta vang lên.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa đồng bào. Để tiếp tục phiên xử tôi xin mời một nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng lên trình bày về tội ác của Tố Bồi Bút nói riêng và của lão Hình Chí Mô và hội kín của hắn nói chung…

Hướng về dãy bàn nơi nhân chứng ngồi Thôi Phán Quan cao giọng.

- Tôi kính mời thi sĩ Hữu Loan…

Thiên hạ vỗ tay rần rần đồng thời đứng lên để tỏ lòng ngưỡng mộ và trọng vọng thi sĩ đã làm một bài thơ vượt không gian và thời gian…

Ai ai cũng đều chăm chú nhìn một ông già râu tóc bạc phơ, gầy gò, hốc hác, lụm cụm bước đi lên ghế ngồi của nhân chứng. Dường như động lòng thương hại và cũng để tỏ sự kính trọng của mình, Thôi Phán Quan ân cần hướng dẫn nhà thơ tới tận ghế ngồi. Đợi cho nhân chứng yên vị xong Thôi Phán Quan bắt đầu bằng câu nói.

- Dù ở âm phủ xa xôi song tôi cũng đã đọc qua bài thơ nổi tiếng của ông. Xin ông vui lòng cho mọi người biết động lực, hay nguyên do nào đã làm cho ông sáng tác một bài thơ được mọi người ưa thích từ xưa cho tới bây giờ và mãi mãi…

Nhờ ngồi ở hàng ghế đầu với khoảng cách gần cho nên Huyền thấy rõ nét buồn rầu và u ẩn hiện ra trên gương mặt già nua và nhiều nhăn nheo của nhà thơ. Hơi mỉm cười thi sĩ Hữu Loan cất giọng yếu vì tuổi già và bệnh hoạn.

- Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ duyên được cắp sách đến trường như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người, nhờ ông mà năm 1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – tôi chơi ngông vác lều chõng ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng con nhà nghèo tự học cũng có thể đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi chẳng có ý định dấn thân vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài Pháp thời đó rất khó khăn. Số người đỗ trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5, 6 chục năm sau những người cùng thời còn nhớ tên những cậu khóa ấy, trong số có Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh Văn Xuân, Đỗ Thiện và tôi…

Với mảnh bằng tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa dạy học. Nhãn mác con nhà nghèo học giỏi của tôi được bà Tham Kỳ chú ý, vời về nhà dạy kèm cho hai đứa con nhỏ. Tên thật của bà Tham Kỳ là Ngọc Chất, vợ của ông Lê Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội khóa đầu tiên. Ở Thanh Hóa, bà Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt đến…

Bà Kỳ là một người hiền lành tốt bụng, đối xử với tôi rất đàng hoàng tử tế, coi tôi chẳng khác người nhà. Nhớ lại ngày đầu tiên khoác áo gia sư, bà gọi mãi, đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi – mới chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ! “ . Chào xong, cô bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời. Thế là tôi dạy em đọc, viết. Tên em là Ninh, cha làm thanh tra nông lâm ở Sài Gòn nên sinh ở trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy đâu hiểu đó nhưng ít nói và mỗi lần mở miệng là cứ y như một ” bà cụ non ” . Đặc biệt em chăm sóc tôi hàng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi ăn, lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng ướt em vừa hái ở vườn; những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt…

Có lần tôi kể chuyện ” bà cụ non “ ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ chuyện đến tai em, thế là em dỗi! Suốt một tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành… Một hôm bà Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói rất nhiều, đã kể chuyện cho em nghe; rồi tôi đọc thơ… Trưa hôm ấy, em ngồi dậy, ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau, em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: ” Mới ốm dậy, còn yếu lắm, không đi được đâu! ” . Em không chịu, nhất định đòi đi cho bằng được. Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà Kỳ đưa em lên núi chơi…

Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc con, tôi đuổi theo muốn đứt hơi! Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên em. Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời. Không biết lúc đó em nghĩ gì. Bất chợt em hỏi tôi:

- Thầy có thích ăn sim không?

Tôi nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên, đi xuống sườn đồi, còn tôi vì mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ… Khi tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng.

- Thầy ăn đi!

Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng và trầm trồ:

- Ngọt quá!

Như đã nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm gì, nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được ăn những quả sim ngọt đến thế!

Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả này đến quả khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ tím, đôi môi cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá lên, em cũng cười theo!

Cuối mùa đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà Kỳ, tôi lên đường theo kháng chiến. Hôm tiễn tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… Lên tới bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn đứng đó, nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại cho tới khi không còn nhìn thấy em nữa…

Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được tin tức từ quê lên, cho biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 đã có nhiều chàng trai đến ngõ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không chịu ra tiếp ai bao giờ…

Chín năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp…

Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai gia đình không ” môn đăng hộ đối ” một chút nào. Mãi sau mới biết việc hợp hôn của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ” soạn kịch bản ” .

Một tuần sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, ” không đòi may áo mới trong ngày hợp hôn “ , bảo rằng là: ” Yêu nhau, thương nhau cốt cái tâm và cái tình bền chặt là hơn cả ” . Tôi cao ráo, học giỏi, làm thơ hay lại… đẹp giai nên em thường gọi đùa là ông chồng độc đáo.

Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa của gia đình em, nơi ông Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng. Đám cưới rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết!

Hai tuần phép của tôi trôi đi thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước đi, tôi lại quay đầu nhìn lại… Nếu như chín năm về trước, nhìn lại chỉ cảm thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống.

Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng ( thuộc ấp Thị Long, Nông Cống ), vì muốn chụp lấy tấm áo bị nước cuốn đi nên trượt chân té xuống sông chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em đi vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại cho tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi! Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm trong trái tim tôi.

Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng, không được cho đồng đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác không hồn… Dường như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn, cấp trên bảo ai có tâm tư gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn đau trong tôi được dịp bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi ngồi lặng đi ở đầu làng. Hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi, chép. Chẳng cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra:

- Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng có em vừa mới lớn
Khi tóc nàng đang xanh
Tôi người chiến binh
Xa gia đình…

Về viếng mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào chiếc quạt giấy để lại nhà một người bạn ở Thanh Hóa. Anh bạn này đã chép lại và chuyền tay nhau suốt những năm chiến tranh. Đó là bài thơ Màu Hoa Sim Tím…

Em Ninh rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi mới viết nổi những câu chiều hành quân/ qua những đồi hoa sim /những đồi hoa sim/ những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /màu tím hoa sim /tím chiều hoang biền biệt và chiều hoang tím có chiều hoang biết/ chiều hoang tím tím thêm màu da diết.

Mất nàng, mất tất cả, tôi chán đời, chán kháng chiến, bỏ đồng đội; từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần cũng vì tính tôi ” hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi “ . “Bọn nó ” nhiếc móc, chê tôi ủy mị, hoạnh họe tôi đủ điều, không chấp nhận đơn từ bỏ kháng chiến của tôi. Tôi chẳng cần, mặc kệ chúng! Tôi thương, tôi nhớ Hoa Sim của tôi quá rồi! Với lại, tôi cũng đã chán ngấy cái mặt nạ yêu nước của ” bọn nó ” rồi…

Nhà thơ ngừng lại để uống hớp nước. Giọng nói bùi ngùi và đôi khi có nước mắt của ông ta khiến cho Bình phải thở dài. Quay qua Huyền anh thấy cô nàng đưa khăn tay lên chùi nước mắt.

- Cũng vì bài thơ Hoa Sim Màu Tím này mà tôi bị người ta trù yểm và đày đọa…

Nghe kể tới đây Thôi Phán Quan chợt xen vào.

- Xin ông vui lòng cho biết lý do tại sao người ta lại hành hạ và ngược đãi ông chỉ vì bài thơ nổi tiếng này…

Thi sĩ Hữu Loan thở dài liếc qua chỗ Tố Bồi Bút rồi di chuyển về phía khung cửa sổ. Ánh mắt của ông ta nhìn vào quãng không như tìm kiếm hình bóng người vợ bất hạnh đã khuất vắng từ lâu lắm rồi. Lát sau ông ta mới thở dài từ từ nói tiếp.

- Tôi về quê chúng chẳng buông tha, theo dõi quản thúc, thường xuyên kiếm chuyện gây khó dễ tôi cũng chẳng cần biết. Theo tôi thì tình hình chung của đất nước bây giờ là thằng nào cũng lợi dụng trèo đầu cỡi cổ thằng dân chứ có cái gì đâu… Dù gian khổ và chết hụt nhiều lần, tôi nhất định không chịu quỵ lụỵ. Hồi ấy, ra làm ở ngoài trung ương thì bắt phải theo cộng sản nên tôi bỏ tôi về. Tôi bỏ về nó không cho về… Nó làm tội, làm tình; làm đủ cách để thủ tiêu nhưng mà tôi vẫn tin là tôi có sự che chở của Trời – Phật cho nên nó không thủ tiêu nổi, bao nhiêu lần đầu độc không xong… Đó là cái thời 1955 – 1956 khi phong trào Văn nghệ sĩ chống đảng bắt đầu bùng lên với sự xuất hiện của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chống chính sách độc tài và đồng thời chống những Văn nghệ sĩ bồi bút đang tâm lừa thầy phản bạn, dốc tâm ca tụng đảng để kiếm chút cơm thừa canh cặn của chế độ.

Làm thơ phải có cái tâm mà phải là cái tâm linh thật thiêng liêng thì mới có thơ hay. Thơ hay thì sống mãi. Làm thơ mà không có tình, có tâm thì chả ra gì! Làm thơ lúc bấy giờ là phải làm về đảng, ca tụng đảng, ca tụng cộng sản, ca tụng cái buôn bán chiến tranh. Bởi vì cái đánh nhau là cái dễ kiếm chác lắm. Mà kiếm chác ở cái chiến tranh ấy thì khó kiểm tra lắm cho nên những cái bọn ăn bẩn ấy bao giờ cũng chủ trương chiến tranh, buôn bán chiến tranh. Mà tôi thì tôi thấy cái đấy là cái khổ dân nhất nên tôi chống hết sức. Lúc giờ người ta đang một tí là đề cao Hình Chí Mô, hai tí là đề cao Hình Chí Mô… trong khi tôi lại đề cao cái tình yêu. Tôi khóc người vợ tử tế với mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó khóc như vậy, nó cho là khóc cái tình cảm riêng… Y như trong thơ nói đấy: tôi lấy vợ rồi đi bộ đội, mới lấy nhau được có hơn tháng, ở nhà bà ấy đi giặt rồi chết đuối ở sông… Tôi thấy đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc. Bài thơ ấy lúc bấy giờ nó cho là phản động, làm thơ là phải làm về cộng sản, làm về bác chứ không được khóc cái đau riêng của mình… Cái đau khổ riêng của con người tại sao lại không được khóc!?

Bọn nó xúc phạm đến danh dự và tình cảm thiêng liêng của người vợ mà tôi hằng yêu quý, cho nên vào năm 1956, tôi bỏ đảng, bỏ cơ quan về thẳng nhà để đi cày. Bọn ấy không cho bỏ, bắt tôi phải viết đơn xin. Tôi không xin… Tôi có cái tự do của tôi, cái chuyện bỏ đảng, tôi muốn bỏ là tôi bỏ không ai bắt được! Tôi bỏ tôi về, tôi phải đi cày, đi bừa, đi thồ, đi đốn củi đưa về, đi xe đá để bán, bọn nó phá tôi đủ cách, bắt giữ xe đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ phía trước, có hai càng phía sau thùng gỗ để đủn hay kéo đi. Xe cút kít nó cũng không cho, cấm không ai được bán bánh xe cho tôi nữa. Có lần tôi phải gánh bộ, gánh bằng vai tôi cũng cứ nhận. Tôi cứ gánh tôi làm, không bao giờ tôi chịu khuất phục. Thế mà chúng nó cũng theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an mật đi theo dõi, cho người theo hại tôi… Nhưng mà lúc nào cũng như có người cứu tôi! Có một cái lạ là chính thơ của tôi đã có lần cứu sống tôi! Lần đó tên mật vụ nói thật với tôi là được giao lệnh giết tôi nhưng nó là cái thằng rất yêu quê hương, nhớ quê nhà. Nó thường đem bài Yên Mô của tôi nói về tỉnh Ninh Bình của nó ra đọc cho đỡ nhớ, vì vậy không nỡ giết tôi.

Ngoài bài Yên Mô, tôi cũng có một vài bài thơ khác được mến chuộng. Sau năm 1956, khi tôi về rồi thấy cán bộ khổ quá, tôi đã làm bài Chiếc Chiếu, kể chuyện cán bộ khổ đến nỗi không có đến cái chiếu mà nằm…

Thi sĩ Hữu Loan dừng lại uống thêm ngụm nước. Lát sau ông ta mới thở dài từ từ nói tiếp.

- Cuộc đời đẩy đưa, định mệnh dắt tôi đến với một người phụ nữ khác, sống cùng tôi đến ngày hôm nay. Bà tên Nhu, cũng là một người phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Bà vốn là một nạn nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố điền chủ của đảng cộng sản.

Nhớ lại, lúc đó, tôi còn là chính trị viên tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố. Là người có học, hiểu biết luân thường đạo lý, lại có tâm hồn nghệ sĩ, nên tôi cảm thấy chán nản quá và không còn kính trọng lão Hình cũng như chủ nghĩa cộng sản nữa. Tuy nhiên, tôi đã trót làm đảng viên được mấy năm rồi. Thú thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng! Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách xã tôi ở độ mười lăm cây số, có một gia đình địa chủ rất giầu, nắm trong tay gần năm trăm mẫu tư điền. Ông địa chủ giầu lòng nhân đạo, rất yêu nước thương người. Ông thấy bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo tới chỗ đóng quân để ủng hộ. Tôi là Trưởng Phòng Tuyên Huấn và Chính Trị nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông ta, đồng thời đề nghị lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông. Riêng tôi rất quý mến và luôn luôn nhớ đến ông. Thế rồi một hôm tôi nghe tin gia đình ông ấy bị đấu tố. Hai vợ chồng bị đội đấu tố mang ra cho dân sỉ vả, nhục mạ, rồi chôn xuống đất để hở có cái đầu lên thôi. Xong, họ cho trâu kéo bừa qua lại hai cái đầu cho đến chết. Gia đình ông bà địa chủ xấu số chỉ còn có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đội đấu tố đuổi ra khỏi nhà với vài bộ quần áo. Dã man hơn nữa, chúng còn ra lệnh cấm không cho ai được liên hệ, nuôi nấng hoặc thuê cô ta làm công. Thời đó, cán bộ cấm dân chúng cả việc lấy các con cái của địa chủ làm vợ làm chồng…

Thôi Phán Quán ngắt lời nhà thơ bằng một câu hỏi.

- Như vậy là lão Hình Chí Mô và đảng cộng sản đối xử tàn tệ với những người đã giúp đỡ chúng?

Nhà thơ Hữu Loan gật đầu trả lời.

- Đúng như vậy. Tôi xác nhận điều đó…

- Họ muốn giết người là giết. Muốn kết tội ai là kết tội mà không có đem ra tòa xử gì hết…?

- Đúng như vậy…

Gật gù mỉm cười Thôi Phán Quan nói trong lúc nhìn về phía bồi thẫm đoàn ngồi.

- Mời ông kể tiếp…

Nhấc ly nước lạnh lên uống một ngụm cho thông cổ nhà thơ Hữu Loan hắng giọng kể tiếp.

- Biết chuyện thảm thương giáng xuống gia đình ông bà địa chủ mà tôi hằng nhớ ơn, tôi trở về xã đó xem cô con gái của họ sinh sống ra sao, vì trước kia tôi cũng biết mặt cô ta. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé mỗi buổi chiều cứ lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt…

Lúc gần tới nơi, may sao tôi gặp cô ta áo quần rách mướp, mặt mày lem luốc. Cô đang lom khom tìm lượm vài củ khoai mà dân bỏ sót nhét vào túi áo, rồi chùi vội một củ vào quần đưa lên miệng gặm. Quá xúc động, nước mắt muốn ứa ra, tôi lại gần hỏi thăm và được cô ta kể lại rành rọt hôm cha mẹ cô bị đấu tố chết ra sao. Cô ta khóc mếu nói rằng gặp ai cũng bị xua đuổi; hàng ngày cô phải đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong cái miếu hoang; cô rất đói khổ lo lắng, không biết ngày mai còn sống hay sẽ chết vì đói khát! Tôi nghe mà lấy làm thương tâm quá, trong lòng vô cùng xúc động. Suy nghĩ rất nhiều, tôi quyết định đem cô ta về quê tôi, rồi bất chấp lệnh cấm, tôi đã lấy cô ta làm vợ. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm. Khi xưa, quê tôi nghèo, nhà tôĩ cũng nghèo, tôi lại còn ở trong bộ đội nên không có tiền. Nhưng hai vợ chồng cố gắng chịu đựng đùm bọc nhau bữa đói bữa no… Cho đến ngày nay, bà ấy đã cho tôi 10 người con ngoan, 6 trai, 4 gái và cháu nội cháu ngoại hơn 30 đứa…

Thi sĩ Hữu Loan ngừng lời để ho. Căn phòng xử lặng trang trừ tiếng húng hắng ho của nhà thơ già yếu nhiều bệnh tật. Mọi người hầu như còn đang bàng hoàng vì lời kể của ông ta.

- Tôi là một người thích được tự do, tự do của riêng tôi và tự do của mọi người. Thấy ai mất tự do thì tôi bênh vực cho họ. Tôi cũng không bao giờ để cho chính mình bị mất tự do. Suốt đời tôi bao giờ tôi cũng thương người. Thấy người ta đói thì thương, ai rách thì cho mà ai bị áp bức thì binh vực. Không ai có thể áp bức tôi được. Áp bức là tôi chống lại. Nếu cần đánh nhau tôi cũng đánh…

Nhà thơ ngừng nói như để nghỉ mệt. Thôi Phán Quan mỉm cười. Đợi cho nhà thơ uống nước xong ông ta mới thong thả lên tiếng.

- Tôi có nghe một hiện tượng rất phổ biến…

Được Thôi Phán Quan mớm, nhà thơ hiểu ý cười nói.

- Đó là một hiện tượng quái dị do những tên nịnh hót và bợ đỡ làm ra. Chúng bắt mọi người gặp nhau, trước khi chào hỏi là phải nói như vầy:

- Ơn Đảng ơn Bác, đồng chí có khỏe không?

- Ơn Đảng ơn Bác lâu nay tôi ốm mãi. Ơn Đảng ơn Bác tôi mới xuất viện được hai hôm nay.

- Ơn Đảng ơn Bác vụ mùa này thu hoạch có đủ nộp không?

- Ơn Đảng ơn Bác thế mà em không hay biết gì…

Có tiếng người xì xầm và cười cợt phía bên trái của khu người ngồi coi rồi giọng nói vang lớn lên.

- Ơn đảng ơn bác mà sau năm 75 tôi mới biết ăn bo bo…

Một giọng đàn bà vang vang. Nghe giọng nói ai ai cũng biết bà ta già lắm.

- Dạ… Ơn bác ơn đảng nên sau năm 75 dân miền Nam tụi tui mới biết đói như thế nào…

Mọi người trong phòng xử đều nhìn chăm chú vào một bà già vừa đứng lên. Dường như có điều gì uất ức trong lòng bà ta tiếp với giọng hằn học.

- Ơn đảng ơn bác tui mới mở con mắt của tui ra để thấy cái Mặt Trận Ăn Cướp Miền Nam và bác Hình của tụi nó là quân ăn cướp, là đồ nói láo, cái thứ giết người không gớm tay, cái ngữ ăn cháo đá bát…

Bình tủm tỉm cười nhìn bà già mặc bộ bà đen cũ mèm, quấn ngang cổ cái khăn rằn đã bạc màu, đứng giữa phòng, miệng vừa nhai trầu vừa chửi trong lúc tay chỉ thẳng vào cái bàn mà lão Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đang ngồi. Theo đúng luật lệ của tòa, các người đi dự phiên xử không được nói nhưng chắc thông cảm cho sự uất ức của bà già nên Diêm Vương cứ để cho bà ta mắng chửi cho hả dạ. Bình thấy một người đàn ông ngồi bên cạnh bà lão níu tay ra hiệu cho bà ta ngồi xuống.

- Thôi má nói bao nhiêu đó đủ rồi… Má nói nhiều quá coi chừng người ta đuổi má ra bây giờ…

Nghe lời con trai bà lão ngồi xuống song còn lớn tiếng chửi thêm một câu.

- Tổ cha tụi nó… Tao phải chửi cho hả cái giận của tao. Hồi lúc trước khi giải phóng, tía mày nuôi tụi nó, cho tụi nó ăn ngập mặt rồi khi thống nhất tụi nó lại trở mặt nói tía mày là Việt gian, làm gián điệp cho Mỹ Ngụy… Mày coi có tức hông… Nó cướp ruộng của tao… Nó giựt nhà của tao. Nó đuổi tao đi cái vùng kinh tế chết đói. Mấy thằng cộng sản đồ bất nhơn. Ngữ đó sao thiên lôi không đánh cho nó chết hết đi cho rồi. Để làm chi cái đồ gian ác, cho nó làm tình làm tội người ta…

Đợi cho căn phòng xử trở lại im lặng Thôi Phán Quan mới lên tiếng hỏi thi sĩ Hữu Loan.

- Ông còn có điều gì để nói nữa không?

Khẽ thở dài nhà thơ nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi rồi cất giọng khàn khàn.

- Không có một cộng đồng mà thành viên nào cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh, không người nào biết phải biết trái, mà sống nổi lâu dài. Nhân loại sinh ra để hợp tác với nhau, để tin nhau là chính, mới sống được đến giờ. Ngày xưa, ngay hồi Pháp thuộc cả một vùng lớn như một huyện mới có độ 5, 6 tên trộm mà trộm không được pháp luật bênh như thế, mà dân cũng còn lo ngay ngáy cho số phận trâu bò của cải của mình. Còn bây giờ thì chỉ một thôn thôi cũng có hàng vài chục tên trộm cướp công khai, coi thường pháp luật thì hỏi người dân còn an cư thế nào để lạc nghiệp được?

Từ trước ai cũng một lòng tin bác và đảng, cả trong lĩnh vực văn học. Tự Liên Xô đưa về rồi tự Diên An đưa sang, tài liệu hiện thực xã hội chủ nghĩa, tức là con đường đi lên trong văn học nghệ thuật. Nghĩa là văn nghệ chỉ được nói đến cái xã hội thiên đường vô cùng đẹp chưa có, chưa biết bao giờ mới có chứ không được nói đến những cảnh trộm cướp áp bức bóc lột đang diễn ra trước mắt. Rất hiếm những bí thư, chủ nhiệm, thủ kho, cửa hàng trưởng tốt, phải nói hầu hết là ăn cắp, thi nhau để ăn cắp, nhưng văn học không được nói thực mà phải dựng lên toàn là những người lý tưởng. Luận điệu thuộc lòng là: Không có ăn cắp mới lạ, có ăn cắp là tất nhiên. Đấy là thứ sốt rét vỡ da của nhân vật khổng lồ, của một chế độ khổng lồ!

Cũng thành khổng lồ thật nhưng lại là khổng lồ đi xuống, một thứ quỷ khổng lồ hay một thứ khổng lồ không tim như đã dự báo trong một truyện ngắn ở Nhân văn. Đường lối đó ở ta đã được ông Trườn Chui tiếp thu, bảo vệ và truyền giáo như một thánh tông đồ xuất sắc.

Xưa nay bất cứ ai nhận một công việc gì đều phải có trách nhiệm với công việc ấy, công việc càng khó khăn, lớn lao trách nhiệm càng nặng nề, ở ta lại toàn chuyện ngược đời. Một lái xe chặn chết người muốn sửa sai không được, anh phải đi tù, phải tước bằng. Anh bác sĩ chữa bệnh làm chết người cũng thế, phải tước bằng và đi tù. Đấy là những người làm chết ít người. Còn những người cầm vận mệnh của cả nước đã làm cho đồng bạc mất giá hàng vạn lần, làm cho hầu hết công nông trường xí nghiệp phá sản, cho 90% con cái gia đình thành lưu manh, cho 50% trẻ em mất dinh dưỡng, giết oan bao nhiêu người có tài có đức, phá phách bao nhiêu công trình văn hóa lịch sử thời lại được thăng quan tiến chức, sống ung dung phè phởn trên máu và nước mắt của đồng bào vô tội… Chế độ cộng sản ngẫm ra còn tệ hại hơn thời quân chủ phong kiến xa xưa nữa…

Đợi cho nhà thơ Hữu Loan dứt lời và bước xuống ngồi vào hàng ghế dành cho nhân chứng xong Thôi Phán Quan đi tới đứng ngay trước mặt 9 vị bồi thẫm. Giọng điệu của ông ta vang lên trong căn phòng xử.

- Sau đây tôi xin mời một nạn nhân nữa lên ngồi ghế nhân chứng…

Hướng về những người ngồi nơi ghế nhân chứng vị đại diện cho âm phủ cao giọng.

- Kính mời thi sĩ Vũ Hoàng Chương…

Tên Vũ Hoàng Chương khiến cho mọi người xôn xao hẳn lên. Ngay cả Diêm Vương cũng lộ vẻ kinh ngạc khi nhìn thấy một người đàn ông dáng dấp nhỏ bé, gầy gò và có vẻ bệnh hoạn đang chậm chạp đi lên. Ông ta ăn mặc giản dị, ngoài khoác thêm chiếc áo veste cũ kỹ và hơi nhầu nát. Riêng Tố Bồi Bút thì “có vấn đề” liền khi thấy nhà thơ họ Vũ ngồi vào ghế nhân chứng.

Đợi cho nhà thơ họ Vũ làm thủ tục pháp lý và ngồi xuống ghế xong, Thôi Phán Quan đi ngay vào phiên xử bằng câu hỏi.

- Chắc hẳn ông không lạ gì với tên Tố Bồi Bút?

Vũ Hoàng Chương mỉm cười cất giọng nhỏ nhẹ.

- Thưa ngài tôi biết… Ông ta là một nhà thơ nổi tiếng…

Thôi Phán Quan cười nói đùa một câu.

- Chắc không bằng ông…

Nhà thơ họ Vũ cười điềm đạm.

- Điều đó tôi xin để cho những nhà phê bình văn học và nhất là những người yêu thơ thẩm định…

giavui
07-11-2014, 08:46 PM
Thôi Phán Quan cười gật gù trước câu trả lời khiêm nhường của một trong nhiều thi sĩ nổi tiếng của nước Việt Nam.

- Theo chỗ tôi biết thì ông bị đi tù sau ngày 30 tháng 4 năm 1975?

- Tôi bị họ bắt giam gần một năm. Sau đó họ thả tôi ra vì tôi bị bệnh nặng. Về đến nhà ít lâu thì tôi mất…

- Xin ông vui lòng cho tòa biết họ bỏ tù ông gì lý do gì?

- Ở vào buổi giao thời sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì họ bắt giam không cần giải thích lý do. Họ muốn bắt ai thì bắt. Riêng tôi bị bắt giam vì lý do mà tôi nghĩ là tư thù…

- Ai là kẻ đã thù ghét ông?

Liếc nhanh Tố Bồi Bút đang ngồi ở ghế bị can, thi sĩ họ Vũ cất giọng chậm và nhỏ nhẹ.

- Tôi xin kể một câu chuyện sau đây cho mọi người nghe. Sau khi nghe xong thì tùy quý vị nhận định ai là kẻ thù của tôi…

Thôi Phán Quan cười đắc ý. Hướng về phía 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cao giọng.

- Sau đây tôi kính mời bồi thẫm đoàn nghe câu chuyện của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Từ đó 9 vị có thể xét đoán ai là thủ phạm trong cái chết của ông ta…

Căn phòng xử rộng lớn đầy đặc người ngồi đều im lặng lắng nghe giọng nói chậm, trầm, mạch lạc và khúc chiết của nhân chứng đồng thời là nạn nhân.

- Sau ngày 30- 4- 1975, Thanh Nghị có tới gặp tôi và mời tôi tới tham dự một ” đêm họp văn nghệ “. Thanh Nghị là một ông quan văn hóa của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam từ trong bưng mới về Sài Gòn sau ngày 30…

- Thanh Nghị mời và ông có đi không?

Thôi Phán Quan ngắt lời nhà thơ họ Vũ. Hình như ông ta có ẩn ý gì khi nêu ra câu hỏi trên. Vũ Hoàng Chương cười gượng.

- Đúng ra thì tôi bị mời chứ không phải được mời… Tôi phải đi vì không đi thì công an tới nhà mời mình đi… Thanh Nghị còn nói thêm trong đêm họp mặt này sẽ có sự tham dự của vị quan văn hóa lớn nhất nước là Tố Bồi Bút. Họ Tố vừa từ ngoài Bắc vào để tham dự ngày lễ đổi tên thành phố Sài Gòn ra tên Hồ Chí Minh… Khi tới biệt thự của Thanh Nghị thì tôi thấy sự hiện diện của nhiều văn nghệ sĩ của miền Nam và miền Bắc trong đó có mấy người nổi tiếng nhất như Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Hoài Thanh và Huy Cận… Lúc đó Thanh Nghị mới thố lộ cho tôi biết mục đích của buổi họp văn hóa là đánh giá sơ khởi thi ca cả hai miền như là tiền đề cho sự thống nhất văn học sau này. Nhưng mục đích chính là để ” hóa giải”, để ” thẩm định “ lại cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Bồi Bút đã thường xuyên bị ” bia miệng ” dân gian ví von, xách mé và châm chọc. Tôi hiểu Thanh Nghị muốn làm hài lòng Tố Bồi Bút, một thần tượng và là xếp lớn của hắn. Tuy hơi ngỡ ngàng nhưng lỡ tới rồi nên tôi cũng không tiện ra về…

Nói tới đó thi sĩ họ Vũ ngừng lại uống ngụm nước cho thấm giọng. Nhân cơ hội Thôi Phán Quan mới lên tiếng hỏi.

- Ông có nói mục đích của đêm họp văn hóa là để hóa giải và thẩm định lại cho đúng đắn hai câu thơ của Tố Bồi Bút. Xin ông vui lòng cho biết hai câu thơ đó là câu thơ gì ạ?

Vũ Hoàng Chương mỉm cười nhìn qua chỗ Tố Bồi Bút đang ngồi.

- Thưa ngài. Đó là hai câu lục bát ” nổi tiếng ” trong bài thơ ” Đời Đời Nhớ Ông ” mà Tố Bồi Bút đã sáng tác vào năm 1953 khi nghe tin Stalin chết.

- Thương cha, thương mẹ, thương chồng
Thương mình thương một, thương ông thương mười…

Thôi Phán Quan gật gù không nói gì cốt ý để cho nhà thơ kể tiếp câu chuyện.

- Vì là người đứng ra tổ chức nên Thanh Nghị trình bày ý kiến của mình trước. Hắn cho rằng người ta chê bai và châm biếm hai câu thơ của Tố Bồi Bút vì ác ý hơn là vì nghệ thuật đúng đắn. Hai câu lục bát này thật ra không thể chê vào đâu được. Nó vừa khẩu chiếm vừa xuất thần, mà khẩu chiếm và xuất thần là những tiêu chuẩn cao nhất, định giá trị thi ca VN, đồng thời thể hiện truyền thống thi ca bình dân nước ta, qua hai vần lục bát thật thoát sáo, vừa giữ vẹn hồn tính của ca dao vừa đưa loại thi ca giọng quê lên ngang giọng bác học.

Với vỏn vẹn có 14 chữ, trong đó từ ” thương ” bẩy lần láy lại và còn bảy chữ kia ” cha, mẹ, chồng, mình, ông, một và mười “ đều là những từ không có mấy thi tính. Thế mà Tố Hữu đã ghép lại và khi ta ngâm lên thì thấy rõ ràng thần tính của mười bốn chữ (đúng ra là 8 từ) ấy cuồn cuộn thoát ra, thâm nhập hồn người thưởng ngoạn, khiến hồn tính con người rung động như tơ đồng trên phím, khi nhạc sĩ vuốt vào giây. Thơ như vậy mới thật là hết ý, mới thật là tuyệt.

Thanh Nghị vốn khéo ăn khéo nói, lại thao thao bất tuyệt nên mọi người bị lôi cuốn theo mà ” đồng thanh tương ứng “ nhận cách hắn thẩm định hai câu thơ của Tố Bồi Bút thật là xác đáng.

Sau khi Thanh Nghị nói xong thì có người lại yêu cầu những thi nhân đang có mặt lên tiếng về nhận xét của Thanh Nghị bằng cách dựa vào các câu thơ đắc ý nhất của chính họ.

Người trình bày trước nhất chính là Xuân Diệu với hai câu thơ trong bài Buồn Trăng:

- Ngẩng đầu ngóng mãi chưa xong nhớ
Hoa bưởi thơm rồi, đêm đã khuya…

Xuân Diệu nói rằng hai câu thơ của mình cũng không thể xuất sắc hơn hai câu thơ của Tố Bồi Bút được. Huy Cận thì đem hai câu thơ:

- Em lùa gió biếc vào trong tóc
Thổi lại phòng anh cả núi non…

trong bài Áo Trắng của mình ra so sánh và sau đó cũng phải nhìn nhận rằng hai câu thơ của Tố Bồi Bút gây xúc động mạnh mẽ hơn, dồn dập hơn trong khu vực tình cảm mỗi bên, khi muốn dùng thi ca để tác động tâm hồn yêu thơ.

Riêng Chế Lan Viên thì lại dùng thơ của Hàn Mặc Tử trong đó có hai câu:

- Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang…

để ca ngợi là hai câu thơ của Tố Bồi Bút hay hơn của Hàn Mặc Tử nhiều lắm. Tôi thấy trong phòng họp còn có nhiều nhà thơ khác nhưng không ai chịu lên tiếng. Có người vì tự biết thân phận dân miền Nam thua trận của mình nên im lặng làm như họ đồng tình. Có người sợ lên tiếng phẩm bình sẽ gây ra đụng chạm với các quan lớn văn hóa của miền Bắc.

Không ai lên tiếng thì người ta lại nhìn vào Hoài Thanh, một tay phê bình văn học kỳ cựu và nổi tiếng. Không phải là nhà thơ vả lại cũng là tay bồi bút hạng nặng nên Hoài Thanh đâu dám chọc quan lớn của mình. Hắn khôn ngoan lên tiếng mời tôi vì hắn nói tôi là nhà thơ nổi tiếng của thời tiền chiến và có thể đại diện cho giới thi sĩ của miền Nam. Riêng tôi cũng biết phê bình thơ của vị quan lớn văn hóa miền Bắc là từ bị thương cho tới chết…

Thi sĩ họ Vũ ngừng nói. Ánh mắt của ông ta trở nên đăm chiêu rồi lát sau mỉm cười tiếp.

- Sau đó Thanh Nghị lại nài ép thêm nên tôi không tiện từ chối. Tuy nhiên tôi cũng lên tiếng xin lỗi trước nếu có lời thất thố hoặc xúc phạm tới Tố Bồi Bút…

Ngừng lại để uống thêm ngụm nước xong thi sĩ Vũ Hoàng Chương hướng về 9 vị bồi thẫm đang ngồi im. Họ nhận ra được tính chất từ tốn, điềm đạm song như có lửa hoặc có chất thép trong giọng nói của nhà thơ đại diện cho hai mươi năm văn hóa của miền Nam.

- Thi nhân từ cảm xúc mỗi lúc tác động vào tâm cảnh của mình, để hồn trí phản ứng theo thất tình con người mà vận dụng thi tứ phổ diễn nên lời một tình tự nào đó, rồi đãi lọc thành thơ. Sự vận dụng càng xuất thần, việc phổ diễn càng khẩu chiếm, thơ càng có giá trị cao.

Cảm xúc trước cái chết của một thần tượng được ” đóng khung ” tự bao giờ trong tâm cảnh mình, Tố Bồi Bút đã xuất thần vận dụng nỗi u hoài, phổ diễn nên những lời thơ thật khẩu chiếm, rồi dùng những từ thật tầm thường, ít thi tính, đãi lọc nỗi u hoài của mình thành một tiếng nấc rất tự nhiên và đạt đến một mức độ điêu luyện cao. Lời thẩm định của Thanh Nghị thật xác đáng. Tôi nhìn nhận.

Nhưng thơ không phải chỉ có thế; vì xuất thần, khẩu chiếm thuộc phạm vi kỹ thuật; dù đã có thi hứng phần nào, và nếu có thế thì thơ chỉ có khéo mà thôi, chưa gọi là đạt. Tức chưa phải là hay. Thơ hay vừa phải khéo vừa phải đạt thật sự. Thi hứng nằm trong sự thực của tình tự phổ diễn nên lời. Tình tự mà không thực, lời thơ thành gượng ép. Vấn đề của thơ nói cho đến nơi, là ở đây, có nghĩa là thơ phải thực.

Tố Bồi Bút đặt tiếng khóc của chính mình vào miệng một bà mẹ VN, muốn bà dùng mối u hoài của một nhà thơ để dạy con trẻ VN yêu cụ Stalin thay cho mình. Cũng chẳng sao vì đó cũng là một kỹ thuật của thi ca, nhưng trước hết phải biết bà mẹ VN đó có cùng tâm cảnh với mình không, có chung một mối cảm xúc hay không?

Tôi biết chắc là không. Bởi trong đoạn trên của hai câu lục bát này trong bài ” Đời Đời Nhớ Ông “ , họ Tố đã đặt vào lời bà mẹ hai câu:

Yêu biết mấy nghe con tập nói
Tiếng đầu lòng con gọi Stalin

Chắc chắn là không có một bà mẹ VN nào, kể cả bà Tố mà thốt được những lời như vậy một cách chân thành. Cái không thực của hai câu này dẫn tới cái không thực hai câu ta đang mổ xẻ.

Một tình tự không chân thực, dù được luồn vào những lời thơ xuất thần, khẩu chiếm đến đâu cũng không phải là thơ đẹp, thơ hay mà chỉ là thơ khéo làm. Đó chỉ là thơ thợ chứ không phải là thơ tiên. Loại thơ khéo này người thơ thợ nào lành nghề cũng quen làm, chẳng phải công phu lắm. Nhất là nếu có đòi hỏi cho một tuyên truyền nào đó.

Nhà thơ họ Tố nếu khóc lấy, có lẽ là khóc thực, khóc một mình. Những bà mẹ VN trong bài đã khóc tiếng khóc tuyên truyền, không mấy truyền cảm… Vì vậy mà hai câu thơ đó không thể so sánh với mấy câu thơ của Xuân Diệu, Huy Cận hay Hàn Mặc Tử được…

Ngừng lại giây lát thi sĩ họ Vũ nói cho mọi người trong phòng xử nghe nhưng có thể cũng nói riêng với 9 vị bồi thẫm.

- Mấy ngày sau khi phát biểu những lời vừa nói, tôi được mời đi cải tạo để đả thông tư tưởng và chỉ một năm sau tôi từ trần vì sự trù ếm mà người ta dành cho tôi trong trại tù…

Phòng xử im lặng thật lâu. Lát sau người ta mới nghe giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan cất lên.

- Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn… Tiếp theo đây tôi xin mời hai nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng để trình bày thêm về tội ác của tên Tố Bồi Bút. Kính mời thi sĩ Hoàng Cầm và Hoàng Hưng…

Kể từ khi phiên tòa bắt đầu đây là lần đầu tiên Thôi Phán Quan mời một lúc hai người lên ngồi vào ghế nhân chứng. Giọng nói sang sảng của ông ta vang lên trong lúc hai nhân chứng thong thả rời chỗ ngồi.

- Chúng ta không ai không biết nhà thơ Hoàng Cầm, nổi tiếng với những bài thơ như Bên Kia Sông Đuống, Lá Diêu Bông, Cây Tam Cúc và Quả Vườn Oi… Riêng Hoàng Hưng là một giáo sư kiêm thi sĩ đồng thời cũng là ký giả…

Khi hai nhân chứng làm thủ tục xong xuôi, trái với ước đoán của Bình, Thôi Phán Quan lại bắt đầu hỏi chuyện nhà giáo kiêm thi sĩ Hoàng Hưng trước thay vì Hoàng Cầm.

- Theo chỗ tôi dò hỏi thời ông cũng là một nạn nhân của tên Tố Bồi Bút nói riêng và băng đảng cộng sản nói chung. Đó là chuyện mà người ta đồn đại là vụ án ” hậu Nhân Văn hay Về Kinh Bắc “, trong đó tên Tố Bồi Bút đã ra lịnh cho công an bắt giam ông và thi sĩ Hoàng Cầm. Điều này có đúng không thưa ông?

Hoàng Hưng mỉm cười nhìn Thôi Phán Quan xong hướng mắt về phía chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi. Giọng nói nhẹ, từ tốn của ông ta vang rõ trong căn phòng im lặng.

- Thưa đúng như vậy. Tôi bị bắt giam 39 tháng… Nguyên nhân mà tôi bị bắt cũng dài dòng và phức tạp nên tiện đây tôi xin kể mọi người nghe tự sự để thấu đáo về tình trạng mất tự do và nhân quyền ở nước tôi…

- Chú em bị bắt về tội gì vậy?

Diêm Vương lên tiếng hỏi. Nhà thơ Hoàng Hưng cung kính trả lời.

- Thưa Diêm Vương tôi bị nhà nước bắt giam vì tội phản động…

Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương trầm giọng.

- Lại phản động… Mấy thằng cộng sản này cứ hở ra là ghép người ta vào tội phản động. Chính tụi nó mới đúng là phản động. Như thằng Hình Chí Mô là tên phản động số 1. Theo luật của âm phủ thời nó có tội phản động lại dân chúng Việt Nam. Cái tội bán nước, dâng đất, hiến biển cho Tàu là tội phản động lại dân chúng và tổ quốc Việt Nam… Thôi chú em cứ kể hết ra chuyện vì sao bị thằng Tố bắt giam, bỏ vợ con đói khổ cho ta nghe…

Ánh mắt hướng ra cửa sổ như hồi tưởng lại năm tháng lao tù rồi lát sau nhà thơ họ Hoàng mới thong thả cất tiếng.

- Vụ án ” Về Kinh Bắc ” chắc đã được khởi động từ quãng giữa năm 1982, khi anh Nguyễn Mạnh Hùng, tiến sĩ kinh tế, giáo sư đại học ở Canada, cũng là nhà văn Việt Nam hải ngoại có bút hiệu Nam Dao, đang làm việc/ thăm chơi ở Hà Nội, xin nhà thơ Hoàng Cầm một bản chép tay tập thơ Về Kinh Bắc để đem về Canada. Nguyễn Mạnh Hùng được chính quyền Việt Nam coi là “Việt kiều yêu nước”, đã đóng góp tích cực cho phong trào ủng hộ miền Bắc, chống Mỹ và chính quyền miền Nam từ khi còn là sinh viên ở Canada. Sau khi đất nước thống nhất, anh đã nhiều lần về nước, có tham gia tư vấn cho chính phủ về kinh tế. Mặt khác, anh lại quan hệ thân thiết với các nhà văn trong nhóm Nhân văn – Giai phẩm, đặc biệt với nhà thơ Hoàng Cầm mà anh yêu mến.

Việc Hoàng Cầm cho Nguyễn Mạnh Hùng một bản chép tay Về Kinh Bắc chẳng có gì cần bí mật, khi chưa hề có văn bản hay chỉ thị miệng của cấp thẩm quyền nói rằng tập thơ bị cấm lưu hành. Vả lại, ở cái quán rượu 43 Lý Quốc Sư mà Hoàng Cầm sống nhờ vào đó từ nhiều năm, lúc nào cũng chật khách trầm ngâm say và âm u khói thuốc, trong đó hầu hết là những người yêu văn nghệ “ngoài luồng”, và không ít ” đặc tình “ (cộng tác viên, nói nôm na là chỉ điểm của công an ), ” cá chìm ” (tiếng lóng để chỉ trinh sát công an thường phục), thì có gì liên quan đến ông Hoàng ” thơ chui “ này mà giữ kín được! Nhưng muốn hiểu vì sao có vụ án ” Về Kinh Bắc “, phải ngược thời gian lên mười năm trước, khi một số bài trong bản thảo Về Kinh Bắc bắt đầu được truyền tay hơi rộng trong giới yêu thơ, trong đó ba bài ” Cây tam cúc “, ” Lá diêu bông “, ” Quả vườn ổi” (thường được gọi là bộ ba cây-lá-quả) được mến mộ nhất – phần quan trọng vì chúng được xì xầm diễn giải như lời oán trách của ” em ” (văn nghệ sĩ) với ” chị ” (Đảng), đại khái ” em ” yêu ” chị “, nhưng ” chị ” đã lừa ” em “, cho ” em ” ăn toàn ” quả rụng “, rồi bỏ mặc ” em ” bơ vơ để đi lấy chồng. Theo Hoàng Cầm kể, thì năm 1974, CA Hà Nội có kêu tác giả lên răn đe về việc lưu truyền những bài thơ ” có nội dung xấu ” ấy. Hoàng Cầm phải ngưng, nhưng sau 1975, với không khí hào hứng của những ngày ” miền Nam nhận họ, miền Bắc nhận hàng”, Về Kinh Bắc lại có thêm độc giả ở miền Nam, và đến 1979, sự giao lưu với nước ngoài bắt đầu được cởi mở hơn, một số Việt kiều đã có được một số bài thơ chép tay của nhà thơ, trong đó dĩ nhiên ” bộ ba cây-lá- quả” vẫn đứng đầu bảng. Hoàng Cầm có kể đích danh một nữ bác sĩ xưng tên là Cần Thơ ở Pháp đã xin ông gửi cho một số bài thơ, sau này bà cho biết bà là đệ tử của thiền sư Thích Nhất Hạnh ở Làng Mai. Trong khi xét hỏi bản thân tôi, một sĩ quan công an cho biết: Về Kinh Bắc bắt đầu thành vấn đề nghiêm trọng chính là vì mấy bài thơ này được in trên một tờ báo ở Pháp kèm theo lời bình mang tính chống đối chính trị. Theo Hoàng Cầm thì công an có đọc cho ông nghe bài viết ấy trên báo Đất Mẹ (Quê Mẹ?)

Tóm lại, chậm nhất là vào mùa thu 1982, một chuyên án Về Kinh Bắc đã được mở ra, với mục đích ngăn chặn việc đưa bản thảo này ra nước ngoài và bắt tội tác giả của nó, hoặc đơn giản chỉ là mượn cớ việc chuyển bản thảo này ra nước ngoài để trừng trị tác giả cho bõ ghét. Theo Hoàng Cầm thì khả năng 2 là chính, ông nhất định cho rằng chính Tố Hữu là người chủ trương, vì căm ghét Hoàng Cầm đã dám chê thơ ông ta (vụ phê bình tập Việt Bắc năm 1956), chưa kể đã ” dám nổi tiếng ” hơn ông ta trong kháng chiến! Và cũng theo Hoàng Cầm, để làm việc này, Tố Hữu đã sử dụng một số ” công an riêng ” của mình.

Thế là trong lúc một cái lưới đang giăng ra xung quanh quán rượu Hoàng Cầm ở 43 Lý Quốc Sư, thì tôi ở Sài Gòn ra, vô tình chui vào đó, trở thành con cá to (?) cuối cùng để công an cất vó!

Vì sao định mệnh lại chọn tôi làm con cá oan nghiệt kia? Suốt mấy năm trời trong trại giam tôi vẫn tự hỏi, vì xét theo logique, tôi chẳng thể nào hình dung mình có ngày ” ách giữa đàng đâm quàng vào cổ ” như thế.

Bởi lẽ thứ nhất: từ khi Hoàng Cầm hoàn thành Về Kinh Bắc (mùa Xuân 1960) cho đến tháng 8 năm 1982, đã có hàng trăm bản chép tay của nó được lưu truyền, mà không thấy ai làm sao, cũng không ai phổ biến lệnh cấm dù chỉ là lệnh miệng. Lý lẽ này tôi lặp đi lặp lại trong các buổi hỏi cung, tôi còn vặn lại người cán bộ xét hỏi: “Để một tài liệu ‘phản động’ tự do lưu truyền trong 20 năm như thế thì trách nhiệm của cơ quan an ninh ra sao?” . Tất nhiên họ không trả lời được. Và hậu quả của sự ” cứng đầu ” cộng với ngây ngô của một anh nhà-giáo-nhà thơ-đi-làm-báo tưởng rằng trên đời có thứ gọi là công lý, là tôi phải nhận đến 39 tháng tù trong khi ” đầu vụ ” chỉ có 16 tháng!

Lẽ thứ hai là quan hệ của tôi với tác giả Về Kinh Bắc vốn không có gì mật thiết. Là một trong số những nhà thơ trẻ nổi bật của ” thế hệ chống Mỹ “, nhưng vì ” trót ” đọc được tiếng Pháp, tôi sớm giác ngộ về ” Chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người ” qua những sách báo tiếng Pháp ở ngay trong Thư viện Quốc gia (Nhà nước cho rằng rất ít người biết tiếng Pháp nên không kiểm duyệt bỏ những ấn phẩm tiếng Pháp ” nhạy cảm ” được nhập vào đó theo con đường viện trợ, trao đổi). Đó là thuyết ” chủ nghĩa hiện thực không bờ bến ” của Roger Garaudy, một nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Pháp, những tư tưởng ” xét lại ” của George Lukács, nhà lãnh đạo cộng sản Hungary, tiểu thuyết Docteur Jivago của Boris. Pasternak, các tài liệu về Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX, về những biến động ở Hungary, Tiệp Khắc. Những sách vở ấy cộng với thực tế nhiều phũ phàng mà tôi va chạm trong mấy năm dạy học và ” đi thực tế sáng tác ” ở vùng công nghiệp Hải Phòng, Quảng Ninh, cộng với sự đổ vỡ niềm tin chiến thắng sau Tết Mậu Thân và cái chết của ” Bác “, khiến tôi ngày càng hoài nghi sự đúng đắn của chế độ. Tất nhiên tôi cũng nhìn lại phong trào Nhân văn – Giai phẩm bằng con mắt hoàn toàn khác những gì Đảng dạy. Vì thế, cuối năm 1969, khi đã viết một số bài thơ ” ngoài luồng ” không thể công bố, tôi tìm đến làm quen với anh Văn Cao qua dịch giả Dương Tường. Chính Văn Cao là người đã khuyến khích tôi tiếp tục lối thơ ” bàng thống ” mà tôi đang bước vào. Anh trở nên thân thiết với tôi, và đã đứng chủ trì buổi tiếp bạn bè văn nghệ trong ngày cưới của vợ chồng tôi đầu năm 1975. Với Hoàng Cầm thì khác. Không chỉ ” có vấn đề ” về tư tưởng, ông còn tai tiếng là con nghiện (thuốc phiện) và chủ quán rượu chui. Tôi – một nhà thơ trẻ đang được ưu ái, lại là nhà giáo và nhà báo của ngành giáo dục (Báo Người Giáo viên Nhân dân), cũng thấy ngại dây dưa! Mãi sau khi đã chuyển vào Sài Gòn công tác, tư tưởng ngày càng ” diễn biến hòa bình ” do tác động của cuộc sống và sách vở tàn dư của chế độ Sài Gòn, trong một lần ra Hà Nội vào cuối những năm 1980 đầu 1981, tôi mới tìm đến Hoàng Cầm, cũng do Dương Tường đưa dắt. Chính lần ấy, tôi được nhà thơ khoe một bản thảo Về Kinh Bắc do ông chép tay chữ rất đẹp, bay bướm uyển chuyển, có mấy phụ bản tranh của Bùi Xuân Phái vẽ các cô gái quan họ. Đó là tập bản thảo mà ông đã bán cho ông Lâm, chủ quán cà phê chuyên sưu tầm tranh của các hoạ sĩ nổi tiếng ở Hà Nội, nay ông mượn lại, có lẽ để khoe với những người bạn mới, có thể là Việt kiều chăng? Nhân dịp, tôi đã xin nhà thơ chép cho ba bài Cây – Lá – Quả đem về Sài Gòn khoe vài người bạn văn nghệ ” chui ” vốn là dân Sài Gòn cũ ( trong đó có anh Phương Kiến Khánh, sau trở thành nhà thơ Chân Phương ở Mỹ ).

Trong chuyến ra Hà Nội tháng 8 năm 1982, định mệnh xui khiến tôi lại đến với Hoàng Cầm ngoài chủ ý. Một bữa tôi gặp Dương Tường trên phố, anh sốt sắng bảo tôi đến an ủi Hoàng Cầm vì nhà thơ vừa trải qua một bi kịch: con gái yêu của ông là nữ diễn viên kịch Hoàng Yến chết đột ngột – nghe đâu là tự tử. Tôi đến chơi, lại nghe ông than là vừa bị mất tập bản thảo Về Kinh Bắc mượn lại của Lâm cà phê (chắc hẳn công an đã lấy đi làm hồ sơ cho vụ án Về Kinh Bắc đang chuẩn bị). Ông tỏ ra rất tiếc xót, vì khó có cơ hội làm lại một tập đẹp như thế. Tôi hứng lên, nói sẽ làm lại cho ông một tập đẹp hơn thế. Ông bảo tôi đến gặp Trần Thiếu Bảo ở phố Bát Đàn, nhờ ông này mua giấy và bút bi loại tốt để ông chép. Trần Thiếu Bảo nhận lời ngay. (Chỗ này, nhân thể nói bài nghiên cứu của tác giả người Đức Heinz Schutte công bố trên talawas 31/7/2010 có chỗ lầm: ông cựu giám đốc NXB Minh Đức sau khi ra tù không bị chỉ định cư trú ở Nam Định cho đến chết, ông đã được về lại Hà Nội từ lúc nào đấy, và vào năm 1982, ông đang chuẩn bị mở quán ăn để sinh sống tại số 5 Bát Đàn (?)). Thế là việc chép tay Về Kinh Bắc tiến hành. Tôi đồng thời đến xin Văn Cao một phác hoạ làm bìa tập thơ Về Kinh Bắc, và xin Bùi Xuân Phái mấy phụ bản. Ít ngày sau, tôi vui sướng có trong tay một bức hoạ mấy cái lá bay (chắc là ” lá diêu bông “) của Văn Cao và 4 phụ bản màu nước của Bùi Xuân Phái vẽ những cô gái quan họ nón quai thao áo tứ thân. Có một chi tiết mà những ngày đó tôi đã bỏ qua. Trong thời gian này, tôi hầu như ngày nào cũng đến quán rượu Hoàng Cầm để giục nhà thơ chép cho xong tập thơ. Một tối, tôi trông thấy trong quán có một người quen, anh nguyên là giáo viên cùng dạy học với tôi ở Hải Phòng, nhưng đã chuyển về Hà Nội, nghe đâu làm ở Bộ Công an, vì anh là cháu ruột ông tướng công an nổi tiếng Nguyễn Công Tài. Thấy tôi, anh cất giọng lè nhè như của người say rượu bảo: ” Cái ông Hưng này đến là rách việc”. Tôi hồn nhiên không để ý, chỉ cười rồi đi ra. Sau khi bị bắt tôi mới đoán rằng anh bạn đồng nghiệp cũ có lòng tốt cảnh báo để tôi khỏi sa bẫy. Nhưng lúc đó tôi hoàn toàn ngây thơ và tự tin việc xin thơ Hoàng Cầm chẳng có vấn đề gì mà phải đề phòng!

Ngày Hoàng Cầm hoàn thành việc chép Về Kinh Bắc, tôi muốn nhân đó có một cuộc liên hoan nhỏ với các bậc đàn anh để ăn mừng và cũng là để chia tay lên đường vào lại Sài Gòn. Ông Trần Thiếu Bảo đề nghị làm ngay tại nhà ông ấy, như cũng để khai trương quán của ông. Đầu bếp là Phan Tại, nhà viết kịch và cũng là đồng phạm của ông trong vụ xử án ” gián điệp phản động Nhân văn – Giai phẩm” năm 1960. Trong bữa ăn vui vẻ tình cảm dạt dào giữa những người cùng tâm sự ( có Hoàng Cầm, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại; tôi tuy trẻ tuổi hơn nhưng được các đàn anh cư xử như kẻ ngang hàng ), ông Bảo khoe mọi người hai cái ” bìa” cho tập Về Kinh Bắc và tập thơ của tôi mà ông trình bày theo lối siêu thực ( Trước đó ít lâu, tôi có khoe một tập bản thảo thơ ” chui” của mình cho một số bạn văn nghệ ở Hà Nội, trong đó có Nguyễn Thuỵ Kha, tập thơ gây ấn tượng khá mạnh vì sự phá cách của nó. Ông Bảo xin mượn ít hôm ). Sau liên hoan, ông Bảo đề nghị tôi cho ông mượn tiếp tập ấy cùng với tập Về Kinh Bắc vừa mới hoàn thành.

Những ngày sau đó, tôi lo chuẩn bị để lên đường, nên định bụng trước khi đi mới đến nhà ông Bảo lấy lại hai tập thơ. Không hiểu sao ông Bảo rất sốt ruột, ngày nào cũng đến nhà bà chị tôi (là nơi tôi ở nhờ trong thời gian lưu lại Hà Nội) thúc giục tôi tới lấy! (Sau mới ngã ngửa ra là Trần Thiếu Bảo bị công an khống chế, phải làm chỉ điểm cho họ, ít ra là trong vụ Về Kinh Bắc này. Nếu vì lý do gì đó mà tôi không đến lấy hai tập bản thảo, thì vụ án bị hẫng to!)

Hoá ra họ đã sắp xếp rất chu đáo để “cất v ” Về Kinh Bắc mà tôi là một con cá hẩm hiu ở đâu đến chui đầu vào lưới. Sau này một anh công an quen thân với gia đình anh cả tôi còn cho biết họ đã bí mật theo dõi, quay phim tôi suốt nửa tháng trời mà tôi không hề để ý!

Chiều 17/8/1982, sau khi sắp xếp xong hành lý để đi chuyến tàu tối xuống Hải Phòng và sáng hôm sau đi tàu biển vào Sài Gòn, tôi đến nhà Trần Thiếu Bảo lấy lại 2 tập thơ. Vào trong quán, tôi thấy hai người đàn ông đang ngồi uống nước. Sau vào trại giam đi “cung” mới biết đó là ông Khổng Minh Dụ ở A25, sau này sẽ là Thiếu tướng Cục trưởng và cũng là “nhà thơ”, và anh Thuận, trợ lý của ông, sau này sẽ là Cục phó Cục chống Bạo loạn. Tôi cứ hồn nhiên cầm tập thơ đi ra, lên xe đạp phóng. Được một đoạn, bỗng có hai anh thanh niên đèo nhau xe gắn máy ép tôi vào lề đường. Hai anh nhảy xuống, giữ tôi lại, bảo: “Cái xe đạp anh đang đi là xe của chúng tôi bị mất cắp”. Tôi kinh ngạc, vì tôi đang đi chiếc xe của bà chị ruột. Đang cãi qua cãi lại, thì một công an mặc sắc phục ở đâu tiến tới, nói: ” Các anh lộn xộn gì thế, mời về đồn giải quyết “. Đồn công an gần đấy là đồn Hàng Bạc. Vào trong đồn, anh công an xưng là đồn trưởng, yêu cầu tôi bỏ hết các thứ trong túi xách ra. Thấy tập bản thảo của Hoàng Cầm, anh ta hỏi: ” Cái gì thế này? Thơ à? Thơ của ai đây? “. Tôi đáp: ” Của Hoàng Cầm. ” ” Hoàng Cầm là ai? Anh ngồi đây đợi, cái này tôi phải xin ý kiến cấp trên “. Tôi ngu đến mức vẫn chưa biết đây chỉ là một màn bi hài kịch dàn dựng sẵn.

Sau khoảng 20 phút chờ đợi, anh đồn trưởng bước vào, bảo: ” Đây là ý kiến cấp trên “. Anh giở ra một tờ giấy, đọc: ” Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp ” vì tội “lưu truyền văn hoá phẩm phản động “. Thế là nhanh như cắt, hai anh thanh niên ” mất xe đạp ” lúc nãy hiện nguyên hình là công an, áp giải tôi lên xe bịt bùng, đưa về Hoả Lò!

Ngày 20/8/1982 thì đến lượt Hoàng Cầm bị bắt. Còn Nguyễn Mạnh Hùng, khi ấy đang ở Sài Gòn chuẩn bị bay về Canada. May được Dương Tường kịp báo hung tin, anh gửi ngay tập bản thảo Về Kinh Bắc cho Cao Xuân Hạo giữ, ra sân bay vô tang. (Tuy nhiên, khi khám xét hành lý của tôi, công an thu được một bức thư Hoàng Cầm nhờ tôi đưa cho Nguyễn Mạnh Hùng khi vào Sài Gòn, thư dán kín nên tôi không biết nói gì trong đó). Hùng bị cấm cửa về Việt Nam trong suốt 20 năm. Chuyến anh trở lại Việt Nam sau 20 năm ấy, lần đầu tiên hai người ” đồng phạm” bất đắc dĩ chúng tôi mới gặp nhau.

Sau khi tôi và Hoàng Cầm bị bắt, tin đồn lung tung, có cả tin tôi bị bắt vì mang thuốc phiện lậu! Theo nhà báo Trần Đức Chính, TBT tờ báo của Hội Nhà báo VN, thì có tờ báo hồi ấy đăng tải cả một chuyện vụ án mang tên ” Vụ án hai ông Hoàng” với nhiều tình tiết ly kỳ! Gần đây, một số sách báo ở nước ngoài và trên mạng vẫn viết là Hoàng Hưng bị bắt vì âm mưu chuyển tập thơ Về Kinh Bắc vào sứ quán Pháp! Mới biết trí tưởng tượng của người ta phong phú thật!

Kết cục của vụ án tóm tắt như sau: Hoàng Cầm sau mấy tháng bị giam thì kiệt sức vì bị khủng bố tinh thần liên tục mà lại không có nàng tiên nâu trợ lực, phải nhận tội phản động, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội, chống chế độ, để mong sớm được ra.

Tôi không thể nào quên cái buổi sáng ấy trong Hỏa Lò. Sau mấy tháng không thuyết phục được tôi thừa nhận Về Kinh Bắc là ” phản động “, công an để tôi nghỉ một hơi dài. Rồi bỗng một hôm tôi lại được gọi đi ” làm việc “. Người công an đưa tôi vào một phòng hỏi cung, nhưng không có ai trong đó. Mà lại có một tập giấy thếp viết sẵn để trên bàn. Tôi tò mò giở ra, thì… trời ơi, đó là bản tự khai của Hoàng Cầm, tôi nhận ra chữ viết rất nắn nót, đẹp, của ông. Tôi đọc lướt, càng đọc càng hoang mang vì ông nhận tuốt tuột các ý tưởng chống Đảng, đả kích chế độ. trong tập thơ. Để cho tôi một mình đọc xong, người ta mới đưa tôi trở lại phòng giam. Và họ bố trí rất khéo, để như tình cờ tôi gặp Hoàng Cầm đang ngồi ở cổng chờ ( giữa khu trại giam và khu ” làm việc ” có một cái cổng lớn, sau khi ” làm việc ” xong phạm nhân ngồi đó chờ ” quản giáo ” ra nhận để đưa vào buồng giam ). Tôi xông đến bên ông, hỏi gay gắt: ” Anh nhận tội phản động thật à? Sao lại thế? ” Hoàng Cầm cúi đầu xuống, không nói gì, từ khóe mắt ông lăn ra những giọt nước mắt. Đến tận hôm nay, nhớ lại những giọt lệ tủi nhục của nhà thơ đàn anh, lòng tôi vẫn còn đau. Với tôi, tự buộc mình phải hèn để có thể tồn tại là điều không gì đau hơn cho một kẻ sĩ.

Nhưng trong lúc Hoàng Cầm ngong ngóng công an thực hiện lời hứa (?) cho về vào dịp Tết, thì một số trí thức Pháp do thiền sư Thích Nhất Hạnh vận động đã gửi thư cho Lê Đức Thọ đề nghị thả nhà thơ. Tin đến tai Tố Hữu, ông ” bạn thơ ” quý hoá phán một câu xanh rờn: ” Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết. “ ( theo lời Hoàng Cầm kể, Hoàng Hưng ghi, đăng trên talawas mở đầu tập Về Kinh Bắc 5/4/2007). Thế là Hoàng Cầm bị giam tổng cộng 16 tháng (20/8/1982 – trước Noel 1983).

Còn bản thân tôi, chỉ vì tội bướng, mà bị công an lục tung nhà trong Sài Gòn suốt một ngày trời. Họ tìm ra một số trang nhật ký bằng văn vần làm từ đầu thập kỷ 1970 mà CA nhận định là ” phản động gấp 100 lần thơ Hoàng Cầm ” (lời ông Khổng Minh Dụ)[2]. Sau gần ba năm điều tra rất công phu mà không tìm thấy gì chứng tỏ tôi nằm trong đường dây liên lạc với bọn ” văn nghệ sĩ phản động hải ngoại “, cuối cùng, nhờ là ” cán bộ nhà nước phạm tội lần đầu “, tôi được đặc ân ” chỉ xử lý hành chính nội bộ chứ không bị truy tố ra toà ” (lời viên công an khi công bố lệnh ” tập trung cải tạo ” dành cho tôi). Mãi đến cuối năm 1985, nhờ không khí chính trị có phần nới lỏng trước Đổi mới, và nhờ người anh ruột là bác sĩ phục vụ các cán bộ cao cấp đứng ra bảo lãnh, tôi mới được về sau 39 tháng tù, với cái lệnh tha mang tội danh được cải thành ” lưu truyền văn hoá phẩm đồi trụy ” (!) Không hiểu sao lại có sự cải đổi từ ” văn hoá phẩm phản động ” sang ” đồi trụy ” như thế? Chắc là công an không muốn có bất cứ bằng chứng nào chứng tỏ có tội danh ” phản động ” trong luật pháp Việt Nam, cũng như họ không bao giờ thừa nhận có ” tù chính trị ” vậy. (Những người bạn vong niên của tôi bị tù đầy trong vụ án ” xét lại ” khi ra tù không ai được cầm lệnh tha hay giấy ra trại!)

Một điều an ủi lớn cho tôi: bị nhà nước bỏ tù, nhưng tôi được đồng nghiệp bạn bè cảm thông. Thời gian tôi bị bắt, có chuyện được coi là hy hữu: Báo Người Giáo viên Nhân dân, cơ quan tôi, hết sức bênh vực tôi. Báo còn trả lương đều đặn và gửi quà cho tôi, bất chấp công an phàn nàn; phải 2 năm sau, khi công an công bố lệnh tập trung cải tạo với tôi, báo mới đành ngưng việc ấy và Bộ Giáo dục mới ra quyết định ” cho ông Hoàng Hưng thôi việc vì vi phạm pháp luật bị tập trung cải tạo ” ( chứ không ” buộc thôi việc ” như thường thấy trong các vụ tương tự ). Người có vai trò lớn trong chuyện này là nhà báo Trường Giang, Bí thư Chi bộ Đảng, Thư ký Toà soạn báo NGVND. Ở Sài Gòn, gia đình tôi lâm vào cảnh ” vợ dại con thơ ” cực kỳ khốn đốn, có những bữa phải ăn chuối trừ bữa, nhưng bù lại đã nhận được sự thông cảm yêu thương của tất cả bà con khu phố, kể cả anh cảnh sát khu vực, của các thầy cô gíáo dạy cháu Hoàng Ly.

Sau khi ra tù, Hoàng Cầm mất hằng năm trời sống trong trạng thái thường trực hoảng loạn, hậu quả của thời gian tù ngục. Nhờ sự động viên của bạn bè văn nghệ ông mới dần dần hồi phục. Sau Đổi mới, thơ Hoàng Cầm bắt đầu tái xuất, nhưng riêng Về Kinh Bắc còn bị công an ngăn trở dài dài cho đến tận năm 1994 mới ra mắt được. Hoàng Cầm trở thành gương mặt của truyền thông không thua gì các “sao”, cuối cùng ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học (2007). Tuy nhiên, cho đến khi ông qua đời (tháng 5/2010), chính quyền không hề có một lời minh oan hay xin lỗi, đừng nói gì đến bồi thường cho những năm tù đầy oan ức của ông.

Còn tôi, ngay sau khi tôi ra tù, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, thầy dạy cũ của tôi ở Khoa Văn Đại học Sư phạm, ngỏ ý sẵn sàng nhận tôi làm việc ở cơ quan Bộ. Nhưng tôi chọn tiếp tục nghề báo, và năm 1988, tập Ngựa biển bao gồm hầu hết những bài thơ trong tập bản thảo của tôi bị công an tịch thu năm 1982, là tập thơ ” ngoài luồng ” đầu tiên tự xuất bản ở nước ta sau Đổi mới, nhờ được anh Trương Văn Khuê, Giám đốc NXB Trẻ cương quyết bảo vệ. Từ đó tôi in thơ bình thường. Riêng tập thơ Ác mộng viết về những trải nghiệm tù đầy thì đến nay vẫn bị các nhà xuất bản từ chối. Tuy nhiên một số bài trong đó đã được công bố nhờ sự “chịu chơi” của nhà thơ Quang Huy, Giám đốc NXB Văn hoá – Thông tin, rồi sau đó bài ” Người về ” được đưa vào những tuyển thơ quan trọng nhất; bản tiếng Anh của nó (Nguyễn Đỗ và Paul Hoover dịch) được đưa vào dự án Tổng tập văn học thế giới của một tập đoàn xuất bản quốc tế danh tiếng. Riêng có chuyện xuất cảnh thì tối kỵ. Chắc người ta ngại tôi ra ngoài sẽ trở thành nhân chứng sống cho ” thành tích nhân quyền ” của chế độ. Mãi đến năm 2000, do một đồng nghiệp bảo lãnh trực tiếp với ông Tổng cục trưởng An ninh, tôi mới được ông đích thân cho phép ra khỏi nước mà không kèm ” điều kiện” nào.

Năm 2002, khi tôi về hưu tại báo Lao động, do khiếu nại của tôi, báo Lao động và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã kiến nghị Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội trả lương hưu cho tôi theo cả thời gian làm việc trước khi bị bắt ( quy định phi lý phi nhân của Bộ này là vứt bỏ hết thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên trước khi họ bị kỷ luật hay bắt giam, như đã áp dụng với nhà văn Bùi Ngọc Tấn ). Lý do được nêu rõ trong công văn: Ông Hoàng Hưng bị bắt giam vì cầm tập thơ Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm mà thời đó coi là phản động, nay xã hội đã có nhìn nhận khác, quyền lợi của ông Hoàng Hưng phải được trả lại. Kiến nghị bị từ chối. Nhà báo Nguyễn Thị Hằng Nga, đại biểu Quốc hội, bèn đưa thẳng hồ sơ cho bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Hằng, thế là Bộ này quay 180 độ, đổi ngay quyết định, phá lệ!

Năm 2005, trên một chuyến bay từ TPHCM ra Hà Nội, tình cờ tôi ngồi ngay bên cạnh một viên công an trực tiếp hỏi cung tôi trong vụ Về Kinh Bắc. Quả đáng tội, hồi đó ông và tôi đã từng khá căng thẳng với nhau. Nay ông giữ một chức vụ quan trọng trong ngành an ninh. Ông vui vẻ chủ động bắt chuyện. Ông nói nhiều chuyện về văn nghệ, rồi bỗng bảo tôi thế này: ” Tập thơ Về Kinh Bắc hay thật! Anh phải viết một kịch bản phim về nó đi! Tôi biết chỉ có anh là viết được thôi! “

Lạy Trời! So với bao nhiêu người chịu oan khiên cho đến lúc chết mà chẳng ai biết đến, như ông Lê Nguyên Chí trong vụ Nhân văn – Giai phẩm chẳng hạn, thì Hoàng Cầm và tôi thế là còn có phúc lắm! Nhớ lại lời ông công an họ Khổng phán khi tôi cãi rằng nhật ký của tôi để trong nhà, có lưu truyền đâu mà các ông bắt tội? Ông nói ngay: ” May cho anh đấy! Anh mà lưu truyền thì đi tù không có ngày về…”

Nhà giáo kiêm văn thi sĩ Hoàng Hưng dứt lời. Đán quay qua thì thầm với Bình những gì không ai nghe rõ chỉ thấy Bình gật gù mỉm cười. Giọng nói của Thôi Phán Quan vang rền trong căn phòng xử khi ông ta bước tới chỗ Hoàng Cầm đang ngồi.

- Cá nhân tôi rất thích bài thơ Bên Kia Sông Đuống của ông.

- Cám ơn ngài.

Thi sĩ Hoàng Cầm nói gọn. Bình khe khẽ thở dài khi thấy nét già nua, tiều tụy, thân thể ốm o và yếu đuối của nhà thơ nổi tiếng từ lâu. Ở trong ông ta là sự bạc nhược cả về thể xác lẫn tinh thần vì tù tội, tủi nhục và bị trù dập mấy chục năm dưới một chế độ độc tài vô nhân, nhẫn tâm chà đạp lên quyền làm người.

- Ông bị giam giữ bao lâu ông nhớ không?

- Thưa ngài tôi bị bắt giam 1 năm 2 tháng từ 20 tháng 8 năm 1982 cho tới tháng 11 năm 1983.

- Ai là ngươi có quyền bắt giam ông.

Do dự giây lát Hoàng Cầm trả lời nhỏ.

- Thưa đảng.

Không thỏa mãn với câu trả lời mơ hồ của thi sĩ họ Hoàng, Thôi Phán Quan vặn hỏi.

- Ông có thể nêu rõ danh tánh của nhân vật nào trong đảng đã ra lịnh bắt giam ông?

Nhìn xuống dãy bàn bảy bị cáo đang ngồi xong liếc nhanh qua ghế bị can nơi Tố Bồi Bút đang an vị, Hoàng Cầm nhỏ nhẹ trả lời.

- Thưa ngài. Người ra lịnh bắt và giam giữ tôi chính là ông Tố.

Gật gù mỉm cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Tôi có nghe một chuyện như thế này. Khi ông bị giam được gần nửa năm thì một số bạn bè, người quen ở bên Pháp có viết thư gởi Lê Đức Thọ để nhờ can thiệp cho ông được phóng thích vào dịp Tết Nguyên Đán. Điều này có đúng không?

- Thưa ngài điều đó đúng với sự thực…

- Rồi sau khi họ can thiệp có chuyện gì mà ông lại bị giam giữ tới tháng 11 năm 1983?

Khẽ thở dài Hoàng thi sĩ chậm chạp lên tiếng.

- Chuyện bạn bè ở hải ngoại thương tôi viết thư cho Lê Đức Thọ tới tai ông Tố. Ông bạn thơ quý hóa của tôi nổi giận bèn phán một câu xanh rờn: ” Nước ngoài can thiệp hả? Thế thì giam thêm 1 năm nữa cho biết…”. Do câu nói của ông Tố mà tôi bị tù thêm một năm nữa…

Thôi Phán Quan liếc nhanh về phía Đán. Cái liếc mắt của ông ta dành cho vị chủ tịch bồi thẫm đoàn có nhiều ý nghĩa. Đán mỉm cười khe khẽ gật đầu tỏ ra mình hiểu ý. Đợi cho hai nhân chứng rời khỏi ghế xong vị đại diện cho công tố viện của âm phủ mới cất giọng sang sảng.

- Hai ngày, hôm qua và hôm nay; 9 vị đã nghe bằng tai, thấy bằng mắt những nhân chứng cũng như tài liệu trích dẫn về các tội mà tên Tố Bồi Bút đã vi phạm. Chiếu theo hai bộ luật hình và hộ của âm phủ, với các điều khoản, 4, 7, 9 và 17; tên Tố Bồi Bút đã có tội đồng lỏa mưu sát thi sĩ Hữu Loan và Vũ Hoàng Chương, lạm dụng quyền thế để trù ếm gây thiệt hại về vật chất lẫn tinh thần cho ba nhà thơ Trần Dần, Lê Đạt, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Trương Tửu cũng như nhà giáo Hoàng Hưng. Dù gián tiếp hay trực tiếp, dù chủ mưu hay đồng lõa, dù ít hay nhiều gì hắn cũng đã làm nhiều chuyện gây ra khổ sở, đớn đau cho người dân vô tội. Ỷ quyền cao chức trọng, mượn thế của lãnh tụ, xử dụng quyền lực một cách bất chánh cùng với lòng thù ghét và ganh tị nhỏ nhen, hắn trù dập và yểm ếm nhân tài. Để làm gương cho kẻ khác cũng như duy trì công lý, tôi xin 9 vị xét nghiệm rồi cho tên Tố Bồi Bút một hình phạt tương xứng với tội ác mà hắn đã làm…

Câu nói của Thôi Phán Quan chấm dứt phiên xử Tố Bồi Bút. Chín vị bồi thẫm đi vào phòng riêng hội họp và sẽ tuyên bố hình phạt dành cho Tố Bồi Bút trong phiên xử kế tiếp.

giavui
07-11-2014, 08:46 PM
-8-
Con heo nọc quốc doanh

Đợi cho Diêm Vương đặt cái bàn tọa của ổng xuống chiếc ghế bành bọc da xong, vị lục sự lớn tiếng.

- Sau đây là bị can thứ nhì. Mời Trần Nước Hòn lên ngồi vào ghế bị can.

Mọi người chăm chú nhìn một người đàn ông tuổi ước năm mươi nhưng cách ăn mặc lại trẻ trung nếu không muốn nói là diêm dúa và lố lăng.

- Hắn giống y chang Xuân Tóc Đỏ của ông Vũ Trọng Phụng hả anh Bình?

Huyền nói nhỏ với Bình, nhưng vì phòng xử thật im lặng nên mọi người đều nghe rõ lời nói của cô ta. Dưới hàng ghế người tham dự vọng lên giọng nói ồm ồm như phụ họa câu nói của Huyền.

- Thì hắn là thằng Xuân Tóc Đỏ của bác và đảng mà. Tôi biết gốc gác ma cô của hắn.. Hắn từng dắt mối cho bác bởi vậy bác mới cho hắn làm bộ trưởng.

- Ủa hắn làm bộ trưởng gì hả anh Tám.?

- Bộ trưởng Công Ăn Chơi kiêm Dắt Mối chứ bộ trưởng gì mậy. Hắn là thằng chuyên môn cung cấp gái cho các cố vấn Nga, Tàu xa nhà cần phải giải quyết sinh lý nên các cố vấn Nga Tàu cưng hắn lắm. Do đó mà hắn ỷ thế không coi ai ra gì. Cả bác còn phải ớn hắn.

Tuy hơi cau mày khi nghe tiếng đối đáp vọng lên nơi hàng ghế của người tham dự nhưng Diêm Vương không nói lời gì khác. Sau khi bị can thề thốt xong vị lục sự cao giọng.

- Bị can Trần Nước Hòn bị cáo buộc về tội hãm hiếp và giết người.

Có tiếng xì xầm vang nho nhỏ.

- Hắn tên là Trần Nước Viên mà sao ông lục sự lại đọc là Hòn. Bộ ông ta lộn tên hay gọi lầm người sao anh Tám…

- Tao nghĩ hổng phải ổng lộn tên hay lầm người đâu mà có lẽ ổng là dân miền Nam. Theo dân Nam bộ mình thời hoàn, viên cũng có nghĩa giống như hòn. Bởi vậy dân Nam bộ mới gọi là viên đạn, hòn bi hay hoàn thuốc tễ… Cũng vì vậy mà sau này mình mới có danh từ ” nâng bi ”. Hể cái gì tròn tròn là mình kêu viên, hòn hay hoàn…

Giọng của vị lục sư vang đều đều giới thiệu về tiểu sử của bị can.

- Trần Nước Hòn tên thật là Nguyễn Ba Cẳng, sinh năm 1916 tại Nghệ An. Con nhà nghèo không được đi học nên khi lớn lên hắn trở thành tên du thủ du thực. Năm 1934, bị can gia nhập hội kín của Hình Chí Mô rồi sau đó giữ nhiều chức vụ quan trọng như Xứ Uỷ Bắc Kỳ, Bí thư Thành Ủy Hà Nội, Bí thư các Liên khu II, Khu X.

Năm 1952, Trần Nước Hòn được Hình Chí Mô cho làm Giám đốc Nha Công Ăn Việt Nam. Năm sau, Nha Công Ăn chuyển thành Thứ Bộ Công Ăn thì bị can trở thành Thứ Trưởng Thứ Bộ Công Ăn. Ngay trong năm 1953, Thứ Bộ Công Ăn lại đổi thành Bộ Công Ăn và Trần Nước Hòn trở thành bộ trưởng bộ Công Ăn nhờ vào những vụ thủ tiêu hay ám sát đảng viên các đảng phái đối lập như Quốc Dân Đảng hay các nhân vật yêu nước chống đối lại lão Hình Chí Mô…

Có tiếng xì xầm nhỏ nhỏ văng lên nơi khu dành cho người tham dự phiên tòa.

- Bộ Công Ăn là bộ gì vậy anh Tám. Từ nào tới giờ tôi đâu có nghe Việt Nam mình có bộ Công Ăn?

- Mày khờ quá. Bộ Công Ăn là một bộ quan trọng nhất của nhà nước.

- Anh giải nghĩa như vậy tui càng hổng hiểu.

- Mày sao chậm tiêu quá. Đó là bộ công an. Bộ công an là bộ công khai ăn cướp của dân, công khai ăn hối lộ và công khai ăn nằm với đàn bà con gái. Bởi vậy thằng Trần Nước Hòn mới tha hồ giết người và hãm hiếp phụ nữ.

Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can ngay sau khi vị lục sự vừa dứt lời. Bằng khuôn mặt đanh lạnh, ánh mắt rực hào quang ông ta nhìn thẳng vào mặt Trần Nước Hòn. Câu hỏi mà ông ta buông ra khiến cho mọi người đâm thắc mắc.

- Tôi nghe thiên hạ đồn ông có số đào hoa lắm. Đúng không thưa ông Hòn?

Huyền thì thầm.

- Sao ổng hỏi gì lạ vậy anh Bình?

Mặc dù cũng thắc mắc như cô bạn gái của mình song vì lớn tuổi và kinh nghiệm đời nhiều hơn nên Bình cười trả lời.

- Chắc phải có lý do ổng mới hỏi như vậy…

Được Thôi Phán Quan khen có số đào hoa Trần Nước Hòn khoái chí.

- Dạ cũng nhờ trời phật thương… Dạ tui nói lộn xin nói lại là nhờ ơn bác ơn đảng nên tôi được đàn bà con gái nó thương. Mà tôi lại có cái lòng nhân hậu. Hể người nào thương tui thời tui thương lại. Thương người như thể thương thân mà…

Nghe bị can ba hoa chích chòe Thôi Phán Quan mỉm cười.

- Xin ông vui lòng cho tòa và bồi thẫm đoàn biết ông đã được bao nhiêu người đàn bà con gái thương?

Ngẫm nghĩ giây lát Trần Nước Hòn thủng thẳng trả lời.

- Nhiều lắm tôi hổng nhớ hết… Có người thương tui mà cũng có người hổng thương tui nhưng tui cứ thương đại. Riết rồi họ cũng thương mình lại…

- Ạ… Hóa ra ông có cách thức đặc biệt để làm cho đàn bà thương ông… Tôi xin ông vui lòng giải thích với tòa ông làm cách nào để đàn bà con gái họ thương ông…

He… he… he… Trần Nước Hòn cười khi được Thôi Phán Quan khen, vì thế hắn không thấy được cái nháy mắt ra hiệu của Hình Chí Mô. Quay qua chỗ Diêm Vương ngồi Trần Nước Hòn vui vẻ nói.

- Dạ bẫm Diêm Vương. Con mà nói ra cái cách thức làm cho đàn bà thương con thời xin ngài giảm án cho con nhẹ nhẹ. Dạ ngài cho con gở chừng vài tờ lịch thôi rồi cho con đầu thai lên dương thế. Ở âm phủ tuy an nhàn nhưng hổng có vui. Hổng có đàn bà, con gái đẹp mà toàn là xương khô nhìn thấy ớn quá. Con mà hổng có thương đàn bà là con héo hon như cây thiếu nước…

Nghe Trần Nước Hòn than, Diêm Vương có lẽ cũng mũi lòng nên nhỏ nhẹ cất tiếng.

- Được rồi. Ngươi khai hết tội lỗi của ngươi và sau đó tỏ lòng ăn năn hối cải thời ta cũng châm chế tội ác mà cho ngươi gở chừng vài cuốn lịch thôi thay vì gở lịch muôn năm…

Được lời hứa hẹn của Diêm Vương, Trần Nước Hòn thong thả cười nói với Thôi Phán Quan.

- Dạ cái cách thức làm cho đàn bà thương của tui giản dị lắm. Hể họ không nắm tay mình thời mình nắm tay họ.

Hể họ không chịu hôn mình thì mình hôn họ. Hể họ không chịu ôm mình thì mình ôm họ. Hể họ không chịu ” ấy ” mình thì mình đè họ ra mà ấy. Đó là cách mà tui kêu là ” ấy đại”.

Thôi Phán Quan gật gù.

- Như thế có bao nhiêu người bị ông “ấy đại”. Chắc nhiều người lắm phải không?

Trần Nước Hòn trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan một cách lẹ làng.

- Nhiều lắm tôi không nhớ hết nhưng chắc chừng năm bảy chục cô. Năm với bảy là trăm hai đó mà…

- Bây giờ nếu tôi gọi một người mà ông đã thương họ theo cách ông vừa nói chắc ông còn nhớ mặt họ…

Nghe Thôi Phán Quan nói như vậy, Trần Nước Hòn sáng mắt lên.

- Đâu… đâu… Họ là ai… Tôi mà thấy mặt là tôi nhìn ra liền… Người quen biết hông hà…

Hướng về phía chín vị bồi thẫm đoàn Thôi Phán Quan cao giọng.

- Thưa Diêm Vương. Thưa quí vị bồi thẫm. Sau đây tôi xin mời nhân chứng thứ nhất. Kính mời cô Nông Thị Xuân…

Ngồi ở hàng ghế đầu, Huyền, Vui và Đán đều thấy rõ ràng lão Hình Chí Mô và Trần Nước Hòn đều ”có vấn đề ” khi nghe tới tên Nông Thị Xuân. Riêng Bình thấy một thiếu nữ từ dưới hàng ghế nhân chứng đứng lên. Khi cô gái tới gần anh nhận thấy Nông Thị Xuân là một cô gái trẻ đẹp. Dường như cô ta xuất thân từ một gia đình nghèo ở vùng quê xa xôi chứ không phải là người thành thị vì thế cách ăn mặc cũng hơi quê mùa. Có một điều Bình nhận thấy là cô ta có nhan sắc mặn mà với làn da trắng, mày liễu, môi son hồng tự nhiên. Thực sự mà nói cô ta là một thiếu nữ trẻ đẹp và hấp dẫn.

Cô gái mang tên Nông Thị Xuân cúi gầm mặt không nhìn ai đi lên ngồi vào ghế nhân chứng. Đợi cho nhân chứng thề thốt xong Thôi Phán Quan mới bắt đầu chất vấn nhân chứng bằng một câu hỏi.

- Cô tên là Nông Thị Xuân?

- Thưa phải ạ…

- Cô sinh năm 1938 tại Cao Bằng?

- Thưa ngài đúng ạ…

Hai lần cô Xuân chỉ trả lời bằng câu trả lời ngắn gọn và cũng không ngẩng đầu lên nhìn ai. Như hiểu được sự hổ thẹn và nhất là sự lo sợ của cô ta nên Thôi Phán Quan trấn an cô ta bằng câu nói.

- Đây là âm phủ chứ không phải ở trên dương thế và nhất là ở xứ Việt Nam của cô. Do đó cô cứ an tâm trình bày tất cả mọi chuyện vì cô được bảo vệ bởi luật pháp của âm phủ và quyền lực của trời…

Dù Thôi Phán Quan đã nói như vậy song cô Nông Thị Xuân vẫn ấp úng hồi lâu mới thỏ thẻ.

- Thưa tôi sợ…

- Cô sợ ai?

Liếc nhanh chiếc ghế bên cạnh rồi ngó xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi cô Xuân thì thầm.

- Bẩm ngài tôi sợ ông Bộ Trưởng Công Ăn… Ổng đánh đau lắm…

Được cơ hội Thôi Phán Quán hỏi dồn.

- Ông Bộ Trưởng Công Ăn đánh cô… mà đánh ở đâu?

- Thưa… Thưa ngài… Ổng đánh vào đầu tôi… Ổng dùng búa đánh vào đầu tôi… Ổng trùm đầu tôi bằng bao vải… rồi ổng đánh vào đầu… đau lắm… hu… hu… hu…

Cô Nông Thị Xuân bật khóc nức nở. Thiên hạ nhốn nháo. Người người xôn xao khi nghe lời tiết lộ động trời của cô Xuân. Có nhiều người không nhịn được đứng bật dậy khiến cho Diêm Vương phải gõ búa để vãn hồi trật tự. Đợi cho im lặng trở lại, Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt cô Nông Thị Xuân. Nhìn cô gái đang ngồi cúi đầu khóc tức tửi ông ta dịu giọng nói như vỗ về và an ủi.

- Tôi thông cảm cho nỗi đau đớn và khổ sở mà cô đã chịu đựng. Tôi biết cô chết một cách oan ức. Tuy nhiên cô cần bình tỉnh, cần phải nói rõ cho tòa và mọi người biết về hành động hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn và những kẻ đồng lõa của hắn để âm phủ bắt chúng phải đền tội. Cô phải giúp âm phủ truy tố và phạt nặng những kẻ giết người một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo. Bọn chúng đang sống sung sướng trên nỗi đau khổ của cô. Cô hiểu tôi muốn nói gì chứ…

Ngước lên nhìn Thôi Phán Quan cô Nông Thị Xuân gật đầu thỏ thẻ.

- Thưa tôi hiểu…

Mỉm cười hài lòng Thôi Phán Quan hỏi gọn một câu năm chữ.

- Ai đã hãm hiếp cô?

Đôi môi son hơi mím lại cô Nông Thị Xuân quay qua chỉ vào Trần Nước Hòn rồi chắc giọng.

- Người đó… Ổng đã hãm hiếp tôi…

Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan nói lớn.

- Hắn tên là Trần Nước Hòn. Phải hắn là người đã hãm hiếp cô?

Cô Xuân gật đầu.

- Thưa phải. Chính hắn đã hãm hiếp tôi…

- Hắn hãm hiếp cô bao nhiêu lần?

Cô Xuân ngập ngừng giây lát mới trả lời.

- Thưa nhiều lần lắm…

- Nhiều là bao nhiêu… Hai, ba, năm mười lần…

- Thưa tôi không nhớ rõ bao nhiêu lần nhưng ít ra cũng phải chục lần…

- Một lần cũng đủ tiêu đời người ta rồi…

Một giọng nói từ phía trái nơi dãy bàn cuối cùng vang lên. Một giọng nói khác phụ họa.

- Thằng đó chỉ có nước thiến nó thôi Diêm Vương ơi…

- Đổi tên Trần Nước Hòn của nó thành Trần Đứt Hòn đi…

Ngồi trên ghế cao Diêm Vương chúm chiếm cười khi nghe thiên hạ lên tiếng. Thong thả đặt tách trà nóng trước mặt cô Nông Thị Xuân xong Thôi Phán Quan từ từ thốt.

- Cô uống chút trà cho ấm và tỉnh táo…

- Cám ơn ngài…

Cô Xuân uống một hớp trà nhỏ trong lúc Thôi Phán Quan đặt câu hỏi.

- Cô có thể trình bày đầu đuôi tự sự cho 9 vị bồi thẫm nghe tại sao cô bị tên Trần Nước Hòn hãm hiếp và giết chết…

Uống thêm một ngụm trà, cô Xuân liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô ngồi xong mới thỏ thẻ. Dù cô nói nhỏ song vì phòng xử im lặng vả lại nhờ hệ thống khuếch đại âm thanh nên ai ai cũng nghe rõ.

- Tôi tên Nông Thị Xuân. Trong nhà gọi tôi là Sang. Tôi sinh ra ở làng Hà Mạ, xã Hồng Việt, huyện Hòa An thuộc tỉnh Cao Bằng. Đầu năm 1955 tôi được đưa về Hà Nội để ” phục vụ bác “…

Nói tới đó cô Xuân ngừng lại liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi. Nhân dịp cô Xuân ngừng lại Thôi Phán Quan hỏi.

- Cô sinh năm 1932?

- Thưa phải…

- Vậy là cô về phục vụ bác lúc cô được 23 tuổi?

- Thưa đúng ạ…

Nở nụ cười hóm hỉnh, vị đại diện công tố tiếp.

- Tôi là người của âm phủ cho nên không thông thạo tiếng Việt lắm. Xin cô vui lòng giải thích tiếng ”phục vụ bác” là nghĩa làm sao?

Bình tủm tỉm cười. Quay qua nhìn Huyền, anh thấy cô nàng cũng cúi đầu cười lỏn lẻn như thẹn thùng. Đán nghiêng người nói nhỏ vào tai Bình.

- Ông Thôi Phán Quan này thâm thật…

Bình muốn bật cười song rán dằn. Bị Thôi Phán Quan hỏi một câu khó trả lời cô Xuân ú ớ giây lát mới thỏ thẻ.

- Thưa phục vụ… phục vụ… có nghĩa là ăn nằm…

Thấy Thôi Phán Quan nhìn mình đăm đăm cô mím môi nói thêm.

- Thưa phục vụ bác là ngủ với bác…

- Ạ… Tôi hiểu rồi…

Bước xuống đứng trước mặt Hình Chí Mô, Thôi Phán Quan hỏi một câu mà mọi người đều cho là lạc đề vì nó không ăn nhập chút nào vào vụ án.

- Chắc ngươi được bác sĩ tẩm bổ dữ lắm. Họ cho ngươi uống sâm, nhung, dâm dương hoắc và hà thủ ô mỗi ngày hả. Họ có cho ngươi uống Viagra không?

Tới đây thời mọi người mới bật ngửa vì hiểu được cái ý xỏ xiên trong câu nói của vị đại diện công tố. Hình Chí Mô sinh năm 1890. Tính tới năm 1955 thời lão đã được 65 tuổi. Tuổi già thêm danh đạo đức mà lão còn kiếm gái tơ để hú hí. Hóa ra cái danh đạo đức cách mạng chỉ là bức bình phong che đậy cho các hành vi đê tiện và bỉ ổi.

Giọng kể chuyện của cô Xuân vang lên có lúc ngập ngừng, có lúc tức tửi, vang lên trong căn phòng im lặng.

- Về Hà Nội thời tôi được cho ở tại nhà số 66 đường Hàng Bông Nhuộm. Tôi ở tầng trên còn tầng dưới thời ông Nguyễn Quý Kiên là chánh văn phòng thủ tướng phủ ở với gia đình của ông ta… Mấy ngày đầu khi tôi về thời có nhiều người từ trong phủ chủ tịch ra dẫn tôi đi sắm sửa quần áo. Họ cũng mua son phấn và mua nước hoa cho tôi. Ngoài ra họ còn chỉ cho tôi cách thức trang điểm…

Thôi Phán Quán cười chúm chiếm.

- Tôi hiểu… Bác của cô thích con gái trẻ đẹp do đó cô phải cần học làm cho mình duyên dáng, khêu gợi và hấp dẫn…

Có lẽ vui vì được người phụ họa và thông cảm nên cô Xuân cười nói tiếp. Đây là lần đầu tiên cô cười khi bước lên ngồi vào ghế nhân chứng.

- Bẩm… Ông nói đúng. Họ còn chỉ dẫn cho tôi cách thức phục vụ bác…

- Cô có thể nói cho tòa biết họ đã dạy cô cái gì để phục vụ bác?

Cô Xuân đỏ mặt thẹn thùng. Âp úng hồi lâu cô mới thỏ thẻ.

- Thưa… thì họ dạy tôi cách… cách…

Cô Xuân cứ ấp úng nói không ra lời. Cười chúm chiếm Thôi Phán Quan lên tiếng.

- Tôi biết là cô khó nói nên chúng ta hãy bỏ qua chuyện đó và đi ngay vào vấn đề chính. Cô về phục vụ bác đầu năm 1955 và cuối năm 1956 thời cô có thai. Đúng không?

- Thưa đúng…

- Trong thời gian gần hai năm hầu hạ, bác của cô có nói, có hứa hẹn gì với cô không?

- Thưa có. Bác có nói là nếu tôi phục vụ bác giỏi thời bác sẽ cưới tôi làm vợ… Sau khi tôi sinh đứa con trai thời tôi năn nỉ bác hợp thức hóa nhưng bác nói tôi phải chờ, phải đợi bác hỏi ý kiến các ông trong bộ chính chị. Tin lời bác tôi rán chờ nhưng mãi cho tới ngày tôi bị giết cũng chẳng nghe bác nhắc tới chuyện lấy tôi làm vợ…

Thôi Phán Quan ngắt lời cô Xuân bằng một câu hỏi.

- Cô có nghĩ là bác đã lừa cô, đã lường gạt cô?

Xuân rơm rớm nước mắt.

- Tôi không biết… Hôm tôi mới về ở tên căn gác đường Hàng Bông Nhuộm thời có một bà vợ của một nhân viên của Bộ Công Ăn đã chết lên thăm tôi. Thấy tôi ở một mình bà mới nói.

- Sao cô lại ở đây có một mình. Thấy cô hiền lành và còn con nít không biết gì nên tôi thương tôi nói cho cô biết. Thằng mang cô tới đây ở là Bộ Trưởng Công Ăn. Nó là thằng côn đồ lưu manh, dâm ô và tàn ác lắm. Nó giết người không gớm tay. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Đường, vợ anh Thiện đem con gái gởi thằng Hòn nhờ nó kiếm chỗ nào khá giả để tác thành cho cô Bình. Thằng Hòn hãm hiếp cô này tới khi cô ấy có chửa rồi chọn một tên lưu manh làm công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu…

Cô Xuân ngừng lại để thở. Da mặt của cô tái xanh có lẽ vì sợ hãi mà có lẽ nhớ lại những lần cô bị chính tên Trần Nước Hòn hãm hiếp.

- Tôi nghe nói sợ quá nhưng tôi nghĩ dù sao tôi cũng là người có liên hệ mật thiết với bác chắc tên Hòn không dám làm gì tôi đâu. Tôi ngây thơ quá và tôi phải trả cái giá cho sự ngây thơ của tôi…

Ngừng lại cô Xuân rơm rớm nước mắt. Đưa cái khăn mù xoa lên chậm nước mắt xong cô kể tiếp.

- Bữa kia tôi đang ở trên gác một mình thời tên Hòn đi lên. Hắn chào tôi rồi đi thẳng vào nhà đoạn ôm ghì lấy tôi vào lòng rồi hôn tôi.

Tôi cố gắng xô hắn ra nhưng không được nên tôi bèn nói. ” Ông không được hỗn, tôi sắp sửa là vợ của bác “. Hắn cười dâm đãng: ” Tôi biết cô sắp làm vợ bác nhưng tánh mạng của cô nằm trong tay tôi “. Rồi hắn lại nói: ” Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt Nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà cô cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho cô biết cụ già nhà cô cũng không ngoài tay với của tôi “. Rồi hắn rút khẩu súng lục dí vào ngực để dọa tôi. Tôi bảo: ” Ông cứ việc bắn đi…” Hắn cười nhạo báng: ” Tôi bắn cô làm gì… Tôi cho cô thấy khẩu súng nước của tôi là cô hết la làng…” Nói xong hắn vật tôi ra giường, xé quần áo tôi rồi sau đó hãm hiếp tôi. Hiếp xong hắn cười nói đùa: ” Thanh niên phục vụ không khoái hơn ông già sao mà còn vờ làm gái…” Trước khi ra về hắn còn hăm dọa tôi một câu ” Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu cô hé miệng nói cho người khác biết là tôi sẽ giết cô, giết cả bố mẹ và anh chị em của cô. Tôi nói cho cô biết là ông cụ tin tôi hơn tin cô ”. Rồi từ đó tôi biến thành một thứ đồ chơi của hắn. Thấy bóng dáng hắn tôi như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây để mặc cho hắn muốn làm gì tuỳ ý…

giavui
07-11-2014, 08:47 PM
Dứt lời cô Nông Thị Xuân khóc tức tửi. Dù còn có nhiều điều muốn hỏi cô Xuân song thấy cô bi thương quá nên Thôi Phán Quan bèn cho lính đưa cô về chỗ ngồi xong quay qua nhìn Trần Nước Hòn.

- Ngươi nghĩ sao về những lời cô Xuân đã kể trước tòa?

Trần Nước Hòn cười làm thinh. Dĩ nhiên hắn không ngu dại gì thố lộ tội ác để đi tù. Chẳng thà ngậm miệng rồi tới đâu hay tới đó. Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan cao giọng.

- Tiếp theo đây tôi xin mời thêm một nhân chứng nữa.

Mời cô Nông Thị Vàng…

Mọi người chăm chú nhìn cô gái ăn mặc quê mùa bước lên ngồi vào ghế nhân chứng.

- Cô là em ruột của cô Nông Thị Xuân?

- Thưa phải ạ…

- Cô vui lòng kể lại cho tòa nghe chuyện cô về Hà Nội để ở với chị của cô…

Không như chị của mình có vẻ rụt rè hay lo sợ cô Vàng rất bình tĩnh khi kể chuyện.

- Đầu năm 1955 khi chị Xuân được đưa về Hà Nội phục vụ bác, thời gian sau em được người ta lên đón về căn gác nơi chị của em đang ở. Rồi vài ngày sau cô Nguyệt là bạn của em cũng tới. Tụi em không làm gì hết. Tối ngày chỉ quanh quẩn trên căn gác nhỏ. Thỉnh thỏang thời người ta mới tới chở chị Xuân đi gặp bác và thường thường thời ở cả đêm cho tới sáng hôm sau mới trở về. Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một bé trai và được đặt tên Trung. Em có bổn phận phải săn sóc cháu Trung. Vì lãnh nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên ông bộ trưởng Hòn nên tới nhà luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, tên Hòn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, tên Hòn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: ” Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết “ rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: ” Đau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị.” Chị Xuân kể cho em nghe những gì tên Hòn đã làm. Nó cũng là những gì mà chị Xuân đã kể cho quí vị nghe.

Em nói với chị Xuân: ” Hay là chị em ta trốn đi “. Chị Xuân nói: ” Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai “. Bác nói: ” Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa “. Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: ” Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không? “. Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu “. Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công Ăn nói dối”.

Tụi em bán tán và suy nghĩ mãi mới thấy rõ là tên Hòn muốn vu cáo chị em chúng tôi liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu sau này chuyện hắn hãm hiếp chị Xuân bị bại lộ. Bây giờ có trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta. Chị Xuân lại nói: ” Chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị “. Em thấy chuyện nguy hiểm quá vì tên Hòn đã nổi tiếng ở Bộ Công Ăn là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Nước Hòn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người gồm có nhân viên Công an, Tòa án và Kiểm sát viên.

Sau một tiếng đồng hồ, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi của chị Xuân không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Dạ dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nứt. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Đây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng. Em vô cùng đau đớn chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng. Vì buồn rầu lẫn lo sợ nên em khóc luôn. Họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. Em đoán chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều người quen biết hành động tàn nhẫn của kẻ giết người. Bọn sát nhân thế nào cũng giết người để ém nhẹm chuyện chúng đã làm. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, rồi ít hôm sau họ tuyên bố em bị thần kinh nên được chuyển về điều trị tại Hoà An. Đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 em đi về thăm ông cậu Hoàng văn Đệ thì bị tên Ninh xồm đi theo dùng búa đập vào đầu của em. Thấy em chưa chết hẳn nên hắn quăng em xuống sông…

Sau khi cô Vàng rời ghế nhân chứng Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can. Chiếu ánh mắt nghiêm lạnh như muốn thôi miên bị can đang ngồi trước mặt mình, Thôi Phán Quan cất giọng chậm và rõ.

- Sau đây tôi xin mời thêm một nhân chứng nữa. Kính mời ông Nguyễn Cần…

Đợi cho nhân chứng làm xong thủ tục thề thốt Thôi Phán Quan bắt đầu bằng một câu nói.

- Xin ông vui lòng nói trước tòa những gì ông biết về vụ cô Xuân, cô Vàng và cô Nguyệt…

Trầm ngâm giây lát ông Cần mới thở dài rồi thông thả lên tiếng.

- Sau khi rời Hà Nội đi Moskva, theo học ở Trường đảng cao cấp của Trung ương đảng cộng sản Liên Xô hồi năm 1962, và nhất là sau khi tôi đã ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản hồi đầu tháng 6 năm 1964, trong lòng tôi luôn luôn bị ám ảnh bởi một câu chuyện mà càng ngày tôi càng thấy rõ có cái gì đây đầy oan khuất, đầy mờ ám, rất là nghiêm trọng, mà bây giờ ở ngoài nước, trong hàng chục năm, lắm lúc tôi cảm thấy bó tay không thể nào tìm hiểu được. Chuyện thế này: ” Hồi cuối những năm 50 đầu những năm 60, tôi là phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Thành Phố Hà Nội, thường ngày tôi xuống các cơ sở. Nhưng sáng hôm đó, tôi nhớ là vào đầu xuân, tôi phải đến thường trực tại Ủy ban, thì anh Nguyễn Quốc Mạnh, ủy viên trong Ủy ban, phụ trách văn phòng, bước vào phòng tôi, hồi hộp nói: ” Báo cáo anh có một việc xảy ra, có một người đàn bà bị xe ô tô cán ở đoạn đường Nhật Tân phía đi lên Chèm…”. Tôi đưa mắt nhìn Quốc Mạnh, có vẻ hơi ngạc nhiên, nhưng không nói gì. Ngạc nhiên vì trong óc tôi thoáng một ý nghĩ, xe ô tô cán người ở Hà Nội chẳng phải là chuyện gì hiếm, sao anh ấy lại báo cáo với mình. Tôi im lặng chờ đợi. Quốc Mạnh nói tiếp: ” Nhưng mà, anh à, theo sự điều tra thì không phải là xe cán người, mà làm ra vẻ xe cán người…” Dừng lại một lúc, anh nói thêm: ” Mà… theo báo cáo thì chiếc xe ấy lại chạy từ Chủ tịch phủ ra…” Mấy tiếng cuối cùng “từ Chủ tịch phủ ra” đã gây cho tôi một cảm giác thật mạnh. Nhưng lúc đó, thật ra, tôi không hề có mảy may ý nghĩ là việc này có liên quan gì đến vị chủ tịch nước mà hồi đó, tôi chân thành kính yêu và tin tưởng. Một ý nghĩ thoáng qua trong óc: hay là bọn phục vụ ở chủ tịch phủ đã làm bậy bạ cái gì đây với chị kia, rồi giết đi và bày trò cán xe? Suy nghĩ một lúc, tôi nói: “Theo quyết định của Trên, mọi vấn đề thuộc về công an, tòa án thì do bí thư Thành ủy giải quyết, nhất là những chuyện có dính dấp đến Trên, việc này không thuộc thẩm quyền của Ủy ban hay Thành ủy, vậy hôm nay, anh đến gặp anh Tuyến báo cáo ngay anh ấy biết để anh giải quyết thì hơn.”

Hôm sau, gặp lại, tôi hỏi thì Quốc Mạnh cho biết: đã báo cáo rồi và anh Tuyến bảo anh sẽ trực tiếp làm việc với anh Thận (Lê Thận, hồi đó là giám đốc Sở công an Hà Nội, về sau được thăng chức thứ trưởng Bộ công an ). Khoảng một tuần sau, nhân gặp Trần Tuyến, bí thư Thành ủy kiêm phó chủ tịch Ủy ban hành chính thành phố, tôi tranh thủ hỏi về vấn đề đó, thì anh ta lạnh lùng gạt đi: “Thôi, việc đó xong rồi.” Biết là không thuận lợi cho một cuộc trao đổi cởi mở, nên tôi im… Khi đã ở nước ngoài, trong nhiều năm tôi cứ băn khoăn mãi về chuyện đó.

Hồi tháng 7 năm 1993, khi gặp nhà văn họ Vũ Thư, một người ” cùng cảnh ngộ “tức là cùng bị dính vào ” vụ án xét lại-chống đảng ” đã sang được Moskva, tôi mới đem chuyện đó kể ra. Vũ Thư bật người lên, vui mừng ra mặt, dường như anh được thêm một người nữa biết cái chuyện ” thâm cung bí sử ” này và chuyện tôi kể cho anh một lần nữa xác nhận điều mà cụ thân sinh của anh, ông Vũ Đình, đã dặn dò anh. Vũ nói liền: “Nhưng không phải ô tô từ Chủ tịch phủ phóng ra đâu, anh ạ. Mà từ phố Hàng Bông Nhuộm đi lên Nhật Tân…” Tôi đáp lại: ” Chính là Quốc Mạnh nói với tôi thế! “. Rồi Vũ thủng thẳng tâm sự với tôi: ” Có một hôm, ông cụ tôi bảo tôi lên xe, chúng tôi đi lên Hồ Tây, rồi theo đường Quảng Bá đi lên đường Nhật Tân, chỗ làng đào, anh biết chứ? ” Tôi trả lời theo kiểu dân Bắc: ” Biết quá đi, chứ lị! Từ 51, tôi phụ trách ngoại thành cơ mà” . Yên trí là tôi biết rõ địa thế vùng này, anh kể tiếp: ”Dừng xe lại, hai bố con ra xe, ông cụ dẫn anh đến một đoạn đường, hình như một bên có rặng ổi, rồi bảo: “Con ơi, con nhớ những lời bố dặn đây! Tới đây, đánh dấu một vụ án mạng, một vụ oan khuất khủng khiếp mà Trần Nước Hòn (ủy viên Bộ chính chị, bộ trưởng Ăn Chơi) là chính danh thủ phạm. Con hãy ghi nhớ, khi có dịp thì nói lên sự thật…”

Ngừng lại để uống ngụm nước cho thông cỏ xong ông Cần hắng giọng tiếp.

- Câu chuyện đại để thế này: có một chị người Nùng ở Cao Bằng, tên là Nông Thị Xuân, được đưa đến “phục vụ” Bác, cô đưa em là Nông Thị Vàng và một cô em họ nữa về Hà Nội. Sau đó, cô Xuân đẻ cho Bác một đứa con trai, được đặt tên là Nguyễn Tất Trung, và còn có tin đồn, một đứa con gái nữa, tên là Nguyễn Thị Trinh… Thế rồi Trần Nước Hòn hiếp cô Xuân tại nhà phố Hàng Bông Nhuộm, sau đó giết chết, rồi bày trò xe ô tô cán người tới đường Nhật Tân để lấp liếm tội ác. Sau khi cô chị bị giết, cô em chạy về Cao Bằng, rồi cũng bị giết nốt để ” bịt đầu mối” và người em họ cô Xuân cũng không thoát khỏi bàn tay đẫm máu của nó. Người yêu của cô Vàng đã viết thư tố cáo hung thủ.

Thật ra, những điều nhà văn họ Vũ kể tuy có rọi thêm vài tia sáng, nhưng vẫn chưa thỏa mãn được cái ý muốn tìm hiểu sự việc cụ thể của tôi, nên tôi vẫn tiếp tục cố làm sáng tỏ vấn đề này. Những năm gần đây, nhờ việc đi lại của người trong nước sang Nga được dễ dàng hơn, nên vài người đã kể cho tôi thêm những chi tiết rất có giá trị, bổ sung cho những điều tôi đã biết. Nhưng tất cả những điều đó chỉ là nghe lại của người này, người khác, không có chứng cứ nào, không có tài liệu cụ thể nào xác minh, giúp cho tôi được vững tin. May mắn là mới đây có một người quen cho tôi xem một tài liệu với nhiều chi tiết cụ thể xác nhận về cơ bản những điều tôi đã tìm hiểu được trong những năm qua. Sau khi cẩn thận xem xét kỹ tài liệu đó, tôi có thể tin tưởng ở tính chất chân thật của nó. Tài liệu gồm có một bức thư dài năm trang đánh máy của người chồng chưa cưới của cô Vàng đã bị giết, viết ngày 29 tháng 7 năm 1983 gửi ông Nguyễn Vô Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kèm theo một bức thư một trang của một số thương binh, bạn cùng chiến đấu với anh ta, không đề ngày (có lẽ là gửi cùng ngày?), gửi ông Nguyễn Vô Thọ, Chủ tịch Quốc hội nước Dân Chửi Cười Trừ Việt Nam, đồng gửi ông Ba Duân, Tổng bí thư đảng CSVN, ông Phạm Văn Chì, Chủ tịch HĐBT và ông Phạm Mạnh, Phó Chủ tịch HĐBT, tố cáo hành vi tội ác của bọn hung thủ đã giết hai nhiều người vô tội. Nhưng có một điều rất “kẹ ” cho tôi là anh bạn cho xem tài liệu lại dặn tôi đến hai lần “đừng công bố bản tài liệu” cho nên tôi không thể làm trái ý “người chủ” tài liệu.

Tuy nhiên, tôi mong rằng anh ấy sẽ nghĩ lại và tự anh hoặc nếu anh thấy không tiện cho mình thì giao cho một người nào khác sớm công bố toàn văn bản tài liệu đó để thực hiện ước nguyện của những người đã chết oan và của những người đã bất chấp nguy hiểm, ” máu hòa nước mắt viết thư này ” ( lời trong thư ). Phải nói rằng những người viết thư thật rất dũng cảm, đáng kính phục. Vì Chân Lý, người ta coi thường cái chết, khi viết những lời thật xót xa, đầy mai mỉa và thách đố đối với những kẻ cầm quyền và chế độ hiện tồn trong nước; những lời ấy vang lên như tiếng thét đau thương, ai oán, đã bị nhóm cầm quyền cộng sản dìm đi, bóp nghẹt trong hàng mấy thập niên rồi: “Chúng tôi, những thương binh đã đổ xương máu vì độc lập của quốc gia, tự do, công lý cho nhân dân, chúng tôi rất mong Ngài vì chân lý mà tìm ra hung thủ, xử lý thích đáng, treo cổ hung thủ công khai hoặc bí mật. Nếu trái lại, vì bè lũ, phải bao che cho hung thủ không trừng trị được bọn tàn ác này, thì chúng tôi xin Ngài phổ biến rộng rãi vụ bê bối này cho toàn thể thương binh và bộ đội biết. Riêng chúng tôi, những kẻ từng đổ xương máu bảo vệ NGAI VÀNG CỦA CÁC NGÀI, sẽ dùng hết sức mình tuyên bố vụ giết người này cho toàn thế giới biết để cả nhân loại đặt câu hỏi vào chế độ ưu việt của các Ngài. Chúng tôi một số thương binh sống dở chết dở, vì vấn đề này mà các Ngài muốn bỏ tù hay thủ tiêu, chúng tôi không hề sợ, và có khi như vậy lại đỡ khổ cho chúng tôi… “

Ngừng lại giây lát ông Cần nói trong lúc nhìn xuống dãy bàn chỗ 8 bị can đang ngồi xong mới từ từ cất tiếng.

- Đó là những điều tôi đã tai nghe mắt thấy về vụ giết người của tên Trần Nước Hòn và các đồng lỏa của hắn…

Trong lúc nhân chứng trở về chỗ ngồi Thôi Phán Quan suy nghĩ thật nhanh. Ông ta biết rằng trong vụ hãm hiếp và giết người này có lắm điều phức tạp, dính líu tới nhiều người trong đó có tên Trần Nước Hòn và có thể liên hệ tới lão Hình Chí Mô bởi vì nếu lão không bằng lòng hoặc cho phép thời bố bảo tên Hòn cũng không dám hãm hiếp hoặc mưu sát Nông Thị Xuân. Ông ta cũng biết tên Hòn là thằng lưu manh, khôn ngoan, tráo trở do đó muốn cho hắn nhận tội không phải là chuyện dễ dàng. Muốn cho tên Trần Nước Hòn cung khai ông ta phải có cách gì đặc biệt hơn là lối hỏi cung thông thường. Ngẫm nghĩ giây lát Thôi Phán Quan bước tới thì thầm vào tai Diêm Vương những gì không ai nghe được. Nghe xong Diêm Vương mỉm cười thốt.

- Ta cho phép ngươi làm bất cứ việc gì để bắt hắn khai sự thực…

Được phép của Diêm Vương, Thôi Phán Quan nháy mắt ra hiệu cho Hắc Bạch Sứ Giả đang đứng hầu hai bên Diêm Vương xong bước tới đứng ngay trước mặt Trần Nước Hòn. Ánh mắt sáng quắc của ông ta nhìn chằm chặp vào mặt bị can cùng với giọng nói nghiêm lạnh vang vang.

- Lần cuối cùng ta cho ngươi dịp may cung khai sự thực về hành vi hãm hiếp và giết người của ngươi…

Trước lời hăm dọa của Thôi Phán Quan tên Trần Nước Hòn vẫn giữ thái độ ung dung và cười nói.

- Thưa ngài. Tôi đâu có hãm hiếp và giết ai đâu. Mấy người đó không được tôi thương nên họ ghét tôi rồi vu oan giá họa cho tôi…

Thôi Phán Quan nhếch môi cười gằn.

- Được… Để ta cho ngươi thấy tận mặt các nạn nhân của ngươi…

Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Đèn trong căn phòng xử tự nhiên mờ dần khiến cho người ta chỉ thấy lờ mờ. Gió lạnh ở đâu bốc lên vù vù làm cho mọi người đều cảm thấy buốt xương. Có tiếng người thì thầm vang vang khắp nơi xen lẫn với tiếng khóc tỉ tê và tiếng rên rỉ. Điều kỳ dị hơn hết là mọi người trong phòng có cảm giác không khí trở nên âm u, lạnh lẽo, tương tự như họ đang ở trong bãi tha ma vào lúc ban đêm.

- Cái gì kỳ dậy anh Bình… Trời ơi ma… Tôi nghe như có ai thở ở đằng sau ót của mình…

Huyền la nho nhỏ. Bình im lặng trân mình chịu đựng cảm giác như có bàn tay lạnh, trơn nhớt nắm lấy tay của mình.

Riêng tên Trần Nước Hòn còn sợ muốn tè ra quần. Ngồi chết cứng trên ghế bị can, hắn thấy cô Nông Thị Xuân mặt xanh lè, mắt trợn trắng, đầu bị bể phân nửa lòi cả óc và máu me sền sệt. Hai bàn tay của cô Xuân bụm lại đưa ra trước mặt chất gì sền sệt như là óc và máu me. Mùi hôi thúi bốc lên khiến cho hắn lợm giọng. Tiếng khóc xen lẫn iếng thỏ thẻ vang lên: ” Ngươi… Ngươi hãm hiếp ta… Ngươi đập vào đầu ta… Đau quá…” Sợ quá hắn quay qua bên trái thời lại thấy cô Nông Thị Vàng máu me đầy mình, quần áo sủng nước, lưỡi le dài thòng đang kề cái mặt xanh lè vào bên má hắn. Ở đàng sau lưng hắn lại nghe tiếng cô Nguyệt la hét… Quân giết người… Thằng sát nhân… đền mạng cho ta. Xoay qua bên phải hắn thấy một cô gái khác nhe hàm răng tráng nhỡn với hai cái răng nanh dài ra và nhọn hoắt như nanh chó sói chực cắn cổ mình.

- Bớ… Bớ… Cứu… Ai cứu tôi… Làng nước ôi…

Trần Nước Hòn kinh sợ tới độ muốn chạy trốn mà hai chân xụi lơ, hai tay tê liệt nên đành ngồi chết cứng trên ghế mặc cho mấy con ma tiến lại càng lúc càng gần ghế mình ngồi.

- Ngươi giết ta mà ngươi chối… Nói mau… Nhận tội mau không ta cắn cổ ngươi…

Mồ hôi dầm dề, người run bây bẩy, Trần Nước Hòn vừa gật đầu vừa nói trong tiếng thở hổn hển.

- Nói… Tôi nói… Dang ra cho tôi nói…

Đèn tự nhiên cháy sáng trở lại. Mọi người ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra. Bình thấy Trần Quốc Hòn ngồi bất động trên ghế, hai mắt trợn trừng như mất hết hồn vía.

- Ngươi chịu khai không hay hồn oan của cô Xuân, cô Vàng, cô Nguyệt tới hỏi thăm sức khỏe của ngươi…

Trần Nước Hòn vừa thở dốc vừa gật đầu lia lịa.

- Bẩm tôi nói… Con nói… Ông vui lòng cho xin ly nước…

Nháy mắt với Hắc Y sứ giả, Thôi Phán Quan sai lính quỉ đem nước cho Trần Nước Hòn. Hắn cầm ly nước đầy mà tay run run như còn sợ hãi vì cảnh tượng vừa rồi. Ực một hơi cạn ly nước xong hắn thều thào.

- Bẩm ngài. Con đâu có thù hằn gì mà giết cô Xuân. Cổ đẹp quá mạng mà giết chi uổng của trời. Chẳng qua… chẳng qua…

Thấy hắn ấp úng Thôi Phán Quan hỏi dồn.

- Chẳng qua cái gì. Ai sai, ai bảo ngươi giết cô Xuân…

Trần Nước Hòn gục đầu xuống không dám nhìn ai.

- Bẩm lệnh từ phủ chủ tịch ạ. Một bữa có người bảo con vào phủ chủ tịch gặp bác… Bác hỏi con tỉ mĩ về tình trạng của cô Xuân. Con tình thực trình bày là con săn sóc cổ chu đáo vì nghĩ nay mai vì cổ cũng là vợ của bác. Bác cười khẩy bảo: ” Tao mà lấy nó à…” Nói xong bác cười hỏi con: ” Mày thích nó không? “. Con thực thà thưa là thích.” Đẹp như cổ ai mà hổng thích…“. Bác vỗ vai con nói: ” Mày thích thời tao cho mày đó. Mày muốn làm gì thì làm. Ủa mà mày chịu sái nhì hôn? ”. Con khoái quá trả lời: ” Dạ. Bác cho sái nhì, sái ba gì con cũng lượm hết…” Bác gật đầu bảo: ” Mày xài nó chán rồi thời mày đem nó đi cho khuất mắt tao nghe chưa. Xong xuôi rồi mày kiếm cho tao con khác trẻ đẹp hơn…” . Được bác cho phép xài cô Xuân nên con mới dám hãm hiếp cô ta. Chứ bác mà không cho phép thời bố bảo ba đời nhà con cũng không dám đụng tới đào nhí của bác. Xài chán chê cô ta xong là con vâng theo lệnh của bác cho cô đi tàu suốt. Còn cô Vàng vì cái tật bép xép nên cổ chết oan. Cái đó không phải lỗi của con…’

Nhìn Trần Nước Hòn co rúm người trên ghế bị can xong Thôi Phán Quan hướng về 9 vị bồi thẫm.

- Quí vị đã nghe nạn nhân thuật lại những hành vi hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn. Quí vị cũng nghe hắn thú nhận tội lỗi. Do đó tôi yêu cầu quí vị dành một hình phạt tương xứng với tội ác mà hắn đã phạm phải. Riêng về tội đồng lõa giết cô Xuân của lão Hình Chí Mô sẽ được tôi đề cập tới trong phiên xử đặc biệt dành cho hắn…

Nghe Thôi Phán Quan nói xong Diêm Vương tuyên bố ngưng phiên xử để nghỉ giải lao và cũng để cho bồi thẫm đoàn vào phòng riêng thảo luận hình phạt của Trần Nước Hòn.

Đợi cho mọi người ngồi vào bàn xong Đán hắng giọng.

- Ai bắt thăm Tố Bồi Bút?

Vui đưa tay lên.

- Chị Vui đã nghĩ ra hình phạt dành cho hắn chưa?

Liếc nhanh mọi người Vui cười gượng.

- Dạ chưa thưa anh. Tội của Tố Bồi Bút coi nhẹ mà nặng và hơi đặc biệt. Nó khác tội hãm hiếp và giết người của Trần Nước Hòn. Đêm qua tôi thức trắng dờ con mắt mà nghĩ không ra hình phạt dành cho hắn. Chắc tôi phải nhờ mấy anh chị góp ý kiến…

Ngẫm nghĩ giây lát Đán mới cười nói.

- Tôi có ý kiến như thế này. Một hồi nữa tôi sẽ tuyên bố trước tòa tạm hoãn hình phạt của Tố Bồi Bút cho tới phiên xử kế để mình họp lại tìm ra hình phạt cho hắn. Bây giờ tôi muốn biết ai bắt trúng tên Trần Nước Hòn?

Mọi người thấy Định đưa tay lên. Đán hỏi liền.

- Chị Định đã nghĩ ra hình phạt cho tên Trần Nước Hòn chưa?

Khẽ gật đầu Định cười đáp.

- Tôi đã nghĩ ra. Một hồi nữa anh tuyên bố hay là tôi?

Đán cười cười.

- Chị nghĩ ra thời chị phải tuyên án. Đó là bổn phận của chị mà

Mọi người cười đùa, nói chuyện chờ tới giờ xử. Đúng 10 giờ phiên xử Trần Nước Hòn được tiếp tục khi Diêm Vương ngồi vào ghế chánh án. Hướng về nơi chín vị bồi thẫm ngồi ông ta hỏi lớn.

- Quí vị đã có hình phạt dành cho bị can Tố Bồi Bút và Trần Nước Hòn chưa?

Nghe Diêm Vương hỏi Đán đứng lên trả lời.

- Thưa Diêm Vương… Tội của Tố Bồi Bút hơi phúc tạp nên chúng tôi cần thời gian nghiên cứu, thảo luận để tìm ra hình phạt tương xứng dành cho hắn. Phần bị can Trần Nước Hòn thời hình phạt của hắn sẽ do bồi thẫm Nguyễn Thị An Định tuyên xử…

Mọi người đồng quay nhìn vào vị bồi thẫm có bổn phận tuyên xử hình phạt cho Trần Nước Hòn.

- Cho nó gở vài trăm cuốn lịch đi chị…

- Cho hắn ở tù mục tóc nghe bà…

- Thiến hắn đi cho hắn bỏ tật…

Thiên hạ la rầm rầm khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra hiệu cho mọi người im lặng.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa mọi người. Tội hãm hiếp và giết người của tên Trần Nước Hòn đã rành rành không ai có thể chối cãi được. Vì vậy mà tôi sẽ cho hắn một hình phạt xứng đáng…

Ngừng lại như để cho mọi người chú ý tới lời nói của mình rồi An Định mới cao giọng tiếp.

- Tuy nhiên tôi là một người theo đạo Phật mà Phật tổ đã dạy rằng ” Bỏ dao đồ tể xuống thành Phật “, do đó để giúp cho Trần Nước Hòn có dịp ăn năn hối cải tội của mình tôi xin với tòa cho tên Trần Nước Hòn được đầu thai trở lại dương thế…

Thiên hạ nhốn nháo hẳn lên sau khi nghe vị bồi thẫm nói cho tên Trần Nước Hòn được đầu thai trở lại dương gian. Có tiếng hét từ nơi đám người dự thính phiên tòa.

- Bà này thân cộng rồi tụi bay ơi…

- Bả bị cấy vào người con vi trùng cộng sản rồi…

- Bả ăn tiền của tụi nó…

Diêm vương gõ búa liên tiếp để trấn áp sự bất bình của thiên hạ. Định cười thản nhiên trước bất bình cũng như sự giận dữ của mọi người. Đợi cho yên lặng trở lại chị mới cất tiếng. Ngay cả Đán, Bình, Vui và Huyền ngồi ở hàng ghế đầu cũng quay lại nhìn Định.

- Tên Hòn lúc còn nhỏ lêu lỏng chơi bời, không được giáo dục nên hư thân mất nết. Hắn chơi nhiều hơn làm cho nên tôi đề nghị âm phủ cho hắn đầu thai trở lại dương thế để bắt hắn làm việc có ích lợi cho dân cho nước…

Hướng về đám đông Định mỉm cười tiếp.

- Quí vị cũng biết nước ta nghèo, dân ta khổ trăm điều, lam lũ làm ăn mà cũng không no đủ được. Nghề chăn nuôi là một trong những nghề chính của dân ta. Dựa theo chính sách toàn dân thi đua tăng gia sản xuất của nhà nước, dân quê nuôi rất nhiều gia súc như trâu, bò, heo, gà, vịt… Trong việc chăn nuôi, heo được dân ta ưa chuộng vì dễ nuôi, chóng lớn và bán có tiền nhiều. Vì vậy nảy sinh ra tình trạng thiếu heo con để bán cho dân nuôi heo. Sở dĩ có tình trạng thiếu hụt heo con như vậy là vì nước ta không có giống tốt và nhất là thiếu heo giống. Do đó tôi xin tòa cho tên Hòn đầu thai làm con heo nọc của đảng và nhà nước. Dân chúng nuôi heo, ai có heo nái sẽ được con heo nọc quốc doanh của nhà nước truyền giống miễn phí…

Giọng nói của Định bị át bởi tiếng cười, tiếng hò la và tiếng vỗ tay hoan hô của mọi người.

- Chị nói phải đó. Hắn thích chơi thời mình cho hắn chơi thoải mái…

- Cho hắn chơi liệt luôn…

- Kỳ này tôi phải đăng ký nuôi heo để được giống heo Nước Hòn nghe bà con…

Thiên hạ la rần rần, cười nói ồn ào nên không chú ý tới bị can đã xỉu nằm gục trên ghế khi được biết là bồi thẫm đoàn cho mình đầu thai trở lại dương thế làm con heo nọc.

giavui
07-11-2014, 08:48 PM
PHẦN 2:
PHIÊN TOÀ DƯỚI ÂM-PHỦ

-9-
Cải Cách Ruộng Đất: Cải Cắt Tánh Mạng

Chưa tới 9 giờ sáng mà thiên hạ đã lũ lượt kéo nhau vào phòng xử. Nhiều người đã vào phòng rất sớm mong tìm được chỗ ngồi thoải mái hầu có thể nghe cũng như thấy phiên xử thứ ba. Ai ai cũng biết một điều phiên xử đi theo một lịch trình đặc biệt từ nhỏ cho tới lớn, mà số càng lớn thời tội của bị can càng nặng hơn. Theo lịch trình mà âm phủ đã thông báo, hôm nay là phiên xử của Trườn Chui, một lãnh tụ cao cấp của đảng và nhà nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ, nhân vật liên hệ rất nhiều vào vụ cải cách ruộng đất, một chính sách đẫm máu gây ra cái chết cho hàng trăm ngàn sinh mạng của dân chúng ở miền Bắc vào những năm 50.

- Kính thưa Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm… Để tiếp tục phiên tòa hôm nay tôi gọi tới bị can thứ ba ra trước vành móng ngựa. Kính mời ông Trườn Chui…

Đợi cho bị can làm xong thủ tục và vị lục sự giới thiệu tiểu sử của Trườn Chui xong, Thôi Phán Quan mở đầu bằng giọng nói sang sảng.

- Bị can thuở nhỏ được cha mẹ cho đi học, thấm nhuần giáo lý Khổng Mạnh, nhưng khi lớn lên hắn bị nhiễm con vi trùng cộng sản, phò lão Hình Chí Mô thờ cái đạo vô thần của Các Mác, Lê Nin, Xít Tê Linh, mà tàn hại sanh linh bá tánh của nước Việt. Chỉ nội vụ Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc hắn đã giết gần hai mươi vạn người, gây ra cảnh con mất cha, vợ mất chồng, nhà tan cửa nát và máu thấm đỏ đất. Tiếng than oán của dân lành vô tội thấu tới thiên đình, tràn lan cả tam sơn ngũ nhạc và năm châu bốn biển. Sau đây tôi xin mời một người ra trước tòa phê bình về những ” sai lầm cố ý ” trong vụ cải cách ruộng đất. Tiếp theo đó tôi sẽ mời các nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của tên Trườn Chui nói riêng và của toàn thể các lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam vào những năm 1950 ra đây đối chất trước tòa…

Hướng về dãy bàn dành cho nhân chứng Thôi Phán Quan cao giọng.

- Kính mời luật sư Nguyễn Mạnh Tường…

Mọi người trong phòng xử đều đứng lên vỗ tay hoan hô luật sư Tường, một người lưng hơi còm, tóc bạc lưa thưa, đầy vẻ già nua, cằn cỗi và bệnh hoạn. Ông ta hơi mỉm cười khi thấy mọi người vỗ tay hoan hô. Ông ta cũng bắt tay Thôi Phán Quan khi ông này bước tới chào đón rồi đích thân đưa ông tới ngồi nơi ghế nhân chứng.

Đợi cho yên lặng trở lại Thôi Phán Quan hướng về 9 vị bồi thẫm.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quý vị. Tôi thiết nghĩ không cần phải giới thiệu về luật sư Tường bởi chúng ta không ai xa lạ gì với ông ta.

Với nhiệm vụ của một trí thức, với tinh thần yêu nước và yêu tự do, luật sư đã mạnh dạn vạch rõ những sai lầm của các lãnh tụ cộng sản đương thời, những kẻ tự xem cũng như được cấp dưới tâng bốc ” không bao giờ sai lầm“. Sau đây tôi kính mời quí vị lắng nghe luật sư Tường trổ tài hùng biện nói lên những sai lầm của lãnh tụ cũng như những hình phạt mà ông phải hứng chịu hơn bốn mươi năm chỉ vì ” vạch lá tìm sâu ” của chế độ…

Ngồi nơi hàng ghế đầu, Bình nhận ra Trườn Chui có ‘‘ vấn đề lớn “ khi thấy luật sư Tường ngồi vào ghế nhân chứng. Ngay cả lão Hình Chí Mô cũng lộ vẻ lo ra vì sự hiện diện của ông ta. Căn phòng xử rộng lớn đầy đặc người ngồi lại lặng trang trừ giọng nói sang sảng của một người.

- Kính thưa Ngài Diêm Vương. Thưa bồi thẩm đoàn. Thưa toàn thể quý vị hiện diện trong phiên xử này. Hôm nay tôi rất hân hạnh được mời làm nhân chứng cho phiên tòa lịch sử ở âm phủ. Đáng lẽ các bị can hiện diện phải được xét xử trong một phiên tòa ở trên dương gian, cách đây năm mươi mấy năm với một hình phạt tương xứng dành cho các lãnh tụ coi quyền lợi của quốc gia và dân tộc nhẹ hơn quyền lợi và tham vọng cá nhân của họ. Tôi, thúc đẩy bởi lòng yêu nước của một người dân, cộng thêm trách nhiệm của một luật gia, đã mạnh dạn đứng ra chỉ vạch, phê phán những sai lầm trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, hầu mong các nhà lãnh đạo đất nước theo đó mà sửa chữa những sai lầm của mình. Tuy nhiên với một quan niệm ” Đảng không bao giờ lầm cũng như lãnh tụ không bao giờ sai “, đảng, đại diện là tổng bí thư, chủ tịch nước, chủ tịch đảng, đã xử dụng quyền lực có sẵn, nhân danh tổ quốc và dân tộc để trù, yểm, ếm, thanh trừng, đe dọa, đày đọa cá nhân tôi và gia đình hơn bốn mươi năm…

Ngừng lại giây lát, vị luật sư họ Nguyễn nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi xong cao giọng tiếp.

- Kính thưa quí vị. Không muốn làm mất thời giờ quí báu của quí vị nên tôi chỉ xin trình bày vài đoạn chính yếu trong bài diễn văn mà tôi đã nói cùng Mặt Trận Tổ Quốc ngày 30-10- 1956 với nhan đề ”Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất. Xây Dựng Quan Điểm Lãnh Đạo…”

Dường như có ý định thầm kín nào đó nên ngay khi luật sư Tường vừa nói dứt câu, Thôi Phán Quan nháy mắt ra hiệu cho Hắc Bạch Sứ Giả đang đứng hầu đằng sau lưng Diêm Vương. Hắc Bạch Sứ Giả gật đầu phất tay áo rộng. Căn phòng xử tự nhiên mờ dần dần rồi sau đó một cảnh tượng khác hiện lên. Chín vị bồi thẫm và mọi người ngồi dự khán chỉ thấy một căn phòng rộng có tới mấy trăm người ngồi im lặng lắng nghe một người đang ứng khẩu. Đó là hình ảnh của luật sư Nguyễn Mạnh Tường năm 1956.

- Tôi phấn khởi được nghe bản phê bình của Đảng Lao Động do ông Trườn Chui đọc trước hội nghị. Nhưng tôi cũng phải thú rằng lòng phấn khởi của tôi một phần bị giảm đi, vì tôi nhớ lại kết quả tai hại của các sai lầm đã phạm trong công cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Tôi xin phép các vị được kính cẩn nghiêng mình trước những người vô tội đã chết oan, không phải vì bàn tay của địch mà chính của ta. (…) Trái lại, các người chết oan vì các sai lầm trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất này, lúc tắt thở, cay đắng đau xót vì chết với một ô danh…

Ngồi nơi ghế bồi thẫm, Bình hơi rùng mình khi nghe giọng nói sang sảng của luật sư Tường trong lời buộc tội đanh thép và nghiêm khắc nhắm vào các lãnh tụ của đảng cộng sản đương thời.

- Những người lãnh đạo, có trách nhiệm trong vụ Cải Cách Ruộng Đất làm cho bao nhiêu người chết oan, không thể chỉ đứng ra xin lỗi, hoặc nhận là Đảng đã sai lầm, mà xong đâu. Xin lỗi không phải là hành động luật pháp. Giết người rồi, không thể chỉ xin lỗi mà xí xoá được.

- Đúng rồi đó. Giết người là phải đền mạng. Lôi cổ thằng Trườn Chui, lão già Hình Chí Mô ra đây thường mạng cho tôi.

- Cho tụi nó ở tù rục xương.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười nhìn xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi xong mới hắng giọng tiếp.

- Trong một nước dân chủ thực sự, thì quốc hội phải lập một ủy ban điều tra, phải đưa họ ra toà, và toà sẽ phân xử, kết án, tùy theo trách nhiệm nặng nhẹ của mỗi người, từ lãnh đạo cao nhất xuống dưới…

Tiếng vỗ tay hoan hô mới đầu còn lác đác sau từ nhiều hơn rồi toàn thể hội trường đồng loạt vỗ tay cùng với tiếng la hét của người nghe.

- Đúng đó…

- Lôi cổ bọn chúng ra tòa…

- Cho tụi nó mỗi đứa gỡ vài chục cuốn lịch…

Mỉm cười chờ cho mọi người yên lặng xong luật sư Tường hắng giọng.

- Khi đưa ra khẩu hiệu ” thà chết 10 người oan còn hơn để sót 1 địch ” thì khẩu hiệu này không những quá tả một cách vô lý mà phản lại cách mạng là đằng khác nữa… Khẩu hiệu của pháp lý thì khác hẳn: ” Thà 10 địch sót còn hơn 1 người bị kết án oan “…

Ngừng lại nhìn xuống chỗ bàn 8 bị can ngồi luật sư Tường cao giọng tiếp.

- Sỡ dĩ có những sai lầm đó là vì giới lãnh đạo của đảng hoặc không biết hoặc cố tình làm như không biết ba điểm chính yếu sau đây. Thứ nhất là quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ. Thứ nhì là khinh thường hay bất chấp luật pháp. Thứ ba là bất chấp chuyên môn…

- Tụi nó mà luật pháp gì ông ơi. Tụi nó xài luật rừng không hà…

Có tiếng ở đám người tham dự la lớn và luật sư Tường cười tiếp tục.

- Vì quan điểm ta-địch, thù-bạn mơ hồ cho nên ”những người suốt đời hi sinh cho sự nghiệp cách mạng, rồi bỗng nhiên bị truất quyền, bị khai trừ ra khỏi Đảng, bị tống giam, thậm chí có khi bị giết nữa. ” Trong cuộc cải cách ruộng đất, bao nhiêu ” chiến sĩ cách mạng thành tích lộng lẫy ” cũng ” bị kết án là phản động, cường hào gian ác và, sau khi nhận tội, bị tống giam hay bị hành hình “.

Vì chính trị bất chấp pháp luật cho nên, muốn xử tử ai cũng được: “Quyền xử tử người một cách đơn giản như vậy trái với luật pháp” .

Vì bất chấp chuyên môn cho nên “Trong 10 năm vừa qua, ta thấy một tình trạng quái gở. Chính trị ám ảnh đầu óc chúng ta đến nỗi hai chữ ” lập trường ” làm ta mất ăn mất ngủ (…) Khi chọn một người vặn lái ô tô, ta không hỏi người ấy có bằng vặn lái và đã vặn lái bao năm, ta chỉ hỏi: “Có lập trường không?” Kết quả là từ hai năm nay, riêng trong thủ đô Hà Nội, hàng trăm tai nạn xảy ra do các người vặn lái ô tô có lập trường mà không nắm chuyên môn. Khi đưa tới bệnh viện một bệnh nhân cần cấp cứu, vấn đề mang ra thảo luận trước tiên là: Bệnh nhân thuộc thành phần nào, giai cấp nào? Chữa cho địa chủ thì ” mất lập trường “. Để nó chết mới chứng minh mình có ” lập trường giai cấp ” (hiện tượng do B.S. Nguyễn Xuân Nguyên đưa ra…). Tại sao có những hiện tượng quái gở như vậy? Là vì chính trị chiếm đóng tất cả các khu vực trong nhận thức của chúng ta làm chúng ta mất cả cái nhân đạo tối thiểu của con người, làm chúng ta khước từ các chân lý…

Quốc hội thành lập đã mười năm [từ 1946 đến 1956]. “Nhưng quyền lập pháp của Quốc hội ở đâu?” “Dư luận quần chúng quan niệm rằng Quốc hội chỉ có quyền thông qua các chính sách mà thôi “.

“Trong bản Tuyên ngôn độc lập, trong Hiến pháp cũng như trong các sắc lệnh, đạo luật, nguyên tắc dân chủ đã được ban bố” . Nhưng trong thực tế: “người dân không có quyền, không có phương tiện nói lên ý kiến của mình, tham gia xây dựng các chính sách của Chính phủ “.

Có tiếng người la lớn.

- Quốc hội bù nhìn ông ơi…

- Hạnh phúc của loài người xây dựng trên cơ sở dân sinh và dân quyền. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây về vấn đề dân quyền. Ta được biết từ hai thế kỷ nay chủ yếu trong vấn đề dân quyền là vấn đề dân chủ, nghĩa là quyền của người dân làm chủ trên đất nước, đồng thời là quyền của con người được sống theo các nhu cầu thiết yếu và chính đáng của nhân bản. Tuy rằng trong nước ta có một Bộ Tư pháp, có các toà án, có luật lệ, nhưng chế độ pháp trị hầu như không có…

Có tiếng nói khàn khàn vang lên nơi cánh trái.

- Dưới chế độ độc tài độc đảng cộng sản thời người dân làm ”chủ không” mà nhà nước quản lý và xử lý hết trơn hết trọi ông ơi…

Có tiếng cười rần rần vì câu nói giỡn của một người nào đó.

- Một chế độ thực sự dân chủ là trong đó người dân được làm chủ trên đất nước không những trong hiến pháp, mà cả trong thực tế nữa…

Mọi người thấy Diêm Vương ngồi rung đùi như đắc ý khi nghe những lời diễn giải về tự do dân chủ của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Thôi Phán Quan tằng hắng.

- Họ đã đối xử với ông như thế nào sau khi ông phát biểu lời phê bình của mình?

Luật sư Tường nhìn xuống chỗ giáo sư Trương Tửu ngồi xong từ từ cất tiếng.

- Những gì họ đã làm với giáo sư Trương Tửu thời họ cũng áp dụng đối với tôi hay với bất cứ giới trí thức trong nước như giáo sư Đào, giáo sư Trịnh…

- Tại sao họ lại đối xử tàn tệ với ông như vậy?

Luật sư Tường chua chát trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Bởi vì tôi là một trí thức-thức chứ không phải trí thức- ngủ…

Mọi người cười cái rần vì cách dùng chữ của ông. Đợi cho tiếng cười dứt ông ta cao giọng tiếp.

- Giới lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam hiểu rất tận tường vấn đề trí thức và dân chủ. Họ chia ra hai loại trí thức. Đó là trí thức thật và trí thức giả. Trí thức giả là bọn bồi bút để chính quyền sai bảo. Trí thức thật, có uy tín với quần chúng mới là những người mà Đảng cần phải thanh trừng bởi vì họ là sự đe dọa cho đảng. Họ mang trong người tinh thần dân chủ, họ chống lại chính sách độc tài đảng trị và họ truyền bá ý thức tự do cá nhân cho dân chúng để chống lại chủ nghĩa tập thể. Đó là những điểm mà giới lãnh đạo cộng sản không thể chấp nhận được…

Tôi muốn nói những nhà trí thức đích thực, đối cực của thứ trí thức giả hiệu ngực phồng những phẩm hàm, những bằng cấp thật giả không sao biết được…

Ở những nhà trí thức đích thực, nhân cách đi đôi với văn hoá. Văn hóa ở đây không có nghĩa là kiến thức. Có những người đầy kiến thức, là chuyên viên hàng đầu trong địa hạt hoạt động của mình, nhưng họ vẫn vô văn hoá, bởi lối nhìn về con người, về vạn vật của họ ấu trĩ vô cùng. Sự nhận thức thực tế xã hội và con người của họ ngây ngô lạ lùng!

Họ thiếu cái gì? Thiếu sự phán đoán được rèn luyện qua sách vở, thiếu sự giao tiếp với con người, thiếu tiếp cận những vấn đề của cuộc sống, thiếu trao đổi tư tưởng với người khác, thiếu sự suy nghĩ sâu xa và đúng đắn về những thành công và thất bại mà kinh nghiệm sống đem lại. ” Nhờ nhân cách và văn hoá mà người trí thức, trung quân trong thời phong kiến, có uy tín đối với quần chúng và được vương quyền nể trọng. Sau khi thi đỗ, ra làm quan cai trị dân là họ hoàn tất nhiệm vụ của mình.

Trong thời Pháp thuộc, giai cấp quan lại bị mất uy tín vì sa vào vòng thối nát hối lộ, mất đi cái hào quang xưa, trở thành cái bia cho báo chí và quần chúng chế giễu, phỉ báng.

Nhưng lớp trí thức mới được đào tạo từ những trường hay đại học Pháp, lại được hưởng niềm tin và kính trọng của quần chúng mà lớp trí thức xưa để lại. Thêm một sự kiện mới nữa: Những nhà trí thức tân học đích thực này đã tiếp nhận tinh thần dân chủ Pháp thoát thai từ cách mạng 1789. Họ không xa lạ gì với vấn đề nhân quyền.

Cái nguy hiểm của giới trí thức tân học đối với cộng sản là ở chỗ ” Con trùng dân chủ và nhân quyền đã thấm vào máu trong tầng lớp trí thức xuất thân từ đại học Luật mới mở những năm gần đây. Dĩ nhiên có người vẫn còn chịu ảnh hưởng truyền thống cũ, có người là nạn nhân những di tật người trước để lại, nhưng trong đáy lòng họ, vẫn le lói ngọn lửa dân chủ… Cộng sản không muốn dân chủ mà họ muốn làm chủ dân… Giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam không muốn tự do độc lập mà họ chỉ muốn tự do độc tài…

Nước ta đã phải chứng kiến sự thâm nhập của một chủ nghĩa ngoại bang hoàn toàn không bắt rễ từ quá khứ dân tộc. Bao nhiêu nhà ái quốc lớn mà mọi người đều kính phục đã bảo vệ, đã bênh vực, đã bảo trợ cho chủ nghĩa này. Họ đã đưa nó ra rồi bắt dân chúng phải thừa nhận, bằng cách hứa hẹn nó là chìa khoá mở cửa vào thiên đàng trần thế. Quần chúng tin vào lời nói của lãnh đạo và chờ đợi sự thực hiện những lời hứa. Chính nhờ vào sự đồng tình, vào những cố gắng, những hy sinh của toàn dân mà đất nước đã giành được độc lập và tự do. Những cánh tay làm việc và những cái đầu suy nghĩ đã là rường cột cho đảng cầm quyền.

Bất hạnh thay, con đường chúng ta đi không bọc nhung. Hợm mình trước những chiến công hiển hách mà họ tưởng đã đạt được nhờ chủ nghiã mác-xít, những người lãnh đạo đã xây dựng nền móng và áp dụng sâu rộng hơn chủ nghĩa này trong tất cả các ngành, không cần đếm xỉa đến khoa học và thực tế, tuy vẫn hô hào kính trọng giáo dục. Cuộc cải cách ruộng đất đưa đến những sai lầm nghiêm trọng mà những người cầm quyền phải chịu trách nhiệm. Sự đói khổ của nhân dân đã đến mức khốc liệt, vậy mà những kẻ trách nhiệm vẫn khoác lác rêu rao những điều ngược lại.

Trước bi kịch này, thái độ của trí thức phải như thế nào? Có kẻ bịt mắt đút nút lỗ tai để đồng thanh phụ họa với bọn cơ hội và phỉnh nịnh, luôn miệng kêu gào:

” Cộng sản thắng lợi. Đảng Cộng sản muôn năm “. Những kẻ này hy vọng được ân sủng đến ba đời. Công chúng biết rõ và khinh họ. Nhưng những khối óc biết nghĩ, những trái tim yêu tổ quốc và dân tộc không thể nhẫn nhục chịu đựng trong im lặng và thụ động, những cay đắng của khát vọng không thành và những giấc mơ bị chà đạp. Họ lên tiếng tố cáo những sai lầm và đề nghị những biện pháp sửa đổi. Họ được cám ơn bằng những cú roi quất, bằng tù tội suốt đời, họ bị kết tội phản đảng, phản cách mạng, là kẻ thù của nhân dân! Sự an ủi duy nhất của họ là được quần chúng hiểu, ái ngại, nhưng không làm gì cho họ được. Họ phải đợi sự phán đoán của lịch sử”…

Ngừng nói luật sư Nguyễn Mạnh Tường nhìn xuống ngay chỗ Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đang ngồi. Giọng của ông ta cất lên thật nghiêm nghị.

- Bỏ qua những lời ca tụng của bọn bồi bút và của đám cận thần chuyên tâng bốc; hoặc tự mình thần thánh hóa mình, vị lãnh tụ tối cao của đảng cộng sản Việt Nam sẽ bị chính những người dân Việt Nam, những kẻ khốn cùng bị giết chết, bị tước đoạt tài sản, bị mất quyền dân chủ, bị tước đoạt tự do, phê phán về hành động của ông ta, về công tội của ông ta. Trăm năm bia đá thời mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ…

Câu ca dao chấm dứt lời nói của luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Diêm Vương hơi cau mày khi thấy mọi người vỗ tay hoan hô ầm ỉ. Thật lâu ông ta mới lấy cái búa sắt gõ côm cốp lên bàn ra lệnh cho mọi người giữ trật tự.

Nhìn luật sư Tường bằng cái nhìn thân thiện Thôi Phán Quan cười nói.

- Xin cám ơn luật sư…

Lính quỉ đưa ông luật sư họ Nguyễn xuống ngồi kế bên giáo sư Trương Tửu. Liếc thấy đồng hồ chỉ 2 giờ 55 chiều,

Thôi Phán Quán bước tới đứng trước mặt Trườn Chui. Chiếu đôi mắt lấp lánh hàn quang như để hớp hồn bị can, vị đại diện của âm phủ buông một câu hỏi.

- Ngươi đã giết bao nhiêu người trong vụ Cải Cách Ruộng Đất?

Trườn Chui tủm tỉm cười trả lời.

- Chắc khoảng vài chục thằng địa chủ hay cường hào ác bá…

Thôi Phán Quan dựng mặt khi nghe câu trả lời này. Thái độ thản nhiên và câu nói khinh khỉnh của bị can khiến cho ông ta tức giận. Giết vài chục mạng người mà bị can tỉnh bơ, xem mạng người còn thua con sâu cái kiến.

- Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe…

Trườn Chui cười cười lập lại.

- Tôi đoán chắc khoảng vài trăm người…

Hồi nãy ở câu trả lời thứ nhất hắn nói vài chục, bây giờ tăng lên vài trăm. Thôi Phán Quan gằn giọng.

- Vài trăm… Ta cho ngươi nói lại lần nữa…

Trườn Chui nhìn xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi. Thấy lão Hình gật đầu ra hiệu, hắn mới cười trả lời.

- Chắc vài ngàn thằng thằng địa chủ với phú nông…

Bước trở lại bàn của mình, cầm lấy một cuốn sách đưa lên cao như muốn cho 9 vị bồi thẫm thấy rõ, Thôi Phán Quan cao giọng nói.

- Đây là quyển Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000 tập 2 xuất bản tại Hà Nội năm 2004. Nó là một tài liệu chính thức của nhà cầm quyền Hà Nội, viết về giai đoạn 1955¬1975, cho biết cuộc Cải Cách Ruộng Đất đợt 5 xảy ra từ năm 1955 cho tới 1956, được thực hiện ở 3,563 xã, có khoảng 10 triệu dân, tổng số người bị sát hại trong đợt 2 này lên đến 172,008 người, trong đó có 123, 266 người (71,66%) sau nầy được xác nhận đã bị giết oan. Trong số 172,008 nạn nhân, bảng thống kê cho biết cụ thể như sau:

- Thành phần bị liệt vào địa chủ hay cường hào số người bị giết lên tới 26,453 người mà số người bị chết oan là 20,493 tức là 77,4%. Thành phần địa chủ thường bị giết là 82,777, bị giết oan là 51,480 tức 62%. Riêng thành phần phú nông có 62,192 người bị giết, trong đó có 51,003 người bị chết oan tức 82%. Thành phần địa chủ kháng chiến có 586 người mà lại có 290 người bị giết oan tức là 49%. Chỉ riêng trong vụ cải cách ruộng đất đợt 2 này, tổng số người bị giết lên tới 172,008 mà số người bị giết oan là 123,666 người. Tỷ lệ người bị kết tội oan lên tới con số gần 72%…

Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan nói với 9 vị bồi thẫm.

- Xuyên qua cuốn Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam này, giới cầm quyền của cộng sản Việt Nam đã nhìn nhận họ có giết người…

Chín vị bồi thẫm đều nghe Thôi Phán Quan nhấn mạnh ba tiếng ” có giết người ”.

- Theo tôi vụ Cải Cách Ruộng Đất của đảng cộng sản Việt Nam phải được sửa tên lại là Cải Cắt Tánh Mạng mới đúng nghĩa của nó. Với tổng số 10 triệu dân mà lão Hình và tay sai của hắn đã giết gần hai trăm ngàn sinh mạng của thường dân vô tội. Sở dĩ chúng nhẫn tâm làm như vậy vì phải đạt cho được chỉ tiêu 5% để noi gương đàn anh Nga Tàu và nhất là lãnh lệnh giết người từ các tên lãnh tụ cộng sản quốc tế. Những điều mà tôi đã đọc cho quí vị nghe dựa trên thống kê của tài liệu chính thức mà đảng cộng sản đã lưu giữ. Có thể con số người bị giết nhiều hơn vì cộng sản lúc nào cũng hạ thấp con số khi cảm thấy bất lợi cho họ… Điều này tỏ cho chúng ta biết rằng Cải Cách Ruộng Đất là một cuộc tắm máu dân lành của các tên đồ tễ như Hình Chí Mô, Trườn Chui, Ba Duân, Phạm Văng Chì. Nếu tính trung bình một gia đình ở miền Bắc lúc đó có năm người thời bọn chúng đã gây đau khổ, tóc tang và điêu linh cho một triệu người vô tội. Xuyên qua cuộc Cải Cắt Tánh Mạng, lão Hình Chí Mô và các đồng chí của lão đã phạm phải các trọng tội sau đây:

1- Giết người có dự mưu

2- Xâm phạm và chiếm đoạt tài sản của dân một cách bất hợp pháp

3- Phá hoại và tiêu diệt tín ngưỡng

4- Phá hoại phong tục tập quán và đạo lý, luân thường của dân tộc

5- Phá hoại các di tích lịch sử và văn hóa

6- Phá hoại nông nghiệp

Sáu người chính thức gây ra tội ác tày trời đó chính làHình Chí Mô, Trườn Chui, Hoàng Quốc Việt Nam, Lê Văn Lươn Lẹo, Hồ Viết Bại và Chu Văn Biện. Từng giữ chức vụ bí thư khu ủy, Biện nổi tiếng hiếu sát đến độ có câu: ” Giết người nổi tiếng gã Chu Biện “…

Nói tới đây Thôi Phán Quan quay sang nhìn Trườn Chui rồi đột ngột hỏi một câu.

- Ta nghe đồn trong vụ Cải Cắt Tánh Mạng, để làm gương cho thuộc cấp, ngươi lôi cả cha mẹ ruột của ngươi ra đấu tố. Có hay không?

Trườn Chui im lặng không trả lời. Cười gằn Thôi Phán Quan hỏi lần nữa.

- Có hay không?

Trườn Chui ấp úng trả lời.

- Dạ không có đâu. Tôi là con có hiếu mà. Bác mấy lần bảo tôi phải làm gương cho cán bộ, bảo tôi phải đem bố mẹ ra đấu tố nhưng tôi tôi …

Trường Chui áp úng mãi cũng không ra lời. Giọng nói của Thôi Phán Quan rền vang phòng xử khiến cho mọi người ai ai cũng đều nghe rõ.

- Nếu ngươi không có làm thì tại sao ở Hà Nội năm 1956 lại có câu: ” Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Được. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hóa, tội kia sách chép đứa Xương Khu…” Ngươi có đem cha mẹ ra đấu tố không?

Trườn Chui ngước nhìn lên trần nhà làm như không nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc đồng hồ treo trên tường chỉ quá 5 giờ vị đại diện luật pháp của âm phủ lên tiếng.

- Kính thưa quí vị. Tôi xin phép được tạm ngưng phiên xử ở đây. Sáng mai tôi sẽ mời các nạn nhân cũng như nhân chứng ra trước tòa để trình bày một cách chi tiết về tội ác của tên Trườn Chui và các đồng lỏa của hắn.

giavui
07-11-2014, 08:49 PM
-10-
Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán.
- Sau đây tôi xin mời nạn nhân thứ nhất của tên Trườn Chui trong vụ Cải Cắt Tánh Mạng… Đó là câu mở đầu của Thôi Phán Quan trong phiên xử Trườn Chui vào sáng hôm nay. Mọi người đều chăm chú nhìn vào hai dãy bàn dành cho nhân chứng ngồi để đoán xem ai là nhân chứng thứ nhất mà Thôi Phán Quan gọi lên để đối chất. Hướng về nơi ngồi của nhân chứng Thôi Phán Quan cao giọng. - Kính mời bà Nguyễn Thị Năm… Mọi người trong phòng xử đều không tỏ một cử chỉ nào khác lạ vì có lẽ họ không biết bà ta là ai. Riêng Bình, nhờ ngồi hàng ghế đầu và ngồi đối diện với ghế bị can, anh nhận thấy Trườn Chui và nhất là lão Hình Chí Mô cúi gầm mặt nhìn xuống đất khi bà Năm đi tới gần. - Bà ta là ai vậy anh Bình? Huyền hỏi nhỏ và Bình cười trả lời. - Tôi cũng không biết. Tuy nhiên nếu Thôi Phán Quan gọi bà ta trước tiên thời bà ta phải là một nhân chứng quan trọng trong phiên xử của tên Trườn Chui… Đợi cho bà Nguyễn Thị Năm làm thủ tục xong xuôi Thôi Phán Quan mới cười hỏi một câu. - Thưa bà. Nhũ danh của bà là Nguyễn Thị Năm, nhưng dường như bà còn có một tên khác nữa. Bà Năm thong thả gật đầu. - Thưa ngài. Nhũ danh của tôi thời chắc ít người biết vì người ta quen gọi tôi là bà Cát Thành Long. Mọi người trong phòng xử đều xôn xao khi nghe bà già đang ngồi trên ghế nhân chứng xưng tên Cát Thành Long. Đợi cho thiên hạ im lặng xong Thôi Phán Quan cười hỏi tiếp. - Tôi chắc bà có quen biết với tên Trườn Chui? Liếc Trườn Chui bằng nữa con mắt, bà Cát Thành Long trả lời. - Cái bản mặt của hắn tôi còn lạ gì. Tôi làm sao quên được cái thứ quân vong ân bội nghĩa như hắn. Hồi còn kháng chiến chống Pháp hắn ăn dầm nầm dề nhà tôi mà… Không những hắn mà thằng Hình Chí Mô, thằng Ba Duân, thằng Sáu Búa, thằng Hoài Nam, thằng Tô Tô, đứa nào cũng lui tới nhà của tôi… Nếu lúc đó tôi biết lũ chúng nó là đám người giả nhân giả nghĩa, lòng lang dạ thú thời tôi kêu mật thám Tây bắt bỏ tù cả đám để cho mấy trăm ngàn người khỏi bị chết oan trong số đó có tôi nữa. Thôi Phán Quan cười nhẹ chưa kịp hỏi thời bà Năm tiếp liền. - Tụi nó đứa nào có thói hư tật xấu gì tôi đều biết. Ông biết tại sao thằng Năm có biệt danh là Trườn Chui không? Được dịp may bỏ qua rất uổng nên Thôi Phán Quan tận tình khai thác bằng một câu hỏi. - Vậy à… Bà vui lòng kể cho tòa nghe về cái tên Trườn Chui. Chính tôi cũng thắc mắc không hiểu nghĩa như thế nào… Bà Cát Thành Long quay qua nhìn Trườn Chui lom lom khiến cho hắn phải vờ quay mặt đi chỗ khác. Nhìn Thôi Phán Quan đang đứng trước mặt mình bà nói lớn. - Quí vị cũng biết tên Trườn Chui sinh năm 1907. Tới năm 1952 thì hắn mới bốn mươi lăm tuổi. Bởi vậy hắn còn sung và còn thèm cái vụ gái gung lắm. Có lẽ ở mãi trong chiến khu ít thấy đàn bà con gái nên khi tới nhà của tôi, vừa được ăn uống tẩm bổ lại thấy đàn bà con gái trẻ đẹp hơ hớ trước mặt nên hắn thèm nhỏ dãi. Hắn nhịn hổng nổi. Ngồi bên kia Trườn Chui chợt lên tiếng ngắt lời bà Long. - Bà đừng có ăn nói hồ đồ nghe. Tôi là tổng bí thư đảng. Tôi đâu có làm chuyện bậy bạ đó. - Chuyện đó là chuyện bậy bạ à. Nếu là chuyện bậy bạ thì tại sao tụi bây đứa nào cũng làm. Ngay cả thằng kia. Bà Năm chỉ thẳng vào ngay chỗ lão Hình Chí Mô ngồi xong lớn tiếng. - Thằng già dê đó già không bỏ nhỏ không tha. Dê con gái bà không được nó bí quá đi kiếm mấy con ở. Quay sang Trườn Chui, bà Năm gằn giọng hỏi một câu. - Thế thì con Thu, con ở nhà bà có mang là do ai. Nó khai với bà là mày chun lỗ chó, mà lỗ chó nhỏ hẹp nên mày phải chui phải trườn mới lọt qua được để vào giường của nó ngủ. Bởi vậy mấy đứa ở của nhà bà mới đặt cho mày cái tên Trườn Chui. Từ dưới chỗ người ngồi dự khán vang lên giọng nói của đàn bà. - Mẹ nói còn thiếu mẹ ơi. Con Thu với mấy đứa ở nhà mình gọi nó là Trườn Chui Lỗ Chó. Một giọng nói khàn khàn vang vang phòng xử mà khi nghe người ta biết người đã nói già lắm. - Tôi cùng quê với tên Trườn Chui đấy. Không phải hắn chỉ trườn chui lỗ chó nhà bà đâu mà nhà nào có con gái là hắn đều trườn chui hết. - Tổng bí thư đảng mà đi chui lỗ chó. hí. hí. - Cái đó có gì lạ đâu anh ba. Chủ tịch đảng, chủ tịch nước cũng xếp hàng chui luôn mà. Thiên hạ bật cười khi nghe câu nói của người nào đó thốt lên trong phòng xử. Diêm Vương gõ búa mấy tiếng như để nhắc nhở cho mọi người biết họ không được phép nói trong phiên xử. Thôi Phán Quan bước tới thì thầm vào tai bà Cát Thành Long điều gì không ai nghe được. Người ta chỉ thấy bà ta gật đầu. Hướng về hàng ghế của bồi thẫm đoàn đang ngồi, vị đại diện của công tố hỏi. - Trong thời gian kháng chiến chống thực dân Pháp, bà được các lãnh tụ cộng sản và binh lính của họ gọi là mẹ chiến sĩ. Đúng như vậy không? - Thưa ngài đúng như vậy. - Bà là người từng giúp đỡ, che chở cho các nhân vật cao cấp của đảng như Hình Chí Mô, Trườn Chui, Hoàng Quốc Việt Nam, Lê Đức Lươn Lẹo. - Thưa đúng như vậy. - Bà từng là hội viên của Hội Phụ Nữ? - Thưa đúng như vậy. - Bà có một người con trai đi bộ đội làm tới chức trung đoàn trưởng? - Thưa ngài đúng như vậy. - Trong Tuần Lễ Vàng, bà đã cống hiến cho đảng và nhà nước 100 lạng vàng? - Thưa đúng như vậy ạ. Mọi người và 9 vị bồi thẫm đều nghe rõ Thôi Phán Quan hỏi năm câu bà Nguyễn Thị Năm đều xác nhận đúng như vậy. - Trong năm 1952, bà đã bị Tòa Án Cải Cách Ruộng Đất ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên kết án tử hình? - Thưa ngài đúng như vậy. - Họ đã gán cho bà tội danh gì? - Họ nói tôi là địa chủ, cường hào ác bá. - Ngoài lý do là địa chủ và cường hào ác bá, bà nghĩ bà bị giết vì lý do gì? Bà Cát Thành Long có vẻ do dự như đang suy nghĩ về câu hỏi trên. Thôi Phán Quan lại cười lên tiếng. - Tòa Án Cải Cách Ruộng Đất không thể kết tội một người từng giúp đỡ, che chở cho các lãnh tụ cách mạng với một lý do hàm hồ là địa chủ hay cường hào ác bá được. Mẹ chiến sĩ thì không thể nào là địa chủ hay cường hào ác bá vì như thế chiến sĩ cách mạng hay bộ đội, trong số đó có các vị lãnh tụ cách mạng cũng là cường hào ác bá luôn. Bà có nghĩ như thế không? Bà Năm mỉm cười gật đầu. - Ông nói có lý. Tôi nghĩ tôi bị kết án tử hình chỉ vì lý do tôi biết nhiều quá. Tôi biết nhiều điều bí mật. Tôi biết cái thói hư tật xấu, cái tồi tệ và bẩn thỉu của mấy thằng làm lớn trong đảng nhất là của thằng đầu xỏ. Vừa nói bà Năm vừa liếc lão Hình. Thôi Phán Quan nói tiếp. - Như vậy lệnh tử hình của bà đã được ban ra từ Bộ Chính Chị và đã được chuẩn y bởi vị lãnh tụ của đảng. Hắn giết bà để không cho bà tiết lộ cái xấu của hắn. - Ông nói đúng. Bởi vậy khi tôi bị kết án, con cháu của tôi chạy lên Hà Nội xin với mấy ông lớn thì mấy ổng làm thinh. - Như vậy là tên Trườn Chui và lão Hình cũng như mấy nhân viên trong bộ chính chị cố ý giết bà. Bà Cát Thành Long gật đầu. - Tôi nghĩ như vậy. - Họ kết tội tử hình bà là điều mà ai cũng biết. Nhưng tôi muốn hỏi là họ xử tội bà bằng cách nào? Ngồi nơi ghế cao 9 vị bồi thẫm đều thấy thân thể của bà Năm run rẩy rồi sau đó có tiếng khóc tức tưởi vang lên. - Tụi nó chôn sống tôi. Diêm Vương cau mày song im lặng không nói gì hết. Quay qua nhìn Huyền, Bình thấy mặt của cô bạn xanh mét. - Chôn sống bà? Thôi Phán Quan lập lại và bà Năm lặng lẽ gật đầu. Vị đại diện cho công tố viện nháy mắt với Hắc Y Sứ Giả và ông này phất tay áo rộng. Căn phòng xử biến thành mờ mờ tối. 9 vị bồi thẫm cùng mọi người ngồi trong phòng xử nhìn thấy trên màn ảnh cảnh tượng của Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt xảy ra 58 năm về trước trong phiên xử bà Cát Thành Long.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-26.jpg?w=640 - Xin bà vui lòng cho biết người bị trói trong hình là ai vậy? Liên hệ như thế nào với bà? Bà Năm sụt sùi. - Nó là con trai của tôi. - Ông ta bị tội gì? - Thưa nó bị kết tội là địa chủ. Nó bị tố cáo về tội hãm hiếp. - Ai tố cáo ông ta? - Mấy nông dân của tôi.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-27.jpg?w=640
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-28.jpg?w=640 - Tòa Án Nhân Dân Đặc Biệt đã xử ông ta ra sao?
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-29a.jpg?w=640 http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-29b.jpg?w=640 Bà Cát Thành Long nấc lên cùng với giọng nói nghèn nghẹn vang lên để trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan. - Họ hành hạ, tra tấn nó để bắt nó phải nhận tội - Họ hành hạ, tra tấn như thế nào? - Họ bắt nó đứng dưới hố.. rồi bảo dân làng đi tiêu…đi tiểu lên… Họ thả kiến xuống cho cắn…Họ dìm nó xuống nước… tới gần ngộp thở mới kéo lên…Họ đâm thủng bàn tay…bàn chân nó… Như không còn kềm giữ được bà Năm bật khóc nức nở. Hồi lâu bà mới tiếp tục nói trong tiếng khóc nghẹn ngào. - Cuối cùng họ xử bắn nó.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-30a.jpg?w=640 Điều dã man nhất là họ để xác con tôi phơi bày ra đó rồi tiếp tục hành hạ, xỉ vả cái xác của nó tới ba ngày ba đêm… - Lúc đó bà đang ở đâu và làm gì?
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-30b.jpg?w=640 Bà Năm khóc ngất lên. Nước mắt bà ta rơi lả tả khiến cho Hắc Y Sứ Giả phải đưa cho bà ta nguyên cả hộp giấy chùi mũi. Vừa lau nước mắt, vừa khóc bà ta vừa kể lể. - Họ chôn sống tôi. Họ để cho tôi sống và chứng kiến cái chết của con trai, con gái. Ngay cả cháu nội ngoại dù mới có mười mấy tuổi cũng bị mang ra đấu tố. Chúng bị chưởi mắng, đánh đập ngay trước mắt của tôi. Nó có tội tình gì đâu. Họ chôn sống tôi, bỏ đói cho tới khi tôi kiệt sức mà chết.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-31.jpg?w=640
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-32.jpg?w=640

giavui
07-11-2014, 08:50 PM
- Thế người con trai đang ở trong lính của bà còn sống hay chết?

- Tôi không biết. Tôi nghĩ số phận của nó cũng như tôi.

Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Bà còn điều gì để nói trước tòa không?

- Đối với lũ người vong ân bội nghĩa, lòng lang dạ thú này tôi nghĩ nói cũng bằng thừa. Tôi chỉ xin tòa cứ nhốt chúng dưới âm phủ muôn đời đừng cho chúng đầu thai lên làm người để giết hại dân lành vô tội.

Đợi cho bà Nguyễn Thị Năm trở về chỗ ngồi xong Thôi Phán Quan mới cất giọng rổn rảng.

- Kính thưa bồi thẫm đoàn. Sau đây tôi xin mời một nạn nhân nữa của tên Trườn Chui. Kính mời ông Nguyễn Mai.

Đợi cho nhân chứng làm xong thủ tục và ngồi xuống ghế Thôi Phán Quan mới bắt đầu bằng một câu.

- Xin ông vui lòng cho tòa biết về thân thế của ông?

- Thưa tôi tên là Nguyễn Mai, hậu duệ đời thứ 14 của dòng họ Nguyễn ở làng Tiên Điền huyện Nghi Xuân tỉnh Hà Tĩnh. Tôi gọi thi hào Nguyễn Du bằng bác.

Thiên hạ xì xầm về thân thế của nhân chứng. Thôi Phán Quan gật gù.

- Hóa ra ông là dòng dõi của đại thi hào Tố Như, tác giả của truyện Kiều nổi tiếng. Tôi rất hân hạnh được biết ông. Xin ông vui lòng cho biết vì sao ông bị giết trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất?

Ông Nguyễn Mai khe khẽ thở dài.

- Tôi cũng không biết do lệnh của ai, vì lý do gì mà tôi bị gán cho cái nhãn hiệu địa chủ và cường hào ác bá. Họ bảo tôi có vài mẫu ruộng cho người ta thuê. Ruộng đó do ông bà để lại, tôi chỉ cho người ta thuê làm để lấy tiền sinh sống và giữ gìn mồ mả ông bà tổ tiên. Họ nói tôi là hạng trí thức vì thi đỗ tiến sĩ…

Quay qua Diêm Vương, ông ta hỏi nhỏ.

- Học giỏi mà bị đấu tố thời mai mốt ai mà dám đi học nữa. Thưa Diêm Vương, ngài có nghĩ như thế không?

Diêm Vương cười cười.

- Ta biết chuyện đó. Bởi vậy mà cái đám lãnh tụ của tụi cộng sản toàn là trí thức giả, trí thức dỏm không hà. Tụi nó sợ dân chúng đi học rồi khôn ra, đòi hỏi tự do dân chủ nên mới ban hành thuyết Tam Dân mà thằng Tố Bồi Bút vừa nói đó.

Thôi Phán Quan tằng hắng tiếng nhỏ như nhắc nhở nhân chứng. Hiểu ý ông Mai nói tiếp.

- Họ hành hạ, tra tấn, chửi rũa tôi ba đêm liền rồi sau đó phạt tôi 15 năm tù khổ sai. Tôi bị đày lên trại Đâng, một nơi rừng thiêng nước độc khiến cho tôi bị phù thũng và chết mất xác trong rừng. Điều mà tôi muốn nói ra đây là không những kết tội tôi họ còn phá hủy hết sách vở của dòng họ Tiên Điền, trong đó có di cảo của bác Du tôi. Những thứ đó quí giá vô cùng vì mất đi rồi là không bao giờ tìm lại được. Nó không phải của riêng dòng họ Nguyễn của chúng tôi mà còn là tài sản văn hóa của nước non và dân tộc.

Thôi Phán Quan nhìn về hướng các vị bồi thẫm đang ngồi trong lúc nói.

- Đó là tội phá hoại tài sản quốc gia… Ông còn điều gì để nói trước tòa nữa không ?

Ông Nguyễn Mai lắc đầu rời khỏi ghế. Hướng về nơi cuối phòng Thôi Phán Quan cao giọng.

- Kính thưa quí vị bồi thẫm. Sau đây tôi xin mời nhân chứng thứ ba. Kính mời ông Thành.

Một người đàn ông trọng tuổi thong thả đi lên ngồi vào ghế nhân chứng. Đợi cho ông Thành làm xong thủ tục Thôi Phán Quan hỏi liền.

- Ông là nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng của vụ đấu tố của ông nội và ông ngoại. Thưa ông đúng như vậy không?

- Thưa ngài đúng như vậy. Hai bên gia đình nội và ngoại của tôi đều là nạn nhân của vụ cải cách ruộng đất. Cho tới bây giờ nó vẫn còn hằn sâu trong ký ức cha mẹ và cô bác của tôi. Mỗi lần nhớ lại ai cũng sợ hãi đến lặng người đi vì nhớ lại chuyện hãi hùng, thảm khốc, cay đắng và vô vàn khổ sở mà họ đã trải qua. Hồi đó, vì cố vấn Trung Quốc yêu cầu các đội đấu tố phải chỉ ra đủ 5% dân là địa chủ, cường hào phản động, nên sau những đợt đầu rà soát mà báo cáo là không có, thì đương nhiên cuối cùng phải có những người vô tội bị oan, trong đó có ông nội tôi, thậm chí cũng là đảng viên cộng sản, cả ông bà thông gia của ông nữa, dù các con lớn đang theo kháng chiến cả. Ông là nhà nho, trước đó ông còn bán trâu bò của gia đình và đứng lên vận động dân xây trường học cho xã, nên người Pháp có về dự lễ khánh thành trường, chụp ảnh và có giấy ghi nhận tuy sau đó ông bị người Pháp bắt vì nghi ngờ hoạt động cho cộng sản. Thế nên có cớ cho đội CCRĐ quy kết, vì ruộng vườn thì vẫn không đủ chỉ tiêu quy địa chủ. Họ buộc dân làng phải bịa ra để đấu tố. Có người đành phải nói: ” Hồi năm 45, ông thấy chúng tôi sắp chết đói, bệnh tật đem về cho ăn và chạy chữa, qua khỏi thì cho ở lại cùng làm cùng ăn như người nhà, chắc đấy là ông giả vờ để bắt chứng tôi về mà bóc lột ” . Toàn bộ tài sản, nhà cửa ruộng vườn tuy ít ỏi đều bị tịch thu. Bàn thờ bị phá tan, những câu đối hoành phi trong nhà thờ đều bị họ dỡ xuống làm chuồng trâu bò cho bần cố nông. Sách vở cũng bị họ đốt hết. Nếu không có sự cưu mang ngấm ngầm của dân làng thì các con của ông chưa thoát ly chắc cũng chết đói hết. Ông bị bỏ đói và chết oan uổng trong nhà giam mà không được xét xử. Còn ông thông gia của ông khi chết rồi cũng không được đưa vào quan tài liệm, mà đội CCRĐ chỉ cho lấy 1 tấm chiếu nhỏ gói vào. Hình ảnh thi thể bị kéo lê đi chôn thật quá đau xót. Lúc đó các cụ cũng đã gần 70 tuổi. Ông tôi chỉ trăng trối lại rằng “mong và tin tưởng bác sẽ giải oan” . Sau đó, ông đã được sửa sai là trung nông và được khôi phực đảng tịch có công với cách mạng, nhưng nỗi đau của gia đình không gì bù đắp được. Lúc đó cộng sản nói xin lỗi đã sai, nhưng cũng không hề trả lại nhà cửa, vườn tược cho gia đình. Ông tôi tuy được giải oan, nhưng chết thảm quá, gia đình tan nát, và những gì vớt vát chỉ là lời xin lỗi suông và quá muộn. Cộng sản là những kẻ lật lọng và vô ơn bạc nghĩa trong lịch sử không chỉ làm một lần mà còn nhiều lần sau đó. Cụ ngoại của tôi bị quy là địa chủ, bị tước hết ruộng vườn, đồ đạc nhưng vì có 4 con trai đi kháng chiến, và dân làng không ai chịu đứng ra đấu tố là cường hào ác bá, tuy có thuê người làm công bị coi như có bóc lột, nên còn may mắn được sống. Nhưng người anh trai của cụ và con trai thì bị bắn. Việc xét xử chỉ đơn giản là tóm được người cha, tra hỏi đánh đập sao cho công nhận mình địa chủ là có tội ác với nông dân. Cụ không nhận thì bị quy là “ngoan cố đáng xử bắn” . Dân làng, họ hàng thương quá khuyên người con trai cụ thôi thì cứ nhận vậy, may ra cách mạng khoan hồng, bác ấy nhận, và cũng bị bắn luôn vì “nếu đã nhận thì cũng phải bắn” . Những cái chết oan uổng như vậy lẽ ra là ưu tiên hàng đầu để lãnh đạo cộng sản ngày nay đưa ra lời xin lỗi. Nhưng họ vẫn tiếp tục né tránh. Khi xưa họ đã không hề xét xử, nay lại tiếp tục để dìm vào quên lãng. Tôi không biết thống kê Hà Nội có bao nhiêu nạn nhân bị chết trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, nhưng chắc ít hơn ở các tỉnh làm nông nghiệp. Sau bao năm bị cướp hết tính mạng, danh dự, tài sản, tôi không hiểu đền bù thế nào cho đủ.

Căn phòng xử im lặng khi ông Thành chấm dứt lời kể của mình. Dường như mọi người còn đang bàng hoàng về những gì mà tai đã nghe và mắt đã thấy. Cuối cùng Thôi Phán Quan hắng giọng.

- Sau đây tôi xin mời thêm một nạn nhân đông thời cũng là nhân chứng. Kính mời ông Trần Anh.

Giọng nói của Thôi Phán Quan vang rền phòng xử trong lúc nhân chứng đi lên ghế ngồi.

- Ông Trần Anh có ông nội, bác và bố là nạn nhân của cuộc cải cách ruộng đất, bị quy là quốc dân đảng và địa chủ, bị đem ra đấu tố và xử tội.

Đợi cho nhân chứng an vị xong Thôi Phán Quan bắt đầu bằng một câu hỏi. Muốn cho bồi thẫm đoàn chú ý cũng như gây xúc động trong lòng họ nên ông ta biến phiên xử thành một cuộc phỏng vấn của báo chí.

Thôi Phán Quan: Lật lại trang sử về cuộc cải cách ruộng đất, trường hợp gia đình ông như thế nào, thưa ông?

Trần Anh: Ông nội tôi là người sớm giác ngộ cách mạng, cho nên khi được tư tưởng của ông Hình Chí Mô trao dồi vào tư tưởng của cụ thì cụ giáo dục tất cả gia đình hết lòng vì cách mạng. Về đào hầm bí mật, mà mới ngay gần đây thôi chúng tôi vừa đào một hố ga thì trúng hầm bí mật đó, tôi định gọi ủy ban xác định là hầm bí mật nhà tôi đây. Ông tôi ủng hộ, hưởng ứng “tuần lễ vàng” của Hồ chủ tịch phát động, cho nhà nước mượn 1075 vuông vải để may áo mùa đông binh sĩ để cho du kích mặc để đánh giặc. Đấy là ông nội tôi. Còn bố tôi mua 1000 công phiếu kháng chiến, ủng hộ 9 áo sợi. Bố tôi hoạt động cách mạng từ năm 21 tuổi, tức là từ năm 1942. Đến năm 1948 thì bố tôi được kết nạp vào đảng CSVN. Đến cải cách ruộng đất, sau năm 1954 giải phóng, sau đó thì giảm tô, đến cải cách ruộng đất thì người ta quy cho ông tôi là địa chủ, và quy cho bố tôi là phó bí thư Quốc Dân Đảng và bác tôi là bí thư Quốc Dân Đảng. Bác tôi bị bắn luôn, ông ấy nhận thì bị bắn luôn. Còn bố tôi thì kiên quyết không nhận. Không nhận thì người ta tra tấn, người ta thắt hai dây thừng vào hai ngón chân cái rồi người ta kéo lên sàn nhà, bố tôi đau quá, kêu khóc, xin thả xuống. Kêu khóc to quá thì người ta lấy rơm, lấy rạ nhét vào mồm.

Toàn bộ những cái bố tôi kể thì tôi còn ghi được nguyên cuốn băng. Cứ làm như thế, hàng ngày làm như thế, làm để bắt nhận là QDĐ. Bố tôi không nhận QDĐ, bố tôi bảo rằng bố tôi chẳng biết QDĐ là ai cả, chỉ biết đảng viên đảng CS thôi. Thế người ta không quy được cho bố tôi QDĐ thì người ta lại đưa bố tôi lên địa chủ luôn.

Địa chủ ngày đó là địa chủ “phân” anh ạ. Thí dụ mỗi một thôn là mấy địa chủ thì cứ thế người ta đưa lên thôi. Cuối cùng thì cũng bị tù không án, hai năm. Mà khốn nạn hơn thời tôi tù nhiều. Tức là tay thì trói cánh khuỷu ra đàng sau, chân thì cùm, quần áo thì chẳng có mặc, cứ nằm như thế ở dưới sàn chuồng trâu thôi.

Lúc bấy giờ tôi còn nhỏ, khoảng 10 tuổi, tôi mang cơm cho bố tôi thì khổ thế này: đầu tiên mang ra ngõ thì mình cũng chẳng biết gì cả, lúc bắt bố tôi thì tôi biết nhưng bắt ông tôi thì tôi không biết. Lúc bắt bố tôi thì tôi chỉ biết khóc thôi. Tôi thấy tự nhiên người ta đến nhà mình, 5 người đến, người ta dằn bố mình ra người ta trói mang đi, nói thằng này là QDĐ, trói mang đi thì mình chỉ biết khóc thôi. Không biết làm gì cả. Đến trưa mẹ tôi về, kể chuyện cho mẹ tôi nghe thì mẹ tôi cũng lăn ra khóc luôn. Thế là hai mẹ con cùng khóc. Lúc bấy giờ mẹ chỉ động viên, thôi bây giờ con mang cơm cho bố con với cho ông thôi…

Ra ngõ thì gặp đội, thế là nó quát ầm lên: “Thằng này con nhà Quốc Dân Đảng, cháu địa chủ, tại sao mày gặp chúng tao mày không chào, mày không quì xuống” . Lúc bấy giờ biết đâu được, chỉ khóc thôi. Tôi khóc và bắt đầu quỳ xuống, nó bảo từ nay trở đi mày gặp chúng tao mày phải quỳ xuống, mày lạy các ông đội, xin phép các ông đội, xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi, thế thì chúng tao cho đi.

Thế thì cuối cùng từ đấy thì cứ quen như vậy. Cứ ra ngõ gặp người ta là phải quỳ xuống, xong lạy xin phép các ông cốt cán để tôi mang cơm cho ông tôi, cho bố tôi. Gọi là cơm nhưng có cơm đâu, chủ yếu là khoai thôi.

Nắm cơm mang xuống thì thế này. Người ta dùng ngay cái trét xúc cứt đấy ông ạ, xúc phân gà, nó xắn vào chén cơm. Tôi cũng chẳng biết gì cả, tôi chỉ biết người ta làm như vậy thôi. Nhưng ông thôi thì rất hăng. Ông tôi bảo tại sao lại phải làm như vậy thì nó bảo là phải kiểm tra xem bọn địa chủ nó có tiếp tế cho nhau không, nó có thông tin cho nhau không, chúng ta phải kiểm tra.

Có hôm thì họ làm như vậy, có hôm thì không có trét, nó rút ngay cái cọc ở chuồng lợn bên cạnh con trâu, thế thì họ chọc vào cơm, chọc luôn vào khoai, bảo chúng tao phải kiểm tra. Năm đó thì có gì đâu, có cái gáo dừa thôi mà. Cái gáo dừa treo hai cái dây lủng là lủng lẳng đem nước vô cho ông – nó đổ đi một nữa xong nó đái vào đấy. Tôi cũng chẳng biết gì, chỉ biết như thế thôi.

Nhưng ông tôi quát rầm lên thì nó bảo rằng cho chúng mày uống để mà sáng mắt ra, cho chúng mày hết tư tưởng bóc lột, hết tư tưởng ức hiếp nhân dân. Nó cứ chửi ông tôi như thế – tôi cũng chỉ biết khóc, chẳng biết làm thế nào cả. Mình chỉ mang đi cho ông, mang đến chỗ thì lại về rồi.

Thôi Phán Quan: Chúng tôi xin được chia sẻ những nỗi đau của gia đình và lật lại một trang sử thì chúng tôi cũng muốn đi tìm lại những sự thật. Thưa ông Trần Anh, ông nói rằng ông cụ thân sinh ra ông cũng bị quy kết vào thành phần địa chủ trong vụ cải cách ruộng đất, ông nội cũng vậy, ông bác thì bị bắn chết vì nhận là Quốc Dân Đảng. Ông nói rằng cuốn băng mà ông cụ thân sinh kể lại…

Trần Anh: Tôi vẫn còn ạ. Mà kể lại cho đồng đội tôi nghe thì anh em đồng đội ghi chép lại chớ thật ra mà nói nhà tôi cũng chẳng có máy ghi âm. Đồng đội nó nghe cũng phát khóc lên vì chuyện ấy.

Thôi Phán Quan: Ông nói là lúc đó ông mới có 10 tuổi. Lúc những cuộc đấu tố đó, ông còn nhớ là vào thời điểm nào?

Trần Anh: Chính xác ngày thì tôi không nhớ, tôi phải về nhà tôi hỏi lại.

Thôi Phán Quan: Vậy thì ông nội ông và ông cụ thân sinh của ông tên là gì ạ?

Trần Anh: Ông nội tôi là ông Trần Ngọc Toản, còn bố đẻ tôi là Trần Ngọc Chất. Khi bố tôi và ông nội tôi ra khỏi tù thì có một cái như thế này. Sau khi ra rồi thì lúc bấy giờ là sửa sai, sửa sai thì…

Thôi Phán Quan: Như vậy là tù bao nhiêu năm?

Trần Anh: Hai năm.

Thôi Phán Quan: Ông nói rằng hôm ông bác của ông bị bắn chết khi nhận là Quốc Dân Đảng…

Trần Anh: Ông bác tôi là đảng viên đảng cộng sản. Ông bác tôi nhát hơn bố tối, nên khi bị tra tấn nặng quá thì ông nhận, nhận cái thì nó bắn luôn.

Thôi Phán Quan: Và chuyện đó xảy ra ở tại thôn nào…

Trần Anh: Xóm La Xuyên, xã Bố Tiến huyệnVũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Thôi Phán Quan: Thế còn trường hợp ông cụ thân sinh của ông bị đưa ra để đấu tố, cũng như ông nói rằng buộc dây thừng vào hai ngón chân cái để kéo lên trần nhà là ở tại địa phương hay ở đâu ạ?

Trần Anh: Ở tại địa phương, tại chuồng trâu nhà ông Dụng ngay cùng xóm. Nhưng bố tôi vẫn cứ để trong lòng thôi. Bạn bè đến động viên thì bây giờ mới kể lại, kể lại thì mới đem máy ghi âm ghi lại hết được cái đó.

Thôi Phán Quan: Trước khi qua đời thì ông cụ thân sinh của ông có kể lại cho những người đồng đội cũ thì mọi người có ghi được cuốn băng ghi âm đó à. Thời gian đó là thời gian nào thưa ông?

Trần Anh: Có ạ. Năm 1993.

Thôi Phán Quan: Tuổi thơ của ông đã bị vết hằn đau thương trong tâm tư, vào lúc mà ông nói khi ông lên 10 tuổi. Bây giờ nếu mỗi lần nhớ lại thì cảm tưởng của ông như thế nào?

Trần Anh: Bố tôi với ông tôi, sau khi sửa sai thì ra vẫn cứ động viên tôi là thôi con à bây giờ bác hồ làm sai bác hồ sửa rồi thì bỏ qua tất cả đi, xong gia đình nhà ta trở lại vị trí cũ thôi, vẫn tinh thần cách mạng thôi.

Thế thì vào năm 1958, vào hợp tác xã thì lại là gia đình gương mẫu và vào hợp tác xã đầu tiên. Còn được bao nhiêu của cải làm được lại góp vào hợp tác xã hết. Tôi lúc bấy giờ, năm 58, thì lên 12 tuổi. Bắt đầu đi học cấp một rồi. Lao động hết mình đấy ông ạ. Bởi vì tôi vào thiếu niên, vừa làm đội trưởng đội thiếu niên, rồi sang làm chỉ huy liên đội. Chuyên môn đi kẻ khẩu hiệu, kẻ băng biển, hô khẩu hiệu. Có nghĩa là mình biết làm công tác chính trị ngay từ nhỏ ông ạ. Lúc bấy giờ thì quên hết những nỗi đau đi thôi, để phục vụ cho “cách mạng” thôi.

Thôi Phán Quan: Thưa ông, ở tại tỉnh Thái Bình, những gia đình trong vụ cải cách ruộng đất theo ghi nhận thì có nhiều không?

Trần Anh: Những người bị oan ức bây giờ kể lại thì rất nhiều. Nếu bây giờ tôi đi lại tất cả những nhà đó thì ai người ta cũng kể như thế. Như lúc đầu tôi nói là địa chủ ” phân ” mà. Giả sử một xóm tôi có 2, 3 địa chủ chẳng hạn, thì cứ tỷ lệ thì nhân lên.

Coi như là địa chủ phân, nghĩa là chưa được như thế là chưa đạt được tiêu chuẩn, nhân lên và cứ phân như thế thôi. Bây giờ cần nhân thì có thôi, một thôn khoảng 3 địa chủ thì một xã có bao nhiêu thì nhân lên thì nó thành ra ngay thôi.

Thôi Phán Quan: Thưa ông, bây giờ vụ cải cách ruộng đất đã đi qua. Cá nhân ông, tuổi thơ của ông đã chứng kiến những cảnh như vậy và gia đình ông là nạn nhân. Bây giờ nhìn lại, mỗi lần nhắc đến lịch sử đau buồn này thì…

Trần Anh: Nghĩ đến lịch sử đau buồn này thì tôi vẫn nói với bạn bè rằng gia đình tôi 3 đời bị cộng sản đè nén, áp bức rồi, bị cướp trắng tay rồi, đời ông nội tôi, đời bố tôi, rồi đến đời tôi, cướp trắng tay như vậy rồi. Cho nên tôi vẫn nói với anh em, bạn bè rằng tao không căm thù chế độ này thì thôi chớ chế độ này lấy quyền gì để căm thù tao.

Thế còn đời tôi, tôi nói là đời tôi từ nhỏ đến giờ tôi luôn luôn giữ trong sạch, và chính vì giữ trong sạch cho nên tôi mới dám vạch trần những thối tha, những bẩn thỉu. Bây giờ tôi gọi là cái thác lọan của cái chế độ này…

Lời kể của ông Trần Anh chấm dứt. Diêm Vương ra lệnh tạm chấm dứt phiên tòa cho mọi người dùng cơm tối và sáng mai sẽ tiếp tục nghe thêm nhân chứng.

giavui
07-11-2014, 08:50 PM
-11-
Cùng Hung Cực Ác
Vừa ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Bình, Huyền thì thầm. - Anh nghe tin gì chưa? - Tin gì? Bình hỏi trong lúc nâng ly cà phê sữa lên định uống. - Lão Hình Chí Mộ định trốn lên dương gian nhưng lão vừa chạy tới đầu cầu Sinh Tử thời bị phát giác nên âm phủ mới bắt được lão. Bình cau mày. Uống xong ngụm cà phê anh mới hỏi tiếp. - Cầu Sinh Tử là cầu gì vậy chị? Đón lấy tô bánh canh giò heo từ tay Bình đưa sang cho mình, Huyền cười hắc hắc. - Ông Hắc Y Sứ Giả có giải thích cho tôi biết đại khái nó là cây cầu phân chia âm phủ với dương thế, giữa sự sống và cái chết. - Sao hồi lúc xuống đây tôi hổng thấy cái cầu đó.? - Ai mà biết. Ông nói sao thì tôi kể vậy cho anh nghe. - Rồi âm phủ có trừng trị lão không? - Hổng biết. Chắc có song ông thần áo đen không chịu nói. Một hồi ra tòa chắc mình sẽ biết. Hai người vừa ăn uống vừa nói chuyện vẩn vơ. Liếc thấy đồng hồ chỉ 8 giờ rưởi họ cùng đứng dậy. Ra tới cửa chính của phòng ăn họ thấy thiên hạ lũ lượt kéo về phía phòng xử. - Hôm nay người ta đi coi đông hơn hôm qua. Huyền lên tiếng. Bình cũng gật đầu cười nói. - Tôi nghĩ họ tò mò muốn biết. Theo cửa dành riêng cho bồi thẫm đoàn họ ngồi vào ghế của mình. Vừa ngồi xuống ghế Huyền thì thầm. - Anh thấy gì hông? Ngó dáo dác Bình hỏi nhỏ. - Tôi có thấy gì đâu. - Cái nón trên đầu của lão Hình Chí Mô. Nghe cô bạn gái nói Bình mới nhìn. Anh nhận thấy trên đầu của lão có cái nón. Gọi là nón thì không đúng vì nó giống như một vòng bằng kim loại quấn quanh đầu. Vòng kim loại này không biết làm bằng thứ gì mà chớp chớp dưới ánh đèn. Đợi cho Diêm Vương an vị xong Thôi Phán Quan mới cất giọng rỗn rảng. - Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quý vị. Để tiếp tục phiên xử tên Trườn Chui sau đây tôi xin mời một nhân chứng ra trước tòa kể lại cho mọi người nghe những điều mắt thấy tai nghe về vụ Cải Cách Ruộng Đất… Hướng xuống bàn của nhân chứng đang ngồi Thôi Phán Quan cao giọng. - Kính mời ông Nguyễn Chí Thiện… Đợi cho nhân chứng làm xong mọi thủ tục Thôi Phán Quan mới bắt đầu bằng câu hỏi. - Ông là một nhà thơ đã sống dưới chế độ cộng sản, từng chứng kiến sự dã man và tàn ác của tòa án nhân dân đặc biệt. Xin ông vui lòng trình bày cho tòa và mọi người nghe chuyện đấu tố trong cải cách ruộng đất… Liếc nhanh Trườn Chui đang ngồi trên ghế bị can nhà thơ họ Nguyễn trả lời. - Hồi làm cải cách ruộng đất ở Thái Hòa ấp, ở đấy có một ông địa chủ, tôi còn nhớ tên là ông Bảy Dần. Ông ta là một người cũng có ruộng đất nhưng không phải giàu lắm. Ông ta chỉ có vài chục mẫu ruộng thôi và ông ta còn là một ông đồ dạy học nữa. Chính tôi có đi xem buổi đấu tố cuối cùng đó. Họ tổ chức đông người đi lắm và dân Hà Nội kéo nhau đi rất đông. Đến nơi, lúc bấy giờ tôi cũng len lên được hàng đầu để mà xem. Ông Bảy Dần cũng mặc áo the, cũng ăn mặc tử tế lắm, đội khăn hẳn hoi. Ông ta bị trói vào cột. Thôi Phán Quan vặn hỏi. - Như vậy là họ đem ông ta ra xử? Nguyễn Chí Thiện gật đầu tiếp. - Gọi là tòa án nhân dân. Trước hết ông ta bị trói vào cột và đàng sau cột độ mươi thước thôi thì có một cái hố đào sẵn. Người ta nói là đào cả hàng tuần trước rồi. Buổi đấu tố hôm đó nó diễn ra cả ngày, từ sáng đến tận khoảng 5, 6 giờ chiều mới kết thúc. Thôi Phán Quan: - Xử thì cứ xử thôi nhưng kết quả thì đã biết trước rồi phải không thưa ông? Nguyễn Chí Thiện cười cười trả lời. - Dĩ nhiên là họ đã định tội trước rồi. Người nào phải bắn, phải giết, người nào phải tù bao nhiêu năm… Dẫn địa chủ ra trước tòa án nhân dân đặc biệt chỉ là hình thức che mắt. Họ mị dân đó mà. Lên đấu tố thì đủ các người lên đấu tố. Sự thật họ đấu tố, tôi phải vô tư mà nói, phải nói thật ông ạ, thì đa phần là phụ nữ. Họ lên đấu tố khiếp lắm, chớ không phải bị cưỡng bức, nghĩa là họ hăng say họ đấu tố. Trong số hàng mấy chục người lên đấu tố thì cũng có vài ba người là miễn cưỡng. Những người miễn cưỡng thì mình biết ngay, chớ còn những người hăng hái đấu tố, chỉ chỏ vào mặt, cứ lồng lên như những con hổ cái thì nhiều. Thôi Phán Quan hỏi tiếp. - Theo ông nhận xét thì tự họ làm chứ không phải họ bị ép buộc hay là gì cả? Nguyễn Chí Thiện liếc Trườn Chui. - Họ bị kích động nhiều, bị kích động hơn là bị ép buộc. Nhưng số người mà sau này họ hăng say lao theo thì đông, chứ còn số người miễn cưỡng lên thì ít thôi. Nhưng phải nhớ một điều là từ đầu đã có một sự cưỡng bức rồi. Những người hăng say thì không phải là tự họ họ lên đâu, mà họ không lên cũng không được. Qua quá trình kể khổ rồi khơi sâu lòng hận thù thì nhiều người trở thành hận thù thật. Họ lên họ làm việc đó. Chỉ riêng trong gia đình thôi thì là một sự miễn cưỡng rõ rệt anh ạ. Thí dụ như con dâu mà lên tố bố chẳng hạn, tố là ông ấy hiếp mình thế nọ thế kia thì ăn nói nó có vẻ gượng gạo, không có tinh thần hăng say như những người khác. Có một điều đặc biệt là, ông ta đã ngoài 60 rồi, mà ông ta vẫn cứ phải xưng cháu hoặc xưng con với bất cứ một người nào lên đấu tố, dù người lên đấu tố chỉ đáng tuổi con ông thôi. Thậm chí tôi còn nhớ một cô con gái lên tố ông ta thì ông ta cũng phải xưng con với người con gái đó – con gái mình đẻ ra đấy ạ. Bây giờ nói đến tòa án nhân dân mà ngồi xử thì toàn là nông dân thôi, toàn là nông dân được họ sắp xếp lên ngồi thôi. Chị làm “chánh án”, tôi còn nhớ chị ấy còn mù chữ, không biết viết a,b,c thế mà lại lên làm chánh án. Sau một ngày đấu tố nhục nhã như thế rồi thì họ bắt đầu họ tuyên án. Họ tuyên án với tất cả tội ác mà địa chủ đã phạm phải, mà toàn bộ là bịa đặt thôi. Người ta tuyên án ông ấy tử hình. Đặc biệt là trong quá trình đấu tố thì ông địa chủ này không có quyền cãi mà chỉ có quyền bất cứ ai đấu tố thế nào đều chỉ có quyền ” nhận tội ” – nhận tội lỗi của mình chớ không hề có một lời cãi nào được phép cả. Thôi Phán Quan cười lạt. - Tức là ai nói gì thì nói, phản ứng duy nhất mà ông được phép là cứ nhận thôi? Nguyễn Chí Thiện gật đầu thốt. - Và phải nhận ngay lập tức. Họ đã diễn tập nhiều lần rồi. Đấy không phải là lần đầu tiên mang ra, trước khi mang ra làm thật như vậy thì đã có những cuộc diễn tập trước đó. Diễn tập trong một số nhỏ người để cho ông này phải quen lối phục tùng như thế. Buổi hôm đó, tôi còn nhớ là sau khi đấu tố xong thì lập tức có 6 anh du kích. 6 anh du kích này đứng cách khoảng độ 2 mét… thế là bắn chết ông ta ngay. Sau khi bắn chết xong thì chặt dây thừng – không phải là cởi nữa mà là chặt dây thừng, lấy con dao chặt dây thừng ra và lôi ông ta ra chỗ cái hố đó. Xin nhớ một điều, không có áo quan. Thế là họ vất tụt xuống hố đó và lấp đất ngay lập tức thôi. Lấp đất xong thì đất ấy cũng không được đấp thành mộ mà đấp bằng như bình thường thôi chớ không đấp gồ lên như một khối u như là một mộ phần anh ạ. Đấy là điều mà tôi chứng kiến tận mắt. Nhưng tôi muốn nói thêm, chính vì chứng kiến chuyện đó cho nên sau này tôi vào tù, tôi nằm nghĩ lại. Để bàn về cải cách ruộng đất thì tôi chỉ làm một bài thơ thôi – đây chính là vụ Bảy Dần… Nguyễn Chí Thiện ngừng lại uống ngụm nước. Thôi Phán Quan nói trong lúc hướng về phía bồi thẫm đoàn đang ngồi. - Thơ của ông dĩ nhiên là phải hay và có ý nghĩa. Mời ông đọc lớn cho mọi người nghe… Uống xong ngụm nước nhà thơ họ Nguyễn cao giọng ngâm.
- Được nghe bà kể khổ.
Con thấy đời con thực là đáng chết.
Con đã đi bóc lột để nuôi bà.
Con bây giờ không dám nhận là cha.
Dù bà là do con đẻ ra.
Con – thành phần địa chủ thối tha.
Trước nhân dân, trước đảng, trước bà…
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội…
Đó là lời của cụ đồ ở ngoại thành Hà Nội
Giữa đấu trường trăn trối với con…
Bài thơ trên chấm dứt lời khai của nhà thơ họ Nguyễn trước tòa. Nhìn theo cho tới khi nhà thơ bất khuất ngồi xuống xong Thôi Phán Quan hắng giọng. - Sau đây tôi xin mời một nạn nhân của tên Trườn Chui. Kính mời ông Nguyễn Văn Chi. - Xin ông vui lòng cho chín vị bồi thẫm biết cá nhân ông và gia đình ông đã gánh chịu những gì trong cuộc cải cách ruộng đất. Đó là câu hỏi đầu tiên của Thôi Phán Quan. Im lặng giây lát ông Nguyễn Văn Chi mới trả lời. - Lúc ấy, miền Bắc tuy được “giải phóng” song dân trí thì thấp, đời sống thì đói. Người ta có ý thực hiện chính sách giảm tô cải cách để có ruộng cho người nông dân cầy. Đường lối đưa ra là đánh đổ địa chủ, cải tạo tư sản, tư bản…để lấy đất chia cho nhân dân, cho những người nghèo. Cho nên, có những người bị thiệt thòi. Lúc ấy, lộn xộn, chẳng ai giữ đạo làm người, con tố bố, vợ tố chồng. Mất cả đạo đức con người. Gia đình tôi, cụ (ông nội) công tác rất tốt, đến lúc ấy tự nhiên qui cho cụ tôi là thành phần đối kháng, bắt cụ đi đấu tố, gia sản bị tịch thu hết. Tôi bị coi là con nhà địa chủ, khổ lắm, đi ra ngoài đường là phải chào ông bà nông dân. Dù nó là con là cháu mình, cũng phải gọi nó là ” Ông ” là ” Bà ”. Nhà cửa và của cải bị họ lấy hết chả còn gì cả. Tôi là con nhà địa chủ, bị trong cảnh xem từng người tố bố mình, toàn bịa chuyện. Lúc ấy dân ngu dốt lắm, chả hiểu gì cả, cứ nói bừa, nói theo kiểu ”mớm” lời, toàn là bịa ra, chúng (đội cải cách) bảo thế nào thì người nông dân nói thế. Lúc đó, trình độ của chúng có ra cái gì đâu. Ôi. Tôi còn nhớ như thế này. Tôi chưa bao giờ thấy lịch sử con người lại ngược đời như thế, đến nỗi phải nói là thời đại trâu bò đi ” bí tất ”, cóc nhái nhẩy lên làm người, mõ sãi ngày xưa nhẩy lên làm chánh án, làm thẩm phán ngồi trên toà đấu bố mình. Tả lại thì nhiều lắm, khí thế của nhân dân nó vùng lên, đánh đổ địa chủ mà! Ông bà nông dân họp riêng với nhau, người ta họp thế nào đó mình không biết, xong rồi ” đùng ” một cái, nhà mình bị qui là đối kháng luôn mặc dù là một thành phần rất tốt, có công với cách mạng, thế mà ” đùng ” một cái, ngược lại hết! Nó đến nó tịch thu, nó đuổi mình ra khỏi nhà. Trong người mặc quần áo thế nào thì đi ra thế đấy. Tôi đi học về, cắp cái cặp, là chỉ có thế. Thế là hết. Mấy mẹ con dắt nhau ra ngồi một chỗ, nhìn ông bà nông dân chia của. Sau đó, ông bà nông dân tập hợp ra, ngồi đông lắm, cảnh đấu tố đông lắm, các ”vị” thì ngồi trên toà, làm cái toà trên cao đàng hoàng, kê ở ngoài đình, cánh đồng, như sân khấu vậy, rồi bắt nông dân lên đấu tố, địa chủ phải cúi mặt xuống. Địa chủ bị trói, bị mắng chửi, bị cùm kẹp, thậm chí còn bị tra tấn, đánh đập nữa. Nói tới đây ông Chi dừng lại như bị nghẹn lời. Liếc nhanh vào cuốn sổ đang cầm trên tay của mình Thôi Phán Quan nhẹ giọng. - Thưa ông, được biết người đấu tố ông bà nội và bố ông lại chính là bà xui gia và cũng là người láng giềng, từng được ông cụ, tức ông nội của ông giúp đỡ trong nhiều năm. Vậy, ông còn nhớ bà ấy đã làm những gì khi đó? Và kết quả cuộc đấu tố lúc bấy giờ ra sao? - Bà ấy lên, lật ngửa mặt cụ ra, rồi chỉ vào tận mặt và nói: “con Ly, tên bà cụ là Ly, vợ chồng mày ép buộc tao, phải gả con gái cho con mày”…rồi bà ấy khóc hu hu lên… rồi xin đội cải cách cho đem con gái về… rồi bà ấy bảo là “mày dụ dỗ con tao đi Nam để cho bố mẹ lìa con”… Lúc ấy, tự nhiên nó như ma quỉ cám dỗ, người ta nhìn thấy nhà tôi, người ta như muốn ăn thịt luôn, họ muốn làm gì thì làm. Lúc ấy, người nào càng hăng hái, càng tốt, càng đấu tố, càng đánh đập, thì càng tốt. Có những người bị tử hình, ông cụ tôi bị kết án tử hình, bắn chết ngay, lôi ra bắn chết ngay, bắn ngay trước mặt mọi người, con cháu… Đấu tố bố mình, bắt phải ra nhìn… Còn những người khác bị tra tấn, bị chết thì cho là họ tự tử, bắn thì rõ ràng rồi, mấy trường hợp… Cuối cùng thì sửa sai, biết là sai lầm, rồi xin lỗi, thế thôi ! Thôi Phán Quan hỏi tiếp. - Sau khi bị đấu tố, cuộc sống của gia đình ông như thế nào? - Sau khi nhà cửa và của cải bị tịch thu thì gia đình tôi, nhà không có phải phải đi ở nhờ, nằm đất, không có cái chiếu để nằm. Ra đồng mò cua bắt ốc mà nuôi nhau. Ông bà nông dân phải tránh xa mình. Ông bà nông dân nào có thương mình đi chăng nữa thì phải để trong lòng, nếu không thì đội nó qui cho cũng chết luôn! Đi ra ngoài thì phải chào ông bà nông dân và xưng ” con ” với họ nên chả muốn đi đâu cả; nhưng vì cuộc sống, nên lúc ấy, cũng phải đi ra ngoài đồng để kiếm rau, con cua, con cá. Mẹ con bắt ốc nuôi nhau, vẫn phải cúi mặt xuống để mà tránh né, cho qua ngày, biết làm thế nào được. Giai đoạn lịch sử nó là thế đấy!… Phòng xử yên lặng như mọi người còn đang bàng hoàng và bận suy nghĩ về những hậu quả tai hại cũng như cách xét xử dã man và tàn nhẫn của đảng và nhà nước cộng sản đối với dân chúng. Đợi cho nhân chứng trở về chỗ ngồi xong xuôi Thôi Phán Quan mới quay sang hỏi Trườn Chui. - Ngươi là tổng bí thư đảng trong thời kỳ cải cách ruộng đất phải không? Hơi ngần ngừ giây lát Trườn Chui mới chịu trả lời. - Tôi là tổng bí thư đảng nhưng tôi không phải là người chỉ đạo. - Ai là người chỉ đạo? - Thưa… thưa…. Trườn Chui ấp úng. Cuối cùng hắn quay sang nhìn Diêm Vương rồi lên tiếng. - Bẩm ngài con có phải trả lời câu hỏi này không ạ? Diêm Vương rắn giọng trong lúc nhìn Trườn Chui. - Ngươi phải trả lời. Nếu ngươi biết điều và hợp tác với âm phủ thời ta sẽ nhân đó mà châm chước cho ngươi. Để ta nói rõ cho các ngươi biết. Phiên tòa này được lập ra là do lệnh của Trời. Mục đích của nó không phải để tìm kiếm hoặc chứng minh tội lỗi của các ngươi, bởi vì tội ác của các ngươi đã rành rành ra đó ai mà không biết, không thấy và không nghe. Đừng tưởng những việc các ngươi làm không có ai biết đâu. Những hành động mờ ám, ném đá giấu tay, giết người rồi bưng bít của các ngươi giấu được ai chứ không giấu được trời đâu. Âm phủ ta đã ghi chép hết các tội ác mà các ngươi đã phạm. Phiên tòa ngày hôm nay chỉ để trưng bày cho mọi người thấy, nghe và cũng để cho các vị bồi thẫm dựa vào đó mà tìm ra biện pháp chế tài những kẻ gian ác như các ngươi không tái phạm mà tàn hại bá tánh. Ngừng lại giây lát Diêm Vương nghiêm giọng. - Nếu ngươi thành tâm khai thật thời ta sẽ nhân đó mà châm chế cho ngươi. Các ngươi đừng hòng lấy vải thưa mà che mắt thánh. Tai của trời nghe xa ngàn vạn dặm. Mắt của trời thấy cả ba tầng chín cõi. Tội đồng lõa giết mấy trăm ngàn người của ngươi thoạt trông thời lớn song cũng có thể châm chước được. Theo ta thì chỉ đáng gở vài cuốn lịch thôi. Trườn Chui sáng mắt khi nghe Diêm Vương phán. Giết hai ba trăm ngàn người mà chỉ gở có vài cuốn lịch thì ôi thôi sướng quá. Nghe Diêm Vương chỉ cho Trườn Chui gở vài cuốn lịch, Huyền tỏ vẻ không bằng lòng. Nàng quay qua thì thầm với Bình. - Thằng cha đó giết người không gớm tay mà tại sao Diêm Vương chỉ cho hắn gở vài cuốn lịch. Như thế không công bằng… Bình cười cười. - Chị có đọc truyện Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai không? - Tôi có đọc hồi còn nhỏ mà lâu quá rồi không nhớ… - Đại khái là có hai thanh niên vô tình đi lạc vào động tiên. Thấy phong cảnh đẹp họ lưu lại vài ba ngày rồi sau vì nhớ nhà nên bỏ về trần thế. Lúc về tới quê cũ họ thấy mọi thứ đều đổi thay. Hỏi ra mới biết là họ đã xa trần thế cả trăm năm. Như vậy là một ngày ở cõi tiên, cõi trời hay ở dưới âm phủ dài bằng trăm năm ở dương thế. Diêm Vương hứa cho lão Trườn Chui gở vài cuốn lịch là còn lâu lắm, có lẽ phải cóc mọc râu hắn mới được đầu thai trở lại dương gian… Được lời hứa hẹn của Diêm Vương, Trườn Chui vui vẻ nói với Thôi Phán Quan. - Ông muốn hỏi gì cũng được. Tôi sẽ nói những gì tôi biết Khẽ gật gù mỉm cười tỏ vẻ hài lòng Thôi Phán Quan bước tới bàn của mình. Cầm lấy một xấp báo cũ mèm ông ta trở lại chỗ của Trườn Chui đang ngồi. Chìa xấp tờ báo ra trước mặt bị can ông ta nghiêm giọng hỏi. - Ngươi biết cái này là cái gì không?
&http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-59.jpg?w=182&h=300
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-60.jpg?w=168&h=300http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-61.jpg?w=161&h=300
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-62.jpg?w=191&h=300 Nhân vật từng một thời là tổng bí thư đảng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ có vấn đề liền khi thấy xấp báo mà Thôi Phán Quan chìa ra trước mặt mình. Liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi họ Trườn ấp úng giây lát mới trả lời. - Bẩm ngài đó là báo Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền chính thức của Trung Ương Đảng và Nhà Nước. Gật gật đầu vị đại diện cho công tố viện của âm phủ hỏi tiếp. - Là cơ quan tuyên truyền chính thức của đảng cho nên các bài báo phải được sự duyệt xét của Trung ương Đảng trước khi cho phổ biến. Đúng không? - Bẩm đúng ạ. - Trong tờ báo Nhân Dân ngày 21 tháng 7 năm 1953 mà ta đang cầm trong tay đây có một bài viết nhan đề Địa Chủ Ác Ghê. Ta muốn ngươi đọc lớn lên cho mọi người nhất là 9 vị bồi thẫm nghe về bài viết này. Do dự giây lát rồi cuối cùng Trườn Chui cũng cầm tờ báo lên. Liếc nhanh tờ báo đã được mở ra xong nhìn về hướng 9 vị bồi thẫm đang ngồi hắn cao giọng đọc lớn.
- Thánh hiền dạy rằng: ” Vi phú bất nhân” Ai cũng biết rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:
Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la đã:
- Giết chết 14 nông dân.
- Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.
- Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng. Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.
- Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa 65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền. Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30 người đã chết ở xóm Chùa Hang.
- Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ mạng.
Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián tiếp giết ngót 260 đồng bào !
Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ, thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:
- Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận óc tận ruột.
- Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo xuống.
- Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc nước ra.
- Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho nôn sặc lên.
- Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da bỏng thịt.
- Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.
Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác hại nước hại dân. Thật là:
Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!
Viết ngày 21-7-1953 Ký tên C.B.
Đợi cho Trườn Chui đọc xong Thôi Phán Quan mới gằn giọng hỏi. - Ai là người đã viết bài báo này? Người ký tên C.B là ai? Liếc nhanh xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi Trườn Chui nín lặng giây lát mới trả lời. - Thưa đó là bác viết. Thưa chủ tịch đảng. Đó là bút hiệu của chủ tịch nước. - Là Hình Chí Mô… Đúng không? - Thưa ngài đúng như vậy… - Theo như lời của bà Cát Thành Long khai thì ngươi và nhiều lãnh tụ cao cấp của đảng kể cả tên Hình Chí Mô từng ăn dầm nằm dề ở nhà của bà ta. Đúng không? - Thưa đúng… - Ngươi có bao giờ chứng kiến bà Cát Thành Long với hai đứa con trai của bà ta hành hạ, đánh đập, tra tấn và giết người không? - Thưa ngài tôi chưa bao giờ thấy bà Năm làm bất cứ hành động ác ôn côn đồ nào… - Như vậy những lời mà vị chủ tịch đảng và chủ tịch nước của ngươi viết trên báo là bịa đặt, vu khống. Đúng như vậy không? - Thưa tôi nghĩ như vậy… Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình. - Ta hỏi ngươi có đúng như vậy không chứ ta không hỏi ngươi nghĩ như vậy… Trườn Chui liếc nhanh Diêm Vương. Thấy ông ta đang trừng trừng nhìn mình, hắn trả lời vừa đủ cho mọi người nghe. - Thưa ngài đúng như vậy… Tôi xác nhận bài báo mà bác viết đều hoàn toàn bịa đặt và vu khống. Chính bác cũng nói cho tôi biết là cần phải viết như vậy để chuẩn bị dư luận quần chúng… Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp. - Tại sao ngươi không lên tiếng minh oan và bênh vực cho bà Năm? Trườn Chui trợn đôi mắt nhìn Thôi Phán Quan lom lom như tưởng ông ta nói đùa. Lát sau hắn mới thở ra cái khì rồi từ từ lên tiếng. - Ngài nói đùa à… Tôi mà lên tiếng minh oan hay bênh vực là tôi mất lập trường. Tôi sẽ bị khép vào tội phản động, địa chủ, gián điệp. Họ sẽ mang tôi ra đấu tố liền. Tôi sẽ bị trùm bao bố và cho đi mò tôm ở sông Hồng. Lệnh từ trung ương ra ai mà dám cãi. Lệnh từ bác ra ai cũng phải làm. Ngay cả việc đem bố mẹ mình ra để đấu tố… - Như vậy là ngươi có đem bố mẹ ra đấu tố. Có hay là không? Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi trong lúc ánh mắt nghiêm lạnh của ông ta nhìn chằm chặp vào mặt của bị can như để ép buộc hắn phải thố lộ sự thật. - Bẩm… Bẩm ngài có ạ… Tôi và mọi người ở trung ương đều phải đem bố mẹ ra đấu tố một cách công khai hay bán công khai. Bác đã đem cha mẹ mình ra đấu tố thời chúng tôi cũng phải làm theo cái gương đạo đức của bác. Như vậy mới là đạo đức cách mạng… Tiếng xì xầm phát ra nơi khu vực dành cho người dự khán càng lúc càng lớn rồi thành ồn ào khiến cho Diêm Vương phải gõ búa yêu cầu mọi người im lặng. Riêng Thôi Phán Quan mỉm cười liếc nhanh về phía 9 vị bồi thẫm, nhất là ngay chỗ Đán đang ngồi vì anh là chủ tịch của bồi thẫm đoàn xong mới quay nhìn Trườn Chui. Ông ta biết rằng đây chính là dịp may duy nhất để chất vấn bị can trước tòa vì tinh thần của hắn đã bị lung lay và giao động nên hắn sẽ khai, sẽ phun ra sự thật đã được giấu diếm và che đậy. Sự thật này ít có người biết vì đảng và nhà nước chỉ cho dân chúng biết những gì có lợi cho chúng còn có hại thì chúng giấu như mèo giấu cứt. - Như vậy là ngươi có đấu tố cha mẹ một cách công khai hoặc bán công khai? - Bẩm vâng ạ… Tôi phải lôi bố của tôi ra đấu tố ở làng Hành Thiện thuộc tỉnh Nam Định. Cuộc đấu tố có sự chứng kiến của báo chí nữa… Thôi Phán Quan gật gù cười lên tiếng. - Kết quả cuộc đấu tố của bố ngươi như thế nào? Âp úng hồi lâu Trườn Chui mới trả lời thật nhỏ như sợ người trong phòng xử nghe được. - Thưa ngài… Kết quả thì cũng giống như mọi cuộc đấu tố khác thôi… Khẽ lắc đầu Thôi Phán Quan hỏi tiếp. - Như vậy là bác của ngươi cũng có mang cha mẹ ra đấu tố? - Bẩm có ạ… Ngần ngừ giây lát Trườn Chui mới nói tiếp. - Bác thì đấu tố bán công khai còn tôi thì thì đấu tố công khai. Là tổng bí thư đảng nên tôi phải làm gương cho nhân dân… Bác thì bố mẹ đã chết nên chỉ đấu ảnh thôi và làm trong phạm vi bộ chính trị. Chỉ có các ủy viên trung ương đảng được tham dự cuộc đấu tố cha mẹ của bác mà thôi… Liếc thấy đồng hồ chỉ năm giờ rưởi nên Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên xử và sẽ tiếp tục đúng 9 giờ sáng ngày mai.

giavui
07-11-2014, 08:52 PM
-12-
Ngài thủ tướng của ” tự do bán nước ”
Mới hơn 8 giờ sáng mà đã có người hiện diện trong phòng xử. Họ tới sớm để được chỗ tốt hầu thấy rõ mặt mũi và theo dõi phiên tòa lịch sử càng ngày càng trở nên hấp dẫn và gay cấn hơn. Đúng 9 giờ phiên tòa bắt đầu sau khi Diêm Vương ngồi vào ghế chánh án. Sau đó Trườn Chui được mời vào ghế bị can. Điều mà người ta chú ý nhất là Thôi Phán Quan. Vị đại diện cho Công Tố Viện mở đầu phiên xử bằng giọng nói sang sảng. - Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa Bồi Thẫm Đoàn. Kính thưa quý vị đang có mặt trong phòng xử cũng như toàn thể mọi người đang theo dõi phiên tòa dưới âm phủ xuyên qua các phương tiện thông tin như truyền hình, truyền thanh và các trang mạng toàn cầu. Quý vị đã nghe tôi chất vấn Trườn Chui về hành động giết người dã man và độc ác trong vụ Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc nước Việt Nam vào các năm 1950. Hơn hai trăm ngàn dân lành vô tội đã chết oan vì sự cố ý giết người của tên chủ tịch nước kiêm chủ tịch đảng là Hình Chí Mô và tổng bí thư đảng Trườn Chui. Nhân danh công lý, luật pháp của âm phủ và thừa lệnh của trời đất, tôi xin 9 vị bồi thẫm dành thời giờ xét nghiệm để dành cho tên Trườn Chui một hình phạt tương xứng với các tội danh sau đây: 1- Cố sát và giết người có dự mưu như trong trường hợp của bà Cát Thành Long và toàn thể con cái của bà. 2- Cố sát đối với các trường hợp của ông Nguyễn Mai, gia đình ông Thành, gia đình ông Trần Anh và gia đình ông Nguyễn Văn Chi… Ngừng lại uống ngụm nước xong Thôi Phán Quan cao giọng nói với bồi thẫm đoàn. 3- Tội danh thứ 3 là giết người với trường hợp gia trọng. Điều này được áp dụng cho hơn hai trăm ngàn nạn nhân vô danh. 4- Xâm phạm và chiếm đoạt tài sản của dân chúng một cách bất hợp pháp. 5- Phá hoại và tiêu diệt tín ngưỡng. 6- Hủy hoại phong tục tập quán, đảo lộn đạo lý và luân thường của dân tộc. 7- Phá hoại tài sản của quốc gia như các di tích lịch sử và văn hóa. 8- Phá hoại nông nghiệp… Nói xong Thôi Phán Quan trở về chỗ mình ngồi. Đán, nhân danh chủ tịch bồi thẫm đoàn xin gặp Diêm Vương để thảo luận về hình phạt của Trườn Chui. Không biết hai bên bàn thảo những gì mà cuối cùng Diêm Vương cho mọi người biết bản án của Trườn Chui sẽ được tuyên bố sau. Để tiếp tục phiên tòa vị lục sự cao giọng đọc. - Sau đây tôi xin mời ông Phạm Văng Vàng lên ngồi vào ghế bị can… Mọi người trong phòng xử chăm chú vào một người lão già tóc hoa râm, mặc âu phục hơi cũ, vóc dáng cao ráo nên cũng dễ nhìn. Tuy nhiên ông ta lại mắt lé, môi thâm xì và vểnh ra trông rất đặc biệt khiến cho người ta nhìn một lần sẽ không quên. - Bộ hắn lai ma róc hay sao mà da đen xì vậy anh ba? Một người nào đó lên tiếng. Bây giờ mọi người trong phòng xử mới để ý tới làn da đen như đồng đen của người này. - Mày không biết hắn là ai à? - Không… Hắn là ai vậy anh ba? - Vậy thì đợi một chút thì mày sẽ biết hắn là ai… Trong lúc người này thong thả đi lên chỗ ghế bị can thì giọng nói của vị lục sự vang vang trong máy phóng thanh. - Bị can tên thật là Phạm Văn Chì, sinh năm 1905 tại huyện Mộ Đức tỉnh Quảng Ngải. Nhờ cha mẹ là phú nông giàu có nên tên Chì được theo học trường Albert Saurraut tại Hà Nội. Đậu tú tài phần 1 xong hắn bỏ học theo cộng sản. Vì có nước da đen như đồng đen nên hắn được các đồng chí tặng cho biệt danh Chì Cháy. Ngoài ra cũng vì đôi môi thâm xì và vểnh ra nên hắn còn có biệt danh là Chì Vẩu… Nhờ có nhiều công trạng với đảng nên Phạm Văn Chì được Hình Chí Mô cho làm thủ tướng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ. Hắn giữ chức vụ thủ tướng này 32 năm từ năm 1955 cho tới năm 1987. Trong lúc còn hoạt động bí mật hắn có biệt danh là Tộ… Vị lục sự ngưng nói khi Phạm Văn Chì ngồi vào ghế của bị can. Trước khi Thôi Phán Quan mở đầu cuộc chất vấn, Phạm Văn Chì quay qua nói với Diêm Vương. - Thưa Diêm Vương. Tôi xin đính chánh vài điều về tiểu sử của tôi vì vị lục sự đọc không đúng. Trước nhất tên của tôi là Phạm Văng Vàng chứ hổng phải Văn Chì… Nghe bị can lên tiếng thanh minh, vị lục sự cau mày cự nự. - Ta đọc đúng theo hồ sơ tiểu sử của ngươi… Hồ sơ lý lịch này là của cái băng đảng của ngươi cung cấp mà… Nó ghi rõ ràng là Phạm Văn Chì mà… - Dạ ngài biết một mà chưa biết hai. Tên cúng cơm của tôi là Phạm Văng Vàng. Tên này có ý mong là sau này khi lớn lên tôi sẽ trở thành kẻ hùng biện, chữ nghĩa hay, tiếng nói văng ra như vàng. Bởi vậy mới có tên Văng Vàng… Diêm Vương cười mỉm khi nghe Văng Vàng giải thích về cái tên của hắn. Trong lúc đó Thôi Phán Quan chăm chú vào hàm răng vàng ”hiến mai” của bị can rồi nói đùa một câu. - À… Nhờ ông giải thích nên tôi mới hiểu tại sao ông lại có tên Văng Vàng… Không để ý tới lời nói mỉa của Thôi Phán Quan, Phạm Văng Vàng cười tiếp. - Vì tôi sanh tại nhà nên không có giấy khai sinh. Tới chừng đi học ba má tôi phải ra tòa xin cái giấy Thế Vì Khai Sinh. Khi khai tên họ thằng cha thư ký dốt chữ quốc ngữ nên sửa Phạm Văng Vàng thành ra Phạm Văn Chì. Ba má tôi hỏi lý do đổi tên này thì hắn bảo Chì với Vàng cũng từa tựa với nhau, cùng là kim loại nhưng chì nặng hơn vàng và có giá trị hơn. Riêng về cái bí danh Tộ thì cũng sai tuốt luốt. Bí danh của tôi là Tô mà người ta cứ viết lầm ra Tộ. Bởi vậy tôi yêu cầu ngài sửa lại cho đúng… Diêm Vương xì một tiếng thật dài. - Vàng với chì… Tô với tộ đâu có khác mà ngươi khiếu nại. Đúng là nhiều chuyện và lắm lời… Tuy phán như vậy song ông ta cũng ra lệnh cho lục sự sửa tên Phạm Văn Chì thành ra Phạm Văng Vàng. Nói xong ông ta ra hiệu cho Thôi Phán Quan bắt đầu phiên xử. Vị đại diện cho luật pháp của âm phủ bước tới đứng trước mặt bị can. - Xin ông vui lòng cho tòa biết ông giữ chức vụ gì của nước ông? Phạm Văng Vàng nở nụ cười khoái trá vì câu hỏi của Thôi Phán Quan gãi đúng chỗ ngứa của mình. Đây là dịp may cho hắn khoe với mọi người cái công cách mạng và nhất là công với băng đảng và nhà nước. - Sau khi nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập thì tôi được bác thương cho giữ chức Bộ Trưởng Tài Chính kiêm Phó Trưởng Ban Thường Vụ Quốc Hội. Năm 1947 tôi lại được bác cho giữ chức Ủy Viên Dự Khuyết Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam. Năm 1949 tôi trở thành Phó Thủ Tượng Duy Nhất. Năm 1951 tôi trở thành Ủy Viên Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng. Tháng 9 năm 1954, tôi trở thành Phó Thủ Tượng kiêm Bộ Trưởng Ngoại Giao. Tháng 9 năm 1955 tôi giữ chức vụ Thủ Tượng Chính Phủ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi tháng 5 năm 1975 tôi trở thành Thủ Tượng của nước Việt Nam Thống Nhất… Thôi Phán Quan hơi cau mày như suy nghĩ giây lát rồi mới lên tiếng hỏi. - Thủ Tượng Chính Phủ… Ông nói lầm hay tôi nghe lầm…? Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm, dù không nói ra cũng đều có thắc mắc giống như Thôi Phán Quan về hai tiếng Thủ Tượng. Họ nghĩ Phạm Văng Vàng người Quảng Ngải, cách phát âm hơi nặng thành ra Tướng hắn phát âm thành Tượng. - Ngài không nghe lầm đâu mà tôi cũng không nói lầm đâu. Tôi nói Thủ Tượng vì có lý do đặc biệt… Nói xong Phạm Văng Vàng cười hì hì một cách khoái trá. Thôi Phán Quan im lặng không nói gì hết để chờ nghe họ Phạm giải thích hai tiếng Thủ Tượng. - Sở dĩ tôi nói Thủ Tượng là vì bác đã dạy bảo như thế này. Thủ là Giữ, còn Tượng là cái ruột tượng mà mấy bà vợ miền Bắc thường dùng để cất giữ tiền bạc. Chức Thủ Tượng Chính Phủ của tôi là cất giữ cái ruột tượng của đảng và nhà nước, nhất là cái ruộng tượng của chính tôi. Ông chậm tiêu quá nên không thấy được cái ý sâu xa của bác đó… Mặc dù bị Phạm Văng Vàng chê là chậm tiêu song Thôi Phán Quan lại mỉm cười gật gù khi nghe bị can giải thích hai tiếng Thủ Tượng. - Hóa ra là thế… Tôi đúng là chậm tiêu nên không nghĩ ra cái chức vụ Thủ Tướng Chính Phủ của ông lại có nghĩa ” thủ cái ruột tượng…” Được khen Phạm Văng Vàng cười hì hì ngồi rung đùi khoái chí. - Ngài không biết đâu. Bác của tôi một đời cách mạng, từng bôn ba lưu lạc khắp năm châu bốn biển, học hỏi và thấu triệt hết lý thuyết cách mạng của Các Mác cho nên bác rặn ra nhiều chủ trương mới mẻ và táo bạo làm cho nước yếu dân nghèo như… Nghe Phạm Văng Vàng khoe Diêm Vương không nhịn được lên tiếng hỏi. - Như cái gì? Họ Phạm chưa kịp trả lời, Diêm Vương lên giọng răn đe. - Ngươi đừng có như thằng Tố Bồi Bút với chủ thuyết Dân Đói, Dân Ngu và Dân Ngủ. Đúng là xạo hết chỗ nói… - Bẩm Diêm Vương. Nhân danh Thủ Tượng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ, con với sự chỉ đạo của bác đã đẻ ra nhiều chủ trương lắm. Con bảo đảm không có nước nào theo kịp kể luôn cả các nước văn minh, tự do và dân chủ như Mỹ, Anh, Pháp… Thôi Phán Quan hừ tiếng nhỏ khi nghe Phạm Văng Vàng xạo hết chỗ nói. - Ngươi đừng có nói khoác… Ta nghe nói tổ chức Liên Hiệp Quốc đã liệt nước Việt Nam vào hàng nghèo đói và mất tự do nhất trên thế giới. Các tổ chức bảo vệ nhân quyền như Human Right Watch và Amnesty International phàn nàn băng đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đã cấm đoán tự do dân chủ, chà đạp nhân quyền, bắt bớ và giam cầm những kẻ chống đối… Phạm Văng Vàng lắc đầu quầy quậy khi nghe Thôi Phán Quan kết tội. - Thưa ngài… Đó là lời bịa đặt hổng có căn cứ. Họ cố ý bêu xấu nhà nước do tôi lãnh đạo. Dân tôi có tự do nhiều hơn bất cứ nước nào trên thế giới. Nhà nước Việt Nam đã thực thi tự do một cách sâu rộng cho dân chúng và tất cả nhân viên chính phủ trong các bộ và các ngành chuyên môn… Thấy Diêm Vương thò lõ mắt nhìn mình, còn Thôi Phán Quan lộ vẻ nghi ngờ, Phạm Văng Vàng điềm đạm giải thích. - Hoa Kỳ là một quốc gia mà người dân có được nhiều quyền tự do. Thưa Diêm Vương đúng không? Vị sếp của âm phủ gật đầu không do dự. - Ta nhìn nhận lời nói của ngươi đúng sự thực một trăm phần trăm… Phạm Văng Vàng tủm tỉm cười sau khi nghe Diêm Vương trả lời câu hỏi của mình. - Hoa Kỳ là một nước tự do dân chủ nhưng so sánh với nước tôi cũng chưa bằng được. Băng đảng và nhà nước Việt Nam đã cho nhân viên của nhà nước do tôi lãnh đạo học tập để thấu triệt về quyền tự do căn bản của họ. Còn dân chúng cũng vậy. Họ cũng được học tập để hiểu biết thế nào là quyền tự do của họ… Khẽ vuốt chòm râu dài Diêm Vương gật gù. - Thế à… Nghe ngươi nói ta ham quá… Hóa ra bấy lâu nay ta hiểu lầm. Ta bị chính phủ của các nước tự do trên thế giới đầu độc tư tưởng nên cứ nghĩ nước Việt Nam của ngươi không có tự do dân chủ… Đâu ngươi nói nhân viên nhà nước và dân chúng được tự do như thế nào. Nếu nghe lọt lỗ tai thời bao nhiêu tội lỗi của ngươi ta xí xóa hết… Tủm tỉm cười vị thủ tượng của nước Việt Nam nhìn thẳng vào mặt Thôi Phán Quan rồi đột ngột buông một câu. - Bẩm Diêm Vương… Ở nước con các nhân viên nhà nước được nhiều quyền tự do lắm; tỉ dụ như quyền tự do bán nước, tự do tham nhũng, tự do ăn cắp của nhà nước, tự do bóc lộ, tự do chà đạp nhân quyền, tự do bắt bớ và giam cầm dân chúng… Ngài nghĩ nhân viên chính phủ của nước Hoa Kỳ có nhiều quyền tự do hơn không? Thôi Phán Quan cứng họng khi bị Phạm Văng Vàng phang một câu hỏi. Ngay cả Diêm Vương cũng đớ người ra vì câu hỏi hóc búa này. Hai vị đại diện cho cõi âm còn đang bàng hoàng khi nghe vị thủ tượng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ luận về đặc quyền tự do của nhân viên nhà nước do hắn lãnh đạo, thời giọng nói nghiêm nghị lại vang lên khiến cho ai ai ở trong phòng cũng đều nghe rõ không sót tiếng nào. - Ba cái quyền tôi vừa nói ở trên là một trong nhiều chính sách của bác rặn ra. Nó gọi là Tam Ăn… Bẩm Diêm Vương, ngài có muốn nghe tôi luận bàn về chính sách Tam Xin, Tam Ăn, Tam Nói, Tam Chia và Ngũ Bán không. Tôi bảo đảm là sau khi nghe xong nếu ngài đem áp dụng thời bốn phương phẳng lặng, trời đất thái bình liền và âm phủ của ngài sẽ trở thành thiên đường… Diêm Vương liếc Phạm Văng Vàng bằng nửa con mắt. Ông ta biết họ Phạm xỏ ngọt mình. Vừa định sai lính quỉ đè bị can ra quất cho vài roi về tội hổn xược, nhưng thấy Thôi Phán Quan nháy mắt làm hiệu ông ta ráng dằn cơn thịnh nộ cười vui vẻ thốt. - Đâu ngươi nói ta nghe thử coi… Nếu thấy được ta sẽ bớt tội cho ngươi… Được lời hứa hẹn của Diêm Vương, Phạm Văng Vàng khoái chí. Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi hắn cao giọng. - Hồi còn ở trong chiến khu Rượt Bắc, tôi và các đồng chí như anh Ba, anh Năm hay anh Thận, anh Sáu, khi nằm dưới tảng xê trốn máy bay của Pháp, thường kính cẩn lắng nghe bác hứa hẹn là khi về thành sẽ rặn ra những chủ thuyết, chương trình hay cải cách để làm cho nước Việt Nam trở nên tân tiến và giàu mạnh không kém gì các nước tư bản. Điều thứ nhất mà bác sẽ làm sau khi giải phóng đất nước là chủ thuyết Tam Chia… Phòng xử im lặng như tờ vì ai ai hầu như nín thở để lắng nghe Phạm Văng Vàng nói về những điều bí mật chưa bao giờ được nghe. Là đệ tử ruột của Hình Chí Mô và với chức vụ thủ tượng, Vàng có đủ hiểu biết và nắm bắt được nhiều tài liệu của băng đảng và nhà nước trong các chương trình canh tân xứ sở. - Hắn có xạo không anh Tư? Có tiếng thì thầm nơi dãy ghế cuối cùng. - Ai mà biết. Mấy thằng lãnh đạo cộng sản, thằng nào mà không xạo. Càng cao cấp chừng nào càng xạo nhiều chừng đó… Mày cứ chờ nghe tên Vàng xạo hết chỗ chê… - Thuyết Tam Chia của bác rất công bình, rất sáng suốt, rất hợp thời, hợp pháp và hợp đạo lý làm người, nên khi ban hành ra thì từ trên xuống dưới các đồng chí từ cấp trung ương xuống tới cấp quận huyện, làng xã đều thi hành đúng đắn… Diêm Vương liếc nhanh bị can. Ông ta bắt đầu sốt ruột khi nghe tên Vàng thao thao bất tuyệt. Liếc qua thấy Thôi Phán Quan tủm tỉm cười nên ông ta cũng dằn lòng im lặng nghe. - Tam Chia mà bác đẻ ra đầu tiên là Chia Ghế… Có tiếng cười mỉa mai phát ra từ dưới chỗ ngồi của người dự khán. May nhờ làn da mặt đen như lọ nồi nên không ai biết là Phạm Văng Vàng đỏ mặt. - Mặc dù biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Tàu; nhưng thường hay xài ngôn ngữ bình dân bởi vậy bác mới nói là chia ghế. Thực ra chia ghế là phân chia chức vụ cho tất cả các đồng chí có công với băng đảng. Như anh Thận thời bác chia cho chức Tổng Bí Thư Đảng. Tôi thì bác thương nhất nên chia cho chức Bộ Trưởng Tiền Tài… Có lẽ sốt ruột và không muốn nghe Phạm Văng Vàng xạo nữa nên Thôi Phán Quan ngắt lời bị can. - Đủ rồi… Để mấy cái chính sách Tam Ăn, Ngũ Bán của ngươi lại cho đàn em và con cháu của ngươi học hỏi để làm cho dân nghèo nước yếu. Bây giờ ta muốn hỏi ngươi một chuyện quan trọng… Phạm Văng Vàng cười phô hai hàm răng ra đúng với câu ” cười lên đi cho răng vàng sáng chói “. - Bẩm ngài cứ việc hỏi. Tôi biết gì sẽ nói hết sự thực không giấu diếm… Hừ tiếng nhỏ Thôi Phán Quan chìa ra tờ giấy cũ ngã màu vàng. - Ngươi biết cái này là cái gì? Phạm Văng Vàng chầm chậm gật đầu. Hắn có thái độ bối rối khi thấy mảnh giấy mà Thôi Phán chìa ra trước mặt mình. - Thưa ngài tôi biết… Gật đầu cười vị đại diện cho Công Tố Viện của âm phủ nghiêm giọng nói lớn cốt ý cho chín vị bồi thẫm và mọi người nghe rõ. - Thưa Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm và mọi người. Sau đây tôi xin đọc nguyên văn bức thư của Phạm Văng Vàng, Thủ Tướng Chính Phủ của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa gởi cho Chu Ân Lại, Thủ Tướng của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc ngày 14 tháng 9 năm 1958.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-2-84.jpg?w=216&h=300 Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng.
Hà-Nội, ngày 14 tháng 9 năm 1958
PHẠM VĂN ĐỒNG
Thủ tướng Chính Phủ Nước Việt-Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Đọc xong bức thư, Thôi Phán Quan nhìn thẳng vào mặt bị can họ Phạm rồi buông ra một câu hỏi. - Có phải ngươi, dưới sự chỉ đạo của Hình Chí Mô và bộ chính trị đã ký giấy nhượng quần đảo Hoàng Sa cho Trung Cộng? Phạm Văng Vàng im lặng chưa chịu trả lời câu hỏi này. Nhờ ngồi ở gần nên Đán thấy da mặt của hắn đổi từ màu đồng đen sang xanh lè. Điều nay cho anh biết là hắn đang bối rối hoặc lo âu. Tuy nhiên sau một hồi nét mặt của hắn đâm ra tươi tỉnh trở lại. Có lẽ hắn vừa suy nghĩ ra chuyện gì để bào chữa hay cách thức chạy tội bán nước. - Bẩm Diêm Vương… Cái chuyện mà bác ra lệnh cho con ký giấy nhượng lại đảo Hoàng Sa cho nước anh em Trung Quốc vĩ đại nó có nhiều điều nhiêu khê và phức tạp lắm. Nói là bán cũng không đúng, nhượng cũng không đúng, mà cho không cũng hổng đúng luôn… Diêm Vương trợn trắng mắt, lắc đầu thở dài vì lối ăn nói ngược ngạo của Phạm Văng Vàng. - Vậy chứ cái gì? Diêm Vương gằn giọng vì bực mình. - Bẩm ngài đó là dâng. Ngày xưa ở dưới chế độ quân chủ phong kiến người ta gọi là triều cống… - Là người Việt Nam lại làm tới chức thủ tướng chính phủ chắc ngươi không xa lạ gì về bộ luật Hồng Đức? Phạm Văng Vàng sắm nắm trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan. - Bẩm ngài tôi biết. Tôi nghiên cứu bộ luật này và ông vua Lê Thánh Tông kỹ lắm… Liếc nhanh về phía chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi, Thôi Phán Quan gật gù. - À ra thế… Nếu đã nghiên cứu về bộ luật Hồng Đức tất nhiên ngươi phải biết tội dâng cúng đất đai cho ngoại bang là tội gì không? Phạm Văng Vàng gật đầu nói nhỏ. - Tru di tam tộc… Tôi nhớ mài mại là ông vua Lê Thánh Tông có nói với vị chánh sứ của mình, khi vị này cầm đầu sứ bộ sang Tàu điều đình về chuyện phân định ranh giới giữa hai nước một câu là: ” Nếu ngươi mà làm mất một tấc đất của vua Thái Tổ để lại là ta sẽ chém đầu ba dòng họ của ngươi…” Ngừng lại giây lát xong vị thủ tượng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cao giọng. - Bức thư mà tôi ký đó nằm trong chủ trương Ngũ Bán của bác và đảng. Thứ nhất là bán đảo. Thứ nhì là bán ải. Thứ ba là bán núi. Thứ tư là bán đất. Thứ năm là bán quặng mỏ… Trước khi nhắm mắt đi theo đồng chí Mác, Lê, Xít, bác con còn ráng ngồi dậy viết thêm vào chúc thư là bán cái gì được cứ bán. Bởi vậy sau này mà đám con cháu của bác như thằng Phêu, thằng Triệt, thằng Yếu, thằng Hèn, thằng Trọn, chúng nó mới nặn ra thêm hai cái bán nữa là bán dân và bán rừng. Cái gì bán được cứ bán. Cái gì có giá trị cứ bán. Cái gì dễ cứ bán. Như trong chủ trương bán dân thì con nít dễ dụ, dễ bán nên bán con nít trước. - Con nít ăn chưa no lo chưa tới, đâu có làm được cái gì mà ngươi bán… Diêm Vương lên tiếng hỏi. Phạm Văng Vàng cười hì hì. - Bẫm ngài ở dưới âm phủ nên không quen chuyện trên dương thế. Con nít coi vậy mà bán rất được giá. Dưới sự chỉ đạo của băng đảng và nhà nước, mấy đứa em út của con đã xuất cảng thiếu nhi sang ngoại quốc để lao động như trồng cần sa ở Anh Quốc, làm công cho các quặng mõ tại Phi Châu. Đàn bà con gái dễ bán mà bán lại có giá nên được bán đi ở đợ, làm điếm, làm bồi, làm vợ bé vợ lẽ cho đàn ông mấy xứ Đài Loan, Nam Hàn, Ả Rập. Đó là kế hoạch làm mẹ thế giới của nhà nước Việt Nam… Thôi Phán Quan mỉm cười thích thú. Nhìn Phạm Văng Vàng đang ngồi rung đùi ông ta hỏi một câu. - Ông già bà lão chắc ngươi cũng bán luôn hả? Phạm Văng Vàng cười cười liếc nhanh xuống chỗ Hình Chí Mô đang ngồi. Thấy lão ta khẽ gật đầu ra hiệu, họ Phạm quay qua chỗ Diêm Vương ngồi rồi trọ trẹ tiếp. - Bẩm Diêm Vương. Đảng của con sáng suốt lắm… Diêm Vương hừ tiếng nhỏ khi nghe Phạm Văng Vàng huênh hoang. - Sáng suốt… Không để ý tới giọng mỉa mai của ông ta, Phạm Văng Vàng cười hô hố. - Bẩm Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm… Tôi biết thời giờ của quý vị rất quí báu, nhưng tôi mạn phép được nói ra đây lý do để chứng tỏ là bác và đảng cũng như nhà nước rất sáng suốt khi ra lịnh cho tôi ký công hàm nhượng quần đảo Hoàng Sa cho nước anh em Trung Quốc vỉ đại… Thiên hạ nhốn nháo khi nghe Phạm Văng Vàng chính thức nhìn nhận chuyện bán nước. Người thì chưởi, kẻ thì mắng nhiếc om xòm khiến cho Diêm Vương phải gõ búa để lấy lại trật tự. - Phải là người trong băng đảng, nhất là trong Bộ Chín Chị, mới có đủ yếu tố để hiểu chuyện triều cống quần đảo Hoàng Sa cho nước Trung Quốc vỉ đại là chuyện có lợi cho đảng và nhà nước ta… Hướng về phía 9 vị bồi thẫm đang ngồi, vị thủ cái ruột tượng của đảng cộng sản Việt Nam mỉm cười. - Để tôi trình bày cho quý vị nghe. Sau hiệp định Giơ Neo năm 1954, nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ do bác và đảng lãnh đạo lâm vào tình trạng kiệt quệ về kinh tế. Nhất là cái vụ Cải Cách Ruộng Đất đã gây ra tình trạng đói khổ cho dân chúng. Nhà nước do tôi lãnh đạo nợ còn hơn chúa chổm. Món nợ lớn nhất chính là kinh phí chiến tranh. Nước anh em Trung Quốc đã viện trợ vũ khí cho ta đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đất nước, cho nên ta phải tỏ tình đồng chí và thỏa mãn đòi hỏi của họ bằng cách hiến dâng quần đảo Hoàng Sa. Dưới sự chỉ đạo của bác, Bộ Chín Chị đã họp bàn nhiều lần trước khi có một quyết định sáng suốt là dâng đảo Hoàng Sa để trừ món nợ khổng lồ. Diêm Vương nghĩ coi… Ngừng nói Phạm Văng Vàng thong thả nhấc ly nước lên uống ngụm nhỏ rồi hắng giọng tiếp. - Không kể chuyện tiếp tế súng đạn, cũng nhờ sự chỉ đạo khôn ngoan và sáng suốt của các cố vấn của nước Trung Hoa vỉ đại nên chúng tôi mới thắng được trận Điện Biên Phủ. Vì lẽ đó chúng tôi phải làm một cử chỉ đẹp để đền ơn đồng thời cũng để trả nợ. Thế là nhất cử lưỡng tiện. Huống chi Hoàng Sa vào những năm 1958, chỉ là cái đảo hoang vu, xa tuốt luốt ngoài biển khơi. Giữ làm chi cái đảo không người ở để làm mất tình đồng chí và cái nghĩa anh em. Ngoài ra còn một điều mà bây giờ tôi mới thố lộ cho quý vị biết là nếu mình không chịu dâng thời họ cũng dùng võ lực để cướp lấy. Điều đó đã xảy ra năm 1974, đúng y chang như bác đã liệu trước. Vì vậy bác mới bảo tôi ký giấy dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc. Làm như vậy đã không mất tình anh em, nghĩa đồng chí mà còn tỏ ra mình là kẻ biết ơn… Riêng phần của tôi thời bác bảo tôi ký thì tôi ký đại cho xong. Với lại tôi nghĩ cái mà người ta gọi là công hàm mà tôi đã ký tên vào đó chẳng khác gì miếng giấy lộn, chẳng có giá trị pháp lý gì hết… Thôi Phán Quan trợn mắt nhìn Phạm Văng Vàng. Vị thủ tượng của nước Việt Nam Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa cười cười thốt. Giọng của hắn rất ư là bình tỉnh và nghiêm nghị. - Để tôi giải thích lý do tại sao tôi nói cái công hàm mà tôi ký dâng quần đảo Hoàng Sa cho nước Trung Hoa là miếng giấy lộn không có giá trị pháp lý cho ngài Diêm Vương, ngài Thôi Phán Quan và chín vị bồi thẫm nghe. Tôi nhìn nhận là nhân danh thủ tượng của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tôi đã ký; tuy nhiên chữ ký của tôi vô giá trị. Lúc tôi ký cái công hàm đó thời nước Việt Nam bị chia đôi. Ở ngoài bắc được bác và đảng lãnh đạo. Còn miền Nam thời do Ngô Đình Diệm cai trị với cái tên là nước Việt Nam Cộng Hòa. Đảo Hoàng Sa năm 1958 nằm trong hải phận của nước Việt Nam Cộng Hòa. Bẩm Diêm Vương, ngài thấy sự vô lý và vô giá trị của cái công hàm do tôi ký chưa. Tôi làm gì có quyền triều cống, dâng tặng hay biếu một cái gì không thuộc quyền sở hữu của mình… Diêm Vương mỉm cười liếc nhanh Thôi Phán Quan và thấy ông này cũng đang gật gù khi nghe lời biện luận của Phạm Văng Vàng. - Chú em mày nói nghe cũng nhằm lý… Tuy nhiên nếu đảo Hoàng Sa… Được Diêm Vương khen họ Phạm khoái chí. Nhìn Thôi Phán Quan, hắn oang oang nói tiếp. - Trong nội dung của công hàm đó tôi chỉ nói là nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý do Trung Quốc đưa ra chứ tôi không hề nói là nhượng Hoàng Sa cho họ. Họ nói lãnh hải của họ là 12 hải lý. Tôi, với tư cách là Thủ Tượng, vì không muốn làm phật lòng họ nên phải nhìn nhận lời tuyên bố này. Tuy nhiên cái chức vụ thủ tượng của tôi cũng vô giá trị luôn. Nó được bác và đảng nặn ra mà… Quý vị cũng biết bác và đảng đâu có do dân bầu cũng như nhà nước do tôi cầm đầu không phải là chính quyền dân cử… Người người trong phòng xử không ai lên tiếng hoặc la lối gì sau khi Phạm Văng Vàng dứt lời. Ít nhiều gì họ cũng đồng ý với hắn một điểm là công hàm mà hắn ký tên năm 1958 có sơ hở về pháp lý. Miền Bắc của Việt Nam dưới cái tên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không có đủ tư cách pháp lý để triều cống quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho nước cộng sản Trung Hoa bởi vì hai quần đảo này đều nằm trong hải phận của miền Nam với danh xưng Việt Nam Cộng Hòa. Không có sự nhìn nhận cũng như chữ ký của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thời cái công hàm có chữ ký của Phạm Văng Vàng chỉ là tờ giấy vô giá trị. Giới lãnh đạo Bắc Kinh đã nhận ra khuyết điểm đó vì vậy họ đã phải đem tàu chiến đánh nhau với hải quân của Việt Nam Cộng Hòa năm 1974 để chiếm đoạt lấy quần đảo Hoàng Sa. Vả lại như lời Phạm Văng Vàng nói, hắn ký giấy nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý do Trung Hoa đưa ra không có nghĩa là nhượng chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên cái công hàm này lại đưa Việt Nam vào thế kẹt khác. Nếu đảo Hoàng Sa biến thành đất của Tàu thời 12 hải lý được tính từ đảo Hoàng Sa, do đó lãnh hải của họ sẽ rộng ra thêm trong khi của Việt Nam lại bị thu hẹp. - Ngoài chuyện nhượng đảo Hoàng Sa, đảng và nước của ngươi có còn triều cống cái gì nữa cho nước anh em Trung Hoa vỉ đại? Thiên hạ ngước lên chỗ bị can ngồi khi giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan cất lên. Phạm Văng Vàng chưa kịp trả lời thời ông ta vội lên tiếng răn đe. - Nhà ngươi nên nhớ là đang đứng trước vành móng ngựa của âm phủ mà nói dối là một trọng tội không thể tha thứ được. Biết điều khai sự thực thời ta còn tìm cách giảm án cho… Phạm Văng Vàng có chiều suy nghĩ khi nghe Thôi Phán Quan nói như vậy. Nhìn xuống bàn bị cáo nơi có Hình Chí Mô đang ngồi giây lát, hắn tươi cười thốt. - Ngoài chuyện dâng Hoàng Sa cho Trung Quốc, bác và các đồng chí trong bộ chín chị cũng có bàn cãi nhiều về các yêu cầu khác của Mao chủ tịch như phân định lại vấn đề biên giới Trung Việt cho rõ ràng… Thôi Phán Quan gục gặt đầu cười. Nhìn thẳng vào mặt bị can ông ta cao giọng tiếp. - Theo như chỗ ta được biết, cũng như các tài liệu và hồ sơ mà âm phủ đã sưu tầm được thời ngoài chuyện dâng quần đảo Hoàng Sa và Vịnh Bắc Bộ, bác và đảng của ngươi ” có ” triều cống một số đất đai trên đất liền cho nước Trung Hoa cộng sản. Có hay là không? Phạm Văng Vàng nín thinh trước câu hỏi ” có hoặc không” của Thôi Phán Quan. Thật lâu hắn mới lên tiếng. - Không có đâu… Bác là người sáng suốt lại có lòng ái quốc thiết tha nên đâu có chịu dâng đất cho người khác. Tuy nhiên… Vị thủ tượng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ bỏ lửng câu nói của mình rồi giây lát sau mới thong thả cất giọng. - Đôi khi ngộ biến thời bác cũng phải phục tùng quyền lực của đồng chí Mao chủ tịch. Như cái vụ phân định lại biên giới, nhà nước Việt Nam và nhà nước Trung Quốc sau nhiều lần bàn cãi đã thỏa thuận với nhau một biên giới mới… - Biên giới mới… Thôi Phán Quan gằn gằn giọng ở ba tiếng ” biên giới mới “. Phạm Văng Vàng tủm tỉm cười giây lát rồi nói tiếp. - Theo đường biên giới mới này thời các núi Bạc hay là dãy 1250 thuộc huyện Yên Minh, Hà Giang nay đã thuộc về lãnh thổ của nước Trung Hoa vỉ đại với tên mới gọi là Giải Âm Sơn. Núi Đất hay là dãy 1509 thuộc huyện Vị Xuyên, Hà Giang, nay nằm trong lãnh thổ Trung Cộng với tên là Lão Sơn. Ba dãy núi khác cũng thuộc tỉnh Hà giang là dãy 1545, 772 và 233 cũng không còn trên bản đồ Việt Nam. Tại Lạng sơn, các dãy núi 820, 636 thuộc xã Quốc Khánh, huyện Tràng Định, và khu Bình Độ 400 sau cột mốc 26 thuộc huyện Cao Lộc nay cũng không còn trong lãnh thổ Việt nam nữa. Thác Bản Giốc thời ta chia phân nửa cho Trung Quốc để thể hiện tình đồng chí và nghĩa vụ vô sản quốc tế. Tuy nhiên để tránh sự bất mãn của nhân dân và cũng để giữ thể diện cho bác, sự triều cống đất đai này sẽ được con cháu của bác ký kết và thi hành về sau này. Bởi vậy đám thằng Phêu, thằng Yếu, thằng Hèn, hoặc bộ chín chị của đảng tha hồ ký giấy dâng đất mà không e ngại vì tụi nó chỉ làm theo lời dạy dỗ của bác. Có một điều mà tôi cần nói thêm là câu ” từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau “ mà tổ tiên ta thường hay nói thời bây giờ không có nữa vì ải Nam Quan đã thuộc về Tàu rồi… Diêm Vương lắc đầu quầy quậy sau khi Phạm Văng Vàng dứt lời. Thở hắt hơi dài ông ta buông một câu. - Thứ bán nước hại dân như ngươi đúng là hết thuốc chữa rồi… Hướng về nơi chín vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cao giọng phán. - Sau khi phiên xử của tên Vàng xong xuôi ta nhờ chư vị chịu khó suy nghĩ để tìm ra hình phạt cho tên Vàng nói riêng và 8 bị can nói chung, Những hình phạt này phải tương xứng với tội ác của chúng… Dứt lời Diêm Vương tuyên bố phiên tòa xử Phạm Văng Vàng sẽ được tiếp tục vào sáng mai. Chín vị bồi thẫm theo cửa hông đi vào phòng riêng hội họp để tìm ra hình phạt cho Tố Bồi Bút và Trườn Chui.

giavui
07-11-2014, 08:53 PM
-13-
Một tấc đất, một tấc vàng

Vì người đến dự phiên tòa càng ngày càng đông đảo, do đó phiên xử hôm nay được mở ra trong gian phòng rộng rãi, nguy nga và lộng lẫy. Nghi thức cũng như cách xếp đặt và điều hành thời na ná như các phiên xử đã qua. Tuy nhiên nếu có ai tinh ý nhận xét thời sẽ thấy là nhân chứng đông gấp mấy lần các phiên xử trước. Chuyện Phạm Văng Vàng và cái băng đảng dâng cúng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như Vịnh Bắc Bộ cho Tàu đang trở thành điểm nóng thời sự hiện nay vì sự tranh chấp của nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á châu.

Đợi cho Diêm Vương an tọa cũng như mọi người ngồi vào ghế xong xuôi, vị lục sự mới cao giọng.

- Mời Phạm Văng Vàng lên ngồi vào ghế bị can…

Ai ai cũng nhận thấy là hôm nay vị thủ tượng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ ăn mặc tươm tất nếu không muốn nói là bảnh bao hơn. Bộ côm-lê của ông ta mới toanh. Đôi giày da màu nâu sậm bóng lộn, giá gần ngàn đô la một đôi. Đó là giày da của Ý, một hiệu giày nổi tiếng trên thế giới về đẹp, bền và đắt tiền.

- Ông có bộ quần áo đẹp và sang quá…

Thôi Phán Quan buột miệng khen khi thấy họ Phạm ngồi vào ghế bị can. Cười cười Phạm Văng Vàng lên tiếng.

- Cái này là quà của thằng Hèn ở trên dương thế gởi xuống biếu để tỏ lòng biết ơn tôi đã truyền lại bí quyết làm cho nó tái đắc cử chức Thủ Tượng thêm một kỳ nữa.

Phạm Văng Vàng ngừng nói tủm tỉm cười. Hắn biết thế nào Thôi Phán Quan cũng phải hỏi.

- Bí quyết gì. Ông có thể cho toà biết.

Nhân vật từng giữ chức vụ thủ tượng ba mươi mấy năm cười thốt.

- Đó là bí quyết để giữ vững chức vụ của mình. Ngày xưa lúc bác còn làm tổng bí thư đảng và chủ tịch nước thời chính sách Tam Chia được các đồng chí thi hành nghiêm chỉnh. Nhưng sau khi bác đi thăm ông Mác thời tụi nó bắt đầu tranh ăn dữ lắm. Không biết cách, không có cái bí quyết thời không ngồi lâu ở chức vụ của mình đâu. Sau này tụi nó, theo đà văn minh tiến bộ và có học hỏi ở trường đàng hoàng nên thấu triệt cái bí quyết để giữ vững cái ghế của mình. Trong đám con cháu của bác thời tôi cưng thằng Hèn nhất nên truyền thêm kinh nghiệm và bí quyết cá nhân. Phải biết luồn, cúi, bợ, đỡ, nâng bi thì mới sống được ở trong nền Kinh Tế Thị Trường Trật Hướng Xã Rác Chủ Nghĩa và đường lối chính trị đi dây này. Mình phải đoán trước là đồng chí vỉ đại, sếp lớn ngứa chỗ nào để gãi cho họ đã ngứa.

Dường như không muốn nghe thêm về chuyện nâng bi của Phạm Văng Vàng, Thôi Phán Quan vội lên tiếng ngắt lời.

- Ta có nghe một tin đồn là cái băng đảng cộng sản của ngươi lạy lục xin nước Trung Quốc vỉ đại cho Việt Nam được hưởng quy chế Khu Tự Trị mà nước này đã dành cho Tây Tạng, Nội Mông hay Quảng Tây. Điều này có đúng không?

Thiên hạ lên tiếng xì xầm và lời xì xầm này càng lúc càng lớn hơn. Phạm Văng Vàng nhìn xuống chỗ lão Hình Chí Mô đang ngồi như chờ xin chỉ thị. Thấy lão Hình khẽ lắc đầu, Phạm Văng Vàng liền tắng hắng trước khi nói.

- Thưa ngài hổng có đâu. Chắc ngài nghe tin đồn thất thiệt do bọn phản động ở trong nước và nhất là đám người Việt phản động ở nước ngoài. Tụi này ỷ có quyền tự do ngôn luận nên phát ngôn bừa bãi và phao tin đồn thất thiệt.

- Hắn chối đó ông ơi. Tôi có đọc tin này trên Wikileaks…

Không biết người nào ở trong đám khán thính giả nói lớn câu trên. Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan lên tiếng. Liếc nhanh về phía bồi thẫm đoàn, ông ta gằn giọng nói của mình.

- Nếu như ngươi nói chuyện đó không có thời ta sẽ mời các đồng chí của ngươi lên đây làm chứng.

Phạm Văng Vàng tỏ ra hơi “có vấn đề” khi nghe lời hù dọa của Thôi Phán Quan. Tuy nhiên sau đó hắn lấy lại vẻ bình thường khi bắt gặp cái nháy mắt ra hiệu của Hình Chí Mô.

- Thưa tôi không biết về chuyện đó. Vả lại nếu có thời lúc đó tôi về hưu rồi nên chuyện mấy đàn em làm tôi không biết.

Gật gù cười Thôi Phán Quan cao giọng.

- Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn. Tôi xin mời hai nhân chứng lên đây trình bày thêm về chuyện bán nước của băng đảng cộng sản Việt Nam. Kính mời ông Mười Cục.

Thiên hạ im lìm khi Mười Cục ngồi vào ghế nhân chứng. Đợi cho ông ta an vị xong xuôi, vị đại diện cho luật pháp của âm phủ mở đầu cuộc chất vấn của mình bằng câu nói.

- Xin ông vui lòng cho tòa biết sơ qua về ông.

Khẽ gật đầu Mười Cục hắng giọng.

- Trên giấy tờ thời người ta gọi tôi là Nguyễn Văn Hiển Linh, nhưng tên thật của tôi là Nguyễn Văn Cút Chạy, bí danh Mười Cục, sinh ra tại Hà Nội nhưng quê quán của tôi ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Được kết nạp vào đảng cộng sản năm 1939, tôi hoạt động ở Hải Phòng và Hà Nội. Sau đó tôi được gởi vào Nam hoạt động ở Sài Gòn dưới quyền chỉ huy của bà Nguyễn Thị Minh Khai. Năm 1945 tôi là Bí Thư Thành Ủy kiêm Bí Thư Đặc Khu Ủy Sài Gòn- Gia Định. Năm 1947 tôi là Ủy Viên Xứ Ủy Nam bộ rồi Thường Vụ Xứ Ủy Nam bộ vào năm 1949. Từ năm 1955 tới năm 1960 tôi giữ chức Bí Thư Đặc Khu Ủy Sài Gòn- Gia Định cũng như Quyền Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ. Năm 1960, tại đại hội đảng lần thứ III tôi được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng. Năm 1961 cho tới năm 1964 tôi là Phó Bí Thư rồi Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam. Năm 1976, tôi là Bí Thư Thành Ủy thành phố Sài Gòn. Tháng 12 năm 1976, tại đại hội đảng lần thứ IV, tôi được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương và Bộ Chín Chị, Ban Bí Thư Trung Ương, Trưởng Ban Cải Tạo Xã Hội Chủ Nghĩa Trung Ương. Tháng 12 năm 1986, tại đại hội đảng lần VI, tôi được bầu vào Ban Chấp Hành Trung Ương, Ủy Viên Bộ Chính Trị, kiêm Tổng Bí Thư Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, kiêm Bí Thư Đảng Ủy Quân Sự Trung Ương.

- Thằng cha này có ”bề dày cách mạng” hả anh Năm?

Giọng nói nhỏ trầm khàn vang lên trong căn phòng im lặng.

- Khỏi nói. Công trạng của hắn đối với đảng và nhà nước nhiều lắm, mà tội của hắn đối với đồng bào miền Nam sau năm 1975 còn nhiều hơn nữa. Hắn là cha đẻ của kế hoạch ” học tập cải tạo và vùng kinh tế mới ” đó. Đổi tiền cũng hắn mà đánh tư sản mại bản cũng hắn làm ra. Mấy trăm ngàn quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa đi tù không biết ngày ra cũng như mấy chục ngàn người chết bờ chết bụi trong rừng sâu núi thẳm cũng do ý kiến của hắn. Cả triệu người dân miền Nam vượt biên cũng do hắn cố ý đẩy họ ra biển để cho đám hải tặc Thái Lan cướp bóc và hãm hiếp.

Giọng nói của người được gọi ”anh Năm” vang lên đầy nghẹn ngào, tức tưởi và phẫn uất.

- Chính tao, cũng như đa số anh em đồng đội ngây thơ, khờ khạo nghe lời tin đi ‘‘ học tập cải tạo có mươi ngày ” của hắn nên cụ bị quần áo, cơm nước để đi tù. Đúng là tao ngu hết chỗ nói.

Đợi cho anh Năm nói xong Thôi Phán Quan mới buông một câu hỏi.

- Chắc ông có thăm viếng nước Tàu nhiều lần?

Ai ai cũng đều có chút thắc mắc về câu hỏi hơi lạc đề của Thôi Phán Quan. Riêng Nguyễn Văn Hiển Linh lại mỉm cười trả lời lửng lơ.

- Thưa ngài biện lý tôi cũng có đi thăm nước Trung Quốc vỉ đại dăm lần.

Liếc nhanh về phía bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Xin ông vui lòng cho tòa biết trong lúc viếng thăm nước Tàu ông giữ chức vụ gì của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa?

- Thưa ngài biện lý tôi là tổng bí thư đảng.

- Nếu như tôi không lầm, ngày 3 và ngày 4 tháng 9 năm 1990, ông có viếng thăm nước Tàu. Ông xác nhận điều này?

Nguyễn Văn Linh Hiển hơi do dự giây lát rồi mới nhỏ nhẹ trả lời.

- Tôi xác nhận là ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990 tôi có mặt tại Thành Đô của Trung Quốc.

- Đồng chí nào của ông đi với ông sang viếng thăm Thành Đô?

- Thưa đồng chí Đỗ Thập, chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng.

- Ông gặp ai trong chuyến viếng thăm này?

Dường như biết không thể giấu diếm được nên Nguyễn Văn Hiển Linh đành phải khai thật.

- Tôi và đồng chí Đỗ Thập có cuộc hội họp với đồng chí Giang Trạch Dân, tổng bí thư đảng và đồng chí Lý Bằng, thủ tướng chính phủ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc.

- Mục đích của cuộc hội họp là gì thưa ông?

Nguyễn Văn Hiển Linh im lặng thật lâu trước câu hỏi của Thôi Phán Quan. Nguyên căn phòng xử cũng im lặng như tờ vì mọi người đều nín thở chờ nghe những lời tiết lộ của vị tổng bí thư đảng. Ai ai cũng biết là với chức vụ cao nhất và nhiều quyền hành nhất, Hiển Linh nắm bắt và cất giữ những bí mật trong đại liên quan tới an ninh quốc gia.

- Mục đích của cuộc họp là bàn soạn để tìm kiếm cách thức để giải quyết những bất đồng ý kiến giữa hai nước anh em.

- Tôi mạn phép hỏi ngài tổng bí thư ”những bất đồng ý kiến giữa hai nước anh em” là những bất đồng gì? Trong lãnh vực nào? Đã có từ trước hay mới có trong khi ông cầm quyền?

Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc ba câu hỏi như cố ý cho nhân chứng không có thời giờ suy nghĩ để nói láo hoặc bịa đặt chuyện này chuyện nọ. Tuy nhiên Nguyễn Văn Hiển Linh vẫn giữ được cử chỉ tự nhiên bằng cách nở nụ cười kèm theo câu nói.

- Tôi xin trả lời từng câu hỏi của ngài đã nêu ra. Có như vậy chín vị bồi thẫm và mọi người mới hiểu rõ được những bất đồng cũng như cách thức mà nhà nước của hai bên đã tìm kiếm để giải quyết.

Ngừng lại một chút, vị tổng bí thư thứ 9 của đảng cộng sản Việt Nam mới tiếp tục.

- Mối bất đồng sâu xa và lớn lao nhất giữa hai nước là vấn đề biên giới bao gồm chuyện phân chia biên giới trên đất liền và trên biển Đông. Mối bất đồng này đã có từ lâu lắm trước khi tôi làm tổng bí thư đảng. Đúng ra chuyện tranh giành biên giới giữa hai nước khởi nguồn từ cái công hàm nhìn nhận lãnh hãi 12 hải lý mà thủ tướng Phạm Văng Vàng đã ký ngày 14 tháng 9 năm 1958.

Đang ngồi lim dim ngủ, Phạm Văng Vàng bật lên tiếng hừ nhỏ khi nghe câu nói cuối cùng của Nguyễn Văn Hiển Linh. Chỉ cần nghe câu nói này người ta đều biết vị tổng bí thư thứ 9 cố ý đổ tội cho vị thủ tượng họ Phạm và các lãnh tụ tiền nhiệm.

- Khi đặt bút ký công hàm nhìn nhận lãnh hải 12 hải lý của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, Phạm thủ tượng không suy nghĩ cặn kẻ là sự nhìn nhận đó gây ra nhiều bất lợi cho nước ta. Bắt nguồn từ sự nhân nhượng đó, chính phủ Trung Quốc đã liên tiếp dụ dỗ, đòi hỏi, hăm dọa bắt tôi phải ký nhiều hiệp ước bán hoặc cho không họ đất đai của Việt Nam. Chính phủ của Trung Quốc còn nêu ra một đề nghị là.

Nói tới đó vị tổng bí thư ngập ngừng như có điều gì khó nói. Lát sau ông ta thở hắt hơi dài cất giọng khàn khàn.

- Trong thời gian tôi làm tổng bí thư đảng, đồng chí Giang Trạch Dân thường phái nhân viên tin cậy của ông ta sang Hà Nội để bàn thảo về một chuyện cực kỳ quan trọng liên hệ tới sự mất còn của nước Việt.

Ngừng lại Nguyễn Văn Hiển Linh đưa tay nhấc ly nước lạnh đưa lên miệng uống ngụm nhỏ. Căn phòng xử im lặng như tờ. Mọi người bận tâm suy nghĩ về năm tiếng ” mất còn của nước Việt “. Ai ai cũng biết với cương vị tổng bí thư chấp hành trung ương đảng kiêm kiêm bí thư đảng ủy quân sự trung ương, Hiển Linh nắm giữ nhiều bí mật liên quan tới an ninh quốc gia.

- Sau nhiều lần gặp gỡ và bàn bạc, ngày 2 tháng 9 năm 1990, tôi và đồng chí Đỗ Thập đáp máy bay qua Thành Đô gặp đồng chí tổng bí thư Giang Trạch Dân và thủ tướng Lý Bằng của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Chúng tôi họp kín với nhau hai ngày 3 và 4. Đồng chí tổng bí thư Trung Quốc có nhắc lại đề nghị Việt Nam sát nhập vào Trung Quốc và sẽ được hưởng quy chế tự trị như Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương và Quảng Tây.

Thiên hạ rúng động vì tin động trời này. Nhiều người không nhịn được đứng bật dậy và la lối om xòm.

- Thằng cha này bán nước thật rồi bà con cô bác ơi.

- Nó được tụi Tàu cho tiền mà.

- Nó bị mấy thằng Tàu cho ăn kẹo anh Tám ơi.

Phòng xử càng lúc càng thêm ồn ào khiến cho Diêm Vương phải gõ búa để lấy lại trật tự. Tuy nhiên phải vài phút sau mọi người mới chịu ngồi xuống và từ từ im lặng. Phần Thôi Phán Quan lại nhìn về phía chỗ chín vị bồi thẫm đang ngồi. Đợi cho trật tự được vản hồi xong ông ta mới thong thả đặt câu hỏi.

- Ông và đồng chí Đỗ Thập của ông có chấp thuận đề nghị Việt Nam sát nhập vào Trung Quốc không?

Ngập ngừng giây lát vị tổng bí thư thứ 9 của đảng cộng sản Việt Nam mới trả lời bằng giọng ngập ngừng.

- Tôi ở vào tình thế không chấp thuận cũng không được vì… vì…. không chấp thuận thì sẽ bị chích thuốc… mà hể bị chích thuốc thời sẽ không thấy mặt vợ con. Đó là trường hợp đã xảy ra với nhiều đồng chí của tôi.

Thôi Phán Quan mỉm cười. Liếc nhanh về phía bồi thẫm đoàn đang ngồi ông ta hắng giọng.

- Ta có biết điều đó. Phải đồng chí Võ Văn Kiệt của ông cũng bị tụi nó thuốc chết không?

- Thưa ngài đúng như vậy. Đồng chí Kiệt bị thằng Yếu vâng lịnh của Trung Quốc cho uống thuốc độc đâm ra mê man rồi chở qua tới Tân Gia Ba thì chết. Kiệt có ý ngã theo đế quốc Mỹ chủ trương đổi mới nên bị đám thân Trung Quốc khai trừ.

- Sau khi ông và đồng chí Đỗ Thập của ông chấp thuận đề nghị Việt Nam sát nhập vào nước Tàu và biến thành vùng tự trị thì tiến trình sát nhập sẽ như thế nào?

Thôi Phán Quan ngắt lời Nguyễn Văn Hiển Linh bằng câu hỏi trên. Vị cựu tổng bí thư chầm chậm trả lời.

- Đồng chí Dân và đồng chí Bằng rất hài lòng về quyết định sáng suốt và khôn ngoan của tôi.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ khi nghe Nguyễn Văn Linh Hiển nói: ”quyết định sáng suốt và khôn ngoan”.

- Dâng nước cho ngoại bang mà ngươi nói là quyết định sáng suốt và khôn ngoan. Lãnh tụ bán nước hại dân như ngươi thì ta phải bỏ tù mục xương mới được.

Không để ý tới lời phán của Diêm Vương, vị tổng bí thư thứ 9 của đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói.

- Trung Quốc cho Việt Nam thời hạn 30 năm, từ năm 1990 đến năm 2020 để giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập vào đại gia đình các dân tộc của Trung Quốc.

Cười cười tỏ vẻ thích thú, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ hướng về chỗ chín vị bồi thẫm đang ngồi đoạn cao giọng thốt.

- Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn. Để làm sáng tỏ thêm về việc sát nhập Việt Nam thành quận huyện của Trung Quốc, tôi xin mời một nhân chứng khác. Với cương vị chủ tịch hội đồng bộ trưởng từ tháng 6 năm 1988 cho tới tháng 8 năm 1991, Đỗ Thập sẽ tiết lộ cho chúng ta biết thêm chi tiết chuyện Việt Nam trở thành Tây Tạng thứ nhì của Trung Quốc. Kính mời nhân chứng Đỗ Thập.

Từ hàng ghế dành cho nhân chứng một người đứng dậy rồi thong thả đi lên. Ai ai cũng thấy Đỗ Thập là một ông già tóc bạc, tướng tá cao lớn, ăn mặc sang trọng và trông rất mạnh khỏe.

- Thằng cha này tốt tướng quá. Tóc bạc phơ mà trông còn khỏe quá mạng.

Một người lên tiếng khen. Giọng nói ồm ồm vang lên trong căn phòng xử im lặng.

- Thằng chả xực toàn đồ bổ hông hà. Ngày ba bữa sâm nhung, sơn hào hải vị, thịt cá ê hề thời tốt tướng là phải rồi. Người ta đồn hắn muốn sống hơn trăm tuổi đó bà con ơi.

- Ngồi trên đầu trên cổ dân lành, xực toàn đồ bổ bởi vậy hắn mới mong sống lâu như Bành Tổ. Chứ tui đây ngày ngày chạy gạo đổ mồ hôi nuôi sáu miệng ăn thời chỉ mong chết sớm cho đỡ khổ. Dân ngu khu đen như tui ở dưới sự quản lý của bác và đảng khổ hơn chó.

Đợi cho nhân chứng làm xong xuôi thủ tục, Thôi Phán Quan mới bắt đầu đặt câu hỏi.

- Ông giữ chức vụ Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng từ năm 1988 cho tới năm 1991. Đúng không?

Tự nãy giờ ngồi dưới hàng ghế nhân chứng, nghe Thôi Phán Quan chất vấn Nguyễn Văn Hiển Linh, Đỗ Thập đoán thế nào cũng tới phiên mình. Vì vậy khi nghe vị đại diện pháp luật của âm phủ hỏi ông ta điềm đạm trả lời.

- Thưa ngài cũng nhờ ơn bác đảng và các đồng chí thương nên tôi được họ cho làm thủ tướng từ ngày 22 tháng 6 năm 1988 cho tới ngày 8 tháng 8 năm 1991.

- Như vậy là ông làm thủ tướng trong quãng thời gian ông Nguyễn Văn Hiển Linh giữ chức tổng bí thư ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam. Đúng không?

- Thưa đúng. Tôi xác nhận điều đó.

- Ông cũng hiện diện trong buổi họp kín với hai vị nguyên thủ của nước cộng hòa nhân dân Trung Quốc trong hai ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1990. Đúng không?

- Đúng như vậy.

Đỗ Thập trả lời nhanh và gọn. Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Ông cũng là người đã chấp thuận đề nghị sát nhập Việt Nam thành khu tự trị của Trung Quốc?

Vị cựu thủ tướng của một nước chủ nghĩa xã rác có đông dân đứng hàng thứ nhì trên thế giới nở nụ cười tươi tắn.

- Thưa ngài. Thật ra chuyện sát nhập Việt Nam thành khu tự trị thuộc Trung Quốc là ý kiến của tôi. Số là lúc đang làm chủ tịch hội đồng bộ trưởng, nhân một buổi ăn nhậu của các đồng chí trong bộ chín chị để bàn cãi về một vấn đề quan trọng là sự tranh chấp biên giới trên đất liền và trên biển Đông. Ai ai cũng đều biết Việt Nam có biên giới bao la với Trung Quốc bao gồm các tỉnh như Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng và Lạng Sơn. Từ xưa tới giờ hơn ngàn năm qua, hai nước đã có nhiều can qua cũng vì chuyện tranh giành đất đai, khiến cho trăm họ khổ sở và xứ sở điêu linh khôn xiết kể. Gần đây nhất là cuộc chiến tranh Việt Trung 1 và 2 . Hai nước anh em, vì năm ba tấc đất của tổ tiên đã đánh với nhau tóe lửa và có thể sẽ có nhiều trận đánh khác xảy ra. Do đó tôi mới đề nghị với các đồng chí trong bộ chín chị một giải pháp hòa bình là xin với nước Trung Quốc vỉ đại cho Việt Nam hưởng qui chế tự trị như Tây Tạng, Mông Cổ hoặc Tân Cương.

- Thằng cha này là thằng thủ tướng bán nước thứ thiệt rồi bà con ơi.

- Thôi Phán Quan ơi. Ông làm ơn hỏi thằng chả bỏ túi áo khỉ mấy triệu đô la trong vụ xin làm đầy tớ cho Tàu?

- Đúng là mặt dày. Nó quên tổ tiên đã đỗ biết bao nhiêu xương máu để giữ gìn bờ cõi vậy mà hôm nay nó lại xin dâng đất nước cho Tàu.

Thiên hạ trong phòng xử la rần lên. Đa số người có mặt trong phiên tòa này đều là dân Việt, do đó họ tỏ ra giận dữ khi nghe Đỗ Thập tiết lộ chuyện xin sát nhập nước Việt vào nước Tàu. Hơi nhếch môi cười khi nghe thiên hạ la lối, Diêm Vương giơ cao chiếc búa gỗ đập mạnh mấy lần nhắc nhở mọi người im lặng.

- Ông được thù lao bao nhiêu trong vụ bán nước này? Nói thật đi.

Bình mỉm cười vì nghe giọng nói của Thôi Phán Quan. Nhìn đăm đăm vào mặt của Đỗ Thập giây lát, ông ta rắn giọng.

- Bao nhiêu? Ta nghe đồn tiền thù lao lớn lắm. Chắc vài tỉ đô la.?

Đỗ Thập có thái độ băn khoăn và do dự song cuối cùng cũng lên tiếng trả lời câu hỏi.

- Thưa ngài tiền thời họ trả cũng nhiều song chia chác cho 13 đồng chí của bộ chín chị và các đồng chí có công trong vụ này thời mỗi người cũng đâu có bao nhiêu. Chỉ có vài trăm triệu đô la.

Người người buột miệng kêu trời. Có người lớn tiếng chửi.

- Mẹ kiếp. Chỉ có vài trăm triệu đô la. Như vậy mà hắn còn chê ít.

- Hắn muốn vài tỉ đô mà anh Ba.

- Tao biết. Mới làm thủ tướng chưa đầy hai năm mà hắn cất mấy cái biệt thự rồi. Nhà nghỉ mát của hắn ở Đồ Sơn có cả chục phòng. Mỗi phòng ngủ rộng hơn cái nhà của tao.

Chờ cho thiên hạ nói xong Thôi Phán Quan mới tiếp tục thẩm vấn Đỗ Thập.

- Sau khi mãn nhiệm kỳ chủ tịch hội đồng bộ trưởng thì ông làm gì?

Đỗ Thập im lặng suy nghĩ. Hắn biết không thể không trả lời cũng như không thể phủ nhận sự thực vì Thôi Phán Quan đã có trong tay hồ sơ của mình.

- Tôi được các đồng chí trong bộ chín chị đề cử vào chức tổng bí thư đảng thay thế cho đồng chí Mười Cục.

- Như vậy là chuyện sát nhập Việt Nam thành khu tự trị thuộc Trung Quốc chắc đã được ông đích thân xúc tiến?

- Thật ra thì tôi cũng muốn câu giờ song các đồng chí ở Bắc Kinh cứ thúc hối phải xúc tiến sự sát nhập càng sớm càng tốt để cho Việt Nam sớm trở về với nước mẹ.

Hầu hết người trong phòng xử từ già trẻ bé lớn, đàn ông đàn bà đều đứng bật dậy khi nghe câu nói cuối cùng của Đỗ Thập.

- Tổ cha thằng phản quốc.

- Đập chết thằng bán nước đi bà con ơi.

- Cái thứ hại dân hại nước đó sao trời không đánh nó đi.

- Thằng cha này mất gốc rồi anh Tám ơi.

- Để tụi tui lên hỏi thăm sức khỏe của hắn.

Căn phòng xử náo loạn vì hàng chục người rời chỗ ngồi khiến Diêm Vương phải gõ búa ầm ầm để cảnh cáo mọi người không được làm loạn, đồng thời một tiểu đội lính quỉ cầm đao thương kiếm kích xuất hiện như sẵn sàng tái lập trật tự. Thấy thế mọi người mới chịu im lặng trở về chỗ ngồi của mình. Ngay cả chín vị bồi thẫm cũng có thái độ khích động. Bình với Đán chụm đầu bàn bạc khá lâu, trong lúc Huyền và Vui xì xầm to nhỏ. Chỉ có Thôi Phán Quan tủm tỉm cười nhìn Phạm Văng Vàng đang ngồi trên ghế bị can với thái độ trầm tư lo nghĩ. Còn vị tổng bí thư thứ 9 của đảng cộng sản Việt Nam là Nguyễn Văn Hiển Linh thì cúi đầu nhìn xuống sàn. Riêng Đỗ Thập làm lơ trước cảnh hổn loạn của phòng xử bằng cách nhìn ra khung cửa sổ.

- Kính thưa bồi thẫm đoàn. Thực ra vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước Tàu và Việt Nam đã có từ ngàn năm trước và kéo dài cho tới ngày hôm nay. Nó là hệ lụy của những cuộc thương thảo mật, hội họp kín của hai nước trong vòng 60 năm mà người khởi đầu chính là Hình Chí Mô và xuyên qua nhiệm kỳ của 9 vị tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam. Để làm sáng tỏ thêm vài chi tiết về việc dâng đất và biển cả của đảng cộng sản Việt Nam, tôi xin dẫn chứng một tài liệu đúc kết từ tin tức, bài viết và những phát biểu của những đảng viên cộng sản lão thành từng tham dự cuộc chiến tranh Việt Pháp, điển hình là trận đánh Điện Biên Phủ.

Dứt lời Thôi Phán Quan giơ lên cao cốt ý cho mọi người thấy xấp giấy dày cộm trong tay của mình. Thiên hạ lắng nghe giọng nói sang sảng của ông ta vang lên trong căn phòng im lìm.

- Đây là tập tài liệu dày hơn 200 trang giấy khổ lớn. Vì không có nhiều thời giờ do đó tôi xin tóm tắt vài sự kiện quan trọng đưa dẫn tới chuyện bán hoặc dâng cúng đất đai của nhóm lãnh tụ Hà Nội. Nói không sai sự thực bao nhiêu thời chuyện Hình Chí Mô và các kẻ kế thừa của hắn bán, dâng, nhượng đất đai cho Trung Quốc khởi nguồn từ một câu nói của Stalin là ” Trung Hoa giúp cho Việt Nam con gà thì Việt Nam có thể trả lại cho Trung Hoa cái trứng…”

Ngừng lại một chút như để cho mọi người nhất là chín vị bồi thẫm suy nghĩ về câu nói cuối cùng của mình xong Thôi Phán Quan cao giọng tiếp.

- * Viện trợ của Trung Quốc cho cộng sản Việt Nam là do đảng cộng sản Việt Nam yêu cầu qua văn thư của Hình Chí Mô và Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương gửi Mao Trạch Đông và Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc; tiếp theo hai chuyến đi bí mật của Hình Chí Mô sang Bắc Kinh vào đầu tháng Giêng năm 1950 và mùa đông năm 1951. Lần đi thứ nhất, khi họ Hình đến Bắc Kinh thì Mao Trạch Đông và Chu Ấn Lai đã đi Moscow để ký “Hiệp Ước Tương Trợ Đồng Minh Hữu Nghị Trung – Xô “ từ trước, nên hắn chỉ được Lưu Thiếu Kỳ đón tiếp rồi sau đó được Lưu Thiếu Kỳ thu xếp để sang Moscow. Câu hỏi được đặt ra là trước khi đi Mao và Lưu có biết là Hình Chí Mô sẽ sang Bắc Kinh hay không? Câu trả lời phần nhiều là có. Nếu vậy tại sao hai người lại không đợi họ Hình sang để cùng đi? Câu trả lời phần nào có thể được thấy nếu người ta theo dõi những gì đã xảy ra sau đó. Thứ nhất là trong buổi tiệc do Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô tổ chức để khoản đãi Hình Chí Mô khi ông ta mới tới Moscow tối ngày 6 tháng 2, Staline đã không đến dự và Staline chỉ tiếp ông ta nhiều ngày sau đó và tiếp ở phòng làm việc của mình với sự có mặt của nhiều người khác trong đó có cả Vương Gia Tường là đại sứ Trung Quốc ở Liên Xô. Thứ hai là trong buổi tiếp tân chiêu đãi trọng thể dành cho Mao Trạch Đông, Châu Ấn Lai và toàn thể các đoàn viên phái đoàn Trung Quốc, Hình Chí Mô cũng được mời, có thể là không chính thức. Lợi dụng cơ hội này và khi Staline rất vui, Hình Chí Mô đã ngỏ ý xin được ký một hiệp ước tương tự như hiệp ước Trung – Xô mà Mao Trạch Đông và Staline vừa ký kết. Staline đã từ chối.

Trương Quảng Hoa đã kể lại cuộc đối thoại giữa hai người như sau:

- Staline rất vui, trong bữa tiệc luôn luôn trò chuyện với khách. Hình Chí Mô nắm lấy thời cơ này cười hỏi Staline: “Đồng chí còn có chỉ thị gì nữa đối với công tác của Việt Nam chúng tôi không? ” Staline cười: ” Tôi làm sao có thể chỉ thị cho đồng chí, đồng chí là Chủ tịch nước, quan còn to hơn tôi mà! “. Họ Hình lại nói:” Các đồng chí đã ký hiệp ước với Trung Quốc, nhân tôi ở đây, chúng tôi cũng muốn ký một hiệp ước!” Staline nói: ” Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích như thế nào? ” Hình Chí Mô nói:” Điều đó rất dễ, đồng chí cho chiếc máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao? ” Staline cười lớn nói: ” Đó là quá sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh ” .

Trương Quảng Hoa ghi tiếp là: ” Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang lên. ” . Chi tiết này chứng tỏ cuộc đối thoại giữa Hình Chí Mô và Staline công khai trước mặt mọi người. Nhưng xét toàn bộ, người ta thấy Staline tỏ ra rất lạnh nhạt, không có tôn trọng họ Hình, đã mỉa mai khi trả lời những câu hỏi nghiêm chỉnh và quan trọng của Hình, kể cả đem những đề nghị của Hình Chí Mô ra làm trò cười cho những người có mặt trong buổi chiêu đãi và thẳng thừng từ chối những lời yêu cầu của Hình Chí Mô, trong đó có đề nghị ký một hiệp là điều ông này rất mong muốn. Tại sao vậy?

Theo Trương Quảng Hoa thì Staline lo lắng Hình Chí Mô là người theo chủ nghĩa dân tộc, là Ti Tô thứ hai. Nhưng đọc kỹ chi tiết hơn, người ta thấy hai điều. Một là Staline có chủ trương muốn Hình Chí Mô đẩy sớm hơn và mạnh hơn cách mạng xã hội và kinh tế thay vì chỉ lo đánh Pháp và hai là Staline cùng Mao Trạch Đông, và ngay cả trước đó không lâu, Lưu Thiếu Kỳ, trong một chuyến đi bí mật sang Nga, đã từng thảo luận và đồng ý với nhau về vai trò viện trợ cho Cộng Sản Việt Nam của Trung Quốc rồi. Đây là lý do chính và Hình Chí Mô sang Moscow chỉ là để nghe một chuyện đã được sắp xếp rồi. Riêng về cá nhân Hình Chí Mô, xuyên qua cuộc đối thoại này, người ta thấy phần nào bản chất thực tế, kiên nhẫn, chịu đựng đến độ lì lợm, sẵn sàng dùng những biện pháp lừa dối như hắn ta đã thường làm ở Việt Nam. Cuối cùng thì chuyến đi Liên Xô của Hình Chí Mô hoàn toàn thất bại, không giành được gì từ phía Liên Xô, không được coi trọng như Mao Trạch Đông để từ đây hắn và đảng cộng sản Việt Nam nghe và hoàn toàn trông cậy vào viện trợ của Trung Quốc.

Về chủ trương giữ bí mật cho những chuyến đi của Hình Chí Mô và sau này là về đoàn cố vấn Trung Cộng cũng là điều người ta cần chú ý. Phía nào thực sự chủ trương giữ bí mật và tại sao phải giữ bí mật? Câu hỏi cần phải được đặt ra, cũng như Hình Chí Mô có hứa hẹn gì với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác của Trung Cộng để đánh đổi lấy viện trợ của Trung Cộng không? Cũng vậy có thật viện trợ này là không hoàn trả và hoàn toàn vô vụ lợi dựa trên nghĩa vụ quốc tế giữa các đảng cộng sản hay không; hay ngược lại, có liên hệ gì tới sự nhượng bộ của cộng sản Việt Nam đối với cộng sản Trung Quốc sau này không? Về điều này người đọc nên nhớ tới gợi ý của Staline là Trung Quốc giúp cho Việt Nam một con gà thì Việt Nam có thể trả lại cho Trung Quốc một cái trứng. Con gà là quân sự, là kinh tế, tài chính, là lương thực, là tiền tệ, còn cái trứng là cái gì? ( * Đoạn văn này được lược dẫn từ một bài viết của Phạm Cao Dương. Có sửa chữa vài chỗ ). Phải chăng cái trứng đó là đất đai nằm dọc theo vùng biên giới của hai nước của các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Tàu cũng như toàn thể vùng biển Đông trong đó có Vịnh Bắc Bộ và các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa…

Liếc thấy đồng hồ trên tường chỉ hơn 5 giờ chiều, Thôi Phán Quan nói tiếp.

- Đã hơn 5 giờ chiều rồi, tôi xin phép tạm chấm dứt phiên xử ngày hôm nay. Ngày mai tôi sẽ trình thêm tài liệu và nhân chứng về vụ bán nước của băng đảng cộng sản Việt Nam. Đây là một âm mưu đen tối của đám lãnh tụ Hà Nội vì tham tiền bạc và quyền lực đã manh tâm đem giang sơn gấm vóc của tổ tiên dâng cho ngoại bang.

Sau câu nói của ông ta, mọi người lục tục rời phòng xử. Riêng chín vị bồi thẫm vẫn còn ngồi tại chỗ bàn tán khá lâu mới kéo nhau đi ăn tối.

giavui
07-11-2014, 08:53 PM
-13-
-14-
Cháy nhà mới ra mặt chuột

Căn phòng xử chật ních người ngồi. Những người tới trễ phải đứng chen chúc nơi chỗ trống cuối phòng. Tin rò rỉ ra từ âm phủ ra cho người ta biết hôm nay công tố viện sẽ lôi ra nhiều nhân chứng quan trọng trong phiên xử của Phạm Văng Vàng. Kể từ khi phiên tòa bắt đầu đây là lần đầu tiên công tố viện mời các nhân chứng đang còn sống ở dương thế xuống âm phủ làm chứng.

- Anh biết ai làm chứng hôm nay không anh Bảy?

Người được gọi anh Bảy là một ông già tuổi gần tám mươi, mặc quần dài và chiếc áo sơ mi cũ mèm.

- Tao nghe nói âm phủ sẽ mời tất cả 8 tên tổng bí thư đảng như Trườn Chui, Hình Chí Mô, Ba Duân, Nguyễn Văn Hiển Linh, Đỗ Thập, Liêu Khả Phê, Nông Đứt Yếu và Nguyễn Phú Nặng.

- Cha. Vậy là âm phủ đã lôi cổ nhiều tên nặng kí lắm hả anh Bảy?

- Ừa. Mấy thằng đã đi theo tổ Các Mác của chúng thời không có sợ sệt gì hết. Riêng mấy thằng đang sống sờ sờ ở trên dương gian như thằng Thập, Phê, Yếu và Nặng thì sợ teo bu gi luôn. Có người diễu chúng là tổng bí đái.

Nói tới đó anh Bảy vội im lặng khi thấy Diêm Vương từ trong cửa nhỏ bước ra. Khi mọi người đứng lên chào ông vua của âm phủ, Bình liếc thấy nơi dãy bàn dành riêng cho nhân chứng đông hơn ngày hôm qua gấp mấy lần. Tất cả đều ăn mặc chỉnh tề và sang trọng. Anh nhận thấy toàn thể các nhân vật từng cầm quyền của đảng cộng sản Việt Nam đều đủ mặt, từ vị tổng bí thư thứ nhất Trần Phú, thứ nhì Lê Hồng Phong rồi theo thứ tự xuống Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, Trườn Chui, Hình Chí Mô, Ba Duân, Nguyễn Văn Hiển Linh, Đỗ Thập, Liêu Khả Phê, Nông Đứt Yếu và Nguyễn Phú Nặng. Hàng ghế dành cho thủ tướng có Phạm Hung, Võ Văn Kiệt, Phan Văn Gải và Nguyễn Tấn Hèn. Còn chủ tịch nước có Tôn Đức Phanh, Nguyễn Hữu Chết Yểu, Võ Chí Cong Queo, Lê Đức Em, Trần Đức Lương Lẹo, Nguyễn Minh Điếc và Trương Hứng Sản. Bộ trưởng ngoại giao có Ung Văn Khiêm, Xuân Hỉ, Nguyễn Di Trinh, Nguyễn Cơ Đá, Nguyễn Mạnh Cầm Nhầm, Nguyễn Dy Năm, Phạm Văn Kiêm và Phạm Rạng Đông. Bình cũng nhận ra trong số nhân chứng này có vài quân nhân mà anh nhớ mặt vì hình ảnh của họ được đưa lên báo như Trần Độ, Trần Văn Trà, Hoàng Minh Thảo.

- Kính thưa Diêm Vương và chín vị bồi thẫm. Để tiếp tục phiên tòa xử tên Phạm Văng Vàng, tôi xin mời thêm vài nhân chứng mới. Theo các tài liệu mà công tố viện của âm phủ đã sưu tầm được thời các nhân chứng sau đây đóng một vai trò quan trọng trong các hoạt động bán nước của Bộ Chín Chị hay đúng hơn của băng đảng cộng sản Việt Nam. Trước hết tôi kính mời ông Liêu Khả Phê lên làm nhân chứng.

Thôi Phán Quan mở đầu phiên xử Phạm Văng Vàng bằng câu nói trên. Thiên hạ xì xầm nho nhỏ khi thấy một ông già ăn mặc sang trọng thong thả đi lên. Ngay khi Liêu Khả Phê vừa ngồi xuống ghế nhân chứng, Thôi Phán Quan đặt câu hỏi liền.

- Trước hết tôi xin lỗi ngài tổng bí thư bởi vì câu hỏi tôi nêu ra có đôi chút phạm vào đời tư của ngài.

Liêu Khả Phê lên tiếng trong lúc quay nhìn Diêm Vương.

- Nếu câu hỏi của ngài biện lý phạm vào đời tư thời tôi có bị bắt buộc trả lời không thưa Diêm Vương?

Ông vua của âm phủ nhìn Thôi Phán Quan. Hiểu ý vị đại diện cho công tố viện mau mắn giải thích.

- Trình Diêm Vương. Tuy câu hỏi của tôi có xía vào đời tư của nhân chứng song nó liên quan tới chuyện bán nước của ông ta.

Diêm Vương gật đầu nói lớn.

- Nếu vậy thời nhân chứng bắt buộc phải trả lời.

Mỉm cười thích thú Thôi Phán Quan đặt câu hỏi.

- Ngài tổng bí thư chắc có gia đình đầy đủ hay vợ con đàng hoàng?

Ai ai cũng thắc mắc vì câu hỏi đi ngoài đề của vị đại diện pháp luật của âm phủ. Tuy nhiên một số người chú tâm vào phiên xử đều biết là câu hỏi tuy hơi lạc đề này sẽ dẫn tới nhiều câu hỏi khó trả lời khác.

- Thì cũng như bao nhiêu người, tôi cũng có vợ con đàng hoàng.

Gật gật đầu Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Ngoài vị chính thất và con cái ở tại Hà Nội, ngài tổng bí thư còn có thêm vợ lẽ, vợ mọn, bồ nhí, đào tơ hoặc con ngoại hôn nào nữa không?

Nhờ ngồi ở gần nên Bình thấy Liêu Khả Phê “có vấn đề lớn” khi nghe câu hỏi quá nhiều chi tiết của Thôi Phán Quan.

- Có hay không?

Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình. Ấp úng giây lát Liêu Khả Phê mới thong thả lắc đầu thốt.

- Thưa ngài. Không có đâu. Tôi là lãnh tụ mà đâu dám làm chuyện mất thể diện quốc gia hoặc lăng nhăng gái gung này nọ. Tôi phải noi theo cái gương đạo đức của bác…

Hơi nhếch môi cười vị biện lý của âm phủ vui vẻ thốt.

- Tôi tin vào lời nói của ngài tổng bí thư. Ngài nhận chức tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam năm nào ngài nhớ không?

- Thưa ngài, tôi làm tổng bí thư từ tháng 12 năm 1997 cho tới tháng 4 năm 2001.

Khẽ liếc nhanh vào tập hồ sơ đang cầm trong tay, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ tiếp.

- Trong nhiệm kỳ gần 4 năm làm tổng bí thư đảng chắc ngài có dịp viếng thăm nhiều nước bạn trong đó có nước cộng sản Trung Hoa?

- Thưa ngài đúng như vậy. Với chức vụ tổng bí thư đảng tôi có dịp thăm viếng giới lãnh đạo của Trung Quốc để thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa hai nước.

Gật gù cái đầu bạc phơ của mình, Thôi Phán Quan nhìn thẳng vào mặt vị tổng bí thư thứ 11 của đảng cộng sản Việt Nam đoạn đột ngột buông một câu hỏi.

- Trong chuyến viếng thăm Trung Quốc ngày 3 và 4 tháng 9 năm 1998, ngài có gặp ai khác hơn là các nhân vật đang cầm quyền tại Bắc Kinh?

Đán với Bình đều nhận thấy Liêu Khả Phê thay đổi sắc diện đồng thời có thái độ không được bình thường sau khi nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Tôi chỉ gặp các vị lãnh tụ của Trung Quốc mà thôi. Còn về phần tiệc tùng thời tôi cũng có gặp gỡ hoặc nói chuyện với vài người thuộc ngoại giao đoàn. Thế thôi.

- Ngài có gặp bất cứ phụ nữ nào không?

Thôi Phán Quan hỏi gọn. Vị tổng bí thư đảng trả lời một cách gượng gạo.

- Chắc không. Đông người quá nên tôi không nhớ.

Nhếch môi cười Thôi Phán Quan cao giọng.

- Ngài tổng bí thư không nhớ vậy để tôi nhắc cho ngài nhớ.

Ngồi gần Bình thấy nét mặt của vị tổng bí thư thứ 11 của đảng cộng sản Việt Nam tỏ ra có vấn đề.

- Chắc ngài còn nhớ một cô gái Tàu trẻ đẹp và tình tứ ở tại Bắc Kinh tên Trương Mỹ Vân?

Đán với Bình thấy Liêu Khả Phê đổi sắc diện liền khi nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Trương Mỹ Vân. Ngài tổng bí thư nhớ tên cô ta không?

Liêu Khả Phê làm thinh. Đầu cúi gầm nhìn xuống đất ông ta im lặng không trả lời câu hỏi. Toàn thể mọi người trong căn phòng xử đều nghe rõ mồn một giọng nói hàm chứa mấy ngàn năm tu luyện của vị đại diện cho công tố viện của âm phủ.

- Ông đã ” ngủ ” với cô Trương Mỹ Vân mấy lần?

Thôi Phán Quan nhấn mạnh tiếng ngủ. Không đợi cho Liêu Khả Phê trả lời, ông ta hướng về bồi thẫm đoàn cùng với giọng nói cao lên.

- Căn cứ vào các tài liệu cũng như các nhân chứng mà tôi đã hỏi cung thời ngài tổng bí thư đã lưu lại nước Tàu một tuần lễ để hú hí với người đẹp Bắc Kinh. Điều mà tôi muốn nhấn mạnh là ngài tổng bí thư đã hứa hẹn hoặc thỏa thuận điều gì với nhà cầm quyền Trung Cộng. Kính thưa Diêm Vương, 9 vị bồi thẫm và 80 triệu dân Việt Nam, các sự kiện sau đây sẽ giải thích cho chúng ta hiểu thêm về những cuộc đi đêm của ngài Lê tổng bí thư và Bộ Chín Chị của đảng cộng sản Việt Nam trong kế hoạch bán dần đất đai, núi non, rừng rú, quặng mỏ và biển cả cho Tàu để lấy tiền bạc hoặc sự ủng hộ của Tàu trong việc chia nhau quyền lực để cai trị Việt Nam.

Đưa cao xấp hồ sơ đang cầm trong tay, vị biện lý của âm phủ cao giọng.

- Đây là tập hồ sơ mà công tố viện của âm phủ sưu tầm được mà bao năm qua đảng cộng sản Việt Nam đã không tiết lộ cho dân chúng biết về những hoạt động bán nước của chúng. Hôm nay trước sự có mặt của 9 vị bồi thẫm và đông đảo người tham dự, tôi xin đọc lớn cho mọi người nghe biết:

1- Sau khi trở về nước, ngày 30 tháng 12 năm 1999, với cương vị tổng bí thư đảng, Liêu Khả Phê đã ký ‘‘ Hiệp Ước Biên Giới Trên Đất Liền “ để ( hiến dâng hoặc triều cống theo ý của ngài thủ tượng Phạm Văng Vàng ), phân nửa thác Bản Giốc và ít nhất là 100 thước bề ngang của Ải Nam Quan cho Trung Quốc. Theo thiển ý của tôi đó là sự buôn bán hoặc trao đổi của ngài Lê tổng bí thư với bảy đêm thần tiên ở Bắc Kinh cộng thêm tiền thù lao vài chục triệu đô la.

2- Ngày 31 tháng 12 năm 1999, phái đoàn ngoại giao của Tàu do ngoại trưởng Đường Gia Triền cầm đầu, với sự tháp tùng của các nhân viên tình báo thuộc Tổng Cục Tình Báo Quân Sự Trung Cộng tới Hà Nội. Phái đoàn này họp kín với Liêu Khả Phê nhiều ngày để bàn bạc thêm về tiếp thu và việc hiến dâng thêm đất liền.

3- Ngày 25 tháng 5 năm 2000, Liêu Khả Phê phái Bộ Trưởng Ngoại Giao Nguyễn Duy Niên sang Bắc Kinh gặp Đường Gia Triền để báo tin ông ta bằng lòng dâng thêm đất.

4- Đường Gia Triền gởi mật thư nhắn muốn gặp Nguyễn Duy Niên ở tại Vọng Các khi ông ta thăm viếng Thái Lan. Ngày 26 tháng 5 năm 2000, Nguyễn Duy Niên đáp máy bay ở phi trường Nội Bài vào lúc 6 giờ 47 phút sáng để sang Vọng Các gặp họ Đường tại khách sạn Shangri- La. Cuộc gặp gỡ rất ngắn ngủi. Đường Gia Triền đưa cho Niên chồng hồ sơ đòi Liêu Khả Phê phải dâng thêm đất, thêm biển. Trong hồ sơ còn ghi rõ là Trung Cộng đòi làm chủ phân nửa lãnh hải vùng Vịnh Bắc Việt, đòi Việt Nam phải cắt 24 ngàn cây số vuông vùng biển đưa cho họ.

5- Nguyễn Duy Niên trở về Hà Nội trình lại những đòi hỏi của Trung Cộng cho Liêu Khả Phê và Bộ Chính Trị. Ngày 28 tháng 7 năm 2000, 19 đảng viên cao cấp trong bộ chín chị họp kín để bàn cãi về yêu cầu của Trung Cộng.

Ngừng lại để uống ngụm nước cho thông cổ xong Thôi Phán Quan nói với Liêu Khả Phê, Đỗ Thập và Phạm Văng Vàng.

- Những điều mà tôi nêu ra đây nếu ngài Phạm Thủ Tượng, ngài Lê tổng bí thư và ngài Đỗ chủ tịch hội đồng bộ trưởng nghe có điều gì không đúng với sự thực, ba vị có quyền khiếu nại để chúng ta cùng đối chất hầu làm sáng tỏ thêm vấn đề dâng hiến đất đai của nhà nước Việt Nam.

Phạm Văng Vàng và Đỗ Thập nín thinh. Chỉ có Liêu Khả Phê lên tiếng ngắn gọn.

- Ngài biện lý cứ tiếp tục.

Quay nhìn về chỗ chín vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng đọc tiếp.

6- Sau hai tháng họp kín và bàn bạc. Bộ Chín Chị của băng đảng cộng sản Việt Nam cử Phan Văn Khải qua gặp mặt Lý Bằng. Phan Văn Khải bay chuyến máy bay sớm nhất rời Việt Nam ngày 26 tháng 9 năm 2000 qua Bắc Kinh và được xe chở từ phi trường Bắc Kinh về Quảng Trường Nhân Dân vào trưa hôm đó. Nhìn thấy mặt Khải tỏ vẻ không hài lòng và hoang mang về vụ hiến đất, Lý Bằng cho Khải biết là Liêu Khả Phê và Giang Trạch Dân đã gặp nhau 2 lần và đã thỏa thuận về vụ hiến đất rồi. Lý Bằng ôm chặt Khải và khen đảng cộng sản Việt Nam làm việc rất tốt. Họ Lý còn cho biết là Nong Đứt Yếu ( lúc đó là chủ tịch Quốc Hội ) đã đi đêm sang Trung Quốc vào tháng 4 năm 2000 cũng như Lý Bằng đã gặp lại Nong Đứt Yếu vào tháng 8 năm 2000 ở New York Hoa Kỳ. Lý Bằng cho biết Nong Đứt Yếu phải được cử làm Tổng Bí Thư đảng sau khi Liêu Khả Phê xuống, nếu không sẽ bị Trung Quốc ” đòi nợ cũ ”. Khải trước khi về vẫn khước từ vụ hiến vùng biển VN và nói với Lý Bằng là sẽ xem lại sự việc. Lý Bằng nhăn mặt bắt Khải ngồi chờ, vào gọi điện thoại, nói gì trong đó và trở lại nói là chủ tịch Giang Trạch Dân muốn gặp Khải tại Zhong-nai-hai. Sau đó Khải được đưa đi gặp Giang Trạch Dân. Họ Giang nói với Khải là Trung Cộng đã nắm trong tay Liêu Khả Phê, Nong Đứt Yếu; nếu không nghe lời Khải sẽ bị tẩy chay và coi chừng bị ” chích thuốc “. Khải sợ hãi xin được ra về. Trước khi Khải về, một lần nữa Giang Trạch Dân nhắn Khải gửi lời thăm Liêu Khả Phê và Nong Đứt Yếu chứ không nhắc tới tên ai trong bộ chín chị đảng cộng sản Việt Nam. Khải không được khoản đải như một vị quốc khách vì tính tình bướng bỉnh không nghe lời đàn anh

7- Vào ngày 24 tháng 12 năm 2000, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao VN Lê Công Phụng được Trần Đức Lương phái qua Bắc Kinh gặp nhân viên ngoại giao của Tàu là Hoàng Di. Người này nói tiếng Việt rất rành. Hai bên đã gặp nhau ở một địa điểm bí mật gần biên giới Việt Trung nằm trong tỉnh Móng Cái của Việt Nam. Theo lời của Lê Công Phụng báo cáo với bộ chín chị, thì lúc đầu Hoàng Di vẫn khăn khăn đòi chia 50/50 với Việt Nam về vùng biển Vịnh Bắc Việt và đòi lấy luôn đảo Bạch Long Vĩ. Sau đó Phụng, được bộ chín chị dặn trước là xin lại 6% của vùng biển gần khu vực Bạch Long Vĩ vì từ ngàn năm qua nó được coi là của Việt Nam. Kết quả cuộc đi đêm Việt Nam còn lại 56% Vịnh Bắc Việt và mất đi 16,000 sq Km vùng vịnh cho Trung Cộng.

8- Ngày 25 tháng 12 năm 2000, Trần Đức Lương rời Hà Nội qua Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân và được đưa về Thành Bắc của Quảng Trường Nhân Dân. Theo tin tức mà âm phủ thu lượm được thì Trần Đức Lương và Liêu Khả Phê chính thức quyết định thông qua bản hiệp ước hiến đất bất chấp lời phản đối của nhiều người trong quốc hội. Phe thân Nga và phe Miền Nam không đủ sức đấu với Liêu Khả Phê và Trần Đức Lương. Với bản hiến chương bán nước này, các kẻ cầm quyền của Việt Nam đã được Trung Cộng thưởng cho số tiền $ 2 tỉ US. Chia chác xong mỗi người cũng bỏ băng Thụy Sĩ hai ba trăm triệu đô la.

9- Ngày 26 tháng 12 năm 2000 vào lúc 2 giờ trưa, Lý Bằng được cận vệ đưa tới gặp Trần Đức Lương ở Quảng Trường Nhân Dân. Lý Bằng cho Lương biết là số tiền 2 tỉ đô la để mua 16,000 sq km vùng vịnh Bắc Việt của Việt Nam là hợp lý. Trần Đức Lương cám ơn Trung Quốc về số tiền. Số tiền 2 tỉ đô la được Lương đem về chia chác để làm bớt sự phẩn nộ của Khải, Kiệt và những nhân vật khác trong quốc hội. Ông Lý Bằng nhắc lại chuyện Trung Quốc đã bán vũ khí và hổ trợ cho đảng cộng sản Việt Nam trong thời gian chiến tranh và số nợ trên Trung Quốc dùng để trao đổi mua lại vùng đất Bắc Sapa của Việt Nam, Ải Nam Quan, Bản Giốc, Cao Bằng… Lần nữa Lý Bằng chỉ gửi lời thăm Liêu Khả Phê và Nong Đứt Yếu. Sau đó Lương được mời đi gặp Giang Trạch Dân. Họ Giang không nói gì khác hơn là nhắc lại số tiền 2 tỉ đồng sẽ được giao cho Việt Nam khi Lương trở về nước.

10- Ngày 26 tháng 2 năm 2001, Nguyễn Dy Niên bay sang Bắc Kinh để gặp bộ trưởng ngoại giao Trung Cộng là Đường Gia Triền tại đảo Hải Nam. Niên cám ơn họ Đường đã mua vùng Vịnh Bắc Việt của Việt Nam với giá 2 tỉ đô la.

Căn phòng xử rộng lớn và đông người lặng trang. Dường như thiên hạ còn đang bàng hoàng và bận tâm suy nghĩ về những tiết lộ của Thôi Phán Quan. Không ai có thể tưởng tượng và tin rằng chuyện giới cầm quyền Hà Nội lại là những kẻ đã và đang bí mật bán đứng tổ quốc của chúng cho ngoại bang để đổi lấy tiền bạc và cam tâm làm tôi tớ cho kẻ thù phương bắc.

- Chuyện có thật hả anh Bình?

Huyền hỏi nhỏ người bạn ngồi bên cạnh. Bình mỉm cười trả lời trong lúc nhìn lên chỗ bị can Phạm Văng Vàng và nhân chứng Liêu Khả Phê với Đỗ Thập đang ngồi.

- Tôi nghĩ chuyện đó có thật. Nếu Thôi Phán Quan nói không đúng sự thật thì bị can và nhân chứng đã lên tiếng phủ nhận rồi.

- Làm sao mà ông Thôi Phán Quan biết được những bí mật này. Anh Bình cũng biết là tụi cộng sản nó giấu kỹ chuyện bán nước lắm.

Bình mỉm cười quay qua nói với Huyền.

- Sự thực sẽ từ từ lộ ra theo thời gian. Như khi lão Hình Chí Mô còn sống, lão ta đã vẽ vời, thêu dệt những huyền thoại để thần thánh hóa cá nhân lão cũng như cuộc đời của lão. Bây giờ theo thời gian sự thực về cuộc đời cách mạng của lão đã lộ ra chứng tỏ lão chỉ tranh đấu cho chủ nghĩa cộng sản. Lão lợi dụng dân tộc ta để thi hành nghĩa vụ cho cộng sản quốc tế.

Đang nói Bình ngưng lại khi thấy Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Liêu Khả Phê cùng với câu hỏi bật ra.

- Ngài tổng bí thư có nhìn nhận là mình đã ngủ với cô Trương Mỹ Vân?

Lê Khả Phê lắc đầu mấy lượt.

- Thưa ngài hổng có đâu. Tôi già đầu hai thứ tóc rồi nên đâu có ham muốn chuyện gái gung làm chi cho rắc rối cuộc đời.

- Nếu ngài không chịu thừa nhận thì bắt buộc tôi phải gọi một người ra đối chất để làm sáng tỏ vụ này.

Liêu Khả Phê làm thinh. Tuy nhiên chút gượng gạo, lo âu và bối rối thoáng hiện trên nét mặt của lão. Trong trí lão nghĩ thầm: ” Mình có sức chơi là phải có sức chịu… Thử xem ông ta gọi thằng nào ra đối chất.”

- Ngài biện lý muốn gọi ai cũng được.

Liêu Khả Phê gượng gạo lên tiếng. Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan quay nhìn xuống chỗ dãy bàn dành riêng cho các nhân chứng đoạn cao giọng thốt.

- Tôi kính mời ông Nguyễn Rận Vị.

Một quân nhân thong thả đi lên. Có tiếng xì xầm nho nhỏ rồi càng lúc càng lớn hơn. Đợi cho nhân chứng ngồi vào ghế xong xuôi, Thôi Phán Quan mới cười hỏi.

- Xin ông vui lòng giới thiệu cho tòa biết sơ qua về ông.

- Thưa Diêm Vương. Thưa chín vị bồi thẫm. Tôi tên là Nguyễn Rận Vị, sinh năm 1957 tại Hà Nội, chánh quán tại huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Năm 1964 đến 1974, tôi tòng học tại trường Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi rồi lên trường Văn hóa Quân đội. Năm 1974 đến 1976, tôi là học sinh trường Cấp 3 Lý Thường Kiệt nay là trường Trung học phổ thông Việt Đức- Hà Nội. Năm 1976-1981 tôi là sinh viên trường Đại học Kỹ thuật Quân sự và trường Sĩ quan Thông tin. Năm 1983 tôi tốt nghiệp Sĩ quan Thông tin với cấp bậc thiếu úy và làm việc tại Cục Nghiên cứu Bộ Quốc phòng. Tháng 2 năm 1995, tôi được giao nhiệm vụ Phụ trách Cục 12 Tổng Cục 2 Bộ Quốc phòng. Tháng 5 năm 1995, tôi được bổ nhiệm Phó Cục Trưởng Cục 12, rồi Cục Trưởng Cục 12 và sau đó là Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2. Năm 1999, tôi được Thủ tướng chính phủ phong quân hàm thiếu tướng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Năm 2002, tôi giữ chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2, Bộ Quốc phòng. Năm 2003, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sỹ chuyên ngành ” Quan Hệ Quốc Té “. Tháng 12 năm 2004, được thủ tướng chính phủ phong quân hàm trung tướng Quân Đội Nhân Dân Việt Nam. Tháng 2 năm 2009, tôi giữ chức Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Tháng 8 năm 2009, tôi thôi kiêm nhiệm Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2. Ngày 27 tháng 4 năm 2010, tôi được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước trao chức hàm Phó Giáo sư chuyên ngành Quan Hệ Quốc Té. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tôi được bầu vào Ban Chấp hành Trung Ương đảng cộng sản Việt Nam.

Đợi cho nhân chứng giới thiệu xong, Thôi Phán Quan hỏi một câu.

- Tôi có một thắc mắc nhỏ xin ngài trung tướng thứ trưởng quốc phòng giải thích hộ. Ngài nói trước tòa là ngài đỗ bằng Tiến Sĩ Quan Hệ Quốc Té là nghĩa làm sao?

Nguyễn Rận Vị cười cười như thích thú trước khi trả lời cho Thôi Phán Quan. Vị thứ trưởng quốc phòng của nước Việt Nam Dân Chửi Nhăn Răng Cười Trừ thong thả giải thích cho Diêm Vương nghe.

- Bẩm Diêm Vương. Mấy thằng phản động trong nước và hải ngoại, chúng nó cố ý bêu xấu tình trạng giáo dục của nước con bê bối, đầy dẫy nạn mua bằng và thi cử gian lận. Thật ra chúng con rất quan tâm về chương trình giáo dục ở trong nước từ cấp tiểu học cho tới cấp đại học bằng chứng là ở cấp đại học đảng đã ra chỉ thị cho bộ giáo dục mở thêm một môn học mà ngành Quan Hệ Quốc Té là một thí dụ điển hình. Đây là một môn học đặc biệt chuyên khảo cứu về tình trạng hiện tại của đất nước.

Dường như bực mình vì nghe Nguyễn Rận Vị nói dông dài mất thời giờ, Diêm Vương vội ngắt lời.

- Thôi đủ rồi. Khổ lắm nói mãi. Ngươi giải thích cho ta nghe Quan Hệ Quốc Té là cái giống gì đi.

- Bẩm Diêm Vương. Quan hệ thì ngài và mọi người đều biết rồi. Riêng Quốc Té là tiếng mới. Quốc nghĩa là nước, còn té là té. Như vậy Quốc Té là nước té ngã, té nghiêng, té ngửa. Nước con hiện nay đang lâm vào cái thế té cực kỳ nghiêm trọng bởi vậy chúng con mới có môn học Quan Hệ Quốc Té để đưa nước nhà ra khỏi cái thế té ngã vào nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, đàn anh Nga Sô hùng mạnh hay đồng minh Hoa Kỳ vỉ đại.

- Ngươi đổ bằng Tiến Sĩ Quan Hệ Quốc Té vậy ngươi đã có cách gì đưa nước của ngươi ra khỏi cái thế té ngã vào vòng tay của tụi Tàu chưa?

- Bẩm Diêm Vương. Thưa chuyện này khó lắm. Cũng do mấy vị lãnh đạo đảng và nhà nước trước làm nhiều chuyện sai lầm và bậy bạ thành ra cái thế té của nước con bây giờ khó gỡ ra lắm. Các đồng chí trong bộ chín chị đều bị Cục Tình Báo Quân Sự Trung Quốc ‘‘ cấy ” hết rồi.

- Tụi bây hay dùng chữ này tiếng nọ ta chẳng hiểu tụi bây nói cái gì.

Diêm Vương mở miệng phàn nàn. Sợ ông vua âm phủ nổi giận, ông Tiến Sĩ Quan Hệ Quốc Té từ từ giải thích.

- Bẫm Diêm Vương. Cấy hay là chích thuốc đó mà. 19 vị trong bộ chín chị của nước con, vị nào cũng bị cấy. Không những tụi con bị cộng sản Tàu cấy mà cũng bị tư bản Mỹ cấy luôn.

- Tụi nó cấy cái gì?

- Bẩm Diêm Vương. Họ cấy thuốc. Trung Quốc gọi là thuốc còn Mỹ gọi là virus… Biết người nào thích cái gì thì họ cấy cái đó. Như ngài Liêu tổng bí thư thích gái đẹp thì họ ” cấy cái đó ” vào người của ổng. Ổng thích đô la thì họ cấy đô la vào băng Thụy Sĩ của ổng.

- Còn ngài thứ trưởng bị ai cấy và cấy cái gì?

Thôi Phán Quan xen vào bằng câu hỏi.

- Thưa ngài biện lý. Nước anh em Trung Quốc có cái nhìn xa và rộng lắm. Họ thấy tương lai của tôi sẽ sáng lạn cũng như đường hoan lộ của tôi sẽ mở rộng ra thênh thang như xa lộ Trường Sơn. Bây giờ tôi đang ở chức vụ thứ trưởng quốc phòng nhưng vài năm nữa thôi tôi sẽ lên chức bộ trưởng quốc phòng rồi có thể là chủ tịch nước hoặc tổng bí thư. Vì vậy thuốc mà Trung Quốc cấy vào người của tôi đặc biệt, mới lạ hơn các đồng chí khác trong bộ mười chín chị. Ở nước tôi bây giờ phải có tiền mới có chức, có chức mới có quyền, có quyền thì mới thi hành môn Quan Hệ Quốc Té được. Biết tôi không thích đàn bà con gái mà cũng không thích tiền giấy cho nên các đồng chí Trung Quốc mới cấy vào chương mục ngân hàng của tôi những con số bắt đầu từ số 0 cho tới số 9…

- Tôi nghe thiên hạ đồn ngài trung tướng, kiêm thứ trưởng bộ quốc phòng, kiêm Tiến sĩ- Phó giáo sư Quan Hệ Quốc Té là một ” sao ” đang lên trong ” bộ mười chín chị ” của Việt Nam. Có đúng như vậy không?

Ai ai cũng đều nhận ra cái chất châm biếm trong giọng nói nghiêm nghị của vị đại diện công tố của âm phủ. Liếc nhanh xuống dãy bàn dành cho nhân chứng, vị Thứ Trưởng-Tiến Sĩ-Phó Giáo Sư Quan Hệ Quốc Té thản nhiên cười đáp.

- Thưa ngài đúng như vậy. Cũng nhờ ơn bác và đảng với lại có các đồng chí đàn anh đỡ đầu nên đường thăng quan tiến chức và học hành của tui hổng có bị trục trặc gì hết.

Thôi Phán Quan gật gù.

- Ạ. Hóa ra là như vậy. Ngài Thứ Trưởng-Tiến Sĩ-Phó Giáo Sư Quan Hệ Quốc Té quả là kẻ thông đạt tình đời.

Có lẽ hứng thú vì được Thôi Phán Quan khen, Nguyễn Rận Vị nói liền.

- Ngài biện lý khen quá lời. Cái sự thông đạt tình đời này là do bố nuôi tôi dạy từ hồi nhỏ.

- Ủa ông có bố nuôi à?

- Thưa ngài biện lý. Số là bố ruột của tôi được bác phải vào Nam đánh Mỹ Ngụy cứu nước nên thường xuyên vắng nhà. Vì vậy mà bác và đảng mới giao cho Bác Sáu lãnh nhiệm vụ săn sóc mẹ tôi và các con còn nhỏ dại.

Liếc nhanh Diêm Vương đang ngồi lim dim nhổ râu cằm, Thôi Phán Quan ngắt lời.

- Xin ngài thứ trưởng vui lòng cho tòa biết Bác Sáu của ngài là ai?

- Bác Sáu của tôi là Lê Đứt Thụi. Hồi còn thời kỳ cách mạng chống Tây, dân Nam bộ gọi bác là Sáu Lừa. Thời gian sau khi bác cùng với bác Ba cầm quyền, các đồng chí gọi bác là Sáu Búa. Ngoài ra tôi cũng được các bác khác trong đại gia đình như Bác Ba, Bác Anh, Bác Mười. Các bác này và bố nuôi đã dạy cho tôi thông đạt tình đời. Các bác thường nói, mình sống trong chế độ tham nhũng mà mình không tham nhũng là mình dại. Thấy các đồng chí đàn anh bán nước mà mình hổng chịu bán đất, bán biển là mình ngu, mình sẽ không bao giờ lên lon, lên chức đồng thời còn bị đạp văng ra khỏi các chức vụ béo bở. Biết các đồng chí của mình chôm của công, chĩa của dân thì mình phải thi đua chôm chĩa nhiều hơn họ để chứng tỏ tài năng của mình. ” Gặp thời thế thế thời phải thế “. Ngài biện lý ắt biết câu nói lừng danh kim cổ này.

Thôi Phán Quan gật đầu cười.

- Thưa ngài thứ trưởng tôi biết. Trở lại chuyện viếng thăm các nước bạn. Hình như khi còn làm Phó Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quốc Phòng, ngài có thăm Trung Quốc đôi lần.

- Thưa có. Do lời gọi bảo của Tổng Cục Tình Báo Quân Sự Trung Quốc tôi có tới Bắc Kinh hội thảo với các đối tác tình báo.

- Năm 1998?

Thôi Phán Quan hỏi gọn. Nguyễn Rận Vị cười cười im lặng, không phủ nhận mà cũng không nhìn nhận.

- Xin lỗi tôi chưa nắm bắt được ý nghĩa của hai tiếng ” gọi bảo “ của ngài thứ trưởng.

Bật cười ha hả Nguyễn Rận Vị từ từ giải thích.

- Sở dĩ tôi xài tiếng gọi bảo vì dù sao Trung Quốc cũng là cha chú hoặc đàn anh vỉ đại của Việt Nam. Mà hể bậc trưởng thượng thì họ có quyền sai bảo. Cái này cũng chẳng có gì quá đáng vì cha mẹ thì có quyền sai bảo con cái trong nhà của mình. Ngài biện lý chắc biết nước tôi có câu ngạn ngữ ” Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó “ mà. Hổng phải mình tôi họ mới gọi bảo đâu. Họ sai bảo bất cứ ai trong đảng từ đồng chí tổng bí thư đảng, chủ tịch nước, chủ tịch quốc hội, thủ tướng. Ngày xưa bác còn bị sai bảo mà huống chi chúng tôi là con cháu của bác. Bản thân bác còn bị Mao chủ tịch quay như quay dế. Bác cũng bị đồng chí thủ tướng Chu Ân Lai sai bảo phải ký cái công hàm 1958 bởi vậy bác mới chỉ đạo cho ngài Phạm thủ tượng ký…

- Làm sao ngài biết bác bị Mao chủ tịch sai bảo? Tin ở đâu cho ngài biết bác bị Chu Ân Lai bắt ký công hàm năm 1958?

Thôi Phán Quan hỏi dồn. Nguyễn Rận Vị cười cười.

- Tôi là Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Quân Báo mà ông. Tất cả hồ sơ tối mật tôi đều đọc qua. Nắm được những tài liệu mật tôi muốn làm gì cũng được.

Tuy hiểu cái ý của Nguyễn Rận Vị song Thôi Phán Quan làm lơ bằng cách đặt câu hỏi.

- Hình như ngài có tháp tùng phái đoàn ngoại giao của ngài tổng bí thư Liêu Khả Phê qua thăm Trung Cộng năm 1998?

Thấy Nguyễn Rận Vị ngần ngừ chưa chịu trả lời, Thôi Phán Quan cười nhạt.

- Dù không phải là nhân viên trong ngành điệp báo như ngài song nhờ quyền phép của âm phủ, tôi cũng sưu tầm được một số tài liệu về những cuộc đi đêm để bán nước của các đồng chí của ngài.

Ngừng lại giây lát như để cho Nguyễn Rận Vị có thời giờ suy nghĩ về lời nói của mình, vị đại diện công tố gằn giọng tiếp.

- Ngài làm gì, gặp nhân viên nào trong Tổng Cục Tình Báo Quân Sự của Tàu?

Vừa nói Thôi Phán Quan vừa nháy mắt với Diêm Vương. Hiểu ý ông vua âm phủ lên tiếng.

- Ngươi biết điều khai thật ta còn thương tình cho ngươi về lại dương thế. Nhược bằng ngươi ngoan cố, khai man, ăn gian nói dối thì ta sẽ giữ ngươi ở lại âm phủ. Lúc đó nhà lầu của ngươi sẽ có người khác ở, còn vợ đẹp và bồ nhí của ngươi sẽ có người săn sóc hộ. Tiền bạc mà bấy lâu nay ngươi cắc ca cắc củm dành dụm sẽ được các đồng chí của ngươi tiêu hộ, xài dùm.

Bị Diêm Vương hù dọa trúng ngay chỗ nghiệt, Nguyễn Rận Vị giật mình thất sắc. Liếc nhanh qua chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi rồi quay sang Diêm Vương, hắn mếu máo.

giavui
07-11-2014, 08:54 PM
- Bẩm Diêm Vương. Xin ngài thương con. Con mà ở đây thì kẹt cho con quá. Tiền trong chương mục của băng Thụy Sĩ của con ai tiêu xài. Biệt thự mấy tầng của con ai ở. Con bồ nhí của con nó nhõng nhẽo lắm. Con mà vắng mặt lâu là nó có thằng khác…

Liếc Thôi Phán Quan làm hiệu, Diêm Vương nghiêm giọng.

- Vậy thì nhà ngươi nên khai hết ráo sự thực đi. Có vậy may ra ta thương tình giam ngươi vài ngày. Nhược bằng ngươi ngoan cố, ăn gian nói dối, a tòng với các đồng chí của ngươi che đậy giấu diếm chuyện buôn dân bán nước thì ta sẽ cho ngươi rũ xương trong tù.

Nghe tới đó Nguyễn Rận Vị sợ gần muốn xỉu. Nhìn Thôi Phán Quan hắn cất giọng run run.

- Bẩm ngài. Tôi xin khai hết. Tôi biết cái gì khai cái nấy. Thưa Diêm Vương. Để bành trướng chủ nghĩa cộng sản và tranh bá đồ vương với đế quốc tư bản Mỹ, các đồng chí trong bộ chính trị của Tàu phải đề ra sách lược xâm thực dần dần hay ta gọi là tầm ăn dâu. Hiện tại, theo sở kiến của tui, muốn bành trướng thế lực Tàu chỉ còn có mỗi một con đường duy nhất là tiến xuống phía nam. Tiến lên bắc thì đụng với Nga Sô, một quốc gia đất đai bao la, tài nguyên dồi dào và có vũ khí nguyên tử. Muốn qua Trung Đông có dầu hỏa thì bị thằng Mỹ nó khôn quá, nó chặn đường rồi bằng các căn cứ ở A Phú Hãn, Iraq. Ra biển Thái Bình Dương thì đụng hạm đội 6, hạm đội 7 của Mỹ với chú lùn Nhật Bản. Do đó Tàu, bằng mọi giá phải thôn tính Việt Nam càng sớm càng tốt. Hể Việt Nam mà bị chiếm rồi thì mấy nước như Lào, Cam Bốt, Thái Lan, Mã Lai Á, Tân Gia Ba sẽ trở thành chư hầu của họ. Chiếm Việt Nam có hai điều lợi cho Trung Quốc. Đó là giành được các mỏ dầu hỏa và khí đốt rất cần cho nền kinh tế đang lên của họ. Kế đó Việt Nam có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, như là cửa ngỏ mở ra Thái Bình Dương. Nuốt trọn Việt Miên Lào, Thái Lan, Mã Lai Á, Tân Gia Ba, Nam Dương, giành lấy eo biển Malacca, Trung Cộng có thể kiểm soát thủy lộ từ Á sang Trung Đông và Phi Châu. Chưa làm chủ trọn vẹn Đông Hải và các nước phía Nam, hải quân của Trung Quốc giống như con cá nằm trong vũng cạn. Biển Đông là vùng biển cạn, tuy giàu về cá tôm và dầu khí song không phải là nơi lý tưởng cho tàu ngầm nguyên tử trú ẩn vì dễ bị vệ tinh do thám khám phá ra vị tn..

Mọi người trong phòng xử nín lặng nghe vị thứ trưởng quốc phòng của nước Việt Nam Xã Rác Chủ Nghĩa thao thao bất tuyệt. Thấy mọi người im lặng lắng nghe mình ba hoa chích chòe, Nguyễn Rận Vị khoái chí cao giọng tiếp.

- Trước khi Lê tổng bí thư sang thăm Trung Quốc, Phòng 6 của Cục Tình Báo Quân Sự của nước đàn anh đã gởi nhân viên cao cấp của họ qua hỏi tôi nhiều điều về ngài Lê tổng bí thư.

- Điều gì?

Thôi Phán Quan ngắt lời. Liếc nhanh Liêu Khả Phê đang ngồi im lìm, Nguyễn Rận Vị tiếp nhanh.

- Thưa ngài họ hỏi tôi về gia cảnh, tính tình, sở thích. Họ hỏi tôi ngài Lê tổng bí thư thích cái gì.

- Ông trả lời ra sao?

Thôi Phán Quan hỏi dồn song Nguyễn Rận Vị lại có thái độ bình thản. Liếc Liêu Khả Phê lần nữa, ông ta cười cười trả lời.

- Tôi có trình với nhân viên của Tổng Cục Tình Báo Quân Sự nước đàn anh là cái gì Lê tổng bí thư cũng thích hết. Tiền ổng cũng thích. Đàn bà đẹp ổng cũng hẩu… mà. mà. con gái đẹp ổng cũng hổng có chê… còn chuyện ăn nhậu thì ổng cũng lai rai ly này ly nọ.

Đang ngồi lim dim Liêu Khả Phê vọt miệng xen vào.

- Tiền mà phải tiền đô giấy trăm cơ. Tiền Việt Nam đếm mỏi tay.,,, nhất là mất giá mỗi ngày.

Nghe vị tổng bí thư đảng của mình lên tiếng, Nguyễn Rận Vị cười phụ họa.

- Thưa ngài tổng bí thư nói hổng sai chút nào. Nắm Tổng Cục 2 của bộ quốc phòng do đó tôi biết rất nhiều bí mật của nhà nước. Đảng viên cao cấp của đảng và nhà nước đâu có xài tiền Việt Nam cũng như họ đâu có thèm bỏ tiền vào Ngân Hàng Nhà Nước. Tụi tui giữ tiền đô và gửi băng Thụy Sĩ hông hà.

Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương ứng tiếng.

- Ngươi nói lạ… Là nhân viên có chức, có quyền thì các ngươi phải làm gương cho dân chứ có đâu lại xài tiền đô và bỏ băng Thụy Sĩ.

- Bẩm Diêm Vương. Ngài ở dưới âm phủ nên chưa biết tình hình bi đát của nước con về ba mặt chính trị, kinh tế và quân sự. Về chính trị thì xã hội chủ nghĩa của nước con đang trở thành là chủ nghĩa xả rác của các nước đàn anh.

- Xã hội chủ nghĩa là cái gì?

Diêm Vương ngắt lời. Biết ông vua âm phủ chưa nắm bắt được vấn đề thời sự nên Nguyễn Rận Vị kiên nhẫn giảng giải.

- Mấy thằng phản động thường hay rêu rao hệ điều hành chính trị xã hội chủ nghĩa của nước con là hệ điều hành ” xạo hết chỗ nói”. Điều này cũng đúng chút chút.

Nhếch môi cười Diêm Vương phán.

- Ta khen ngươi có chút chút thành thật. Hể mình xạo thì cứ nhận là xạo. Chết ai đâu mà sợ. Mà ta nghe đồn đại cái tin là Nhà Nước của ngươi nói tới năm 2030, nước Việt Nam sẽ sản ra một trăm ngàn ông tiến sĩ. Tin này có thật không?

- Bẫm Diêm Vương tin này có thực ạ. Tụi con xạo thì xạo nhưng chuyện sản ra một trăm ngàn ông tiến sĩ thì tụi con hổng có xạo. Bẫm dân của con siêng năng và chăm học lắm. Việt Nam con có 80 triệu dân, với chế độ giáo dục hiện hành và sự siêng năng học hỏi, thì tới năm 2030 nước con sẽ sản ra một trăm ngàn tiến sĩ dễ còn hơn cơm bữa.

- Ngươi xạo vừa vừa thôi nghe… Mỹ là một nước có ba trăm năm chục triệu dân, có chương trình giáo dục đàng hoàng mà từ đây tới năm 2030 còn chưa sản ra được trăm ngàn ông tiến sĩ nữa huống hồ gì nước Việt Nam nghèo đói. Nếu theo như lời của ngươi nói thì cứ 800 người dân Việt thì có một ông tiến sĩ. Ủa mà thằng Tố Bồi Bút đã nói là bác và đảng của mày tích cực áp dụng chính sách Tam Dân làm cho dân đói dân ngu dân ngủ mà sao bây giờ ngươi lại nói ngược lại. Hóa ra ngươi mất lập trường à.?

Bị Diêm Vương đá giò lái, Nguyễn Rận Vị đực mặt ngồi làm thinh. Tủm tỉm cười Diêm Vương hỏi tiếp.

- Mà một trăm ngàn ông tiến sĩ của nhà nước ngươi sản ra có bằng không?

- Bẩm Diêm Vương có bằng đàng hoàng. Bằng của Nhà Nước cấp mà.

- Bằng thật hay bằng giả?

Tự nãy giờ im lặng nghe Nguyễn Rận Vị ba hoa chích chòe, Thôi Phán Quan không nhịn được mới xen vào.

- Thưa ngài biện lý. Bằng thật mà. Bằng do Bộ Ăn Quá của nhà nước cấp thì giả sao được.

- Ta có nghe chuyện mua bằng ở trong xứ của ngươi.?

Diêm Vương vặn. Nguyễn Rận Vị cười cười.

- Bẩm Diêm Vương. Chuyện mua bằng là sự thực. Chuyện nhà nước cấp cái bằng được mua cũng là sự thực. Hai cái sự thực cộng lại thì đương nhiên cái bằng cấp phải thực rồi. Với lại 100 ngàn ông tiến sĩ này đều là đảng viên ưu tú học mười biết một của đảng do đó họ không cần phải mua bằng. Họ được nhà nước cấp bằng để sau này làm quan…

Diêm Vương lắc đầu. Còn Thôi Phán Quan cau mày. Thấy thế Nguyễn Rận Vị thong thả tiếp.

- Phần quân sự thì Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đang áp dụng chủ trương Tam Nhẫn

- Tam Nhẫn.

Diêm Vương gặn hỏi. Nguyễn Rận Vị cười gật đầu.

- Ông bà tui có dạy là ” Một câu nhịn chín câu lành “. Triệt để tuân thủ theo câu nói này, tui và bộ Mười Chín Chị mới đề ra chiến lược Tam Nhẫn để đối phó với nước láng giềng phương bắc. Tam Nhẫn là Kiên Nhẫn, Nhẫn Nhịn và Nhẫn Nhục.

- Thằng con nít này ăn gian nói dối. Cái chiến lược này do tôi bày ra mà nó dám nhận là của nó.

Hình Chí Mô lên tiếng. Giọng nói của lão chứa đầy giận dữ. Thấy thế Nguyễn Rận Vị cười gượng nói tiếp.

- Thưa Diêm Vương. Cái đó là của bác đề ra rồi chúng con sau này sửa lại cho hợp với tình thế đương đại. Quân đội của nước đàn anh từng giúp đỡ ta nhiều lắm nên ta nhường họ chút chút cũng hổng sao. Ba cái diện chính trị, kinh tế và quân sự này nó tương quan đối tác lẫn nhau làm cho tình hình của nước con bi đát lắm. Biết rõ điều đó nên các đồng chí nhớn bé trong đảng phải đổi tiền đô thủ thân và gởi băng Thụy Sĩ để dưỡng già nếu một mai có tị nạn sang nước ngoài. Diêm Vương biết hông, tiền Việt Nam bây giờ như giấy lộn. Dân nghèo mạt mà còn hổng xài tờ giấy 2000 thì những kẻ có chức, có quyền và có tiền như tụi con đâu thèm xài bạc lẻ. Cũng như cái Ngân Hàng Nhà Nước hổng có cán bộ nào thèm bỏ tiền vào. Họ sợ ngủ qua một đêm tiền của họ biến thành nước.

- Các ngươi mở miệng ra nói vì dân vì nước mà ta thấy cái băng đảng của ngươi toàn là hại dân hại nước. Hết công an bịt miêng dân giữa toà án thì mấy hôm trước đây công an lại đạp vào mặt dân. Hết bán nước lại bỏ tù dân. Chủ Tịch Nước, Nhà Nước, Ngân Hàng Nhà Nước; cái gì cũng Nước với Nhà; cái gì cũng xưng Nhà với Nước; rốt cuộc ta chẳng hiểu tụi bây nói cái gì. Như tụi bây thường hay khoe khoang về nền kinh tế thị trường định hướng xã rác chủ nghĩa mà ta nghe qua chẳng hiểu tụi bây nói cái gì. Ngươi là tiến sĩ kiêm phó giáo sư vậy ngươi nói cho ta nghe. Hể lọt lỗ tai là ta trả ngươi về dương gian liền.

Được Diêm Vương khen là kẻ trí thức, học thấp hiểu cao nên Nguyễn Rận Vị khoái chí. Hắn mau mắn và vui vẻ giải thích rành mạch cho Diêm Vương nghe.

- Kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa là tên gọi một hệ thống kinh tế được đảng của con sáng tạo và chủ trương triển khai tại Việt Nam từ thập niên 1990. Cho đến nay, chính đảng và nhà nước con cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ rệt, cụ thể và đầy đủ thế nào là nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa. Tụi con chỉ có mỗi giải thích hạn chế và chung chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…

- Ta chẳng hiểu hắn nói cái gì. Đứa nào giỏi tiếng Việt dịch lại cho ta nghe coi.

Diêm Vương lên tiếng như phân bua với mọi người.

- Ai hiểu được chít liền.

Người nào đó lên tiếng bằng giọng bông đùa phụ họa với lời của Diêm Vương. Cuối dãy bàn của khán thính giả vang lên câu nói với giọng khàn khàn của người lớn tuổi.

- Trình Diêm Vương. Hắn nổ đó Diêm Vương ơi. Giả dụ như câu này: ” một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã rác chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…”. Có ai mà hiểu được. Chắc chỉ có những kẻ có chức có quyền và có bằng cấp tiến sĩ-phó giáo sư quốc té như hắn mới hiểu mà thôi.

Hừ tiếng nhỏ Nguyễn Rận Vị cất giọng oang oang như muốn át tiếng của người khác.

- Trong quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hóa dẫn đến nền kinh tế thị trường đã trải qua rất nhiều giai đoạn phát triển với nhiều mô hình khác nhau. Ngay trong thời hiện đại này cũng có mô hình: kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường theo định hướng xã hội, kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa… Tại Việt Nam, có thể hiểu khái quát: kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa là kinh tế thị trường, vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa phải theo trật hướng của chủ nghĩa xã rác…

- Tôi không hiểu câu nói này của ông: ” kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa là kinh tế thị trường, vừa tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường, vừa phải theo trật hướng của chủ nghĩa xã rác…”

Nguyễn Rận Vị cười nụ.

- Ngài biện lý không hiểu thì làm sao tôi hiểu được. Tôi là đảng viên gộc thêm có bằng tiến sĩ quan hệ quốc té mà còn hổng hiểu cái định nghĩa chung chung này mà… Tuy nhiên tôi có thể giải thích như vầy: ” Có nghĩa là, trong khi chú ý tới tăng trưởng kinh tế, thì hết sức coi trọng tới vấn đề xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự chênh lệch giàu- nghèo, phấn đấu để có nhiều người giàu nhưng đồng thời cũng hạn chế tối đa, tiến tới xóa bỏ tình trạng đói nghèo trong nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm chăm lo cho những người có công, những gia đình neo đơn, gặp khó khăn, cơ nhỡ, những đối tượng được xem là yếu thế trong xã hội. Hiện tại, kinh tế thị trường của Việt Nam không phải là kinh tế thị trường tự do, nhưng cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã rác chủ nghĩa, có nghĩa là Việt Nam đang ở giai đoạn quá độ, giai đoạn lộn xộn, đòi hỏi phải giải quyết rất tốt mối quan hệ giữa cung và cầu, quy luật giá trị với sự định hướng bằng kế hoạch, bằng chính sách, bằng chiến lược của nhà nước; mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thể hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; trong khi chú ý mở cửa hội nhập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, giữ gìn cho được truyền thống văn hóa của dân tộc, làm tốt công tác bảo vệ môi trường. Đây là nhân tố bảo đảm cho việc phát triển bền vững, bảo đảm cho định hướng xã rác chủ nghĩa… Như vậy, mục tiêu của kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa là phù hợp với lợi ích của đại đa số nhân dân Việt Nam.

Trong nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa, nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, bằng các công cụ điều tiết như chính sách thuế, chính sách quản lý thị trường, chính sách thu hút đầu tư… Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng, hữu cơ của nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Khu vực kinh tế nhà nước, cùng với nhà nước có chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế. Nhà nước thay mặt nhân dân nắm giữ những doanh nghiệp chủ chốt trong hệ thống kinh tế quốc dân. Đó cũng là những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc không hiệu quả.

Thực tế vận hành nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa hơn hai chục năm qua đã khẳng định đây là mô hình tối ưu của Việt Nam trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, là nhân tố bảo đảm cho phát triển bền vững của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Vận hành theo cơ chế này, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc. Từ chỗ nghèo nàn lạc hậu, đến giờ đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Từ chỗ làm không đủ ăn, thu không đủ chi, xuất ít, nhập nhiều, bây giờ hàng hóa tràn ngập thị trường Việt Nam. Từ chỗ khép kín, hiện Việt Nam mở cửa quan hệ rộng lớn với tất cả các nước trên thế giới. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Hơn hai chục năm trước, Việt Nam có tới 48% số hộ nghèo, đến giờ còn khoảng 10%. Vận hành theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, trong năm 2009, khi đại đa số các nước tăng trưởng âm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, Việt Nam vẫn duy trì mức tăng trưởng dương. Đặc biệt, trong giai đoạn từ đầu năm 2010 đến nay, trước sóng gió của nền kinh tế thế giới, kinh tế Việt Nam vẫn phát triển một cách ngoạn mục. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong năm 2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%; thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 24,1%, hoạt động du lịch sôi nổi, lượng khách quốc tế đến Việt Nam tăng 36,2% so với cùng kỳ năm trước; thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 26,23% so với cùng kỳ năm trước đặc biệt là khu vực ngoài nhà nước tăng tới 46,38%…

Rõ ràng, thực tế đã khẳng định, xây dựng nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của xã hội loài người. Mục tiêu của nền kinh tế này là phá hoại kinh tế để dân nghèo, nước yếu, xã hội không công bằng, thiếu dân chủ, thiếu tự do, lạc hậu để tiến lên chủ nghĩa xã rác. Tuy nhiên, đây là mô hình do chúng ta tự xây dựng, không có khuôn mẫu cụ thể do đó, trong quá trình xây dựng không tránh khỏi khiếm khuyết. Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận rõ những khiếm khuyết này và đã từng điều chỉnh trong từng giai đoạn. Tại đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI tới đây, trong cương lĩnh mới của đảng, mô hình kinh tế thị trường định hướng xã rác chủ nghĩa sẽ tiếp tục được hoàn thiện để phù hợp với xu thế mới của thời đại, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Quan điểm của những thằng phản động cho rằng, nền kinh tế Việt Nam hiện nay ” chẳng giống ai ”, ” khoác tấm áo của chủ nghĩa xã rác nhưng bên trong lại là tư bản ”, là nền kinh tế ” quái gở” như vậy là cố tình nói đúng sự thật.

Dứt một tràng tuyên truyền cho nhà nước, Nguyễn Rận Vị cười vênh mặt lên nhìn Thôi Phán Quan. Không để ý tới thái độ trịch thượng của nhân chứng ông ta điềm đạm lên tiếng.

- Tôi không tranh luận với ngài thứ trưởng về vấn nạn của nền kinh tế thị trường trật hướng xã rác chủ nghĩa vì ai ai cũng biết kết quả của nó như thế nào rồi. Sau thời gian âm phủ đã tìm ra những thống kê của các cơ quan quốc tế nghiên cứu về pháp luật, dân chủ và tự do của Việt Nam đối chiếu với các quốc gia trên thế giới. Nhưng trước hết, xin đọc lời phê bình ngắn gọn nhưng rất đầy đủ về thực trạng xã hội Việt Nam của sử gia Michel Tauriac trong quyển Hồ Sơ Đen Cộng Sản Việt Nam từ 1945 đến nay: “ Một xã hội công an lúc nhúc như rắn rết, linh mục bị đàn áp, tăng sĩ bị tấn công, trẻ ăn xin đầy đường phố, giới trẻ không phương hướng, bắt giam người không cần xét xử, nhà văn bị cấm viết những gì cần viết, nhà báo nhận lệnh phải viết bất cứ thứ gì, quan chức tham ô nhét tiền đầy túi trong khi dân chúng luôn quằn quại với cái bụng trống không…”

Việt Nam bây giờ đứng hạng bét về dân chủ! Ban Thông Tin Kinh Doanh (Economist Intelligence Unit) của tạp chí The Economist nghiên cứu về Chỉ số Dân chủ (Democracy Index): trong tổng số 167 quốc gia được nghiên cứu thì Việt Nam xếp thứ 145. Trong bảng sắp hạng thì Thụy Điển là nước có nền dân chủ lý tưởng nhất thế giới, đứng hạng chót là Bắc Hàn vì vẫn theo chế độ cộng sản độc tài chuyên chế, còn Việt Nam với hạng 145 chỉ đứng trên 22 nước mà thôi!

Việt Nam cũng bị xếp trong 45 nước không có tự do! Viện Tự Do (Freedom House) trụ sở ở Hoa Thịnh Đốn phúc trình năm 2006 về tình hình nhân quyền tại 193 nước trên thế giới như sau: 90 nước có tự do (47% dân số toàn cầu), 58 nước có một phần tự do chiếm 30%, số còn lại là 45 nước không có tự do trong đó có Việt Nam! Việt Nam đứng hạng chót về hệ thống pháp luật, chỉ trên có Nam Dương. Tổ chức PERC tư vấn về Rủi Ro Chánh trị và Kinh Tế năm 2005 khi khảo sát về 12 quốc gia châu Á, có nhận xét hệ thống pháp luật của nhà nước CSVN bị xem yếu kém nhất trong ba nước đứng hạng chót là Trung Hoa, Việt Nam và Nam Dương.

giavui
07-11-2014, 08:54 PM
Lại thêm một thành tích không đẹp! Xét về năng lực sáng tạo của một quốc gia qua Chỉ Số Năng Lực Sáng tạo II (Innovation Index), thì trong 117 quốc gia được thăm dò, Việt Nam đứng hạng thứ 82 và bị xếp vào nhóm các quốc gia còn kém về khoa học phát triển. Chỉ số 82/117 cho Việt Nam được hiểu như Việt Nam chỉ đứng trên 25 quốc gia nhưng lại thua kém 81 nước, dưới trung bình quá nhiều! Chỉ số nầy dựa theo sự nghiên cứu World Investment Report của Liên Hiệp Quốc. Tiến sĩ Mai Thanh Tuyết, trong bài Tình trạng môi trường Việt Nam sau 32 năm (do Bán tuần báo Việt Luận, số 2243 ngày 7-3¬08) đã cho biết Chỉ Số Môi Trường Bền Vững năm 2006 (Environmental Sustainability Index) do Diễn đàn Kinh tế họp tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 3-2006 thì Việt Nam đã đứng cuối bảng trong 8 quốc gia ASEAN. So với 146 quốc gia đang phát triển trên thế giới, Việt Nam được xếp hạng 127.

Theo sự nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) năm 2006, ông Il Houng Lee, chuyên viên của tổ chức này đặc trách về Việt Nam, nhận định rằng Việt Nam phải mất một thời gian dài mới mong bắt kịp nền kinh tế của các nước khác trong vùng. Theo ông Il Houng Lee, Việt Nam phải mất 197 năm, tức là 8 thế hệ mới mong bắt kịp nền kinh tế của Singapore. Muốn so sánh với Đài Loan, Nam Hàn, hay Nhật Bản thì Việt Nam còn thảm bại hơn nhiều! (bài Việt Nam – 60 năm xây dựng và huỷ diệt của Trần Đại Việt, Đàn Chim Việt, Bán tuần báo Việt Luận đăng lại ngày 7-4-2006)…

Ngừng lời Thôi Phán Quan nhìn Nguyễn Rận Vị.

- Đó là thành quả của mấy mươi năm cách mạng của bác và đảng của ông đó. Tôi sẽ trở lại chuyện phá hoại đất nước của bị can Hình Chí Mô trong phiên xử cuối cùng. Bây giờ tôi chỉ muốn hỏi ông về chuyến công du bảy ngày của ngài tổng bí thư Liêu Khả Phê. Lúc nãy ông nói tới đoạn ngài tổng bí thư thích tiền và gái đẹp. Bây giờ tôi yêu cầu ngài thứ trưởng tiếp tục nói về chuyện này.

Gật gật đầu đoạn liếc nhanh Lê tổng bí thư đang ngồi nhổ râu, Nguyễn Rận Vị lên tiếng.

- Sau khi tôi nói cho họ biết Lê tổng bí thư thích tiền và gái trẻ đẹp thì ông Di, nhân viên tình báo cao cấp của Tàu lôi tôi lên máy bay đi qua Bắc Kinh một ngày trước khi phái đoàn ngoại giao của tổng bí thư Liêu Khả Phê và thủ tướng Đỗ Thập rời Hà Nội. Tới Bắc Kinh xong ông Di đưa tôi tới trung tâm của Tổng Cục Tình Báo Quân Sự. Ông ta nhờ tôi chọn một cô cho hợp nhãn để ” phục vụ ” ngài Liêu tổng bí thư trong thời gian ông ta lưu lại Bắc Kinh. Chu choa ơi. Nước Tàu vỉ đại quả có nhiều con gái đẹp thấy mà mê luôn. Tôi chọn một cô tên Vân cho ông Phê. Cô Vân mới có mười tám, vòng 1, 2 và 3 đều đúng tiêu chuẩn cách mạng vô sản nên vừa quyến rũ, hấp dẫn và khêu gợi nhìn chảy nước dãi luôn. Tôi ước gì có một cô để bầu bạn trong lúc cô đơn nơi xứ lạ quê người. Ông Di thông cảm nên có hứa là khi cái kế mỹ nhân mà ông ta gài cho ông Liêu lọt vào thì ông ta sẽ cho tôi một cô.

Giơ tay ra hiệu cho Nguyễn Rận Vị ngưng nói, Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Liêu Khả Phê cùng với giọng nói nghiêm nghị cất lên.

- Chắc ngài tổng bí thư đã nghe rõ lời khai của nhân chứng?

Liêu Khả Phê gượng gạo gật đầu.

- Tôi nghe.

- Như vậy là ngài thừa nhận có ngủ với cô Trương Mỹ Vân?

- Tôi thừa nhận chuyện đó. Tuy nhiên….

Quay sang Diêm Vương đang trợn mắt hầm hè nhìn mình, Liêu Khả Phê ấp úng thốt.

- Bẩm Diêm Vương. Cái này là tại con dại gái. Con bị các đồng chí đàn anh Trung Quốc chơi con.

- Có chuyện đó à. Ngươi làm tổng bí thư một nước, già hai thứ tóc trên đầu mà còn dại gái à. Ta hổng tin chuyện đó. Đừng có giấu diếm… Tai của ta nghe hết chuyện thiên hạ. Mắt của ta tuy mờ song còn thấy hết những gì ngươi làm trong bóng tối. Biết điều khai hết sự thực thời may ra ta thương tình cho ngươi cái án nhẹ để còn về thấy mặt vợ con.

Bị Diêm Vương dụ khị, Liêu Khả Phê bùi tai gật đầu nói với Thôi Phán Quan.

- Thôi để tôi kể hết sự tình cho ông nghe. Tôi có ngủ với cô Vân, nhưng mà tôi bị các đồng chí Trung Quốc cho uống thuốc.

- Thuốc gì?

Thôi Phán Quan hỏi. Nhìn xuống đám đông đang lắng nghe mình nói, Liêu Khả Phê thở dài sườn sượt.

- Bẩm Diêm Vương. Đầu đuôi câu chuyện như thế này. Trong buổi dạ tiệc chào mừng phái đoàn Việt Nam, ông Lý Bằng có giới thiệu cho con một cô gái tên Trương Mỹ Vân. Cô ta là ” cần vụ ấy ” của tôi trong những ngày tôi lưu trú tại Bắc Kinh.

- Xin lỗi ngài tổng bí thư cho tôi được ngắt lời. Vì là người của âm phủ do đó tôi không hiểu tiếng cần vụ ấy mà ngài dùng. Xin ngài vui lòng giải thích.

Bình mỉm cười liếc Đán và bắt gặp anh ta cũng đang quay sang nhìn mình cười. Cả hai có lẽ hiểu lờ mờ ý nghĩa của hai tiếng cần vụ.

- Thì cần vụ ấy là người sẽ phục vụ cho mình những gì mình cần như rót nước, sửa soạn quần áo, giày vớ. Vì là thượng khách nên tôi được ở phòng ngủ sang trọng và thật rộng rãi có hai phòng ngủ. Một dành cho tôi và một cho cô ” Vân cần vụ ấy “…

- Cha này kể chuyện nghe đã lỗ tai quá anh Chín.

- Ừ. Mày chờ nghe màn cụp lạc giữa ngài tổng bí thư và cô Vân cần vụ ấy.

- Có chuyện đó hả anh Chín?

- Già dê gặp gái sắc mà mậy. Chém cha lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy ào ào. Nó cháy tiêu ải Nam Quan, thác Bản Giốc và Vịnh Bắc Việt của nước mình đó.

Tuy nghe hết những lời đối thoại của ai đó song Liêu tổng bí thư tảng lờ thong thả kể tiếp.

- Bẩm Diêm Vương. Con rất mến cô Vân cần vụ ấy vì không những trẻ đẹp, học thức mà tính tình của cô ta rất đàng hoàng, lịch thiệp và nhã nhặn. Ngày thứ nhì tức ngày 4 tháng 9, sau khi hội họp cả ngày con trở về phòng riêng nghỉ ngơi. Biết con mệt, cô Vân cần vụ ấy pha cho con ly rượu thuốc bổ mà các thầy thuốc bào chế ra cho các lãnh tụ cao cấp dùng cho khỏe mạnh để sống lâu mà phục vụ nhân dân. Bài thuốc hay thiệt. Sau khi uống vào chừng giờ đồng hồ con cảm thấy người khỏe mạnh hẳn ra như trai ba mươi.

Có tiếng cười phát ra của ai đó. Ngay cả Diêm Vương cũng hừ tiếng nhỏ song im lặng để cho Liêu Khả Phê kể tiếp.

- Bẩm Diêm Vương. Con nghe người nóng ran, đầu óc bừng bừng đồng thời cảm thấy cô Vân cần vụ trở nên vô cùng duyên dáng, hấp dẫn và khêu gợi. Con cũng biết mình già đầu hai thứ tóc lại thêm là tổng bí thư đảng còn cô ta mới 18 nên cố kìm hãm sự ham muốn của mình. Nếu làm cái chuyện trâu già gặm cỏ non thì lỡ cô khai với cha mẹ của cô thời con bị mất mặt quá. Thấy con cố dằn, lúc đó cô Vân cần vụ ấy mới bật mí cho con biết là con đã uống phải thứ thuốc kích thích tình dục cực mạnh do phòng bào chế của Tổng Cục Tình Báo Quân Sự chế tạo ra. Cô Vân khuyên con nên có hành động thích nghi bởi vì nếu con mà hổng chịu làm chuyện ” ấy” thì…. thì..

Nói tới đây Liêu tổng bí thư ấp úng nói không ra lời. Thấy vậy Diêm Vương lên tiếng nhắc.

- Tiếp đi. Ngươi kể tới lúc hấp dẫn và quan trọng mà ngưng lại thì hơi phiền à nghen.

- Bẩm Diêm Vương. Cô Vân cần vụ ấy có nhã ý khuyến cáo con là nếu con hổng chịu ” ấy ” thì do sự kích thích quá độ hai ” trái lựu đạn “ của con sẽ nổ ra cái bụp. Lúc đó chính cô hổng bảo đảm cho tính mạng của con. Cô khóc lóc năn nỉ van xin con hãy làm chuyện ấy vì nếu con hổng làm là con chết mà con chết thì cô ta sẽ bị rắc rối. Mũi lòng thương cô Vân vả lại cũng sợ hai trái lựu đạn của mình nổ tanh bành, con bắt chước nàng Kiều của ông Nguyễn Du là ” cũng liều nhắm mắt đưa chân “ để ” xem chuyện ấy xoay vòng vòng tới đâu…”

Thiên hạ, không nhịn được bật cười rần rần vì lối kể chuyện của ngài tổng bí thư. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn mặt lạnh như thép cũng phải tủm tỉm cười.

- Rồi sao nữa.

Diêm Vương hối. Quay về phía chỗ bồi thẫm đoàn ngồi, Liêu Khả Phê kể lể.

- Bẫm Diêm Vương. Sau cái đêm ấy cô Vân cần vụ ấy mới tiết lộ cho con biết cổ là nhân viên của Tổng Cục 2.

Một điều bi thảm nhất là chuyện cụp lạc giữa con và cô Vân cần vụ ấy đã bị chụp hình và quay phim không sót một chi tiết nào. Họ bảo nếu không nghe lời họ thì chuyện tình giữa con với cô Vân cần vụ sẽ được đưa lên báo, lên YouTube hay các Porn Star online cho toàn thế giới thưởng thức. Bị Tổng Cục 2, nhất là hai cái đùi non của cô Vân cần vụ ấy gài vào thế kẹt cứng ngắt không xoay trở được con đành phải nghe lời họ để yên thân già. Tuy nhiên họ cũng biết điều và sòng phẳng. Cứ mỗi lần con thỏa mãn yêu cầu của họ thì trong băng Thụy Sĩ của con có thêm vài chục triệu đô cũng như có máy bay riêng chở cô Vân sang Hà Nội để thỏa mãn ” cần vụ ấy ” của con.

Liêu Khả Phê thở dài sườn sượt sau khi dứt lời. Thôi Phán Quan đặt câu hỏi liền.

- Ngài tổng bí thư lưu lại Bắc Kinh một tuần lễ sau vụ ấy đúng không?

Liêu tổng bí thư gật đầu không do dự.

- Thưa ngài đúng như vậy mặc dù chuyện hội họp đã xong.

- Lý do?

Liếc Diêm Vương một cái Liêu Khả Phê thong thả trả lời.

- Bẩm Diêm Vương thông cảm cho con vì cái chuyện ấy con ” ăn quen mà nhịn hổng quen…” với lại chuyện đã lỡ rồi thì con cho lỡ luôn. Cùng lắm là ải Nam Quan lỡ thêm chút đỉnh cũng hổng sao. Chia nửa thác Bản Giốc hoang vu rừng rú cho nước anh em để hưởng bảy ngày thần tiên với cô Vân cần vụ cũng xứng đáng thưa Diêm Vương.

Nghe Liêu Khả Phê nói như vậy, Diêm Vương chợt cất tiếng than dài.

- Loạn rồi. Việt Nam loạn lớn rồi nên mới sản sanh ra một ông lớn ” mãi quốc cần vụ ấy ” như ngươi. Chuyện ngươi dại gái dù xấu xa song ta cũng thông cảm mà châm chế cho. Còn chuyện bán nước cho ngoại bang thì đó là việc làm gây tổn hại cho dân cho nước tới muôn đời sau. Ngươi sợ cái lỗi nhỏ rồi lại làm ra cái tội lớn hơn. Dù âm phủ xa xôi muôn vàn cách trở với dương thế song ta cũng nghe biết chuyện cách đây hơn năm trăm năm, có người họ Mạc cởi trần, tự trói mình đi bộ tới ải Nam Quan, cắt đất đai dâng cho ngoại bang để giữ lấy cái ngai vàng của dòng họ. Họ Mạc từng làm quan dưới triều Lê rồi nãy sinh lòng tham cướp ngôi nhà Lê. Cái tội giết vua cướp ngôi là tội nhỏ, rồi từ cái tội nhỏ đó lại gây ra cái cớ cho ngoại bang dòm ngó đến nổi phải cắt đất và chịu nhục để giữ lấy ngai vàng. Tham ngai vàng mà mang tiếng xấu muôn đời, làm nhục cả tổ tông dòng họ. Như ngươi đây, ” Làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem đất mà dâng cho ngoại bang, ấy là một người phản quốc. Làm tổng bí thư mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, lại a tòng với ngoại bang để cầu lấy cái vui sướng và phú quý cho thân mình, thì ngươi đúng là một người không biết liêm sỉ”…

Bị Diêm Vương mắng một hơi thật dài, Liêu Khả Phê ngồi làm thinh không dám nói tiếng nào. Lát sau Thôi Phán Quan mới cất tiếng.

- Chuyện mãi quốc cầu vinh của những kẻ có chức có quyền thuộc băng đảng cộng sản Việt Nam nói biết bao giờ cho hết. Nó bắt đầu từ khi Phạm Văng Vàng, vâng lệnh Hình Chí Mô hạ bút ký công hàm bán nước năm 1958, tạo ra cái gương xấu cho những kẻ kế vị sau này. Tội của Phạm Văng Vàng đã lớn song chưa lớn bằng tội của tên chủ tịch nước Hình Chí Mô. Tôi sẽ trở lại chuyện bán nước với nhiều tài liệu mật trong phiên xử Hình Chí Mô. Hôm nay trước khi chấm dứt phiên xử Phạm Văng Vàng, tôi xin chín vị bồi thẫm lấy thời giờ thảo luận với nhau một cách kỹ lưỡng và tìm ra một hình phạt tương xứng với tội mãi quốc cầu vinh của hắn.

Quay nhìn xuống đám đông ông ta trầm giọng tiếp.

- Sáng mai tôi kính mời quí vị chứng kiến phiên xử thứ năm, bị can Võ Khôi Nguyên.

Thiên hạ lần lượt ra về. Có người bàn tán và cố phỏng đoán hình phạt mà bồi thẫm đoàn sẽ dành cho Phạm Văng Vàng. Trong lúc mọi người ra về, chín vị bồi thẫm theo cửa riêng lục tục đi vào phòng hội. Đợi cho mọi người ngồi vào ghế của mình xong Đán mới lên tiếng hỏi.

- Ai bắt trúng tên của Phạm Văng Vàng?

Liếc nhanh Bình, Huyền giơ tay lên cười nói.

- Dạ tôi.

Thấy Đán mở miệng định hỏi Huyền nhanh nhẩu nói trước.

- Tôi bắt thăm trúng tên của ổng mà tôi chưa tìm ra hình phạt gì dành cho tội bán nước của ổng. Mấy anh mấy chị giúp dùm tôi…

Nhè nhẹ gật đầu Đán nói như phân trần với mọi người.

- Tôi nghĩ là chúng ta nên phá luật một chút để nói ra cho mọi người biết là mình đã bắt trúng tên ai. Sau đó chúng ta sẽ thảo luận với nhau để tìm ra hình phạt dành cho các bị can. Tòa đã xử bốn người rồi mà chúng ta chỉ mới có một hình phạt cho tên Trần Nước Hòn. Như vậy có thể mọi người sẽ nghĩ chúng ta chỉ lo ăn chơi mà không chịu làm việc.

Trung mỉm cười nhìn Đán rồi mới lên tiếng.

- Tôi bắt trúng tên của Sáu Búa.

- Anh nghĩ ra hình phạt cho hắn chưa?

Đán hỏi và Trung lắc đầu. Bằng cho mọi người biết mình bắt trúng tên Tố Bồi Bút, còn Linh bắt được tên Trườn Chui. Quá nói mình có tên Võ Khôi Nguyên trong khi Vui bắt trúng tên Ba Duân.

- Anh Bình hên quá bắt tên Hình Chí Mô nhằm phiên xử cuối cùng.

Huyền lên tiếng. Đán gật đầu cười hỏi Bằng.

- Anh đã nghĩ ra hình phạt cho Tố Bồi Bút chưa?

Bằng gật đầu trả lời.

- Tôi đã nghĩ ra rồi.

- Như vậy chị Huyền và chị Linh là hai người cần được giúp đỡ. Bây giờ người nào cũng mệt rồi vậy tôi đề nghị chúng ta nên về phòng nghỉ ngơi rồi sẽ bàn chuyện trong khi ăn cơm tối.

giavui
07-11-2014, 08:56 PM
-15-
Nhất tướng công thành vạn cốt khô

Phiên xử hôm nay còn đông hơn ngày hôm qua. Theo như công bố của tòa thì hôm nay bồi thẫm đoàn sẽ tuyên án Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng. Điều này khiến cho nhiều kẻ hiếu kỳ rủ rê nhau tới xem đông hơn gấp bội. Thiên hạ ngồi, đứng chật căn phòng xử thật rộng. Nhiều người đến trễ hết chỗ ngồi họ phải đứng hành lang hay ngoài sân. Năm phút trước khi phiên xử bắt đầu, chín vị bồi thẫm lần lượt ngồi vào ghế của mình. Họ có vẻ thư thái và vui vẻ hơn, nhất là Huyền. Đêm hôm qua trong lúc ăn tối với nhau, cô ta năn nỉ Bình giúp ý kiến về hình phạt dành cho Phạm Văng Vàng. Không biết Bình đã nói gì mà hôm nay mặt mũi của cô nàng không còn lo lắng và ủ dột nữa.

Đúng 9 giờ sáng Diêm Vương xuất hiện. Đợi cho ông vua âm phủ an vị xong xuôi, Đán, chủ tịch của bồi thẫm đoàn mới bước tới thì thầm vào tai Diêm Vương xong trao mảnh giấy gấp làm đôi. Diêm Vương mở ra liếc nhanh rồi trả lại cho Đán. Cầm lấy cái búa gõ ba tiếng thật lớn để gây chú ý của mọi người, vị vua của âm phủ lớn giọng.

- Hôm nay, trước khi phiên xử của bị can Võ Khôi Nguyên bắt đầu, ta mời quí vị lắng tai nghe bồi thẫm đoàn tuyên bố về hình phạt dành cho các bị can Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng.

Hướng về hàng ghế của bồi thẫm đoàn ông ta cười tiếp.

- Trước hết ta kính mời bồi thẫm Bằng đứng lên tuyên bố về hình phạt dành cho Tố Bồi Bút.

Cả căn phòng rộng lớn chứa hơn mấy ngàn người đều chú mục vào vị bồi thẫm tên Bằng. Họ cố đoán xem ông ta có hình phạt gì cho bị can mang cái tội bút nô.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa toàn thể quí vị. Quí vị cũng như tôi đều biết tội ác của tên Tố Bồi Bút lớn vô cùng. Tuy nhiên tuân theo đạo làm người tôi đề nghị với toà cho hắn trở lại dương gian.

- Nữa. Ông này chắc là đồng chí với tên Tố rồi.

- Cho hắn trở lại dương thế làm gì ông ơi. Nó là đồ sâu dân mọt nước mà.

- Cha này chắc làm ở Bộ Ăn Quá của tụi cộng sản nên chả binh vực tụi nó.

Nghe những lời nói của khán giả song Bằng không có cử chỉ gì khác lạ. Mỉm cười anh tiếp tục nói.

- Lưu hắn lại âm phủ để cho Diêm Vương quản lý hắn thì cũng được nhưng mắc công họ phải cho người nuôi ăn và giam giữ hắn. Như vậy lại thêm tốn hao công quỹ của âm phủ. Chả bằng ta trả hắn về lại nơi đất nước của hắn để làm những việc hữu ích cho đồng bào của hắn đang sống trong lầm than và đói khổ.

- Ông cho hắn làm dân Việt hả. Hổng được đâu. Hắn lại theo cộng sản nữa.

Nhẹ lắc đầu Bằng tiếp tục thốt.

- Hắn là thứ sâu dân mọt nước do đó tôi sẽ cho hắn làm con mọt sách. Để chuộc lại tội ác hùa theo băng đảng cộng sản, là con mọt sách hắn phải ăn, phải cạp, phải gặm, phải nhai nuốt hết các sách báo, hình ảnh tuyên truyền về cộng sản. Hắn phải ăn sách vở của Tàu, của Nga, của Việt Nam, Cuba, Triều Tiên hay bất cứ nước nào có tàng trữ sách báo nói về cộng sản.

- Cái này tui coi bộ được à Anh Năm. Cho hắn gặm đã luôn.

Thiên hạ gục gặt đầu như công nhận về hình phạt của bồi thẫm Bằng dành cho Tố Bồi Bút. Diêm Vương cũng tỏ ra ưng thuận đồng thời ra lịnh cho lục sự ghi vào hồ sơ của Tố Bồi Bút. Tiếp theo là bồi thẫm Linh đứng lên tuyên bố hình phạt của Trườn Chui.

- Kính thưa Diêm Vương và toàn thể quí vị. Đối với bố mẹ của mình, Trườn Chui là đứa con bất hiếu. Đối với đồng bào vô tội của mình hắn là kẻ đại ác. Đối với tổ quốc của mình hắn là tên phản quốc. Hắn như đứa mù, câm điếc. Người như hắn không xứng đáng nhìn thấy mặt người khác và ánh sáng mặt trời. Đáng lẽ hắn phải bị giam trong ngục tối của âm phủ đời đời kiếp kiếp. Tuy nhiên lòng người lúc nào cũng độ lượng và thứ tha, vì vậy tôi cho hắn được trở về dương thế làm con bọ hung, sống chui rúc trong đống phân trâu bò.

Thiên hạ đều gật gù khen cho bồi thẫm Linh có một hình phạt tương xứng với tội ác mà tên Trườn Chui đã làm. Kế đó mọi người đều chăm chú vào bồi thẫm Huyền để chờ nghe cô ta tuyên bố hình phạt dành cho Phạm Văng Vàng.

- Kính thưa Diêm Vương và toàn thể mọi người dưới cõi âm cũng như trên trần thế. Mãi quốc cầu vinh là tội lớn nhất của một người đối với nước non của họ. Vốn là kẻ có học, khôn ngoan và hiểu biết, nhưng chỉ vì mê quyền lực và lợi danh Phạm Văng Vàng đã hạ bút ký giấy bán nước, khiến cho các kẻ kế nhiệm của hắn theo gương xấu đó mà tiếp tục bán nước. Bán rừng, bán biển, bán núi, bán sông, bán quặng mỏ và bán cả dân nghèo vô tội. Hành vi của kẻ có chức có quyền như hắn thật làm xấu hổ tổ tiên và làm nhục cả dân tộc ta nữa. Hôm nay tôi sẽ cho hắn trở thành con sâu đo, muôn đời muôn kiếp làm con sâu đo. Nó sẽ đo đi đo lại ranh giới của hai nước từ vùng Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn xuống tới Vịnh Bắc Việt, đảo Hoàng Sa và Trường Sa để xem bao nhiêu tấc đất, tấc biển mà hắn và cái băng đảng của hắn đã bán cho Tàu.

- Cái này tui chịu. Cho hắn đo mệt nghỉ.

Bồi thẫm Huyền hơi mỉm cười khi nghe có người khen hình phạt mà cô ta đã dành cho Phạm Văng Vàng. Ngay cả Diêm Vương và Thôi Phán Quan cũng tỏ ra hài lòng về hình phạt mà bồi thẫm đoàn đã tuyên bố cho ba bị can. Đợi cho mọi người im lặng Diêm Vương mới gõ búa ba tiếng long trọng tuên bố khai mạc phiên xử Vỏ Khôi Nguyên bắt đầu. Vị đại diện cho công tố viện của âm phủ thong thả bước ra. Giọng nói trầm và nghiêm nghị của ông ta vang vang khắp nơi.

- Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa chín vị bồi thẫm. Kính thưa toàn thể 80 triệu người dân Việt Nam đang sống dưới chế độ cộng sản độc tài vô nhân thất đức. Sở dĩ Hình Chí Mô và băng đảng của hắn thống trị nước Việt là do công cán của các đảng viên cuồng tín, tàn ác và vô lương tâm, trong số đó có một người mà hôm nay, vì muốn đòi hỏi cho công lý của những kẻ đã chết oan ức từ khi có cộng sản và nhất là trong 20 năm nội chiến tương tàn giữa hai miền Nam bắc từ 1955 cho tới 1975, tôi phải đưa hắn ra trước vành móng ngựa. Với chức vụ bộ trưởng đặc trách công an, bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh quân đội miền Bắc, Võ Khôi Nguyên, đã đẩy hàng triệu thanh niên và thiếu nữ yêu nước vào cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu nhất dân tộc nhằm mục đích thực hiện tham vọng bá chủ toàn cầu của cộng sản quốc tế. Tuân lệnh các cố vấn Nga Tàu, với chiêu bài Sinh Bắc Tử Nam, hắn đã xô đẩy hàng triệu thanh thiếu niên nam nữ đi B, đi mở đường mòn dưới cơn mưa đạn bom của B52. Dù trực tiếp hay gián tiếp, hắn cùng các đồng chí của hắn đã chôn sống mấy ngàn đồng bào vô tội ở Huế trong Tết Mậu Thân. Hắn nướng mấy chục ngàn binh sĩ trong Tổng Công Kích Đợt 2, Mùa Hè Đỏ Lửa. Tội của hắn đối với dân tộc Việt nói sao cho hết. Hôm nay, Thôi Phán Quan tôi, thừa mệnh của đất trời, đại diện cho các oan hồn đang vất vơ vất vưởng, đứng ra vạch trần tội giết người tập thể của hắn và băng đảng cộng sản Việt Nam để cho mọi người biết. Sau đây tôi mời bị can Võ Khôi Nguyên lên trình diện trước tòa.

Thiên hạ xôn xao khi thấy họ Võ từ hàng ghế dành cho các nhân chứng thong thả đi lên. Đó là một quân nhân, dáng lùn tịt, tóc bạc, trên cầu vai có gắn 4 ngôi sao bạc. Hắn đi tới đâu thiên hạ xì xầm tới đó.

- Võ Khôi Nguyên hả anh Ba?

Một người lên tiếng hỏi và giọng ồm ồm vang lên.

- Ừ… Võ đại tướng đó. Cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh của Quân Đội nhăn răng Việt Nam Cộng Sản.

- Có phải hắn được đàn em nâng bi gọi là người hùng Điện Biên hả anh Ba?

- Chính hắn. Thiên hạ đua nhau ca tụng hắn là người hùng Điện Biên chứ họ đâu biết vì tuân lệnh các cố vấn Tàu mà hắn đã nướng hơn trăm ngàn mạng bộ đội và dân công vào trận Điện Biên Phủ. Phải gọi hắn là tên đồ tể Điện Biên thì đúng hơn. Cũng như cái đám truyền hình và báo chí phản chiến Mỹ đã bốc thơm bốc thúi gọi hắn là kẻ làm rung rinh đế quốc Mỹ. Rung ở đâu tao hổng thấy mà tao chỉ thấy đám cán bộ của Trung Ương Cục Miền Nam chạy vắt vò lên cổ qua Miên vì bị B52 trải thảm… Hắn làm bộ trưởng quốc phòng giỏi quá nên sau này đảng của hắn mới cho hắn làm cái chức Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số Và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch kiêm Trưởng Xưởng Đẻ Từ Dũ bởi vậy dân miền Nam của mình mới có mấy câu thơ này:

- Người ta đại tướng cầm quân
Thân ông đại tướng cầm quần chị em…

hay:

- Người ta đại tướng cầm quân
Còn ông đại tướng rặn dùm chị em…

Nghe mấy câu thơ trên Thôi Phán Quan mỉm cười thích thú như trong đầu vừa nãy ra ý nghĩ gì mới mẻ và hay ho. Giọng của vị lục sự đọc về tiểu sử của Võ Khôi Nguyên vang đều đều trong căn phòng rộng.

- Họ Võ, bí danh Văn và Dương Hoài Nam, sinh năm 1910 tại Quảng Bình. 1924 ra học ở Huế, gia nhập Tân Việt Cách Mạng Đảng. 1930 bị kết án hai năm tù. 1931 được tạm tha, chỉ định cư trú tại quê. Lúc này Louis Marty là Giám đốc Nha Chính Trị Đông Dương, tức mật vụ thời đó nhận Võ làm con nuôi cũng như đỡ đầu cho Đặng Thái Mai và Đào Duy Anh.

Có tiếng người xì xầm to nhỏ.

- Cái gì lạ vậy ta. Hắn theo cộng sản mà lại là con nuôi của chánh mật thám tây. Người ta đồn hắn là chỉ điểm cho mật thám tây đúng không anh Chín?

- Hổng có lửa làm sao có khói mậy. Bởi vậy sau này đám thằng Ba Duân, thằng Sáu Búa lục lọi ở đâu đó tờ đơn xin vào học trường Chasseloup Laubart của Võ đại tướng với lời lẽ thúi hoắc toàn nâng bi và bợ hòn thực dân.

Tiếng vị lục sự đều đều đọc tiếp về tiểu sử của Võ Khôi Nguyên.

- Năm 1932 tên chánh mật thám Marty mang họ Võ ra Hà Nội học và giới thiệu cho dạy tại trung học tư thục Thăng Long, do Tôn Thất Bình, con rể Phạm Quỳnh làm chủ. Khôi Nguyên gia nhập Đông Dương Cộng Sản Đảng trong thời kỳ này. (Đông Dương Cộng Sản Đảng do Hồ Chí Minh tuân chỉ thị Đệ Tam Quốc Tế thành lập tại Hương Cảng, ngày 3-2-1930, sát nhập ba đảng cộng sản Trung Nam Bắc, đặt dưới quyền bảo trợ của đảng Cộng Sản Pháp, mỗi tháng lĩnh 5000 phật lăng).

Họ Võ người thấp lùn, dạy Sử Địa, có thể coi là một giáo sư nổ bậy, nói năng ú ớ và tính tình cộc cằn. Nhờ học trường tây hắn đậu được bằng cử nhân luật nhưng không có chứng chỉ pháp chế nên không được vô ngạch quan lại. Sau này báo chí ngoại quốc cho hắn có bằng tiến sĩ. 1936¬1939, thời kỳ Mặt Trận Bình Dân tả khuynh cầm quyền tại Pháp, Đông Dương Cộng Sản Đảng hoạt động công khai, Võ Khôi Nguyên là một trong những lãnh tụ của Mặt Trận Dân Chủ Đông Dương (cộng sản), viết báo Le Travail với Trần Huy Liệu, Trường Chinh. Lấy Nguyễn Thị Quang Thái, em Nguyễn Thị Vịnh (tức Nguyễn Thị Minh Khai). Cả hai chị em cùng là cộng sản, chết về tay thực dân Pháp. 1940 hắn xích mích với Tôn Thất Bình, thôi dạy học, qua Trung Hoa với Phạm Văn Đồng, gặp Hồ Chí Minh lần đầu. Năm 1941 trở về nước bí mật hoạt động ở vùng Cao Bằng. Năm 1944 Hồ Chí Minh giao cho Võ Khôi Nguyên chỉ huy đoàn vũ trang tuyên truyền của Việt Minh. 29-8-1945 giữ chức Bộ trưởng nội vụ của nhà nước cộng sản. Về Hà Nội và nắm quyền trong tay, Võ Khôi Nguyên thủ tiêu Tôn Thất Bình để rửa hận mối xích mích và bà mẹ nuôi góa Louis Marty để ếm chuyện liên hệ với thực dân Pháp. Bà Louis Marty, một người hết sức có cảm tình với người Việt và nhận Việt Nam làm quê hương, nhất định không về Pháp sau khi chồng mất, đến lúc chết bà này vẫn tin tưởng vào công lao chăm nom dìu dắt của mình và lòng biết ơn của tên khuyển tử!

2- 3-1946, Võ Khôi Nguyên làm chủ tịch ủy ban liên hiệp kháng chiến. 3-11-1946, bộ trưởng quốc phòng. Tháng 7-1947, tổng tư lịnh quân đội Việt Minh. Tháng 1¬1948 được phong đại tướng. 1955, ủy viên bộ chính trị, phó thủ tướng kiêm bộ trưởng quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội. Tháng 9-1960, bí thư quân ủy trung ương. Đầu năm 1980, họ Võ mất chức bộ trưởng quốc phòng và bí thư quân ủy trung ương vào tay Văn Tiến Dũng. Tháng 3¬1982, hắn bị loại khỏi bộ chính trị, chỉ còn giữ hư vị phó thủ tướng đặc trách khoa học và kỹ thuật.

Đợi cho vị cựu bộ trưởng quốc phòng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ kiêm tổng tư lệnh quân đội ngồi xuống ghế bị can, Thôi Phán Quan mới thong thả tới đứng trước mặt.

- Ngài là cựu đại tướng kiêm cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm cựu tổng tư lệnh. Vậy ngài muốn tôi xưng hô với ngài như thế nào. Đại tướng hay bộ trưởng quốc phòng hoặc tổng tư lệnh?

Võ Khôi Nguyên trả lời liền.

- Thưa ngài biện lý. Ngài muốn gọi đại tướng cũng được, bộ trưởng quốc phòng cũng hổng sao mà tổng tư lệnh thì tôi cũng không phàn nàn.

Cười cười Thôi Phán Quan gật đầu hỏi tiếp.

- Theo như chỗ tôi biết thì đại tướng không theo học bất cứ một trường quân sự nào cũng như các khóa huấn luyện quân sự nào.

Vị đại tướng cười nhẹ điềm đạm trả lời.

- Thưa ngài biện lý đúng như vậy. Tuy nhiên trong lịch sử nước tôi có rất nhiều vị tướng lừng danh không hề thụ huấn bất cứ trường quân sự nào như vua Quang Trung chẳng hạn. Là một danh tướng bách chiến bách thắng song không hề tới trường để học về cách đánh giặc. Tôi nghĩ nếu là thiên tài hoặc nhân tài quân sự thì không cần phải học mới biết ” cầm quần…” ủa. tôi già cả lẫn lộn nên xin chữa lại là cầm quân.

Thôi Phán Quan gật gù cười.

- À. Hai tiếng cầm quần của ngài làm tôi nhớ tới mấy câu thơ sau đây: - Người ta đại tướng cầm quân
Thân ông đại tướng cầm quần chị em…

Phải chăng hai câu thơ này thiên hạ nói về ông?

Võ đại tướng hơi đổi sắc mặt khi nghe hai câu thơ trên song vài giây sau lấy lại vẻ thản nhiên.

- Người ta nói sao cũng được… Phần tôi lịch sử sẽ phán xét…

Thôi Phán Quan gật đầu cười.

- Ngài nói chí lý. Có một điều tôi hơi thắc mắc là không học ở bất cứ trường quân sự nào, không chỉ huy một đơn vị chiến đấu nào.

- Có chứ. Năm 1944 tôi được bác giao chỉ huy Đội Vũ Trang Tuyên Truyền.

Họ Võ ngắt lời. Thôi Phán Quan cười tiếp.

- Đội này có bao nhiêu người. Chắc đông lắm?

- Thưa ngài được 34 mạng, vũ trang tầm vông vạt nhọn và vài khẩu súng bắn chim cu của tụi Lê Dương mà anh em trong đội tuyên truyền chôm được.

- Trong vòng 4 năm từ năm 1944 tới năm 1948, chỉ huy đội vũ trang tuyên truyền này ông có đánh trận nào chưa?

Võ Khôi Nguyên lắc đầu quầy quậy.

- Đánh gì với đám lính đó. Hù dân họ còn chưa sợ huống gì lính Pháp. Nó bắn chạy tóe khói.

Nhếch nụ cười vị biện lý buông câu nói.

- Không học trường quân sự nào, không theo khóa huấn luyện nào, chỉ huy toán lính tầm vông vạt nhọn, không đánh một trận nào mà năm 1948, tức lúc 38 tuổi, ông được bác của ông phong chức đại tướng.

Có tiếng xì xầm nho nhỏ từ hàng ghế bị can mà người nghe đều biết là giọng nói của Hình Chí Mô.

- Thằng cha biện lý của âm phủ nó dốt tiếng Việt. Nó hổng có biết đại tướng là tướng đại hay là tướng mà ta phong đại cho cái chức. Thằng Văn mà đánh đấm cái gì.

Không biết có nghe câu nói của lão Hình Chí Mô không mà Thôi Phán Quan bình tịnh tiếp tục cuộc hỏi cung.

- Bác Hình của ông dựa vào tiêu chuẩn nào hoặc yếu tố nào để phong cho ông chức đại tướng?

Liếc nhanh xuống dãy bàn bị can, Võ Khôi Nguyên cười nhẹ.

- Tôi có hỏi bác về chuyện này thì bác nói: ” Người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng…”. Ngài thấy bác của tôi khôn ngoan và biết dùng người không. Cách phong chức của ổng cũng ngon lành lắm. Không những tôi mà cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong thiếu tướng.

- Theo những tài liệu mà âm phủ sưu tầm được thì từ năm 1944 cho tới 1948, bộ đội Việt Minh của ông chỉ tham dự có một trận đánh.

Thôi Phán Quan bỏ lững câu nói của mình ở đó. Dường như ông ta muốn để cho bị can tự nói.

- Ngài biện lý nói đúng. Đó là chiến dịch Việt Bắc hay còn gọi là chiến dịch Sông Lô. Đúng ra thì tụi Pháp nó đánh trước nhằm bắt toàn bộ các đồng chí cấp cao của đảng. Lãnh lệnh của bác, tôi chỉ huy lính án binh bên bờ Lô Giang chờ cho tàu chiến của thực dân Pháp cắm mũi vào để đổ lính lên là tôi ra lịnh nổ súng. Hàng chục khẩu bazoka nã vào khiến cho tàu bốc cháy. Chiến thắng sông Lô này các anh em tự vệ thành Hà Nội chiến đấu rất anh dũng, đã giết hơn 3000 lính Pháp. Ngoài ra các mặt trận khác như ở đèo Bông Lau, Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông, các anh em vệ quốc đoàn đã đẩy lui cuộc tấn công của thực dân và buộc chúng phải rút lui. Binh sĩ dưới quyền chỉ huy của tôi đã lấy được nhiều súng ống và đạn dược của địch quân bỏ lại trên đường rút lui.

Thiên hạ im lặng nghe vị đại tướng của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tường thuật vắn tắt về tài chỉ huy của mình. Riêng Thôi Phán Quan cười cười nói đùa một câu.

- Ủa tôi tưởng là ông với bác của ông đang nằm dưới hầm trong chiến khu Việt Bắc để tránh máy bay của Pháp mà. Có người kể với tôi là ngài đại tướng có cái tật bị nhức tim khi nghe tiếng máy bay oanh tạc hoặc tiếng đạn đại bác réo qua đầu.

Nói dứt câu Thôi Phán Quan mỉm cười khi thấy nét mặt của vị đại tướng bỗng trở nên cau có và giận dữ. Có lẽ ông ta biết vị đại diện của công tố viện của âm phủ nói xỏ mình. Từ lâu ông ta bị nhiều người chê bai và cười cợt vì cái tính chết nhát hay lạnh cẳng. Họ kháo với nhau rằng ông ta ít khi nào dám theo sát binh sĩ dưới quyền ra mặt trận vì sợ bị lạc đạn hay đạn đại bác rơi lầm.

- Xin mời đại tướng cho nghe tiếp về những chiến dịch quan trọng mà ngài đã chỉ huy để đánh nhau với thực dân Pháp.

Thôi Phán Quan lên tiếng. Được gãi đúng vào chỗ mình đang ngứa, Võ Khôi Nguyên cất giọng. Ông ta nói một hơi dài lưu loát như một học sinh thuộc bài.

- Chiến Dịch Biên Giới Thu Đông năm 1950 là một chiến dịch cực kỳ quan trọng nhằm mục đích phá vỡ cái thế biệt lập của chiến khu Việt Bắc để mở một hành lang vận chuyển vũ khí và tiếp liệu từ các nước anh em trong khối cộng sản quốc tế như Liên Bang Sô Viết, Đông Âu và nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ngoài ra nó cũng được tôi coi như là một giai đoạn thực tập và thử nghiệm để cho các tướng tá trong quân đội học hỏi đồng thời rút tỉa kinh nghiệm về những trận đánh lớn mà từ nào tới giờ chúng tôi ít có dịp thực nghiệm. Đây là lần đầu tiên tôi áp dụng một hình thái chiến tranh mới hay chiến thuật mới gọi là vận động chiến, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều đơn vị cấp lớn cở trung đoàn, đại đoàn với sự tham dự của đơn vị pháo binh cơ động hay vũ khí nặng.

- Như vậy đại tướng nhìn nhận từ nào tới giờ quân đội do đại tướng chỉ huy chưa có đánh trận nào lớn hơn cấp trung đoàn.

Bình với Đán nhận thấy Dương Hoài Nam tỏ ra suy nghĩ và lưỡng lự trước khi trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Thưa ngài biện lý. Tôi nhìn nhận là quân đội do tôi chỉ huy chưa đánh trận nào lớn hơn cấp trung đoàn trước khi chiến dịch biên giới được mở ra.

Thôi Phán Quan ngắt lời liền.

- Thế thì tại sao bác của đại tướng lại vin vào câu nói ” Người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng…”. Trước khi chiến dịch biên giới được mở ra thì đại tướng đâu có đánh thắng ông đại tướng nào của địch đâu.

Vị ” thiên tài quân sự ” của đảng cộng sản Việt Nam cười cười điềm đạm thốt.

- Thưa ngài biện lý. Cái đó là bác nổ bậy. Bác hứng sảng bác nổ cho vui vậy mà. Ngài cũng biết là bác cũng như chúng tôi ở trong rừng lâu quá, hổng có dịp tiếp xúc với người nữ để giải tỏa tâm sự riêng nên nhiều khi cái hứng nó lên bất ngờ hổng có kiềm giữ được do đó phải nổ. Không nổ chỗ này thì phải nổ chỗ nọ. Hổng nổ ở dưới thì phải nổ ở trên. Hổng nổ là mất lập trường, chưa đả thông tư tưởng.

Thôi Phán Quan mỉm cười khi nghe Võ đại tướng giải thích.

- Tôi mời ngài đại tướng thuyết trình sơ qua cho tòa nghe về chiến dịch biên giới do ngài chỉ huy.

- Theo như sở kiến của tôi, vào thời điểm mà chiến dịch biên giới được khai diễn, thì quân đội thực dân Pháp xem Bắc Việt như là một chiến trường chính. Chúng đã đề ra chiến lược và chiến thuật như mở rộng vùng kiểm soát vùng đồng bằng, cũng cố các cứ điểm vùng biên giới Việt Hoa, kiện toàn quân đội quốc gia bản xứ để xử dụng nó như là một đối đầu với Quân Đội Nhân Dân do tôi chỉ huy. Để giành lại thế chủ động trên chiến trường, địch thành lập các binh đoàn lưu động, di chuyển nhanh và nhảy vào trận địa một cách thình lình. Ngoài ra chúng cũng cố gắng thiết lập các cứ điểm quan trọng để bảo vệ và kiểm soát đường số 4 hầu cô lập chiến khu Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ. Biết được ý đồ của thực dân Pháp, tôi và thiếu tướng Hoàng Văn Thái tổng tham mưu trưởng, phó tổng tham mưu trưởng Đào Văn Trường, dưới sự chỉ đạo và cố vấn của bác đã điều nghiên và phác họa một chiến lược và chiến thuật để bẽ gãy thế công của địch.

- Ủa bác của ông cũng biết cầm quân nữa à?

Thôi Phán Quan hỏi và Vỏ Khôi Nguyên đáp không do dự.

- Biết chứ. Cầm quân bác cũng biết mà cầm quần phụ nữ bác còn giỏi hơn nữa. Bác thường nói ” đánh giặc thì có khó khăn gì đâu. Đánh giặc giống như vật lộn với đàn bà con gái vậy mà.’‘ Mấy cái chiến thuật như ” công đồn đả viện “, ” tứ khoái nhất mạn “ là do bác nghĩ ra sau nhiều đêm vật lộn với các nữ đồng chí. Cái chuyện bác đánh vật còn dài lắm, vậy tôi xin phép ngài nói tiếp về chiến dịch biên giới do tôi chỉ huy. Ngày 16 tháng 9 năm 1950, trung đoàn 174 và trung đoàn 209 của quân Việt Minh do tướng Hoàng Văn Thái chỉ huy đánh chiếm cứ điểm Đông Khê với mục đích cô lập Cao Bằng, uy hiếp cứ điểm Thất Khê và phá thế trận phòng thủ của quân Pháp trên đường số 4, mở đầu cho chiến dịch biên giới thu đông 1950. Đông Khê do hai đại đội thuộc tiểu đoàn 2 trung đoàn 3 bộ binh lê dương trấn giữ. Đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ. Mặc dù được yểm trợ tối đa về hỏa lực của máy bay, căn cứ này cũng không chịu nổi sức tấn công kiên cường và tinh thần chiến đấu cao độ của bộ đội.

Tằng hắng tiếng nhỏ như ra hiệu cho Võ đại tướng ngừng nói, Thôi Phán Quan hỏi liền.

- Hai đại đội lính lê dương có bao nhiêu người. Vì không có cầm quân nên tôi không rõ.

- Thưa ngài biện lý. Hai đại đội lính lê dương có khoảng 200 người.

- Ạ. Ngài đại tướng đem hai trung đoàn để đánh hai đại đội. Như vậy ngài thắng là lẽ đương nhiên. Xin hỏi ngài dùng chiến thuật gì để đánh đồn Đông Khê?

Võ Khôi Nguyên mỉm cười thong thả đáp.

- Tôi dùng chiến thuật biển người. Đây là chiến thuật mới của quân đội nhân dân Trung Quốc mà tôi học lóm được. Với lại nước tôi cũng có câu nói tương tự là ” Mười thằng đánh một, hổng chột cũng què.’‘. Bởi vậy địch có hai trăm tôi đem hai ngàn, địch có hai đại đội tôi đem hai trung đoàn đánh cho chắc ăn. Bây giờ tôi xin nói tiếp về chiến dịch biên giới.

Bộ tham mưu quân đội Pháp mở cuộc hành quân với hai đơn vị chủ lực tạo thành thế gọng kềm với hai mục đích là tái chiếm Đông Khê, tái lập lưu thông quốc lộ 4 và dụ các đại đơn vị của chúng tôi vào một chiến địa do chúng dàn ra trước. Đơn vị thứ nhất từ Thất Khê tiến lên Đông Khê, còn đơn vị thứ nhì từ Cao Bằng kéo xuống Đông Khê. Chúng không ngờ là tôi đã bố trí các đại đơn vị để chờ đợi. Đại đoàn 308 chiếm cao điểm ở núi Ngọc Trà và núi Khâu Luông để khống chế Đông Khê và trục lộ số 4. Ngày 1 tháng 10 năm 1950, các đơn vị chủ lực của đại đoàn 308 đã liên tục phục kích và gây thiệt hại nặng cho cánh quân từ Thất Kê kéo lên. Ngày 4 tháng 10, tiểu đoàn dù Lê Dương số 1 và Tabor phải rút chạy khỏi Khâu Luông về cố thủ ở Cốc Xá, cách Đông Khê chừng 6 cây số về hướng tây Nam để đợi viện binh từ Cao Bằng. Cùng lúc đó tôi điều động trung đoàn 209 hay Trung Đoàn Sông Lô tới Quang Liệt, làm thành thế gọng kềm đánh ép vào hướng bắc của Đông Khê sau khi cánh quân của địch từ Cao Bằng kéo xuống và hội với cánh quân ở Cốc Xá.

Ngày 5 tháng 10, đại đoàn 308 vây Cốc Xá và cao điểm 477 của địch. Trung đoàn Sông Lô chặn phía bắc Đông Khê, còn trung đoàn 174 đóng chốt ở Cốc Phồn và Khâu Bia chặn cứng đường rút lui của địch. Sáng sớm ngày 6 tháng 10, trung đoàn 36 của đại đoàn 308 tấn công Cốc Xá. Khoảng xế chiều thì các cứ điểm của địch đã bị tràn ngập. Cả binh đoàn của địch gồm có 2500 người chỉ còn lại 600 cho nên phải tháo lui về cao điểm 477. Cùng lúc đó, 5 tiểu đoàn thuộc đại đoàn 308 đã tấn công và giao tranh ác liệt với địch tại cao điểm 477. Không chịu nổi sự tấn công dữ dội và liên tục của quân đội nhân dân Việt Nam, các đơn vị địch phải mở đường máu về Nà Cao. Tính đến ngày 8 tháng 10, chúng tôi đã đánh tan 8 tiểu đoàn địch cũng như thu nhặt được nhiều vũ khí và quân dụng đủ trang bị cho một đại đoàn.

Ngay khi vị đại tướng dứt lời Thôi Phán Quan cười thốt.

- Ngài đại tướng kể chuyện đánh giặc thật hay làm tôi tưởng mình đang ở trong lớp trường trung học Thăng Long nghe ngài giảng về sử ký mấy chục năm trước, đúng như câu nói ‘‘ Giap, il fait laguerre sur le tableau…”

Vị đại tướng thiên tài quân sự đỏ mặt tía tai khi nghe câu nói bằng tiếng tây của Thôi Phán Quan. Nhìn trừng trừng vào mặt vị biện lý ông ta sẳng giọng.

- Ai nói với ông như vậy? Tôi…

Bắt gặp nụ cười mỉa của Thôi Phán Quan, vị đại tướng vội ngưng nói.

- Chắc đại tướng còn nhớ viên thượng sĩ thuộc binh đoàn Lê Dương tên Ersnt Frey mà bác của đại tướng đã đặt tên cho ông ta là Nguyễn Dân và phong cho ông ta chức đại tá. Tôi nghĩ là đại tướng phải nhớ ông thầy quân sự của mình. Viên thượng sĩ này từng là thầy của nhiều sĩ quan trong quân đội của đảng cộng sản, từng là chỉ huy trưởng Quân Khu 9, Ủy Viên Dự Khuyết Bộ Chính Trị và phụ tá cho thiếu tướng Nguyễn Sơn, Tư Lệnh Liên Khu 5. Đại tướng chắc không xa lạ gì với tướng Nguyễn Sơn?

Vị thiên tài quân sự của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam nín lặng không trả lời. Thôi Phán Quan cười tiếp.

- Đại tá Nguyễn Dân là người đã phát biểu câu: ” Giap, il fait la guerre sur le tableau…” mà tướng Nguyễn Sơn dịch ra tiếng Việt ” Đồng chí Văn, hắn chỉ biết đánh giặc trên bàn giấy.”. Tôi nghĩ đại tướng đã nghe câu nói này nhiều lần. Nếu đại tướng quên thì tôi sẽ nhờ họ lên đây làm nhân chứng.

Có tật thì giật mình. Võ đại tướng nín thinh trước lời hăm dọa của Thôi Phán Quan. Không bỏ lỡ dịp may vị biện lý bồi thêm.

- Nhiều người viết sách báo ca tụng ông là một tướng giỏi, chuyên áp dụng nghệ thuật lấy ít đánh nhiều, lấy yếu chế mạnh. Trái lại đối với đại tá Nguyễn Dân và tướng Nguyễn Sơn, một người từng là thầy và một người từng quen biết nhiều với ông, họ có nhận định về tài chỉ huy của đại tướng. Họ nói ông không chỉ điều binh dở mà còn có cái tội ” nướng quân ” hay thí quân một cách tàn nhẫn.

Liếc thấy đồng hồ trên tường chỉ quá 5 giờ chiều, Thôi Phán Quan cười nói với bồi thẫm đoàn.

- Biết chín vị đã đã mệt nhọc và nhức đầu vì nghe chuyện đánh giặc của vị đại tướng thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam nên tôi xin tạm ngưng phiên xử ở đây. Sáng mai tôi kính mời bồi thẫm đoàn và mọi ngưới nghe tiếp vị đại tướng kể về chiến dịch Trung Du để thấy rõ tài đánh giặc của ông ta.

giavui
07-11-2014, 08:56 PM
-16-
Nhà thơ làm kinh tế
Thống chế đi đặt vòng

- Ông Thôi Phán Quan sẽ lôi ai ra làm nhân chứng hôm nay hả anh Bảy?

Một người ngồi nơi cuối phòng xử lên tiếng hỏi. Một giọng nói khàn khàn và già nua vang lên trong phòng xử ồn ào.

- Làm sao tao biết được. Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam có nợ máu với nhân dân và các phe phái của người quốc gia nhiều lắm. Hồi còn làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An, Võ đại tướng giết hàng loạt các đảng viên của Quốc Dân Đảng. Chỉ nội vụ Ôn Như Hầu không cũng đủ làm hắn rủ xương trong tù rồi.

Người nói vội ngưng bặt khi thấy ông vua âm phủ từ sau cửa riêng bước ra. Thiên hạ không hẹn đứng lên chào đón. Giơ tay ra hiệu cho mọi người ngồi xuống xong Diêm Vương hắng giọng.

- Ta trân trọng mời Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử tên Võ Khôi Nguyên.

Tằng hắng tiếng nhỏ, vị đại diện cho công tố viện của âm phủ thong thả bước tới đứng trước mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can.

- Chào đại tướng. Chắc sáng nay sức khỏe của ngày phải khá hơn hôm qua.

- Cảm ơn ngài biện lý. Hôm nay tôi xin tường thuật cho tòa nghe về thêm vài trận đánh do tôi chỉ huy.

Thôi Phán Quan cười nhẹ.

- Xin mời đại tướng. Tôi rất hân hạnh được nghe ngài đại tướng đánh giặc trên bàn giấy.

Vị thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam dựng mặt vì câu nói mỉa của Thôi Phán Quan. Định lên tiếng sừng sộ song liếc về phía Diêm Vương, thấy ông ta đang chiếu tướng mình, Võ đại tướng cười gượng gật đầu. Mọi người im lặng lắng nghe Võ đại tướng bắt đầu mở chiến dịch bằng miệng.

- Chiến dịch Trần Hưng Đạo hay chiến dịch Trung Du là một trong những cuộc tiến công lớn của quân đội nhân dân Việt Nam vào phòng tuyến trung du bắc bộ của quân Pháp. Đây là một trong 3 chiến dịch lớn trong đông-xuân 1950-1951. Lợi dụng tình trạng xuống tinh thần sau khi thất bại trong chiến dịch biên giới của thực dân Pháp, tôi ra lệnh mở cuộc tiến công vào vùng trung du, tạo áp lực bắt buộc địch quân phải điều động một phần lực lượng tại đồng bằng bắc bộ lên tiếp cứu, tạo điều kiện cho các đơn vị bộ đội địa phương, đặc biệt là lực lượng các trung đoàn 48, 42… phối hợp với dân quân tại địa phương phát động chiến tranh du kích tại khu vực này mà từ lâu bị hạn chế do các cuộc càn quét liên tiếp của Pháp. Trong đợt 1 của chiến dịch, quân cách mạng tạo được nhiều thắng lợi lớn tại cả hai mũi tiến công ở Vĩnh Phúc và Hải Ninh. Do đó, bộ chỉ huy chiến dịch do tôi làm tư lệnh quyết định giải phóng Vĩnh Yên, một thị xã quan trọng chỉ cách Hà Nội có 55 km. Lực lượng tham gia chiến dịch gồm có các đơn vị chủ lực là đại đoàn 308 với 3 trung đoàn 102, 88 và 36; đại đoàn 312 gồm 2 trung đoàn 209 và 141; hai trung đoàn biệt lập là trung đoàn 98 và trung đoàn 174. Ngoài ra còn có 4 tiểu đoàn bộ đội địa phương và 4 đại đội pháo binh 75 ly. Tổng cộng quân số của chiến dịch gần 30 ngàn binh sĩ, đó là chưa kể đám dân công hơn trăm ngàn người. Sau đây tôi xin được phép kể một cách chi tiết hơn.

Ngừng lại đưa tay nhấc lấy ly nước lạnh uống một ngụm cho thông cổ xong vị đại tướng già nua hắng giọng.

- Nhờ vào các tin tức cung cấp bởi các tổ tình báo nhân dân, tôi và bộ tham mưu chiến dịch biết rất rõ về lực lượng của địch ở ba tỉnh Vĩnh Phúc, Bắc Ninh và Bắc Giang. Chúng có khoảng 15 ngàn binh sĩ, gồm 9 ngàn lính Lê Dương, 5 ngàn lính người Việt và một ít lính của chánh phủ Bảo Đại. Điều đáng quan tâm là chúng có nhiều binh đoàn cơ động Bắc Giang, Bắc Ninh, Đông Triều. Riêng binh đoàn cơ động số 3 đóng tại Việt Trì và Vĩnh Yên. Chiến dịch Trung Du được chia làm hai giai đoạn. Giai đoạn 1 xảy ra vào ngày 25 tháng 12 năm 1950 khi binh đoàn cơ động số 3 cùng với tiểu đoàn Mường mở cuộc hành quân Bécassine vào vùng Lập Thạch và Tam Dương thuộc Vĩnh Yên, Phú Thọ đúng vào nơi đại đoàn 312 đang đóng giữ. Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo và tôi ra lệnh tấn công. Cùng ngày, tiểu đoàn 10 dù thuộc địa và tiểu đoàn Mường chia làm hai cánh tiến vào Liễn Sơn, Xuân Trạch thuộc huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Được báo cáo tôi lập tức cho trung đoàn 141 chặn đánh, buộc địch phải lui về cố thủ ở Liễn Sơn chờ cứu viện.

Ngày 26, tiểu đoàn Senegal lên ứng cứu cũng bị chặn đánh, phải lui về Xuân Trạch. Ngày 27, đại đoàn 312 tiến công mạnh vào Xuân Trạch-Xuân Hoà thuộc huyện Lập Thạch, xoá sổ tiểu đoàn 24 của địch, bắt sống tiểu đoàn trưởng Piscard với 300 quân, đồng thời đánh tan tiểu đoàn 10 Dù thuộc địa. Từ ngày 26 đến ngày 29, dưới sự điều động của tôi quân đội cách mạng lần lượt đánh chiếm các vị trí chiến thuật như Hữu Bằng, Thằn Lằn, Tứ Tạo, Đồi Cà Phê. Tuy nhiên trung đoàn 209 tấn công Chợ Vàng không thành công vì gặp phải sức kháng cự mạnh mẽ của địch.

Nhân lúc Võ đại tướng ngừng lại để uống nước cho thông cổ sau khi tường thuật một cách chi tiết và mạch lạc các trận đánh trong giai đoạn đầu của chiến dịch Trung Du, Thôi Phán Quan cười hỏi.

- Trong lúc các chiến sĩ đang đánh nhau với địch thì ngài đại tướng ở đâu và làm gì?

Nhờ ngồi gần nên Bình thấy nét mặt của Võ đại tướng ưng ửng đỏ và thái độ của ông ta có chút ngượng ngùng và do dự khi trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Tôi thì lúc đó. lúc đó tôi cũng có mặt ở chiến trận đểchỉ huy anh em. Tôi cũng theo anh em…

- Ngài đại tướng theo anh em mà theo gần hay xa. Nếu gần thì gần bao nhiêu, còn xa thì xa bao nhiêu. Giả dụ như một cây số hay năm ba cây số.

Suy nghĩ giây lát vị đại tướng, thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam tặc lưỡi trả lời chầm chậm.

- Bây giờ già cả, tuổi gần đất xa trời nên tôi không nhớ rõ lắm song đoán chừng non cây số. Là kẻ chỉ huy mình phải ở xa xa cho chắc ăn vì nếu mình ăn đạn chết thì lấy ai chỉ huy anh em binh sĩ. Tôi phải ở ngoài tầm bắn của cà nông địch chứ. Tôi mà ngủm thì lấy ai săn sóc cho cô vợ trẻ đẹp, hấp dẫn và lãng mạn của tôi.

Diêm Vương chợt lên tiếng xen vào câu chuyện giữa bị can và Thôi Phán Quan.

- Vậy à. Ngươi có mấy vợ?

- Bẩm Diêm Vương. Con có hai vợ. Người vợ thứ nhất bị tụi thực dân Pháp bắt bỏ tù rồi qua đời trong tù. Sau đó con mới cưới vợ khác.

Diêm Vương gật gù.

- Như vậy thì được. Ta nghe đồn là mấy thằng bây đứa nào cũng vợ chính vợ bé, vợ lẽ vợ mọn, đào nhí bồ trẻ. Như tên hình thằng hồ gì đó, nó có bồ Tây, vợ Việt vợ Tàu, Nga đủ thứ. Đi làm cách mạng như nó sướng thật.

- Bẩm Diêm Vương ngài nói đúng. Đi làm cách mạng sướng lắm nhưng phải làm ông lớn thì mới sướng.

Quay qua Thôi Phán Quan, ngài đại tướng cười cười.

- Thiên hạ đồn đại là tôi nhát khi chỉ huy binh sĩ đánh nhau thì tôi ở xa xa và ở dưới hầm núp. Số là trước khi tôi ra trận thì vợ có dặn bảo phải cẩn thận, đừng có làm anh hùng mà chết bỏ vợ bỏ con. Bả còn dặn dò thêm cà nông, đại bác và mọt chê của Pháp bắn xa lắm do đó tôi phải ở xa và núp dưới hầm kiên cố, chớ có dại dột mà ra mặt trận, rủi bị thương cưa giò cưa cẳng thì uổng đời trai trẻ. Nàng còn hăm he là anh phải giữ gìn, mất cẳng nào chứ đừng có làm mất cái cẳng giữa của em.

Thiên hạ bật cười khi nghe ” thiên tài quân sự của đảng cộng sản Việt Nam “ thố lộ tâm tình. Diêm Vương nở nụ cười ý nhị. Liếc nhanh Thôi Phán Quan cũng đang mỉm cười, ông ta hắng giọng.

- Hóa ra ngươi là người chồng tốt, biết nghe lời vợ dạy. Ít có người nào được như ngươi.

- Bẩm Diêm Vương thông cởm… Con có vợ trẻ mà vợ của con lại hay thích nắm đầu chồng mà con thì có tính chiều vợ nên vợ bảo sao con làm vậy. Dân của con có nói câu ” Nhất vợ nhì trời” thưa Diêm Vương.

Vị vua âm phủ gật gù. Võ đại tướng cao giọng.

- Sau khi giai đoạn 1 của chiến dịch Trung Du vừa chấm dứt, không để cho địch có dịp bổ sung quân số và điều động thêm quân tiếp viện, tôi lập tức mở ra giai đoạn 2 bằng cách cho ba trung đoàn 36, 88 và 102 của đại đoàn 308 phối hợp với hai trung đoàn 141 và 209 của đại đoàn 312 và hai tiểu đoàn du kích của tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc cộng thêm ba liên đội sơn pháo 75 ly cùng lúc tiến công vào thị xã Vĩnh Yên. Hướng phụ từ Đông Bắc sẽ chuyển về Bắc Giang với 2 trung đoàn 174 và 98 cùng với 3 tiểu đoàn địa phương Bắc Ninh, Bắc Giang, Quảng Yên và 1 liên đội sơn pháo 75 ly. Hướng phối hợp là mặt trận Sơn Tây do đại đoàn 320 và tiểu đoàn địa phương Sơn Tây – Hà Đông phụ trách. Đại đoàn 304 và lực lượng địa phương chịu trách nhiệm mặt trận Ninh Bình. Mặt tả ngạn giao cho trung đoàn 42 và lực lượng địa phương. Đêm 12 tháng 1, trên hướng thứ yếu ở phía bắc, trung đoàn 98 và 174 nổ súng trước. Trung đoàn 174 tiêu diệt đồn Đồng Kế. Trung đoàn 98 đánh Cẩm Lý không thành công. Đêm 13, trung đoàn 141 tấn công Bảo Chúc, vị trí cách Vĩnh Yên 11 km về phía Tây Bắc. Trận đánh kết thúc vào trưa ngày 14. Sáng ngày 14, Pháp cho quân lên cứu Bảo Chúc. Tiểu đoàn Mường tới Thuỷ An thì bị trung đoàn 209 chặn đánh, lui về Cẩm Trạch. Các tiểu đoàn khác cũng bị chặn đánh khiến cho Paul Vanuxen phải lui về Vĩnh Yên cố thủ. Ở hướng phối hợp thì đại đoàn 320 tiêu diệt 9 vị trí nhỏ của địch nằm trên đường số 11 Sơn Tây – Trung Hà; tiêu diệt 1 đại đội Âu Phi, thu 1 khẩu pháo. Đại đoàn 304 tiêu diệt 6 vị trí nhỏ ở Ninh Bình. Bộ đội địa phương 5 tỉnh trung du phối hợp tác chiến từ ngày 20 tháng 12 năm 1950 đến ngày 11 tháng 1 năm 1951 thu được một số kết quả. Riêng bộ đội địa phương ở Vĩnh Tường tiêu diệt 1 đồn, 9 tháp canh, rồi tràn ngập Chợ Vàng mà trong đợt 1, trung đoàn 209 đánh hai lần không thành công. Tại Hà Nội, tướng Salan lập tức điều binh đoàn cơ động số 1 tiến lên Phúc Yên để thọc vào bên hông của quân cách mạng. Một tiểu đoàn dù khác nhảy xuống Đồng Đau cách Vĩnh Yên 5 km. Bay từ Sài Gòn ra Hà Nội, De Lattre chỉ thị cho Salan và Redon tới Vĩnh Yên, cùng lúc tung binh đoàn cơ động số 2 từ Lục Nam vào Vĩnh Yên đồng thời ra lệnh cho tham mưu trưởng Allard lấy 5 tiểu đoàn ở miền Nam đưa ra bắc tăng viện cho mặt trận Vĩnh Yên. Sau đó, De Lattre chỉ thị cho đại tá chỉ huy không quân Maricourt sử dụng bom napalm do tàu chiến của Hoa Kỳ vừa cập cảng Hải Phòng và huy động toàn bộ máy bay dội bom vào các đơn vị của quân cách mạng tại Vĩnh Yên. Lo sợ Vĩnh Yên chỉ là nghi binh để mở cuộc tiến công từ Tam Đảo về Hà Nội, De Lattre ra lệnh tập trung một lực lượng bộ binh quan trọng và xe tăng án ngữ tại mạn Bắc thành phố về phía cầu sông Đuống. Sáng ngày 15, binh đoàn cơ động số 1 tiến lên giải vây Vĩnh Yên. Đụng phải trung đoàn 102 ở Ngoại Trạch (Bình Xuyên), Khai Quang, Mậu Thông (Tam Dương), binh đoán số 1 phải triệt thoái về Hương Canh sau những trận giao tranh đẫm máu. Áp dụng chiến thuật biển người, thí quân, tôi chỉ thị cho quân cách mạng tấn công bất chấp thiệt hại để tiêu diệt 2 đại đội của tiểu đoàn 3 trung đoàn 1 bộ binh Algérie. Binh đoàn số 1 bị lâm vào tình thế chống đỡ. Tướng De Lattre sử dụng máy bay ném bom xăng đặc vào những vị trí của quân cách mạng. Đụng phải thứ bom lửa kỳ cục quân cách mạng bị đốt cháy và tử thương rất nhiều. Tên tướng De Lattre quả là tay liều mạng và chơi bạo. Hắn cho máy bay ném bom lửa vào ngay trận địa bất kể bạn hay thù. Lúc đó tôi ở cách trận địa cây số mà còn bị lửa đốt nóng mặt huống hồ gì anh em binh sĩ ở ngay mặt trận. Nhiều người bị dính xăng nóng quá nhảy xuống nước để lập tắt lửa rồi khi nhảy trở lên bờ xăng lại bốc cháy trở lại. Nhận được báo cáo tôi tức tốc tới thị sát mặt trận rồi sau đó ra lịnh rút lui.

- Đánh trận này ngươi thắng hay bại?

Diêm Vương hỏi gọn. Ngập ngừng giây lát vị đại tướng, cựu bộ trưởng quốc phòng kiêm tổng tư lệnh của quân đội nhân dân Việt Nam trả lời.

- Bẩm Diêm Vương. Con hổng dám nói dối ngài. Con bị thằng De Lattre dạy cho bài học quân sự nhớ hoài hổng có quên. Không những chiến dịch Trung Du mà hai chiến dịch sau là Hoàng Hoa Thám và Quang Trung con đều bị nó đánh xiểng niễng.

Hơi mỉm cười Thôi Phán Quan chuyển cuộc thẩm cung của mình sang đề tài khác.

- Sau khi Nhật lật đổ Pháp ở Việt Nam ngày 9 tháng 3 năm 1945, lợi dụng thời cơ đảng cộng sản liền cướp lấy chính quyền và thiết lập nội các. Hình như ông được bác của ông giao cho giữ chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An. Đúng không?

Võ đại tướng nín thinh. Im lặng có nghĩa là nhìn nhận. Dĩ nhiên ông ta biết Thôi Phán Quan đã nắm trong tay những tài liệu mật liên quan tới đời hoạt động cách mệnh của mình, thành ra có mở miệng chối cũng chỉ làm trò cười cho thiên hạ. Cách tốt nhất là không nói. Giọng nói của vị đại diện công tố vang vang ai cũng nghe rõ.

- Theo những tài liệu mà âm phủ thu lượm được thì khi lên làm bộ trưởng, ông đã tuyển dụng nhân viên gồm toàn kẻ lưu manh, những tên ăn cướp, những thằng giết người để khủng bố dân lành hay tàn sát những thành phần quốc gia chống cộng sản. Với chủ trương ” bắt lầm hơn tha lầm, thà giết lầm 10 người còn hơn tha lầm 1 người” đám công an sát nhân của ông đã tổ chức nhiều cuộc ” thanh lọc” để tàn sát tất cả những ai tỏ dấu chống cộng sản hay nghi ngờ họ có liên hệ với Pháp. Vì thế, chỉ cần một vài mẫu vải, các loại chỉ may có màu sắc xanh đỏ khác nhau đám công an sát nhân của ông có thể kết tội người ta là ” Việt gian phản động” . Mà Việt gian phản động có nghĩa là tử hình. Nói chung thời gian ông làm trùm công an quả là thời kỳ đen tối và kinh hoàng cho toàn thể dân chúng VN, đâu đâu cũng xảy ra các vụ bắt cóc, thủ tiêu và ám sát mà thủ phạm đều là nhân viên công an của ông. Một số đông các nhân vật tên tuổi như Cung Đình Vận, Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Tạ Thu Thâu đều bị sát hại trong thời gian ông làm Bộ Trưởng Đặc Trách Công An. Xin ông vui lòng kể cho tòa nghe với chức vụ Bộ Trưởng Đặc Trách Lực Lượng Công An ông đã làm gì mà sau này nhiều người ta cho rằng ông độc ác lắm.

Ngừng lại giây lát Thôi Phán Quan buông câu hỏi.

- Hình như có lúc ông làm Bộ Trưởng Quốc Phòng kiêm nhiệm Bộ Trưởng Nội Vụ thay thế cho ông Huỳnh Thúc Kháng vắng mặt ở Hà Nội. Đúng không?

Hỏi để mà hỏi vì chính Thôi Phán Quan đã có câu trả lời.

- Hẳn ông còn nhớ vụ án Ôn Như Hầu? Ông dính líu như thế nào trong vụ giết người đó? Ông là chính phạm hay tòng phạm?

Thôi Phán Quan gằn giọng. Võ Khôi Nguyên gật gật đầu thay cho lời nói. Tuy nhiên vị biện lý không bằng lòng về cái gật đầu của bị can. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên, ông ta gằn giọng.

- Tôi muốn ông khai sự thực trước tòa về vụ Ôn Như Hầu cho 9 vị bồi thẫm nghe.

Im lặng giây lát Võ Khôi Nguyên quay qua nói với Diêm Vương.

- Bẩm Diêm Vương. Con có phải khai sự thực không. Ở một nước dân chủ và tự do như nước con thì con hổng bị bắt buộc phải nói nếu con không muốn nói. Như ở xứ tư bản Mỹ dân chủ và tự do thì con lấy điều số 5.

Diêm Vương xì tiếng dài.

- Lũ chúng ngươi mở miệng hô hào dân chủ tự do mà lại bắt bớ tù đày dân lành. Dân chủ gì mà bịt miệng không cho người ta nói trước tòa. Có thứ dân chủ tự do nào mà công an lại đạp vào mặt dân.

Liếc nhanh xuống chỗ Hình Chí Mô đang ngồi, Võ Khôi Nguyên mỉm cười nói đùa.

- Bẩm Diêm Vương. Đó là tự do dân chủ của những kẻ có chức, có quyền và có tiền.

Đôi mắt của ông vua âm phủ rực lửa giận khi nghe Võ Khôi Nguyên nói câu trên. Thái độ xem thường luật pháp của hắn khiến cho ông ta giận cũng phải.

- Ngươi không chịu nói thời ta sẽ ra lệnh chích thuốc cho ngươi nói.

Hai tiếng ” chích thuốc ” thoát ra từ Diêm Vương khiến cho Võ Khôi Nguyên xanh mét mặt mày. Trong đời cách mạng hắn từng ” chích thuốc ” để thủ tiêu đối lập. Hắn cũng biết các đồng chí cũng dùng cách chích thuốc để giết hại lẫn nhau trong mưu đồ tranh chiếm quyền lực. Ba Duân và Sáu Búa hay Sáu Lừa đã cho thủ hạ bỏ thuốc độc vào trong chai nước ngọt để Dương Bạch Mai uống vừa xong là sùi bọt mép rồi lăn đùng ra chết. Nhiều tướng tá trong quân đội như Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Lê Trọng Tấn bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chích thuốc chết một cách bí mật. Cả ba ông tướng này đang mạnh cùi cụi bỗng nhiên lăn đùng ra chết một cách ngon lành chỉ vì bị nghi là ” theo chủ nghĩa xét lại “.

- Khi vụ tiêu diệt trụ sở của Quốc Dân Đảng ở phố Ôn Như Hầu thì tôi bị bệnh nên không biết. Tới chừng tôi biết thì chuyện đã xảy ra rồi.

Thôi Phán Quan cười khẩy.

- Để tôi mời một nhân chứng lên đây kể cho tòa nghe về vụ Ôn Như Hầu. Lúc đó chúng ta sẽ biết rõ ai chủ mưu giết người.

Quay về dãy bàn dành cho nhân chứng ngồi, Thôi Phán Quan cao giọng thốt.

- Tôi kính mời ông Trần Tấn Nghĩa.

Thiên hạ không có phản ứng nào khi nghe tên Trần Tấn Nghĩa. Có lẽ họ không biết nhân chứng là ai, dính líu như thế nào trong vụ Ôn Như Hầu.

Đợi cho nhân chứng hoàn tất thủ tục của tòa xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt nhân chứng cùng với câu hỏi bật ra.

- Xin ông vui lòng cho biết ông giữ chức vụ gì của nhà nước cộng sản trước khi ông về hưu?

- Thưa ngài biện lý. Tôi là đại tá, chuyên viên của Vụ Pháp Chế thuộc Bộ công an trước khi tôi về hưu.

Khẽ gật đầu vị biện lý của âm phủ hỏi tiếp.

- Khi vụ Ôn Như Hầu xảy ra thì ông giữ chức vụ gì?

Liếc nhanh Võ Khôi Nguyên đang ngồi, Trần Tấn Nghĩa trả lời chậm và rõ ràng.

- Lúc đó tôi là Đội Trưởng của Đội Trinh Sát Đặc Biệt thuộc Sở Công An Bắc Bộ.

- Ai là thượng cấp của ông lúc đó?

- Thưa lúc đó thì Sở Công An Bắc Bộ nằm dưới quyền chỉ huy của Bộ trưởng đặc trách Lực Lượng Công An, kiêm bộ trưởng quốc phòng kiêm bộ trưởng nội vụ là đại tướng Võ Khôi Nguyên.

giavui
07-11-2014, 08:57 PM
- Xin ông vui lòng kể chi tiết về chuyện ông tham gia vào vụ bắt bớ các đảng viên Quốc Dân Đảng cho tòa nghe.

Liếc nhanh vị đại tướng đang ngồi nơi ghế bị can, Trần Tấn Nghĩa cất giọng đều đều.

- Cuối tháng 6 năm 1946, lãnh đạo Nha Công an Trung ương nhận được thông tin nghiêm trọng: Các đảng phái phản động cấu kết với quân Pháp đang ráo riết thực hiện kế hoạch gây rối, lật đổ Chính phủ Hồ Chí Minh. Nguồn tin được phối kiểm và giao cho hai điệp viên H120 và C3 của ta cài trong hàng ngũ địch làm rõ.

Theo đó, nhân ngày Quốc khánh Pháp, tức ngày 14 tháng 7, phía thực dân Pháp tổ chức diễu binh trên một số đường phố Hà Nội. Quốc Dân Đảng sẽ bố trí người ném lựu đạn vào tốp lính da đen đang diễu binh. Nhân đó, phía Pháp đổ lỗi cho Việt Minh khiêu khích, không giữ được trật tự trị an và dùng quân đội đang diễu binh tấn công vào các vị trí trọng yếu của chính quyền cách mạng, vây bắt tất cả cán bộ cao cấp của Chính phủ; đồng thời thành lập một chính quyền tay sai…

Cùng thời gian này, điệp viên C3 báo tin: Tại trụ sở của Quốc dân đảng tại 132 phố Duvigneau (nay là Bùi Thị Xuân – Hà Nội), bọn phản động đang in truyền đơn. Đến ngày 11/7/1946, C3 báo tiếp một tin quan trọng: Từ ngày 12/7, Quốc dân Đảng sẽ phân tán lực lượng, rút vào bí mật, không còn trụ sở công khai; chuẩn bị tiến hành bạo động tại Hà Nội và một số thị xã, thành phố…

Trước tình hình đó, lãnh đạo Nha Công an Trung ương quyết định chọn trụ sở 132 Duvigneau là điểm tập kích đầu tiên. Rạng sáng 12/7, lực lượng Công an mưu trí đột nhập vào trụ sở này, khống chế tất cả các đối tượng có mặt, thu được nhiều tang vật gồm vũ khí, truyền đơn phản động kêu gọi lật đổ chính quyền cách mạng, máy in. Từ những chứng cứ này, lệnh tổng trấn áp các trụ sở của bọn phản động được ban hành.

Đội trinh sát đặc biệt do tôi làm Đội trưởng được giao nhiệm vụ vây bắt bọn phản động tại trụ sở số 7 Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều – Hà Nội).

Trần Tấn Nghĩa ngừng kể. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ ông ta hắng giọng tiếp.

- Khoảng 7 giờ sáng 12/7, tôi và nhân viên trinh sát dưới quyền đến trụ sở số 7 Ôn Như Hầu… Bọn lính gác chỉ cho mình tôi vào sau khi đã giữ lại vũ khí của tôi. Chúng đưa tôi đến sảnh đường và Phan Kích Nam đón tôi ở đây. Hắn to cao, đeo súng ngắn và mang kiếm dài lê thê theo kiểu nhà binh Nhật, mắt đeo kính trông rất hung dữ. Phan Kích Nam tự giới thiệu: ” Tôi, Phan Kích Nam, đại biểu Quốc hội, Trung ương Ủy viên Quốc dân Đảng, Tư lệnh đệ nhất chiến khu…”; rồi hỏi tôi: ” Vậy tôi được vinh dự đang nói chuyện với ai đây?” . Tôi ôn tồn xưng tên, đưa lệnh khám xét và nói rõ mục đích đến gặp Phan Kích Nam. Nhìn qua lệnh khám xét, Nam cười ngạo nghễ và nói giọng kẻ cả: ” Chú em ngây thơ ơi… Chú Đội trưởng trinh sát đặc biệt ơi… tại sao các người ký lệnh bắt, khám xét trụ sở của một đảng. Ta là đại biểu Quốc hội, là bất khả xâm phạm mà người ký lệnh bắt ta lại là Phó Chủ sự Việt Minh, là cái thá gì mà có sự lạ đời như vậy… Thôi chú em về đi “. Tôi bực lắm nhưng nhớ chỉ thị của cấp trên, nếu có gì vướng mắc phải thỉnh thị nên nhân cơ hội hắn nói vậy, tôi tỏ ra nghe lời và nói sẽ về báo cáo lại, có gì sẽ quay lại sau. Phan Kích Nam tỏ ra đắc chí: ” Có thế chứ, có thế mới đúng cách xử sự của người Nhà nước chứ” rồi hắn gọi vệ sĩ đưa trả súng cho tôi và tiễn tôi ra về.

Sau khi xin ý kiến lãnh đạo Nha Công an Trung ương, chúng tôi trở lại số 7 Ôn Như Hầu lần thứ hai nhưng vẫn chưa có thời cơ ra tay. Đến lần thứ ba, khoảng trưa ngày 12/7, sau khi được lãnh đạo Nha Công an Trung ương đồng ý phương án khống chế, bắt Phan Kích Nam, chúng tôi quyết tâm thực hiện bằng được… Khi thấy chúng tôi lại tới, bọn lính gác trụ sở tỏ ra chủ quan; một tên đưa tôi vào gặp Phan Kích Nam. Tôi chủ động tháo thắt lưng đeo súng đặt lên bàn. Phan Kích Nam rót nước mời tôi, thái độ hắn tỏ ra tự mãn… Hắn sung sướng ra mặt và nói ” Có thế chứ, phải nể mặt Phan Kích Nam này chứ “. Sau khoảng 10 phút, tôi đứng dậy cáo biệt ra về và vờ quên súng. Phan Kích Nam liền cầm khẩu súng của tôi và đi theo nhắc: ” Này chú em, quên súng à? “. Biết địch đã trúng kế rồi, tôi rút khẩu súng Colt giấu trong người, chĩa thẳng vào Nam và quát: ” Đứng im, động đậy tao bắn vỡ sọ “ và bằng động tác nhanh gọn ra đòn khiến Nam lảo đảo khụy xuống. Tôi bẻ quặt tay hắn ra đằng sau và ra lệnh cho bọn lính gác còn đang ngỡ ngàng chưa kịp hiểu điều gì xảy ra, ” Phải bỏ súng không được chống cự “... Việc bắt được Phan Kích Nam đã mở đầu cho cuộc tổng trấn áp các tổ chức phản động, đập tan âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng.

Ngừng kể nhìn Thôi Phán Quan giây lát, Trần Tấn Nghĩa nói nhỏ.

- Tôi chỉ biết vậy thôi. Lệnh cấp trên bảo sao tôi làm vậy.

Thôi Phán Quan gật đầu cười.

- Nghe chuyện ông kể tôi tưởng như tôi đang đọc tiểu thuyết gián điệp Z28 Tống Văn Bình hay xem phim Jame Bond 007. Dù sao tôi cũng cám ơn ông đã ra trước tòa khai những gì ông đã làm.

Đợi cho nhân chứng Trần Tấn Nghĩa rời chỗ ngồi xong Thôi Phán Quan mới cười nói với Võ Khôi Nguyên.

- Tôi cho đại tướng một phút đồng hồ suy nghĩ. Nếu đại tướng không chịu khai sự thật thì tôi sẽ yêu cầu tòa chích thuốc.

Võ Khôi Nguyên làm thinh rồi lát sau mới thở hắt hơi dài.

- Thôi để tôi kể. Chuyện xảy ra mấy chục năm rồi, tôi có kể chắc cũng không làm hại tới đảng đâu. Vụ Ôn Như Hầu đầu đuôi như sau.

Võ Khôi Nguyên ngừng lại nhìn xuống dãy bàn bị can ngồi. Ngước mắt lên trông thấy Thôi Phán Quan đang nhìn mình trừng trừng, hắn gượng cười bắt đầu cất giọng kể.

- Bác trước khi đi thăm hữu nghị nước Pháp đã giao quyền chủ tịch nước lại cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, lúc đó đang giữ chức vụ Bộ Trưởng Nội Vụ. Đêm hôm trước khi lên máy bay bác có dặn kín tôi như vầy. ” Chú cũng biết là đám đảng phái quốc gia còn nguy hiểm hơn ba thằng Tây nữa. Tụi quốc gia nó không ưa mình vì mình coi đảng trọng hơn đất nước. Vì vậy khi tôi đi rồi chú hãy tìm cách triệt đám Quốc Dân Đảng và những thằng nào không theo mình. Giầ… giết hết tụi nó bởi vì không giết tụi nó thì có ngày mình cũng chết với nó…” Ngài biện lý cũng biết phao tin đồn thất thiệt, vu cáo là nghề của tụi tôi mà. Tôi cho người loan truyền tin là đúng ngày 14 tháng 7, Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ đưa quân cảm tử đến hành thích các nhân viên chính phủ tham dự lể duyệt binh của Pháp. Dựa vào chứng cớ đó, tôi nhắm vào địa điểm số 9 đường Ôn Như Hầu để tấn công. Đây là Trụ sở Ban Tuyên huấn Đệ Thất Khu Đảng Bộ VNQDĐ từ Quảng Ngãi mới thuyên chuyển ra đóng lầu trên, còn lầu dưới dùng làm nơi huấn luyện cho các cán bộ từ các nơi đưa về.

Ngày 12-7-46, sở Quân Vụ Thành Phố Hà Nội ra lệnh giới nghiêm toàn thành, rồi lợi dụng giờ giới nghiêm vắng người qua lại, Sở Công An Bắc Bộ xuống các bệnh viện Bạch Mai và Phủ Doãn, chở một số xác chết vô thừa nhận đem vứt trong trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng đồng thời cho mai phục vũ khí quanh rồi bắt đầu mở cuộc đột kích vào trụ sở bắt tất cả những người có trách nhiệm tại đó và bí mật đưa đi giam. Trong số có Phan Kích Nam, một đảng viên Việt Quốc lỗi lạc, cùng với tài liệu quan trọng liên quan đến kế hoạch định lật đổ chính phủ của Hồ Chí Minh.

Sáng ngày 13-7 tôi cho công an khai quật các hầm chôn xác chết mà bọn chúng tôi vừa vứt vào tối hôm trước, rồi mời báo chí, quần chúng và một số người ngoại quốc tới xem, chụp hình quay phim; tuyên truyền và tố cáo trước dư luận, trụ sở của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là một ổ hắc điếm chuyên cướp của giết người, bắt cóc và thủ tiêu thường dân vô tội. Ai ai cũng tin vì có bằng chứng rõ ràng. Trước bằng cớ ngụy tạo đó, ông già lẩm cẩm và ngây thơ Huỳnh Thúc Kháng chỉ biết dậm chân than: ” Không ngờ bên Việt Quốc lại có những hành động tàn ác dã man như vậy.”

Chẳng cần đợi lệnh Bộ Nội Vụ, tôi ” cương quyết trị tội “ những kẻ làm việc phi pháp. Chiều ngày 13-7, tôi bí mật ra lệnh cho bộ đội và công an các địa phương được phép tấn công triệt hạ các chiến khu của Việt Nam Quốc Dân Đảng, trừ trụ sở trung ương ở Hà Nội. Chỉ trong vòng một tháng tôi đã tàn sát hết người của các đảng phái quốc gia và chiến sĩ yêu nước liên hệ. Cái này đúng là chỉ cần dùng kế mọn mà tôi diệt gọn đảng Việt Quốc và hàng trăm nhà cách mạng của phe quốc gia. Được tin này bác khen tôi nức nở vì sau vụ Ôn Như Hầu hổng còn ai đủ sức đủ lực chống đối với bác và đảng nữa.

Tiếng nói sau cùng của Võ Khôi Nguyên rơi vào bầu không khí im lặng trong căn phòng xử hơn mấy ngàn người ngồi. Lát sau Diêm Vương gõ búa ra hiệu tạm ngừng phiên xử để cho mọi người ăn trưa xong sẽ tiếp tục lúc 14 giờ.

Đợi cho bị can Võ Khôi Nguyên ngồi vào ghế xong xuôi Thôi Phán Quan cất giọng.

- Chiến tranh nào cũng tàn nhẫn ngay cả những cuộc chiến tranh tự vệ, chống xâm lăng hoặc giải phóng dân tộc khỏi sự cai trị của ngoại bang. Nói tới chiến tranh là nói tới sự đổ vỡ, tàn phá và hủy hoại. Tuy nhiên người chết mà đa số là dân lành vô tội mới chính là điều mà tôi muốn nêu ra ở đây.

Thôi Phán Quan ngừng nói. Nhìn thẳng vào mặt Võ Khôi Nguyên đang ngồi trên ghế bị can ông ta trầm giọng.

- Đại tướng là người chỉ huy cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân?

Lắc đầu quầy quậy vị cựu tổng tư lệnh nói một hơi dài như cố gắng bào chữa cho mình.

- Bẩm Diêm Vương. Oan cho con lắm. Con hổng có muốn mở cuộc tổng công kích đâu.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

- Oan gì mà oan. Bác của ngươi đọc bài thơ chúc tết làm ám hiệu ra lịnh cho cuộc tổng công kích bắt đầu đêm giao thừa. Ngươi cũng biết là Tết là ngày thiêng liêng của đất nước và dân tộc để cho người ta vui mừng và hội hè đình đám. Có đâu cái đám ác ôn côn đồ của tụi bay, nhằm vào giờ phút thiêng liêng mà nổ súng giết người vô tội.

Võ Khôi Nguyên nín thinh khi bị Diêm Vương xỉ vả. Đợi cho ông vua âm phủ dứt lời hắn mới nhỏ nhẹ lên tiếng.

- Bẩm Diêm Vương. Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa mới chính là tác giả của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân năm 1968. Để con trình bày đầu đuôi câu chuyện cho ngài và bồi thẫm đoàn nghe xong rồi ngài sẽ biết sự thực. Thằng Ba Duân là thằng dốt, học chưa xong tiểu học là bỏ học đi làm thằng bẻ ghi tàu hỏa rồi sau đó theo cách mạng đặng có cơm mà ăn. Đã dốt mà nó lại ham quyền lực và đàn bà con gái. Tất cả đảng viên ở ngoài bắc ai cũng biết nó thuộc thành phần hiếu chiến, có quyền có chức là nhờ vào chiến tranh. Bởi vậy nó mới chủ trương phải thôn tính miền Nam bằng vũ lực. Sau khi lên làm tổng bí thư đảng, nắm hết quyền hành trong tay, nó lớn tiếng chê bai bác và con là đám chết nhát không dám dùng bạo lực giải phóng miền Nam và thống thất đất nước. Ai ai cũng đều nghe biết nó nói một câu như thế này: ” Bác còn do dự, chứ khi rời miền Nam tui đã chuẩn bị hết cả rồi. Với tui chỉ có uýnh thôi, uýnh cho tới thắng lợi cuối cùng…”

Từ năm 1959, bộ chín chị của tụi con đã chia làm hai phe. Phe chủ hòa có bác, anh Tô và con cùng với một số đảng viên kỳ cựu, muốn dồn hết mọi nổ lực xây dựng miền Bắc giàu mạnh để đánh bại miền Nam bằng chính trị, kinh tế và ngoại giao. Trong khi phe chủ chiến thì có thằng Ba, Sáu Búa, Sáu Vi và Năm Thận. Bọn chúng muốn dùng vũ lực thôn tính miền Nam. Thằng Ba Duân khi từ nam ra bắc đã soạn sẵn một bản Đề Cương Giải Phóng Miền Nam. Bởi vậy nó mới là chính phạm trong vụ tổng công kích Mậu Thân. Bẩm Diêm Vương, tụi nó đã soạn kế hoạch sẵn sàng hết rồi.

Khẽ gật gù Thôi Phán Quan hắng giọng.

- Khi cuộc tổng công kích bắt đầu thì ông đang ở đâu?

- Thưa ngài tôi đang ở bên nước Hung Gia Lợi để chữa bệnh?

- Ngài đại tướng bị bệnh gì?

- Bệnh gì đâu. Tôi bị hai thằng Ba Duân và Sáu Búa chơi sát ván. Tụi nó phao tin đồn thất thiệt, rỉ tai với nhau đề quyết tôi làm mật thám cho tây, tôi hủ hóa, tôi lẹo tẹo với vợ của nhà văn Đào Vũ khi bà này dạy dương cầm tại nhà tôi.

- Mà chuyện ngươi lẹo tẹo có thật không?

Diêm Vương ngắt lời. Võ Khôi Nguyên ấp úng hồi lâu mới lên tiếng.

- Bẩm. Bẩm. Diêm Vương. Con với bà ta chỉ quan hệ tình cảm chút chút thôi.

Dường như không muốn nhắc tới chuyện đó nữa nên Võ đại tướng nói lảng.

- Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cô lập bác, triệt hạ anh em thân tín với bác. Nó chích thuốc giết hại các tướng tá thân cận với tôi, bỏ tù các anh em đồng chí của tôi. Nó tước mất binh quyền của tôi rồi sau đó đẩy tôi lên máy bay qua nước Hung cho tôi đi chữa bệnh. Trong lúc tôi vắng mặt thì nó ra lệnh tổng công kích Mậu Thân. Nó là thằng dốt lại ngu, tưởng lợi dụng ba ngày tết và yếu tố bất ngờ để làm nên chiến thắng vỉ đại. Nó đoán là khi bộ đội ta về thành thì dân chúng sẽ nổi dậy chống lại Mỹ Ngụy. Bộ đội vào thành rồi mới ngã ngửa ra là chẳng có ai theo mình hết. Bộ đội đi tới đâu dân chạy hết ráo. Bởi vậy mà cuộc tổng công kích đợt 1 không thành công lại hao mất mấy chục ngàn binh sĩ của miền Bắc và Mặt trận giải phóng miền Nam. Bị Mỹ Ngụy dũa tà mỏ nó mới chịu đem máy bay đón tôi về chỉ huy tổng công kích đợt 2.

- Chỉ huy tổng công kích đợt 2 mà ngươi thắng hay bại?

Diêm Vương xen vào câu chuyện. Võ Khôi Nguyên cười nhẹ.

- Bẩm Diêm Vương. dạ thua. Lợi dụng yếu tố bất ngờ lại lấy nhiều đánh ít trong đợt 1 mà bộ đội còn thua xiểng niễng thì đợt 2 này còn thua nặng hơn nữa. Biết địch đã chuẩn bị rồi nên con không muốn đánh mà thằng Ba Duân ép con phải đánh. Nó bảo thắng hay thua gì cũng đánh, chết bao nhiêu cũng đánh, nướng vài chục ngàn bộ đội nữa cũng đánh. Để con kể cho Diêm Vương, ngài biện lý và bồi thẫm đoàn nghe câu chuyện sau đây thì biết. Năm 1971, còn gọi là chiến dịch đỏ lửa tại thành cổ Quảng Trị. Khi đó, con vẫn lấy phương châm tiến công như mọi khi: ” Lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy yếu tố bất ngờ để tạo thế chủ động khiến địch trở tay không kịp “. Cứ dùng chiến tranh du kích tiêu diệt hàng ngày, hàng giờ, hết đêm này sang đêm khác để địch suy tổn lực lượng rồi đánh cấp tập một trận giải phóng dứt điểm thành cổ như mọi trận khác vẫn diễn ra từ trước đến nay…

Không ngờ quan điểm của con bị thằng Ba Duân bác bỏ không thương tiếc. Giữa hội nghị, nó đập tay xuống bàn, quát:

- ” Thế là giảm sút ý chí chiến đấu. Phải cho địch biết thế nào là quả đấm chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Vì vậy tôi yêu cầu: ” Cứ đánh vỗ mặt thành cổ Quảng Trị cho tôi. Sống chết, đúng sai tôi chịu trách nhiệm… “

Kết quả trong suốt 60 ngày đêm của chiến dịch thành cổ, cứ 5 giờ 30 phút chiều, khi trời bắt đầu nhập nhoạng tối, một đại đội của con có mặt ở bên này bờ sông Thạch Hãn, lặng lẽ bơi sang để đánh vỗ mặt thành, 8 giờ 30 phút bơi trở về chỉ còn được mươi, mười lăm người. Lần nhiều nhất là 35 đồng chí (cả lành lặn, cả bị thương). Lần ít chỉ còn 5, 7 đồng chí thương tích đầy người, thậm chí có lần cả một khúc sông, không một bóng người, chỉ có tiếng gió hú ghê rợn như những âm hồn vọng vang khắp đáy sông. Như vậy, trung bình mỗi ngày quân đội của con tiêu hao một đại đội chủ lực (khoảng 135 đồng chí), và 60 ngày đêm tấn công thành cổ cũng là 60 ngày đêm bộ đội mất gần một vạn người, biến thành cổ Quảng Trị thành nấm mồ chôn thanh niên, sinh viên trí thức Việt Nam.

Gian phòng xử im lặng như tờ sau khi Võ Khôi Nguyên dứt lời. Đưa tay cầm lấy ly nước lạnh uống ngụm nhỏ, vị cựu đại tướng của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cất giọng khàn đục.

- Ngay từ cuối năm 1979, khi biết Pol-Pot gây ra hoạ diệt chủng ở Cao Miên, trong một buổi họp tôi đã phát biểu là: ” Trong hai thằng Lào và Miên, chỉ có thằng Lào là anh em với mình thôi, còn thằng Miên sẽ phản lại Việt Nam mình đó, không nên đưa quân sang giúp nó, khi chưa có sự lên tiếng của quốc tế”.

Nhưng Ba Duân nhận định: Việt, Miên, Lào là 3 nước láng giềng, như 3 thế chân kiềng kê trên mảnh đất Đông Dương nên phải giúp nó, sau đó sẽ có kế hoạch thôn tính nó sau…

Kết quả, sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ, dân tộc đã mất cả triệu người con ưu tú; nay thanh niên trai tráng, rường cột quốc gia lại bị bắt lính vô tội vạ và bị đưa sang chiến đấu tại chiến trường Cao Miên. Bởi cùng học thầy Trung Quốc nên lối đánh của chúng rất khó chơi, cũng thiên về quấy rối du kích, đánh không theo bài bản nào, chỉ nghi binh, đánh cấp tập rồi rút lui, đồng thời rải mìn vô tội vạ, khiến cho bộ đội thương vong nhiều không kể xiết. Tôi nhớ lần tới thăm một trạm phẫu thuật của trung đoàn. Trung bình một ngày anh em bác sĩ phải cưa 40 chân chiến sĩ do bị mìn cài, mìn đặt… Trong điều kiện thuốc men thiếu thốn, thuốc giảm đau cũng như gây mê đều hạn chế, anh em kêu khóc như ri. Chỉ sau một tuần là số chân bị cưa xếp cao như núi, hơn hẳn đầu người một tầm tay với. Mùi thịt cháy, mùi máu tanh, mùi thối rữa toả ra khắp vùng, đi cách xa trạm cả 7, 8 km rồi mà mùi hôi thối vẫn xông lên nồng nặc…”. Diêm Vương thấy chưa, thằng Ba Duân là thằng lớn lên và có quyền hành nhờ chiến tranh do đó nó phải nuôi dưỡng chiến tranh. Nó với Sáu Búa chủ trương đánh Miên chứ lúc đó con đâu có chút quyền hành nào để chỉ huy ai nữa.

Ngay khi vị cựu đại tướng vừa dứt lời Thôi Phán Quan cười hỏi.

- Tôi có một câu hỏi, tuy nhiên câu hỏi này chỉ là một thắc mắc nhỏ thôi. Gần đây tôi có đọc được một câu là: ” Nhà thơ làm kinh tế còn thống chế đi đặt vòng…”. Dường như hai câu này có chút gì liên hệ tới đại tướng.

Từ khi phiên xử bắt đầu cho tới lúc này, Bình nhận thấy Thôi Phán Quan có chút chút biệt nhãn đối với vị cựu đại tướng họ Võ này. Ông ta chất vấn bị can bằng lời lẽ mềm mỏng và lịch sự hơn so với các bị can như Trần Nước Hòn, Tố Bồi Bút, Trườn Chui và Phạm Văng Vàng.

Nhìn xuống chỗ bàn dành cho bị can nơi có Hình Chí Mô, Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi, vị đại tướng già nua cất giọng khàn khàn.

- Cái này là dân chúng mỉa mai tôi và Tố Bồi Bút. Số là trong đại hội đảng lần thứ 5, hai thằng Ba Duân và Sáu Búa cho thằng Tố làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

Đang ngồi lim dim Diêm Vương chợt ngắt lời.

- Thằng Tố Bồi Bút biết cái gì mà làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Nó làm thơ thúi hoắc mà đặc trách về kinh tế thì dân chắc chết đói hết trơn.

Võ Khôi Nguyên mỉm cười gật đầu.

- Bẩm Diêm Vương. Ngài phán đúng bong. Năm 1985, Tố Bồi Bút ban bố lệnh đổi tiền. Cái lệnh quái gở và ngu xuẩn này làm lạm phát tăng 700% cũng như giá cả hàng hóa trong nước tăng vọt một cách khủng khiếp. Nước con là một nước nông nghiệp chuyên sản xuất lúa gạo thế mà dưới sự cai trị độc tài và ngu dốt của hai thằng Ba Duân và Sáu Búa, dân đói phải ăn bo bo. Cũng vì nạn bè phái mà thằng Tố mới được làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế. Còn con thì hai thằng họ Lê cho đi làm chủ tịch ủy ban cai đẻ. Bởi vậy mới có câu: ” Nhà thơ làm kinh tế, thống chế đi đặt vòng.”

Diêm Vương lắc đầu than nhỏ.

- Hai thằng Ba Duân và Sáu Búa đúng là đầu óc tối tăm. Thằng Tố Bồi Bút mà cho đi làm phó thủ tướng đặc trách kinh tế.

Đợi cho Diêm Vương dứt lời xong Thôi Phán Quan bước tới ngay chỗ Đán, chủ tịch bồi thẫm đoàn đang ngồi. Mọi người đều biết ông ta sắp sửa nói lên lời buộc tội của mình.

- Kính thưa Diêm Vương. Thưa 9 vị bồi thẫm… Sau khi nghe những lời khai của bị can cũng như những tài liệu mà tôi đã dẫn ra trong phiên xử của Võ Khôi Nguyên, chín vị đều biết là tên Võ Khôi Nguyên có tội. Tuy nhiên tội của hắn nặng hay nhẹ thì tùy theo ý kiến của quí vị. Tôi xin chấm dứt phiên xử của Võ Khôi Nguyên ở đây. Ngày mai tôi sẽ bắt đầu phiên xử của hai bị can mà tôi gọi là cặp bài trùng họ Lê. Hai tên này có ” nợ máu với nhân dân Việt Nam ‘‘ vì đã tù đày mấy trăm ngàn quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa vào trại cải tạo cũng như đẩy hai trăm năm chục ngàn người lính vô tội vào cuộc chiến tranh xâm lược nơi xứ Cao Miên mà kết quả hơn năm mươi ngàn người phải hy sinh một cách vô ích.

giavui
07-11-2014, 08:57 PM
-17-
Hai con dê họ Lê

Thôi Phán Quan đã làm cho bồi thẫm đoàn và tất cả người dự khán kinh ngạc khi gọi cùng một lúc hai người lên ngồi vào ghế bị can. Ai ai cũng chăm chú nhìn hai người tuổi khoảng từ bốn tới năm mươi. Người đi sau là một tráng niên tóc muối tiêu, vóc dáng cao lớn và khuôn mặt dài như ngựa, khiến cho ai gặp hắn một lần cũng không thể quên được.

- Thằng cha mặt dài xọc là ai vậy anh Bảy?

Câu hỏi vang lên từ cuối phòng. Giọng nói già nua trả lời chậm và rõ ràng.

- Lê Đứt Thụi… Dân kháng chiến Nam bộ hồi 45 đặt cho hắn cái tên Sáu Lừa vì mặt của hắn dài như mặt ngựa. Ngoài ra nó còn chỉ tới cái tính hay lừa gạt mấy cô gái miền Nam theo kháng chiến. Năm 1948 hắn từ ngoài bắc vào nam làm Phó bí thư cho Ba Duân. Lúc đó hắn đã ngoài bốn mươi mà gặp đàn bà con gái hắn nói chửa vợ… Thằng Sáu Lừa còn có tên là Sáu Búa, ý chỉ cái tính độc ác, gian xảo và quỷ quyệt của hắn…

Bình với Đán xầm xì bàn tán trong lúc gọng đọc của vị lục sự vang vọng khắp phòng xử.

- Bị can thứ nhứt là Lê Văn Nhuận hay Lê Văn Duân, bí danh Anh Ba nên còn được gọi là Ba Duân. Hắn sinh ra ở Quảng Trị. Nhà nghèo nên chỉ học tới lớp năm là nghỉ học để đi làm thợ hỏa xa. Năm 21 tuổi, bị can gia nhập Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội là tiền thân của đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, đảng cộng sản Việt Nam chính thức thành lập ở HongKong và Ba Duân được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau vụ nổi dậy Sô Viết Nghệ Tỉnh, hắn bị thực dân Pháp bắt giam ở Hỏa Lò rồi đày lên nhà tù Sơn La. Sau khi ra khỏi tù, Duân lại hoạt động ở miền trung và năm 1937 được cử làm Ủy Viên Xứ Ủy Trung Kỳ. Năm 1939 lại được đề cử vào ban chấp hành trung ương đảng rồi được phái vào Sài Gòn hoạt động dưới quyền của tổng bí thư đảng cộng sản là Nguyễn Văn Cừ. Ngày 17 tháng 1 năm 1940, mật thám Tây bắt được Ba Duân với Nguyễn Văn Cừ, Võ Đình Hiệu và Vũ Thiên Tân đang hội họp. Duân bị kêu án 10 năm và bị đày đi Côn Đảo. Sau chiến tranh thứ hai, Duân được phóng thích rồi năm 1946 được cho nắm chức vụ Bí thư xứ bộ nam Kỳ. Năm 1956 được Hình Chí Mô gọi ra bắc và được đề cử chức vụ bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cho tới khi chết.

Bị can thứ hai là Phan Đình Khải tự Lê Đứt Thụi, bí danh Sáu Búa, sinh năm 1911 tại tỉnh Nam Định. Hoạt động cho cộng sản với chức vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ, Phó bí thư trung ương cục miền Nam rồi Trưởng Ban tổ chức trung ương đảng cộng sản Việt Nam và nhiều chức vụ khác cho tới khi chết.

Đợi cho hai bị can ngồi vào ghế xong xuôi, Diêm Vương mới phán một câu.

- Tướng thằng Ba Duân này mà làm tới chức bí thư à. Tướng của nó đi cày ruộng còn bị đuổi nữa…

Bước tới đứng trước mặt Sáu Búa, Thôi Phán Quan cười hỏi.

- Dường như trong lúc hoạt động ở trong nam, các đồng chí của ông đặt cho ông cái tên Sáu Lừa ông có một cái tên khác?

Lê Đứt Thụi tự Sáu Lừa cười nhẹ.

- Các đồng chí trong đảng từng hoạt động với tôi còn gọi một cách thân mật là Sáu Búa.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

- Ngươi đúng là thằng trật búa thứ thiệt. Một búa cũng đủ chết thiên hạ rồi mà ngươi lại có tới sáu búa.

Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi im, Thôi Phán Quan cười hỏi Sáu Lừa.

- Ông có mấy vợ?

- Thưa ngài một.

Vành môi hơi nhếch thành nụ cười có chút mỉa mai và khinh miệt, Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.

- Ông có mấy vợ?

- Tui có một vợ.

Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.

- Dựa theo câu trả lời thì ngài tổng bí thư chỉ có một vợ. Đúng không?

Hơi do dự giây lát rồi sau cùng Ba Duân cũng mạnh dạn trả lời.

- Tui chỉ có một vợ.

Khẽ gật đầu, Thôi Phán Quan nhìn Ba Duân.

- Căn cứ vào giấy tờ thì bà Cao Thị Khê là vợ chánh của ông. Điều này đúng không?

- Tui xác nhận điều đó.

- Bà Đổ Thị Sanh là gì của ông?

Ba Duân làm thinh thật lâu mới trả lời. Giọng của bị can nhỏ như tiếng thì thầm.

- Là vợ nhỏ của tui.

- Sao hồi nãy ngươi nói ngươi chỉ có một vợ?

Ba Duân ấp úng trước câu vặn hỏi của Diêm Vương.

- Hồi nãy con nói con chỉ có một vợ. Thưa đó là vợ lớn.

Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương lại vặn.

- Vây chứ ngươi có mấy vợ?

- Bẩm hai.

Thôi Phán Quan xen vào.

- Còn bà Đỗ Thị Thúy Nga là gì của ông?

- Thưa ngài đó là vợ bé.

Gật gật đầu Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

- Còn bà Hồ Thị Nghĩa?

- Thưa đó là vợ lẽ.

- Thế tại sao ông nói chỉ có một vợ?

- Ngài biện lý không hiểu ý của tôi. Tui nói chỉ có một vợ nghĩa là một vợ lớn, một vợ nhỏ, một vợ bé, một vợ lẽ.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

- Làm lãnh tụ như ngươi sướng thật. Tha hồ lấy vợ lớn, vợ nhỏ, vợ bé và vợ lẽ. Còn tình nhân thì sao?

- Bẩm Diêm Vương… Con chỉ có một nhân tình, một bồ nhí và một đào tơ…

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ hỏi gọn.

- Còn hết?

- Bẩm Diêm Vương… Còn chút chút… Con chưa kể thêm mấy cô ” cần vụ ấy ” của con…

- Sao mà nhiều vậy?

Ba Duân cười cười.

- Bẫm Diêm Vương. Đó là con noi theo cái gương đạo đức của bác. Không những con mà các đồng chí trong bộ chín chị đều có vợ bé, vợ nhỏ, vợ lẽ, nhân tình, bồ nhí hay đào trẻ. Đồng chí Phạm Hùng có bồ. Đồng chí Phạm Văn Trà có ba vợ. Còn đồng chí Sáu Lừa đây cũng có chút ít…

Sáu Búa nhăn mặt lẩm bẩm.

- Thằng cha này hổng đánh mà khai.

Khẽ lắc đầu Thôi Phán Quan nhìn Sáu Lừa.

- Theo ông thì bị can Ba Duân có mấy vợ?

Liếc nhanh người ngồi bên cạnh Sáu Lừa cười trả lời.

-Tôi cũng không biết rõ lắm. Tôi ít khi xía vào chuyện gia đình của kẻ khác. Thú thật với ngài biện lý tôi không có tính tò mò.

Một giọng nói từ cuối phòng vang lên mà mới nghe qua ai ai cũng biết đó là giọng của một người đàn bà miền Nam đã có tuổi.

- Phải rồi. Mày đâu có tò mò mà mày có cái tật tò với mò thôi. Thấy con gái trẻ đẹp là mày theo tò tò sau đít rồi đợi tới đem tối mày mò dô mùng.

Diêm Vương trừng mắt nhìn Sáu Búa.

- Có chuyện đó à… Ngươi là lãnh tụ mà cũng làm chuyện tồi bại đó à. Vậy mà hở ra chút là khoe vì dân vì nước.

Vừa định giảng ” morale ” cho Sáu Búa song bắt gặp cái liếc mắt của Thôi Phán Quan nên ông vua âm phủ bèn ngưng nói.

- Bẩm Diêm Vương. Hổng có đâu. Con đâu có làm cái chuyện kỳ cục đó. Chẳng qua là mấy đảng phái quốc gia và đám người Việt phản động nó tuyên truyền để nói xấu con.

- Ông nói thật là ông không có dê gái hả?

Sáu Búa gật đầu một cách quả quyết.

- Ông không có mò mấy cô nữ sinh hả? Ông không có dùng quyền lực và thủ đoạn để hiếp dâm phụ nữ hả?

Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc hai câu hỏi và Sáu Búa cả quyết là mình không có làm chuyện đó. Cười hực Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương điều gì không ai nghe được. Họ chỉ thấy Diêm Vương gật đầu nói lớn.

- Ta cho phép công tố viện làm bất cứ chuyện gì để tìm ra sự thật.

Được phép của tòa Thôi Phán Quan cao giọng thốt.

- Kính thưa bồi thẫm đoàn. Kính thưa quý vị khán thính giả. Sau đây tôi sẽ lần lượt mời các nhân chứng ra trước tòa để khai sự thực về việc hai bị can Ba Duân và Sáu Búa đã dùng quyền lực hay thủ đoạn đê tiện và tồi bại để cưỡng hiếp đàn bà con gái.

Ngừng lại nhìn hai bị can giây lát xong ông ta cao giọng thốt.

- Kính thưa Diêm Vương và bồi thẫm đoàn, sau đây tôi mời một người lên đây làm chứng. Kính mời bà Ba Kem.

Sáu Búa hay Sáu Lừa ngồi bật dậy như bị ong vò vẽ chích khi nghe Thôi Phán Quan kêu tới tên bà ”Ba Kem ”.

Đợi cho nhân chứng làm thủ tục và ngồi vào ghế xong xuôi, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.

- Bà Ba biết ông này không?

Nhìn theo tay chỉ của Thôi Phán Quan, bà Ba Kem hứ tiếng nhỏ.

- Cái bản mặt thằng cha đó ai mà hổng biết. Ông biết hông hắn là con dê xồm của đảng đó.

Nhìn thấy Ba Duân đang ngồi phía bên kia bà ta lớn giọng.

- Còn thằng cha kia cũng vậy. Thấy con gái trẻ đẹp là mắt hắn sáng lên như xe nhà binh mười bánh. Hắn theo tò tò như chó tháng bảy.

Quay qua Sáu Búa đang ngồi im với nét mặt tẽn tò bà Ba Kem nói một hơi thật dài.

- Hắn mê con bé Hoàng, chạy lanh quanh theo con nhỏ như chó rượn đực. Nhờ Hội Phụ Nữ Cứu Quốc làm mai không được nên hắn mới năn nỉ ông chồng tôi. Nể tình hắn là ông lớn.

- Lúc đó Sáu Lừa làm tới chức gì bà nhớ không?

- Hổng có tham gia kháng chiến hay chín chị chín em gì nên tui hổng rành. Chỉ nghe mấy đứa nhỏ gọi Sáu Lừa là Quỉ Viên Xứ Ủy Nam Kỳ gì gì đó. Nể hắn là quan lớn của cụ Hồ nên chồng tôi mời hắn tới ghe ăn cơm. Đâu dè Sáu Lừa là thằng dê cụ. Thấy con gái tôi tên Anna, trạc tuổi con Bé Hoàng là hắn trổ mòi liền. Hắn nói với tôi như vầy: ” Chị Ba, tui muốn kêu chị bằng má được không chị Ba? “ Ông nghĩ coi có tức không. Sẵn đang nấu ăn cầm chiếc đũa bếp trong tay tôi mới trả lời: ” Tui thì được rồi chỉ sợ chiếc đũa bếp này không đồng ý thôi đồng chí trung ương ạ…” Nghe tui nói vậy hắn ê mặt vội thụt lui ra chỗ chồng tôi ngồi. Tưởng vậy rồi chuyện được êm xuôi. Ai ngờ hắn lòng dạ hẹp hòi thêm có tình thù vặt nên khi có chức có quyền hắn đày đọa chồng tôi dữ lắm rồi sau năm 1975 thì hai vợ chồng tôi nghèo khổ lắm. Biết vậy hồi đó tôi quất vào đầu hắn mấy cái đũa bếp cho hả giận.

Sau khi Bà Ba Khem dứt lời, Thôi Phán Quan nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi đoạn cao giọng thốt.

- Để chứng tỏ cái tính dê của Sáu Búa và Ba Duân tôi xin mời thêm hai nhân chứng. Đó là hai cô Đào và Thanh lên đây kể cho mọi người nghe về đạo đức cách mạng của hai vị bí thư và phó bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ.

Có tịch thì nhúc nhích. Nhờ ngồi gần ghế của bị can nên Đán và Bình nhận thấy Ba Duân và Sáu Lừa có vấn đề lớn khi nghe tới tên Đào và Thanh. Cả hai càng thêm bối rối và ngường ngượng khi thấy hai cô gái bước tới gần. Đợi cho hai nhân chứng làm thủ tục xong xuôi Thôi Phán Quan mới cười hỏi.

- Xin hai cô vui lòng cho tòa biết hai cô tên gì?

Cô gái mặc áo bà ba trắng, có nét mặt trái soan, da trắng và môi đỏ như thoa son vui vẻ trả lời.

- Dạ cháu tên Đào, còn bạn cháu tên Thanh.

- Hai cháu là nữ sinh?

Cô gái tên Thanh nhỏ nhẹ lên tiếng.

- Dạ hai cháu là học sinh của trường trung học Nguyễn Văn Tố.

- Năm nay cháu Thanh mấy tuổi?

- Dạ mười bảy.

- Còn cháu Đào?

- Dạ mười sáu.

Liếc Sáu Búa và Ba Duân đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ, Thôi Phán Quan cười cười hỏi tiếp.

- Cháu Đào và Thanh biết hai người đang ngồi phía bên kia không?

Đào liếc Thanh. Thấy bạn gật đầu cô ta đáp nhỏ.

- Dạ biết.

- Họ là ai vậy?

- Dạ đó là Bác Ba và Bác Sáu.

- Cháu biết Bác Ba và Bác Sáu làm chức gì không?

giavui
07-11-2014, 08:58 PM
Đào là cô gái lanh lẹ và vui vẻ hơn trong lúc Thanh lại ít nói và trầm lặng. Liếc hai ông già đang ngồi bên kia Đào liếng thoắng trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Dạ. Bác Ba là Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ. Còn Bác Sáu là Phó Bí Thư. Hai bác ấy làm lớn lắm.

Thôi Phán Quan gật đầu mỉm cười. Ông ta biết Đào vẫn còn ngây thơ, khờ khạo và thành thật. Muốn cho cô gái kể đầu đuôi câu chuyện thì ông ta phải mớm lời và nhất là làm cho cô gái thôi sợ hãi Ba Duân và Sáu Lừa.

- Tôi nghe mấy chị em trong Hội Phụ Nữ Cứu Quốc đồn Bác Ba và Bác Sáu của cháu thích đàn bà con gái lắm. Chuyện này có thật không?

Đào mím môi. Miệng của cô bé mấp máy định nói song rốt cuộc lại im lặng. Dường như cô ta mắc cỡ hoặc e ngại chuyện gì.

- Cháu đừng sợ. Ở đây là âm phủ. Hai bác ba và bác sáu không có quyền gì hết. Họ không có quyền cấm cháu nói sự thật.

Thôi Phán Quan cất giọng dỗ dành đồng thời nháy mắt ra hiệu cho Diêm Vương. Hiểu ý ông vua âm phủ hắng giọng.

- Cháu bé cứ việc khai hết sự thực đi. Thằng nào mà hăm he, hù dọa hay sai công an bịt miệng cháu là ta còng đầu nó liền…

Liếc nhanh Diêm Vương rồi liếc qua chỗ Ba Duân và Sáu Lừa đang ngồi xong Đào mới thỏ thẻ.

- Lúc đầu người ta dụ dỗ chị Thanh với cháu xây dựng với hai ông già…

Gật gù Thôi Phán Quan hỏi.

- Cháu nói người ta vậy người ta là ai?

- Dạ người ta là mấy ông trong Chi Bộ Đảng…

- Ạ… Ta hiểu rồi… Còn ” xây dựng” là nghĩa gì hả cháu?

Khuôn mặt trắng của Đào chợt hồng lên. Nhìn xuống hai bàn chân của mình cô ta thì thầm. Dù cô ta thì thầm song nhờ căn phòng xử im lặng và hệ thống khuếch đại âm thanh của âm phủ rất tối tân do đó ai ai cũng đều nghe rõ lời của Đào.

- Dạ… Xây dựng là ngủ với mấy ổng… là làm vợ mấy ổng…

Vừa nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu quầy quậy rồi cất tiếng than dài.

- Loạn… Dương thế loạn rồi… Cái xứ Việt Nam thật là đại bất hạnh mới có mấy thằng làm lớn, già hai thứ tóc mà lại muốn chuyện xây dựng với con gái vị thành niên. Ta phải tâu lên trời hầu có biện pháp chế tài thích nghi với mấy thằng có chức, có quyền và có tiền mà làm chuyện tồi bại… Thôi cháu kể tiếp đi…

- Thưa Diêm Vương… Ngài nghĩ coi mấy ổng nói với con và chị Thanh như vầy: ” Dẫu biết Bác Ba và Bác Sáu đã có gia đình ở ngoài bắc nhưng do yêu cầu của cách mạng các bác phải ra đi. Vì vậy mà đảng có nhiệm vụ phải lo cho các bác phải có người đàn bà trong nhà. Hai đồng chí là đảng viên, từng được dạy dỗ về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã nói: ” Đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Nếu khi lợi ích của đảng và lợi ích của cá nhân mâu thuẫn với nhau thì lợi ích cá nhân phải tuyệt đối phục tùng lợi ích của đảng…” Con với chị Thanh chống cự lại thì họ tìm cách chia rẻ chúng con. Đầu tiên họ tách chúng con ra làm hai, mỗi người về phục vụ văn phòng khác nhau. Chị Thanh về văn phòng Bác Sáu còn con về văn phòng ông Lưu Quý Kỳ. Chi bộ đảng cứ tiếp tục dụ dỗ cháu và chị Thanh phải xây dựng với Bác Sáu và ông Kỳ. Tuy nhiên cháu và chị Thanh nhất quyết không chịu. Thấy dụ không được họ bèn dùng bạo lực của đám vũ phu vô học. Phần cháu về làm với ông Chín Kỳ được ba ngày, ổng biểu cháu đi công tác với ổng. Một đêm ổng biểu cháu ngủ dưới tam bản với ổng. Ổng kéo, ổng níu, ổng ôm rồi ổng đè cháu tính làm ẩu. Cháu chống cự, cháu đạp ổng văng ra rồi phóng xuống nước lội vào bờ, chạy vô nhà dân trốn và cầu cứu…

Đợi cho cô Đào kể xong Thôi Phán Quan mới quay qua hỏi cô Thanh.

- Cô về làm với Bác Sáu của cô như thế nào?

- Dạ… Cháu về làm việc được hơn tuần lễ thì các đồng chí trong cơ quan nói với cháu là chiều nay Bác Sáu đến ăn cơm và ở lại sinh hoạt. Bác Sáu ngồi nói chuyện cà kê dê ngỗng chẳng có chủ đề gì hết. Ngồi nghe bác nói mà chán còn hơn ăn cơm nếp mắc mưa, cháu ngáp vắn ngáp dài vì buồn ngủ. Ổng vừa nói vừa ngó cháu chăm chăm, lâu lâu lại hỏi một câu làm như là để nói với cháu mà thôi. Đồng chí ngồi cạnh cháu cứ rót trà vô tách hoài mời cháu uống. Cháu chỉ bưng tách lên làm bộ uống rồi lại để tách xuống. Dòm nước trà trong tách cháu vẫn còn đầy, anh ấy cứ giục cháu uống trong lúc Bác Sáu ngó cháu lom lom. Đến 9 giờ cháu buồn ngủ quá cứ ngáp lia lịa. Thấy cháu che miệng ngáp bác Sáu nói.

- Thôi các đồng chí đi ngủ. Sáng mai công tác tỉnh táo hơn…

Thường thường cháu với chị Đào ngủ chung để có gì giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng tối nay chị Đào đi công tác nên cháu phải ngủ một mình. Giăng mùng xong cháu chui vô nằm. Lát sau cháu cảm thấy mí mùng được tấn dưới chiếu ở chân xê dịch như có bàn tay ai nhè nhẹ kéo. Cháu tỉnh liền. Bên ngoài tối mò chẳng thấy gì hết. Mí mùng bị kéo mạnh và lẹ hơn. Một bàn tay thọc vào đụng chân cháu, cùng lúc cả góc mùng dưới chân cháu được vén lên để lộ cái đầu đàn ông. Người đó nói nhỏ trong lúc tính chui hẳn vô mùng.

- Tôi đây mà đồng chí đừng làm ồn…

Đúng là giọng của Bác Sáu. Chẳng còn hồn vía nào, cháu bật dậy chui ra khỏi mùng rồi phóng ra ngoài sân và la lớn lên.

- Bớ người ta… Cứu tôi với…

Bốn anh bảo vệ chạy tới. Họ vừa bắn vừa hô.

- Đứng lại… Không chúng tôi bắn…

Cháu nghe Bác Sáu ra lịnh.

- Đừng bắn… Vào ngủ hết đi…

Thanh dứt lời. Nét mặt của cô bé vẫn còn chút ngơ ngác và hoảng hốt như không tin là người mà cô kính nể và kêu bằng Bác Sáu lại có thể mò vô mùng của mình.

Mỉm cười Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Sáu Lừa đang ngồi ngó lơ ra cửa sổ.

- Ngài Phó Bí Thư Xử Ủy Nam Kỳ có ý kiến gì về lời của cô Thanh kể?

Ai cũng nhận ra cái giọng mỉa mai trong câu hỏi của Thôi Phán Quan. Sáu Lừa chưa kịp trả lời vị biện lý hỏi tiếp.

- Ông có mò cô Thanh không? Mò mấy lần?

Liếc nhanh Thanh đang ngồi ngó mình lom lom, Sáu Lừa trả lời nước đôi.

- Tôi nghĩ là có mà chỉ có chút chút thôi…

Thôi Phán Quan gằn giọng.

- Có hay không?

Liếc thấy Diêm Vương đang chiếu tướng mình, Sáu Lừa biết hắn phải trả lời. Không trả lời thì âm phủ sẽ có trăm phương ngàn cách để làm cho hắn thú nhận.

- Có… Tôi có mò vô mùng cô Thanh. Nhưng chưa có sơ múi gì được là cô ấy đã la làng chói lọi… Tuy nhiên.

Sáu Lừa bỏ lửng câu nói ở đó và Thôi Phán Quan cười nhạt tiếp.

- Tuy nhiên mò lần đầu không được ông thử lần thứ nhì, thứ ba và tới khi nào được mới thôi. Phải vậy không?

Sáu Lừa cười hè hè.

- Ngài biện lý ở âm phủ xa xôi mà sao rành chuyện mò con gái của tôi quá vậy. Chắc tôi phải theo hầu ngài để học thêm kinh nghiệm.

Làm lơ lời nói của Sáu Lừa, Thôi Phán Quan bước tới chỗ của Ba Duân ngồi.

- Có người khai với tôi là họ bị ông hiếp dâm. Điều này có thật không?

Vị bí thư Xứ Ủy Nam Kỳ, lãnh tụ đứng nhất của kháng chiến Nam bộ tỏ vẻ bối rối trước câu hỏi của Thôi Phán Quan. Dù chỉ học hết tiểu học, hắn cũng đủ thông minh để hiểu vị đại diện cho công tố viện của âm phủ đã nắm được bằng chứng hoặc nhân chứng về chuyện mình cưỡng hiếp những phụ nữ phục vụ dưới quyền chỉ huy. Nhận thì có tội. Như vậy là sai. Đảng không bao giờ sai lầm cũng như lãnh tụ không bao giờ làm gì bậy bạ. Chi bằng chối phứt. Tới đâu thì tới.

- Tui là lãnh tụ mà… Lãnh tụ như tui thì không thể làm chuyện bậy bạ được…

Thôi Phán Quan cười gằn buông một câu.

- Được rồi… Ngươi đã nói như vậy thì ta mời nhân chứng…

Ba Duân có vẻ lo ra khi nghe Thôi Phán Quan mời nhân chứng ra đối chất. Vị biện lý bước tới thì thầm vào tai Hắc Y Sứ Giả. Lát sau mọi người thấy vị sứ giả áo đen đi song song với một người đàn bà còn trẻ, ăn mặc khá tươm tất. Ngay khi thấy người đàn bà này, Ba Duân có thái độ không được thoải mái lắm.

Đợi cho nhân chứng ngồi xuống ghế và làm thủ tục xong, Thôi Phán Quan mới đặt câu hỏi.

- Xin bà vui lòng cho biết bà là ai?

- Dạ… Hồi còn kháng chiến thì anh em quen gọi tui là Chị Mười. Tui là đại diện Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Xã Long Mỹ. Chồng của tui là Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đã hy sinh cho cách mạng…

- Xin bà vui lòng kể cho tòa nghe chuyện bà bị tên Ba Duân cưỡng hiếp?

Khẽ gật đầu Chị Mười cất giọng nghèn nghẹn.

- Một bữa nọ tôi được tên Phó Bí Thư cử đi dự Đại Hội Phụ Nữ Nam bộ. Sau khi tới nơi tui được giới thiệu với chị Nguyễn Thị Thập là Hội Trưởng Hội Cứu Quốc Nam bộ và bà gì đó tôi không nhớ tên, chỉ biết bà này là Hội Trưởng Hội Phụ Nữ Cứu Quốc tỉnh Cần Thơ. Bà Hội Trưởng của tỉnh Cần Thơ nắm tay tui cười nói.

- Chị coi bộ em hơi mệt… Chắc là tại đi đường xa… Để chị lấy nước cam vắt cho em uống đặng khỏe lại mà vui chơi chứ. Đi dự đại hội mà xìu như vậy đâu được em…

Lát sau bà ta trở lại với ly nước cam vắt cầm trên tay. Đi bên cạnh bà ta là một người đàn ông sồn sồn chừng 50. Chị Nguyễn Thị Thập thấy người đó vội đứng dậy khúm núm chào.

- Thưa anh Ba, khỏe không?

Chẳng trả lời, người đó nhìn tui lom lom như mèo thấy chuột. Vẫn nhìn tui, ổng nghiêng đầu về bà hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ hỏi một câu mà tui nghe giọng Nghệ rặc.

- Vợ đồng chí Chỉ Huy Phó Phân Đội 5 đấy hỉ?

- Thưa anh Ba dạ đúng…

- Xin chia buồn cùng chị. Tôi đã ký quyết định truy tặng anh Mười, chồng của chị là anh hùng liệt sĩ kèm quyết định cấp dưỡng và xác nhận con cái của anh là con liệt sĩ…

- Xin cám ơn đồng chí…

Nói xong tui mới quay qua hỏi bà Hội trưởng Hội Phụ Nữ Cần Thơ.

- Anh Ba là ai vậy?

Bà ta trả lời với vẻ kính cẩn.

- Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ…

Trả lời xong bà ta đưa cho tui ly nước cam. Đang khát nước tôi ực một hơi cạn sạch. Chừng vài phút sau là tui thấy mắt hoa đầu váng, lơ mơ nửa tỉnh nửa thức. Tui thấy người ta rinh tui đi đâu đó, đặt tui lên giường rồi có người đàn ông từ từ cởi quần áo tui ra xong hắn leo đè lên người của tui. Ráng mở mắt tui thấy thằng cha đang đè mình là anh Ba Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ. Hắn làm hùng hục như con chó rượng đực. Không biết tui uống nhằm cái gì mà nửa tỉnh nửa mê, tay chân tê liệt muốn giãy giụa hay chống cự cũng hổng được đành phải nằm yên cho hắn thỏa mãn thú tính…

Ngay sau khi Chị Mười dứt lời, Thôi Phán Quan đặt câu hỏi liền.

- Như vậy bà xác nhận là tên Ba Duân, Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ đã hiếp dâm bà. Đúng không?

- Thưa đúng… Tui thấy rõ mặt mày của hắn. Cái bản mặt dâm dục của hắn tui hổng quên. Hắn là con quỉ dâm dục. Xuống tỉnh, xuống huyện, về làng, tui nghe hắn ăn nói huyên thiên toàn đạo đức cách mạng. Đâu có dè hắn với thằng Sáu Lừa, tụi nó cả bầy như chó đực tháng tám…

Ba Duân và Sáu Lừa làm thinh trước lời mắng nhiếc của Chị Mười. Ngay cả Diêm Vương cũng mặc cho nhân chứng chưởi bới. Ông ta hiểu tâm trạng đau khổ cũng như sự uất ức của người đàn bà bị cưỡng hiếp. Sau khi ba nhân chứng rời khỏi ghế của họ, Thôi Phán Quan cười hỏi hai bị can.

- Hai ông có điều gì phản biện lại lời khai của ba nhân chứng không?

Hai vị Bí Thư và Phó Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ làm thinh không trả lời. Hướng về chỗ ngồi của chín vị bồi thẫm, Thôi Phán Quan cao giọng.

- Kính thưa chín vị bồi thẫm… Sau thời gian sưu tầm, công tố viện của âm phủ đã tìm được thêm một chuyện làm bậy bạ của Ba Duân mà tôi tạm gọi là vụ án cô Nga. Vì nhiều uẩn khúc nên nạn nhân đồng thời cũng là nhân chứng không thể xuất hiện trước tòa được. Tuy nhiên những điều mà công tố viện thu lượm được là do lời kể của những người thân cận với cô Nga lúc vụ án xảy ra…

Bước tới đứng trước mặt Ba Duân, Thôi Phán Quan hỏi gọn.

- Năm 1948, ông và Sáu Lừa có tham dự phiên họp của các đại biểu Phụ Nữ Cứu Quốc Nam bộ tại một mật khu ở tỉnh Cà Mau. Ông xác nhận điều này?

Sau một hồi do dự Ba Duân lên tiếng.

- Tui xác nhận là tui với đồng chí Sáu Lừa có mặt trong buổi họp đó…

- Trong buổi hội họp này ông có gặp cô Đỗ Thị Thúy Nga. Đúng không?

- Đúng… Cô Nga là Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ tỉnh Cần Thơ…

- Cô Nga đẹp lắm hả ông?

Ba Duân chưa kịp trả lời vị biện lý của âm phủ cao giọng thốt trong lúc hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ngồi.

- Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Duyệt qua các tài liệu mà âm phủ đã sưu tầm được, Thôi Phán Quan tôi biết nhiều về Ba Duân, từ lý lịch cá nhân và quá trình hoạt động trong đảng cộng sản, nhất là những bí mật mà vị bí thư xứ ủy nam kỳ và cuối cùng là tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam cố tình che giấu không cho dân chúng biết. Hắn dốt chữ, học chưa qua cấp tiểu học, do đó hắn có cái mặc cảm đối với giới trí thức miền Nam. Cái mặc cảm bị dân có học Nam bộ chê là ‘‘ bí thư rặn ra chữ ” khiến cho hắn ghét những người có học hơn mình. Tuy không lộ ra mặt song hắn ghét cay ghét đắng đám trí thức nổi tiếng ở miền Nam tham gia cộng sản như Dương Bạch Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Văn Trấn, Bùi Công Trừng. Bốn tay cộng sản gộc từng tốt nghiệp trường Lao Động Đông Phương của miền Nam được dân kháng chiến biết nhiều hơn cả Hồ Chí Minh.

Tuy nhiên đối với cô Nga thì lại khác. Gặp mặt cô Nga là hắn mê tít thò lò. Điều này cũng không lạ vì cô ta còn son trẻ, duyên dáng, quyến rũ lại nữ sinh trường đầm, đỗ bằng tú tài và nói tiếng Pháp như gió. Có thể nói Ba Duân so sánh với cô Nga chẳng khác gì con chim cú đứng trước phượng hoàng. Xí trai, học vấn kém, tướng tá cục mịch, tính tình thô lỗ, ăn nói như dùi đục chấm mắm nêm, nên Ba Duân tán tỉnh, ỉ ôi cách mấy cô Nga chẳng thèm để mắt tới hắn. Không nản chí, Ba Duân nhờ bà Lê Đoàn, Chủ Tịch Ban Chấp Hành Hội Phụ Nữ Cứu Quốc Nam bộ tới động viên tinh thần của cô Nga để cô ta ưng Anh Ba. Nhưng cô Nga là cô gái cứng đầu nên thẳng thừng từ chối. Cô nói như tát nước vào mặt bà Đoàn: ” Bộ hết người sao mà tôi lại lấy ông già vừa dốt lại nhà quê đó…”. Nhờ bà Lê Đoàn không có kết quả, Ba Duân lại nhờ Hà Huy Tập, Ủy Viên Trung Ương Đảng. Cũng không xong, hắn nhờ giáo sư Đặng Minh Trứ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Kháng Chiến tỉnh Cần Thơ tới nhà nói chuyện với ba má cô Nga. Tất cả đều vô hiệu quả. Khi mọi vận động đều đi tới chỗ bế tắc, Ba Duân phải dùng tới đòn phép ma giáo. Hắn ra lịnh cho ban bảo vệ mời cô Nga tới dự mít tinh trong một căn nhà bên dòng sông Trẹm, chỗ giáp ranh U Minh Thượng và U Minh Hạ rồi cưỡng hiếp cô Nga.

Nói tới đó Thôi Phán Quan quay sang hỏi Ba Duân.

- Những điều tôi nói đúng sự thật không?

Ngần ngừ giây lát vị bí thư xứ ủy Nam Kỳ năm 1948 và tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam từ từ lên tiếng.

- Tôi có cưỡng hiếp cô Nga nhưng để đền bù thiệt hại tôi lấy cô ta làm vợ ba.

Thôi Phán Quan cười nhạt.

- Âm phủ chỉ xử tội hiếp dâm của ông, còn chuyện ông lấy cô Nga làm vợ là chuyện riêng của ông…

Liếc thấy đồng hồ chỉ quá 12 giờ, Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên xử cho mọi người ăn trưa. Vài người ra về muộn thấy Thôi Phán Quan với Diêm Vương còn đứng nói chuyện khá lâu với 9 vị bồi thẫm.

giavui
07-11-2014, 08:58 PM
-18-
Thi sĩ ‘ ấy ‘

- Kính thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm… Quí vị đã nghe tôi trình bày về tội cưỡng hiếp phụ nữ của hai tên Ba Duân và Sáu Lừa. Tuy nhiên tội cưỡng hiếp chỉ là tội ác nhỏ nhoi so với tội ác mà tôi sắp sửa trình bày. Chỉ đạo, dàn dựng và phát động một cuộc xâm chiếm Việt Nam Cộng Hòa bằng súng đạn; Ba Duân, lúc đó là bí thư thứ nhất rồi tổng bí thư đảng cộng sản; còn Sáu Lừa, lúc đó là Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, đã đẩy hàng triệu nam nữ của cả hai miền Bắc nam vào cuộc chiến tranh ngu xuẩn và đẫm máu nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam chỉ nhằm thực hiện mộng xâm lăng của cộng sản quốc tế. Nào là Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, với hành động giết mấy ngàn người dân vô tội ở Huế cũng như nướng cả trăm ngàn bộ đội của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Nào là chiến trận ở Khe Sanh với tổn thất cả trăm ngàn nhân mạng. Nào là mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nào là đại thắng mùa xuân vào tháng 4 năm 1975 để dẫn tới cuộc tắm máu hơn nửa triệu quân dân cán chính của VNCH và hơn một triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do và chết trên biển cả. Chưa hết. Hai tên đồ tể Sáu Lừa và Ba Duân còn xua gần nửa triệu lính và dân công vào cuộc xâm lăng nước Cao Miên mà kết quả hơn 50 ngàn quân bị tử trận, đồng thời làm kiệt quệ tài nguyên quốc gia, gây đói khổ, lầm than và tang tóc cho một dân tộc vốn phải hứng chịu nhiều chinh chiến điêu linh. Hai tên Ba Duân và Sáu Lừa là thứ tội phạm chiến tranh của dân Việt Nam nói riêng và nhân loại nói chung. Tiếc thay. Mỉa mai thay. Tên Sáu Búa lại được một tổ chức đui mù trao tặng cho giải Nobel Hòa Bình thay vì đem hắn ra xét xử về tội giết người tập thể. Bất hạnh thay. Xấu hổ thay. Ba Duân và Sáu Lừa, lại được những kẻ kế thừa xưng tụng là anh hùng, viết sách viết sử để ca tụng công đức và đặt tên đường để tưởng nhớ.

Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang lắng nghe lời buộc tội của Thôi Phán Quan.

- Hôm nay, thừa mệnh lệnh của Trời và luật pháp của âm phủ; tôi, Thôi Phán Quan sẽ lần lượt trình bày cho mọi người khắp ba tầng chín cõi thấy, nghe, biết những hành vi ”
vô ác bất tác ” của Ba Duân và Sáu Lừa.

Dứt câu Thôi Phán Quan phất tay áo rộng báo hiệu phiên xử hai tên Ba Duân và Sáu Búa được tiếp tục. Đợi cho hai bị can làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ cao giọng trong lúc nhìn xuống chỗ đám đông đang ngồi.

- Tôi xin mời các người có tên sau đây lên ngồi vào ghế nhân chứng. Thứ nhất là Võ Khôi Nguyên, thứ nhì là Phạm Văng Vàng, thứ ba Trườn Chui.

- Nhân chứng thứ tư là Hình Chí Mô.

Trong lúc ba nhân chứng lục tục đi lên, thiên hạ xầm xì to nhỏ khi nghe vị biện lý xướng danh nhân chứng cuối cùng. Đây là lần đầu tiên ông ta gọi một lúc bốn nhân chứng, mà người nào cũng nắm giữ chức vụ quan trọng của đảng và nhà nước cộng sản. Hai bị can và bốn nhân chứng cộng lại thành sáu người. Họ đại diện cho quyền lực vô song của đảng. Cũng chính họ chỉ đạo, điều khiển một guồng máy khổng lồ với những đảng viên cuồng tín đã kềm kẹp mấy chục triệu dân Việt vào con đường phục vụ cho chủ nghĩa cộng sản và làm nô lệ cho những kẻ có chức, có quyền và có tiền. Họ bắt, bỏ tù, lưu đày, thủ tiêu kẻ chống đối hoặc bất cứ ai không theo họ. Họ chỉ biết có đảng. Đảng là họ và họ là đảng, là thứ quyền lực tuyệt đối.

Trái với ý nghĩ của mọi người, Thôi Phán Quan hỏi nhân chứng Trườn Chui trước nhất.

- Nếu tôi không lầm thì ông là lý thuyết gia hàng đầu của đảng?

Được bốc thơm vị cựu tổng bí thư cười hì hì lên tiếng.

- Tôi nghĩ ngài biện lý không lầm đâu.

Cười nhẹ Thôi Phán Quan tiếp lời.

- Có người gọi ông là chủ gánh xiếc ngôn ngữ của đảng cộng sản Việt Nam. Ông nghĩ sao?

Chắc khoái chí vì từ ” chủ gánh xiếc ngôn ngữ ” do đó Trườn Chui vui vẻ trả lời.

- Tôi nghĩ điều này cũng đúng chút chút. Tôi không ngờ ngài biện lý cũng là kẻ hay chữ.

Thôi Phán Quan cười nhẹ lắc đầu.

- Là người của âm phủ nên tôi không thông thạo tiếng Việt lắm. Tôi chỉ lập lại lời của người khác mà thôi.

Nhìn thẳng vào mặt Trườn Chui, ông ta hỏi gọn.

- Ông là người đã viết ra Nghị Quyết 9?

Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa đang ngồi trên ghế bị can nơi phía bên kia, Trườn Chui cười nhẹ.

- Chính tôi viết ra tuy nhiên anh Ba và anh Sáu cũng có thêm vào vài ý kiến.

- Ông có thể tóm tắt cho tòa nghe về nghị quyết 9.

Trườn Chui gật đầu liền vì biết không nói cũng không được, với lại chuyện cũ mấy chục năm rồi nên có khai trước tòa thì cũng chẳng hại tới đảng.

- Điểm chính yếu của nghị quyết 9 là đường lối đối nội và đối ngoại của đảng và nhà nước Việt Nam là thống thất về cơ bản với đường lối đối nội và đối ngoại của đảng cộng sản Trung Quốc. Những kẻ nào không đồng tình với đường lối của đảng là phản động, là thuộc phe xét lại. Cũng vì vậy mà trong đảng chúng tôi mới chia thành hai phe. Một phe đòi thực hiện chủ nghĩa dân chủ pháp trị và kiến tạo một xã hội tôn trọng dân quyền. Một phe kia chủ trương đảng phải cầm quyền để giữ vững chủ nghĩa xã hội chuyên chế. Đại loại tôi có thể nói tình trạng của đảng lúc đó chia làm 2 phe; chủ hòa và chủ chiến. Phe chủ hòa gồm có bác, anh Nam và anh Tô. Phe chủ chiến thì có anh Ba, anh Sáu, anh Thanh.

- Ông theo phe nào?

Thôi Phán Quan ngắt lời. Trườn Chui cười hì hì.

- Tôi thì tôi đi hàng hai nhưng sau đó thì tôi ngã về phe chủ chiến vì phe đó mạnh hơn.

Gật gật đầu Thôi Phán Quan bước qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi.

- Ông có thể cho tòa biết lý do nào ông chọn Ba Duân làm bí thư thứ nhất thay vì chọn ông đại tướng lùn?

Chín vị bồi thẫm đều chăm chú lắng nghe Hình Chí Mô trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan. Họ Hình vốn là người sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, do đó lão phải nắm bắt nhiều bí mật trọng đại ít người biết được.

- Có nhiều lý do khiến cho tôi chọn chú Ba thay vì chọn chú Nam vào chức bí thư thứ nhất. Lý do đầu là chú Ba dốt chữ. Mà hể thằng dốt thì thường thường nó ngu hơn thằng có học. Chú Nam có bằng cử nhân, học cao còn hơn tôi, lại đang là thần tượng của quân đội và nhân dân. Chú ấy giống như con hổ, mà bây giờ cho chú ấy chức bí thư thì chẳng khác nào hùm thêm vi hổ thêm cánh. Nếu chú ấy dùng quân đội đảo chánh thì kể như tôi rớt đài là cái chắc. Trong khi đó chú Ba, dù đang làm Bí Thư Xứ Ủy Nam bộ, nhưng tiếng tăm và phe đảng chưa có. Chọn một nhân vật vô danh và cô thân độc mã để lên kế vị thì mình hổng sợ nó lật cái ghế chủ tịch của mình.

Thôi Phán Quan mỉm cười. Ông ta chưa kịp lên tiếng, Diêm Vương đã mở miệng trước.

- Thằng này khôn ơi là khôn. Quả là danh bất hư truyền.

Hình Chí Mô hơi nhếch môi cười khi nghe Diêm Vương khen.

- Ai cũng nghĩ như tôi song sau khi thằng Ba lên làm bí thư thời gian thì tôi biết mình lầm, cái sai lầm tai hại cho chính bản thân tôi. Tôi biết mình đã nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà. Chú Ba tuy dốt mà hổng có ngu đần và khờ khạo như tôi tưởng. Mưu mô, thủ đoạn, xảo quyệt, gian manh của chú Ba chẳng sút Tào Tháo.

Đang ngồi Ba Duân bật lên tiếng cười ngắn khi nghe Hình Chí Mô nói tới câu sau cùng.

- Bây giờ bác mới biết à.

Sáu Búa cũng phụ họa.

- Hì. hì. Bác lừa nhiều người mà rốt cuộc lại bị đàn em gạt. Bởi vậy ông Mác có nói thằng dốt mà lưu manh thì nó lưu manh hơn thằng có học gấp mười lần.

Diêm Vương xen vào câu chuyện bằng câu hỏi.

- Đâu ngươi nói cho ta nghe thằng Ba Duân và Sáu Búa nó gạt ngươi bằng cách nào?

- Bẩm Diêm Vương. Con cũng cẩn thận lắm khi giao quyền lại cho chú Ba. Trước hết con cho chú làm phụ tá của con với cái chức Bí Thư Thứ Nhất. Điều mà con hổng có ngờ là trước mặt con thì dạ dạ vâng vâng, tỏ ra dễ bảo dễ sai như học trò, mà sau lưng thì chú ấy đâm sau lưng đồng chí, âm thầm tạo bè lập đảng cũng như tìm mọi cách triệt hết tay chân bộ hạ hoặc những người thân tín của con. Chú Ba nói với con như vầy: ” Em thì dốt và chưa có quen biết nhiều các đồng chí trung ương vì vậy mà khó nói chuyện với họ lắm. Em xin bác cho chú Sáu làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng. Ai mà chống đối bác và đảng là em sai thằng Sáu nó xách búa tới hỏi thăm sức khỏe liền.”

Nói tới đó Hình Chí Mô quay lại như muốn phân bua với Diêm Vương.

- Bẩm Diêm Vương. Con thì cả tin và ngây thơ ngờ nghệch nên làm theo lời chú Ba nó tâu.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ khi nghe lão Hình nói ” ngây thơ ngờ nghệch”.

- Sau đó chú Ba còn xin cho chú Thanh làm chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội nhân dân Việt Nam. Cơ quan này có nhiệm vụ kiểm soát chặt chẽ các cấp chính ủy trong quân đội, đặt quân đội dưới quyền chỉ huy và lãnh đạo tuyệt đối của đảng. Chú ba còn ton hót là dùng chú Thanh để kềm thằng lùn, kiểm soát và chia bớt quyền hành cũng như ảnh hưởng của thằng tướng lùn trong quân đội. Cũng sợ thằng ” đại tướng lùn ” lật đổ mình nên con mới bằng lòng cho chú Thanh làm chủ nhiệm và thăng chức đại tướng cho chú ấy.

Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Hình Chí Mô.

- Ông giữ chức vụ gì trước khi và sau khi cho Ba Duân làm bí thư thứ nhất?

- Tôi làm đủ thứ hết. Chủ tịch đảng Lao Động kiêm Tổng bí thư đảng Lao Động kiêm Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ kiêm Chủ tịch quân ủy.

Diêm Vương xì tiếng dài.

- Cái gì mà kim kim chỉ chỉ nhiều vậy. Thôi kể tiếp cho ta nghe chuyện hai thằng bất nhơn họ Lê ăn hiếp ngươi đi.

- Bẩm Diêm Vương. Thằng Sáu Búa đúng là trật búa. Nó điêu ngoa, xảo quyệt, đã khôn lại ác vô cùng. Sau khi ngồi vào chức Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng, nó đã biến cái tổ chức bàn giấy này thành một cơ quan siêu quyền lực trong bóng tối với những trò ma giáo.

- Trò ma giáo là trò gì vậy ông?

Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô. Ngập ngừng giây lát lão thở hơi dài lên tiếng.

- Nó lập ra sáu ban mà tôi gọi là sáu đảng. Đó là thứ đảng trong đảng. Mỗi ban tượng trưng cho một cái búa bởi vậy thiên hạ mới cho nó cái tên Sáu Búa. Sáu ban này là sáu cái búa đập đầu những kẻ chống lại nó; là sáu sợi dây thòng lọng xiết cổ, trói tay chân tôi, thủ hạ của tôi và tất cả các đảng viên cao cấp trong bộ chín chị và luôn cả cấp bí thư tỉnh nữa. Như Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng thời Sáu Búa cho Trần Quyết trông coi. Ban Nội Chính Trung Ương Đảng thì thằng Hoàng Thao làm trưởng ban. Ban Bảo Vệ Bộ Chín Chị thì thằng Nguyễn Đình Hưởng làm xếp. Ban Chỉ Đạo Trung Ương Đảng dành cho Nguyễn Đức Tâm. Thằng Nguyễn Trung Thành đứng đầu Ban Bảo Vệ Đảng. Riêng Cục Chính Trị Trung Ương Đảng để cho thằng Kim Chi làm xếp. Sáu ban này có nhiệm vụ thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ mọi hành vi của các ủy viên trung ương đảng. Nó có quyền thẩm tra các ủy viên bộ chín chị. Nó xem xét tư tưởng và quan điểm chính trị của các đảng viên được chọn vào ban chấp hành trung ương đảng, vào bộ chính trị, vào quốc hội và các cơ quan của nhà nước. Riêng trong quân đội thằng Sáu còn đặt ra Ban Bảo Vệ Cục Chính Trị trực thuộc Cục An Ninh Bộ Nội Vụ để giám sát tư tưởng và hành vi mọi sĩ quan cao cấp ở bộ quốc phòng, bộ tổng tham mưu xuống tới quân khu, sư đoàn và luôn cả trung đoàn nữa.

Kể lể một hơi thật dài lão Hình ngừng lại uống ngụm nước cho thông cổ. Nhân cơ hội Thôi Phán Quan bước tới chỗ Sáu Búa đang ngồi.

- Ông có phản biện những gì bác của ông nói không?

Sáu Búa lắc đầu cười.

- Tôi cũng như thiên lôi vậy mà. Xếp bảo tôi búa ai tôi búa người đó liền.

- Xếp của ông là ai?

Liếc nhanh Ba Duân đang ngồi bên cạnh vị trưởng ban tổ chức trung ương đảng cười cười.

- Thưa ngài biện lý tôi được bác đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của anh Ba.

Ba Duân cười hực.

- Tui chỉ đạo nó hay nó chỉ đạo tui. Nó là xếp của tui đó. Mới đầu tui cho nó làm trưởng ban tổ chức trung ương đảng rồi nó tổ chức làm sao mà tới chừng biết ra tui chỉ biết cắn răng và bóp hai hòn bi của mình cho khỏi tức tối. Nó tổ chức người của nó giám sát cả tôi nữa. Nó đưa đàn em, tay chân bộ hạ của nó vào làm ủy viên trung ương đảng.

Phạm Văng Vàng vọt miệng xen vào.

- Có lần Anh Ba than với tôi như vầy: ” Nhân sự trung ương khóa 4, khóa 5 tôi chỉ biết một phần ba còn hai phần ba ở đâu ra tôi chẳng biết cái gì.”

Đợi cho Phạm Văng Vàng dứt lời, Ba Duân mới thong thả thốt.

- Nói đúng ra thì chú Sáu làm việc có lợi cho chú ấy và cho tui nữa. Có lợi cho cả hai.

- Sáu Búa làm cái gì lợi cho ông?

Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Thấy Ba Duân dụ dự không chịu trả lời ông ta cười.

- Ông biết điều nên khai thật trước tòa. Tôi nắm bắt được bằng chứng và nhân chứng về các điều mà ông với Sáu Búa đã làm.

Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta đang soi mói nhìn mình, vị bí thư thứ nhất thở dài thốt.

- Sáu Búa nói với tôi như vầy: ” Tôi làm là vì lợi lộc của anh và tôi.”

- Hắn làm cái gì lợi cho ông?

Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình. Ba Duân cười cười.

- Biết tôi thích ” ấy ” nên chú Sáu luôn luôn thỏa mãn nhu cầu của tôi. Hổng biết chú ấy kiếm ở đâu mà tuyển vào cung của tôi nhiều cô ” cần vụ ” ngon ơi là ngon. Mới đầu vì thể diện của đảng nên tôi thoái thác thì chú Sáu nói là để anh Ba thoải mái hầu sống lâu đặng phục vụ nhân dân. Mấy cô cần vụ chuyên nghề đấm, bóp này thiệt giỏi, đụng tới đâu tê tới đó.

Cười mím chi Thôi Phán Quan hắng giọng.

- Tôi có nghe đồn ông được một cô đấm, bóp làm cho ngất ngây, sướng tê người nên ông đã ký giấy tặng cho cô đấm bóp này hai căn nhà ở tại thủ đô Hà Nội. Điều này có thực không?

- Hổng có đâu…. hổng có đâu. Tui đâu có làm chuyện kỳ cục đó.

Thôi Phán Quan cười hực.

- Cô Hồng đấm, bóp cho ông làm chủ hai căn nhà một ở Kim Liên và một ở Bách Khoa đang ngồi dưới kia. Ông muốn tôi kêu cô ta lên đây đối chất?

Ba Duân ú ớ rồi làm thinh. Bỏ bị can Ba Duân, vị biện lý bước tới chỗ Hình Chí Mô ngồi.

- Tôi nghe đồn khi đề cử Ba Duân vào chức bí thư thứ nhất thì ông rảnh rang lắm.

Hình Chí Mô cười cười không nói gì hết. Thật lâu lão mới thong thả lên tiếng.

- Chú Ba và chú Sáu nó nói tôi một đời bôn ba cách mạng, gian khổ nhiều rồi, nên lúc này rảnh rang tôi hãy hưởng thụ tuổi già còn lại trước khi về với ông Mác. Bởi vậy mà hai chú ấy ít khi cho tôi tham dự các cuộc họp của bộ chín chị. Họa hoằn lắm tôi mới được đi họp mà trong các buổi họp hể tôi mở miệng định nói thì chú Sáu ngồi kế bên lại lên tiếng rầy: ” Bác nói nhiều rồi nên để người khác nói…” Tuy nhiên chú Sáu cũng điệu nghệ lắm. Biết tôi tuổi già mà còn sung sức, còn ham cái vụ ấy nên chú săn sóc kỹ lắm. Nắm chức trưởng ban tổ chức trung ương đảng, chú Sáu cử vệ sĩ bảo vệ tính mạng cũng như bác sĩ chăm sóc sức khỏe và tẩm bổ cho tôi hằng ngày. Biết tôi ở tuổi hồi xuân nên chú ấy phái mấy cô cần vụ vào phủ chủ tịch đấm bóp để giải tỏa bầu tâm sự.

Đang ngồi bên kia Phạm Văng Vàng chợt lên tiếng nói với Thôi Phán Quan cốt ý ngắt lời Hình Chí Mô.

- Bác của tôi bây giờ già rồi. Nhiều lúc nói năng kể lể lẩm cẩm lắm. Chúng tôi muốn cho ông ta sống để vui thú thê nhi và được nhìn thấy đất nước thống nhất, nhưng chúng tôi cố gắng giấu không cho ông ta biết càng nhiều chi tiết chừng nào càng tốt chừng đó.

- Ông nói chúng tôi là ai?

Liếc nhanh Ba Duân và Sáu Búa, Phạm Văng Vàng cười trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

- Thưa ngài biện lý. Chúng tôi là anh Ba, anh Sáu, anh Năm, ông Tố và tôi.

Ngồi dưới bàn bị can Tố Bồi Bút chợt chỏ miệng lên nói lớn.

- Ông cụ bây giờ lẩm cẩm rồi nên ngoài cái chuyện ấy ông cụ dành thì giờ viết văn và làm thơ.

Đang ngồi lim dim ngủ nghe nói tới chuyện văn thơ, Diêm Vương chợt mở mắt ra và sắm nắm hỏi.

- Thế à. Thằng Hình mà cũng viết văn làm thơ nữa à. Nó quả là một nhân tài hiếm có. Đâu ngươi lên ghế nhân chứng ngồi kể chuyện văn chương của bác ngươi cho ta nghe coi.

Được Diêm Vương cho phép, Tố Bồi Bút cười hể hả lên ngồi vào ghế nhân chứng.

- Bẩm Diêm Vương. Bác của con là một thi sĩ đại tài. Vì mãi lo chuyện cách mạng nên không có dịp làm thơ, chứ nếu mà bác chịu khó làm thơ thì không sút Lý Bạch hay Đỗ Phủ đâu. Bác của con mà làm thơ và viết văn thì sẽ được người ta khen như vầy: ” Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán. Thi sụp Tùng Tuy, nát Thịnh Đường.”

Thôi Phán Quan nhếch môi cười khi nghe ông văn nô họ Tố nâng bi lãnh tụ. Còn Diêm Vương thì lên tiếng.

- Ngươi đúng là thằng chuyên môn bợ. Đâu ngươi đọc văn của thằng Hình cho ta nghe xem có lọt lỗ tai không mà ngươi dám nói là ” văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán.”

Được Diêm Vương cho phép Tố Bồi Bút cao giọng kể.

- Một bữa nọ bác cho bảo vệ mời con vào trong phủ chủ tịch ăn cơm và sẵn đó bác đem khoe bản thảo một tập hồi ký kể lại thời hoạt động cách mạng. Con đọc lướt qua và có nhớ một truyện ngắn như thế này. Trong lúc đi kháng chiến bác tình cờ quen với một cô nữ sinh ở trong Nam ra thăm viếng bác. Không biết mối quan hệ tình cảm giữa bác với cô nữ sinh đó như thế nào mà thời gian sau bác nhận được lá thư của cô nữ sinh từ trong nam gởi ra. Nguyên văn của lá thư như thế này: ” Hôm ấy, bác đòi thảo luận với con về chuyện ấy. Tuy nhiên sau khi đả thông tư tưởng để kiên định lập trường, bác muốn ấy mà con thì con chưa sẵn sàng chuyện ấy nên con hổng có muốn ấy. Bây giờ con muốn ấy rồi. Nếu bác muốn ấy thì xin bác vô trong Nam mà ấy…” Bẩm Diêm Vương ngài nghe có lọt lỗ tai không?

Diêm Vương gật gù cười.

- Không những lọt lỗ tai mà điếc con ráy của ta nữa. Ngươi với thằng Hình sao giống nhau quá. Ngươi làm thơ thì có chữ chục chữ ” thương ” còn thằng Hình viết văn thì cũng ngần tiếng ” ấy “…

Hỏi xong thấy Hình Chí Mô giơ tay lên xin nói, Diêm Vương chưa kịp cho phép lão ta nói thì Sáu Búa, ngồi bên cạnh đã lên tiếng trước.

- Bác nói nhiều rồi nên để cho người khác nói.

Nói xong câu đó thấy Hình Chí Mô vẫn mấy máy môi, Sáu Búa vội vàng đưa tay ra bịt mồm của lão ta lại. Thấy cử chỉ ” tôn trọng quyền ăn nói ” của Sáu Búa, Diêm Vương chỉ cười liếc Thôi Phán Quan trong lúc giọng của Tố Bồi Bút vang đều đều.

- Bẩm Diêm Vương. Cái đó tiếng Việt của con gọi là hai tâm hồn đồng chí gặp nhau trong ánh sáng của xã hội chủ nghĩa.

- Ủa mà sao ta hổng nghe ngươi nói cái tựa của tập hồi ký của thằng Hình.?

- Bẩm Diêm Vương. Bác vốn tính khiêm nhường lắm. Con hỏi mấy lần bác mới chịu nói. Bác bảo tựa của tập hồi ký là ” Cái Ấy Của Bác Vừa Đi Vừa Gật Gù “. Tuy nhiên vì cảm thấy cái tựa quá duy vật và quá hiện thực, con đề nghị bác đổi cái tựa thành Vừa Đi Vừa Gật Gù. Như vậy có vẻ văn chương và lãng mạn hơn.

Cười cười Diêm Vương hỏi lại họ Tố.

- Ủa. lãng mạn là của tụi tiểu tư sản bày ra mà sao lại có trong văn thơ bác ngươi vậy?

Tố Bồi Bút đớ người khi bị Diêm Vương đá giò lái. Hắn ta chưa kịp lên tiếng, Thôi Phán Quan cười cười xen vào câu chuyện.

- Bác của ông đúng là nhà văn siêu thực và siêu duy vật. Thật đúng với câu ” Văn hơn Siêu Quát, hơn Tiền Hán “… Thế rồi bác có viết thư hồi âm cô nữ sinh miền Nam không?

Tố Bồi Bút nhanh nhẩu đáp.

- Có chứ. Thư hồi âm của bác dài lắm. Bác viết rồi mà chưa gởi vì lúc đó tình hình trong Nam sôi động lắm nên thư từ đi lại khó khăn. Vì vậy mà con mới có dịp để đọc lá thư tình đẫm lệ của bác. Thư hồi âm của bác như thế này.

- Cháu ấy.

Thấy Diêm Vương nhìn mình, Tố Bồi Bút hiểu ý cười giải thích.

- Bẩm Diêm Vương. Chính con cũng théc méc về từ ” Cháu ấy ” này. Số là mấy chục năm bôn ba cách mạng, bác quen biết nhiều phụ nữ quá nên bác hổng nhớ hết tên. Vả lại bác bảo đối với ” cháu gái miền Nam “ này vì thảo luận chuyện ấy chưa sâu nên bác quên tên rồi. Ngoài ra cô em gái miền Nam viết thư chỉ nói về chuyện ấy nên bác phải viết ” Cháu ấy ” cốt ý nhắc nhở cho cô ta về chuyện ấy.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

- Bác của ngươi làm cách mạng gì mà tối ngày ta cứ nghe nói toàn chuyện ấy. Ta đề nghị đổi tên bác của ngươi ra Bác Ấy hay Cụ Ấy. Thôi bỏ qua chuyện viết văn. Ta muốn ngươi đọc thơ của bác ngươi cho chín vị bồi thẫm nghe.

- Bẩm Diêm Vương. Ngài mà nghe con đọc thơ của bác xong ngài tưởng như mình đang ở trên thiên đường xã hội chủ nghĩa. Số là hồi lúc mới qua bên Tây làm cách mạng, bác của con hành nghề thợ nháy.

- Nó nói cái gì vậy tụi bây?

Diêm Vương ngơ ngác hỏi nhỏ mấy người đang ngồi chung quanh kể cả bốn nhân chứng và hai bị can. Phạm Văng Vàng lên tiếng trước nhất.

- Bẩm Diêm Vương. Thợ nháy là phó nháy hay phó nhòm là thợ chụp hình đó.

Vị vua âm phủ hừ tiếng nhỏ.

- Lũ ngươi thiệt là lắm chuyện. Chụp hình thì nói đại đi còn chế ra nào thợ nháy, phó nháy, phó nhòm. Thôi thằng Tố kể tiếp chuyện bác của ngươi làm thơ đi.

- Bẩm Diêm Vương. Lúc mới qua tây chẳng có nghề ngỗng gì hết nên bác đi làm thợ chụp ảnh… dạ chụp hình. Rồi bác quen một cô đầm tên Marie Bière. Hai người hò hẹn với nhau và con nghĩ chắc có quan hệ luyến ái nên bác mới làm bài thơ tặng cho cô đầm đó. Bài thơ dài lắm mà vì đọc thoáng qua nên con chỉ nhớ có đoạn đầu. Bẩm Diêm Vương bài thơ như vầy:

- Marie ơi!!!
Anh thấy trong mắt em
Một thân hình thiên tả
Anh thấy giữa đùi em
Một cái gì quá đã…

Em Marie ơi
Nhìn vào mắt em
Anh thấy
Chiều Paris mưa rơi tầm tả
Nhìn sâu xuống chút nữa
Anh chợt cười ha hả
Ôi giai cấp vô sản
Ôi xã hội chủ nghĩa
Cũng chưa bằng” cái ấy của em ” đâu.

Có tiếng Đán cười sằng sặc dù anh đã bụm miệng cố không cho tiếng cười phát ra. Quay qua Huyền, Bình lại thấy cô bạn gái đỏ mặt tủm tỉm cười một mình. Trông lên anh thấy Diêm Vương lắc đầu quầy quậy, còn Thôi Phán Quan thì quay mặt sang chỗ khác để giấu nụ cười.

- Bẩm Diêm Vương. Ngài nghĩ sao về bài thơ hiện thực và tả chân cẳng của bác con. Bác có đáng liệt hàng thi bá như Nguyễn Du không?

Hỏi xong thấy Diêm Vương đang trợn mắt nhìn mình, Tố Bồi Bút cười phang một câu.

- Bác con còn làm nhiều bài thơ khác hay lắm.

Diêm Vương lắc đầu quầy quậy.

- Thôi cám ơn. Bác của ngươi viết văn thì viết chuyện ấy, còn làm thơ thì cũng có cái ấy của em… Ta mà nghe thơ tình thiên tả của thằng Hình riết chắc ta sẽ mắc bệnh thổ tả.

Nói xong thấy đã tới giờ ông ta ra lệnh ngưng phiên xử cho mọi người đi ăn trưa xong sẽ tiếp tục đúng hai giờ chiều.

giavui
07-11-2014, 09:00 PM
-19-
Vô ác bất tác

- Muốn thay thế bác lên làm tổng bí thư nên tui với chú Sáu vẽ ra cái vụ xét lại chống đảng. Nửa đêm chú Sáu cho công an bắt Vũ Đình Huỳnh, Hoàng Minh Chính, Đặng Kim Giang và nhiều người lắm mà chính tui cũng chả biết họ có tội gì nữa. Ngoài ra chú Sáu sai đàn em lục lạo trong văn khố của thực dân Pháp tìm ra được lá thư của ” thằng lùn ” hồi còn nhỏ làm đơn xin với tụi thực dân cho đi học trường tây. Thế là tụi tui phao truyền để bêu xấu ” đại tướng lùn “. Sau một cuộc bỏ phiếu mật tụi tui loại Võ đại tướng ra khỏi bộ chín chị và cho ông ta ở nhà nựng cô vợ trẻ. Không có mặt ông tướng lùn, tui với Sáu Búa, anh Năm Thận và tướng Dũng, từ năm 1963 bắt đầu phác họa cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân .

Thôi Phán Quan lên tiếng ngắt lời Ba Duân.

- Ông xác nhận chính ông, Sáu Búa, Năm Thận và đại tướng Dũng chính thức chỉ đạo cuộc tổng công kích Mậu Thân.

Quay đầu nhìn về phía Diêm Vương đang ngồi chênh chếch sau lưng của mình, Ba Duân hỏi.

- Bẩm Diêm Vương. Con có phải trả lời câu hỏi này?

Vị vua của âm phủ mỉm cười buông giọng lửng lơ.

- Ngươi nói ra thì tốt, nhược bằng không nói cũng hổng có vấn đề.

Ba Duân hơi có vẻ suy nghĩ về câu nói chứa ẩn ý của Diêm Vương. Liếc qua phía bên kia thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn mình để chờ nghe câu trả lời, hắn biết là sớm muộn gì cũng phải nói ra.

- Chủ trương thôn tính miền Nam bằng súng đạn nên tui đã lập một ủy ban gồm nhiều đồng chí thân tín. Phe dân sự thì có tui, chú Sáu, anh Năm, anh Tô và anh Tố. Còn phe quân sự thì có tướng Dũng và bộ tham mưu của ông ta. Phải mất thời gian dài, ủy ban mới đúc kết được một kế hoạch tổng công kích và tổng nổi dậy vào đầu năm 1968. Lực lượng tham chiến đa số gồm Giải phóng quân miền Nam và một ít bộ đội chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam. Tất cả cộng lại khoảng 100 tiểu đoàn, tức độ 100 ngàn người, đồng loạt mở cuộc tấn công vào 36 thủ phủ, 5 thành phố và 64 tỉnh lỵ của tụi ngụy.

Nói tới đó Ba Duân ngừng lại uống ngụm nước cho thấm giọng rồi cười nói với Thôi Phán Quan.

- Một điều buồn cười là đám lãnh tụ của ngụy quá khờ khạo, tin vào chuyện hưu chiến. Nó quên mất câu ” binh bất yểm trá ” nên quan lớn, quan nhỏ, lính tráng đều lo ăn tết và say sưa nhậu nhẹt tưng bừng. Bởi vậy khi bộ đội vào thành chúng hoảng hồn la làng chói lọi. Phải nói tướng Dũng với bộ tham mưu của ông ta đã vẽ kế hoạch và thực hiện cuộc tổng công kích và tổng nổi dậy đúng như ý của tui muốn.

Ba Duân ngừng lại như để suy nghĩ và sắp xếp lời nói. Phòng xử im lặng như tờ vì mọi người hầu như nín thở để nghe những chi tiết chưa hề được tiết lộ từ cửa miệng của nhân vật nắm quyền lãnh đạo hai mươi ba năm ở miền Bắc từ năm 1963 cho tới 1986.

- Lực lượng tham chiến chính gồm 100 tiểu đoàn của quân giải phóng miền Nam được điều động như sau. 35 tiểu đoàn và 18 đại đội tấn công Vùng 1; 28 tiểu đoàn đánh Vùng 2; 15 tiểu đoàn đồng loạt tập kích Vùng 3 và 19 tiểu đoàn quấy phá Vùng 4 chiến thuật của ngụy. Triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ, tụi tui giữ bí mật tới giờ phút chót cũng như dùng kế dương đông kích tây giả vờ pháo kích Khe Sanh và xử dụng bộ đội chính qui tấn công cứ điểm này để đánh lạc hướng của tụi Mỹ Ngụy.

- Tôi nghe nói là chính các ông đề nghị hưu chiến ba ngày tết. Đúng không?

- Đúng. Tụi tui tuyên bố hưu chiến trước và tụi Mỹ Ngụy khờ quá nên tin tưởng vào lời tuyên bố này. Cho tụi nó học bài học mới khôn ra. Sau này Thiệu nói được một câu nghe lọt lỗ tai lắm. ” Đừng có tin những gì tụi tui nói mà hãy nhìn những gì tụi tui làm.”

Ba Duân cười hì hì nhìn Thôi Phán Quan giây lát xong tiếp lời.

- Tui chỉ đạo cuộc tổng công kích nhưng điều động các đơn vị chiến đấu thì thuộc phần của tướng Dũng. Ông muốn biết chi tiết thì phải hỏi ông ta.

Liếc nhanh Diêm Vương thấy ông ta gật đầu, Thôi Phán Quan bèn mời tướng Dũng lên ngồi vào ghế nhân chứng.

- Theo như lời của Ba Duân thì ông là người chịu trách nhiệm về phần quân sự của cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân?

- Chính tôi.

Văn đại tướng trả lời gọn.

- Xin hỏi ông lúc đó Võ đại tướng đang ở đâu?

- Ổng đang chữa bịnh ở nước Hung.

Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan nói bằng giọng lịch sự.

- Tôi nghe đồn các ông dùng mật lệnh.

Nhẹ gật đầu Văn đại tướng hắng giọng.

- Đúng đêm trừ tịch trước giờ giao thừa, bài thơ chúc Tết của bác được phát thanh trên đài Hà Nội. Nó chính là mật lịnh được truyền đi khắp hai miền Bắc Nam báo hiệu cuộc tổng công kích bắt đầu.

- Ông còn nhớ bài thơ?

- Thưa tôi nhớ chứ. Đó là bài thơ 28 câu như vầy:

- Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên toàn thắng ắt về ta…

Nghe xong hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi Diêm Vương nói với Đán.

- Hình Chí Mô cũng dính dáng vào vụ thảm sát thường dân vô tội Tết Mậu Thân à. Vậy mà ta hỏi nó thì nó chối leo lẻo, bảo rằng không biết gì. Nếu không biết thì tại sao nó lại ra mật lệnh tổng tấn công bằng cách đọc bài thơ chúc tết. 9 vị bồi thẫm nên ghi nhớ điều đó khi thảo luận về hình phạt dành cho Hình Chí Mô.

Nói xong Diêm Vương ra lệnh cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử. Bước về bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ dày cộm, vị biện lý của âm phủ tới đứng trước chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi. Giọng nói của vị đại diện cho luật pháp của âm phủ vang rền trong phòng xử chứa mấy ngàn người.

- Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Âm phủ chúng tôi, sau thời gian tìm kiếm đã sưu tập và đúc kết một hồ sơ về tội ác của đảng cộng sản Việt Nam vào thời gian mà hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Tội ác của chúng nếu kể ra thì nhiều vô số kể, cho nên tôi tạm thời qui vào năm biến cố của lịch sử Việt Nam. Đó là vụ thảm sát Tết Mậu Thân năm 1968, vụ bắn giết thường dân ở Quảng Trị được mọi người biết tới qua tên Đại Lộ Kinh Hoàng. Thứ ba là sau khi cưỡng chiếm được miền Nam bằng súng đạn, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với các đồng chí thân cận đã bỏ tù, đày ải hơn nửa triệu người vào các trại tập trung và cải tạo. Ăn cướp của dân lành, lưu đày dân chúng đi Vùng Kinh Tế Mới, bọn chúng đã khiến cho hàng trăm ngàn người chết vì đói và bệnh tật. Thứ tư là với tham vọng điên cuồng, hai tên Ba Duân và Sáu Búa cùng với đám tướng tá trong quân đội đã nướng hơn 50 ngàn binh sĩ vào cuộc chiến tranh xâm lược nước láng giềng Cao Miên. Thứ năm với chủ trương ăn cướp miền Nam sau năm 1975, với tiêu đề đánh tư sản mại bản, chúng xua, chúng đuổi một triệu dân lành ra đại dương để đi tìm tự do vì họ không thể sống dưới chế độ độc tài vô nhân của cộng sản. Không ai biết đích xác bao nhiêu người đã chết trên biển cả. Danh từ ” thuyền nhân ” trở thành một thảm họa kinh khiếp đồng thời cũng là một vết nhơ cho dân tộc Việt Nam. Hơn bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và mở nước, dân Việt Nam chưa bao giờ phải bỏ nước ra đi một cách ồ ạt và sợ sệt như khi cộng sản thôn tính cả ba miền Nam trung bắc. Nói tới cộng sản trước tiên người ta phải nhắc tới tội ác, không phải của cá nhân mà là một ” tập thể các đồng chí” xem sự giết người như một phương tiện để thực hiện mục đích và tham vọng thống trị của mình. Để dễ dàng cho bồi thẫm đoàn cũng như tất cả mọi người theo dõi, tôi xin nêu ra đây tội ác thứ nhất của hai tên Ba Duân và Sáu Búa.

Ngừng lại giây lát, Thôi Phán Quan cao giọng tiếp.

- Thứ nhất trong vụ tổng công kích đợt 1, 2 và 3, có hơn 100 ngàn người chết bao gồm thường dân vô tội và binh sĩ của hai phe. Đó là tôi chưa kể tới những người bị thương tật và tài sản của dân chúng đã bị hủy hoại.

Ngừng lại uống ngụm nước, Thôi Phán Quan nhìn hai bị can rồi hỏi một câu.

- Tôi nghe đồn là hai ông ghét người miền Nam lắm. Đúng không?

Ba Duân và Sáu Búa nhìn nhau. Dĩ nhiên chúng biết mặc dù nói ” nghe đồn “ song Thôi Phán Quan đã biết rõ điều đó. Cuối cùng Ba Duân lên tiếng.

- Tôi nhìn nhận là tôi không ưa dân Nam bộ trừ…

- Trừ cái gì?

Thôi Phán Quan gằn giọng hỏi. Ba Duân cười nhẹ.

- Trừ đàn bà con gái. Phụ nữ Nam bộ đẹp, hiền, ngây thơ và thành thật. Họ hổng có lém lỉnh nên mình dễ gạt họ hơn. Nói đúng ra thì dân Nam bộ hổng có thủ đoạn nên dễ bị tui gạt.

- Trong cuộc tổng công kích năm 1968, hy sinh hơn 100 ngàn bộ đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, ông nghĩ là ông thắng hay bại. Ông gặt hái được kết quả gì?

Trầm ngâm giây lát Ba Duân thong thả trả lời.

- Chuyện này xảy ra đã lâu rồi nên tôi cũng chẳng muốn giấu diếm hoặc che đậy làm gì. Tui đã tính kỹ lắm khi mở ra cuộc tổng công kích năm 68. Đó là một mũi tên bắn ba con chim. Đầu tiên là nướng hết bộ đội chủ lực của phe Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

- Ông nướng hết các đồng chí Nam bộ của ông với mục đích gì?

Ba Duân cười cười liếc nhanh Hình Chí Mô rồi từ từ lên tiếng.

- Tui sợ tụi nó làm loạn với lại đòi chia quyền sau khi lấy được miền Nam. Bởi vậy tui với chú Sáu phải tiên hạ thủ vi cường. Sau khi tổng công kích đợt 3 xong là tui đưa quân miền Bắc vào thay thế và giám sát chặt chẽ đám Nguyễn Hữu Thọ. Thằng nào lạng quạng là bị chích thuốc chết liền. Thứ nhì là quân của ngụy đánh với quân giải phóng thì đứa nào cũng ngất ngư còn tụi tui đứng ngoài vỗ tay mừng chiến thắng. Phần đế quốc Mỹ thì sau vụ Mậu Thân, phong trào phản chiến lên cao khiến cho dân chúng chán nản chiến tranh không còn muốn chánh phủ Mỹ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến tranh xâm lược nữa.

Ngồi bên kia Sáu Búa chợt bật lên tiếng cười thích thú lẫn mỉa mai.

- Mấy thằng Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam khờ ơi là khờ. Còn tụi lính ngụy cũng dễ tin mà tụi đế quốc Mỹ lại còn ngây thơ hơn nữa. Để tôi nói cho ông nghe như thế này. Mặt trận giải phóng miền Nam có hơn 100 ngàn quân. Nếu tụi nó đòi ly khai, đòi độc lập với bác và đảng hoặc khi lấy được miền Nam rồi tụi nó đòi chia ghế chia quyền thì chúng tôi đâu có làm gì được. Bởi vậy chúng tôi mới dàn dựng ra vụ tổng công kích để nướng hết bộ đội miền Nam rồi sau đó gởi quân miền Bắc vào kiểm soát hết hổng cho tụi nó cục cựa gì được. Còn tụi ngụy thì tuy chúng tôi không gây thiệt hại nặng về quân lực song cũng làm cho nó bị khó khăn nhiều về mặt kinh tế và tinh thần. Ngoài ra vụ tổng công kích đã gây tiếng vang lớn trong dân Mỹ khiến cho họ thôi ủng hộ chính phủ kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược phe xã hội chủ nghĩa. Ông thấy cách một mũi tên bắn ba con chim của chúng tôi có kết quả mỹ mãn chưa, mặc dù chúng tôi phải thí hơn 100 ngàn bộ đội của Mặt trận. Cá nhân tôi với anh Ba không ưa mấy thằng Nam bộ, do đó dù phải nướng hơn trăm ngàn thằng mà thu được lợi lớn thì tội gì chúng tôi không làm.

Khẽ gật đầu Thôi Phán Quan quay qua hỏi Ba Duân.

- Chắc ông biết vụ Đại Lộ Kinh Hoàng?

Ba Duân cười cười xì tiếng dài.

- Kinh cái gì mà kinh. Tụi ngụy nó thổi phòng lên đó ông ơi. Bộ đội chỉ bắn chết có chừng chục ngàn dân mà tụi nó la om xòm.

- Theo như tôi biết thì chục ngàn dân đó là dân Quảng Trị, đồng hương với ông.

Ba Duân lắc đầu.

- Tôi hổng có quê hương, tổ quốc, đồng bào, đồng hương gì hết. Tui chỉ biết có đảng. Đám dân đó đáng lẽ khi bộ đội về thành thì họ phải ở lại hợp tác và ủng hộ bộ đội. Đằng này bộ đội chưa tới họ đã chạy về phía ngụy. Như thế là họ ủng hộ mỹ ngụy. Bởi vậy bộ đội mới bắn họ. Riêng vụ tù cải tạo thì như thế này. Ông nghĩ coi có ai khờ khạo và ngây thơ như đám quân dân cán chính của ngụy không. Đi ở tù mà tụi nó còn mang theo quần áo, chăn chiếu và tiền bạc. Bộ tụi nó tưởng đi nghỉ hè à.

- Tôi nghe một tin đồn là khi có người hỏi ông xử trí cách nào với những kẻ thua trận của miền Nam thì ông làm như vầy.

Thôi Phán Quan đưa tay lên cứa ngang cổ của mình xong nghiêm giọng hỏi.

- Dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?

Ba Duân làm thinh giây lát mới cười thốt.

- Tui đùa cho vui vậy mà.

Không cười, Thôi Phán Quan lập lại câu hỏi của mình.

- Tôi hỏi ông dấu hiệu đó có ý nghĩa gì?

Liếc nhanh Diêm Vương đang hầm hè nhìn mình, Ba Duân gắng gượng trả lời câu hỏi.

- Dấu hiệu đó có nghĩa là cắt cổ, là giết chết.

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ.

- Giết chết mấy trăm ngàn người. Bộ ngươi điên à?

Liếc nhanh Sáu Búa đang ngồi im suy nghĩ, Ba Duân lắc đầu.

- Bẩm Diêm Vương… Con hổng có điên mà con làm đúng theo lời bác và đảng đã dạy. Chẳng thà giết lầm hơn tha lầm. Chẳng thà bỏ tù lầm một triệu thằng ngụy còn hơn tha lầm mấy chục ngàn. Với lại tụi nó sống tự do và no ấm hai chục năm rồi thì ở tù vài năm đâu có sao…

Nghe Ba Duân nói Diêm Vương lắc đầu ngao ngán. Hướng về phía chín vị bồi thẫm ông ta nói lớn.

- Lũ bây toàn ăn nói ngược ngạo. Ở âm phủ của ta đây thì ‘‘ thà tha lầm mười người còn hơn bỏ tù lầm một người “. Còn ở cái xứ độc tài đảng trị của lũ bây thì lại nói ” chẳng thà bỏ tù lầm mười người còn hơn tha lầm một người ”. Ngươi với thằng Trật Búa hay Sáu Búa gì đó thì tội ác ngập đầu. Tiếng người ta nguyền rủa, than oán về hai ngươi đã động tới thiên đình. Ông trời nghe hoài nhức đầu quá khiến ổng nổi giận mới ra lệnh cho ta bắt ngươi và thằng Sáu Búa xuống âm phủ sớm hơn mười lăm năm…

Tuy muốn nói nữa song bắt gặp cái nháy mắt ra hiệu của Thôi Phán Quan, Diêm Vương cười nhẹ gật đầu phán.

- Sau đây ta xin nhường lời lại cho Thôi Phán Quan…

Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi vị biện lý của âm phủ cao giọng.

- Theo luật lệ của âm phủ thì tội giết người được chia ra hai loại. Đó là cố sát và ngộ sát. Ngộ sát hay giết người vì tự vệ hoặc lầm lỡ mà làm thiệt mạng của người khác, tội này tuy bị phạt song cũng được luật pháp giảm án nặng nhẹ tùy theo tội trạng và hoàn cảnh. Riêng tội cố sát hay cố ý giết người thì âm phủ có hình phạt rất khắt khe dành cho những kẻ nào chủ mưu giết người…

Quay nhìn về phía bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.

giavui
07-11-2014, 09:00 PM
- Thú dữ còn không ngoảnh mặt với đồng loại của nó. Như con khỉ, khi con cái chết nó còn biết thương xót. Người xưa có câu ” Con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ…”. Hai bị can Ba Duân và Sáu Búa, là người có ăn học; tuy nhiên chỉ vì tuân thủ theo các giáo điều của cộng sản đâm ra mất nhân tính; vì vậy đã dàn dựng cũng như chủ mưu cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân gây tang tóc và đau thương cho hàng triệu người khắp hai miền Nam bắc. Chúng ra lịnh cho những kẻ thuộc quyền sát hại hàng chục ngàn đồng bào vô tội ở Huế. Căn cứ vào những tài liệu mà âm phủ đã thu thập được, chỉ riêng ở Huế, trong vòng 24 ngày chiếm đóng, hai bị can đã truyền lịnh bắn tại chỗ hai ngàn người. Ngoài ra người ta còn tìm được hơn hai ngàn tử thi thường dân trong những hố chôn tập thể rải rác khắp nơi trong thành phố Huế. Các hố chôn tập thể có từ năm ba người, có hố chôn hơn 400 nạn nhân như ở Khe Đá Mài. Những nạn nhân nầy bị cột chùm lại với nhau và đốt cháy bằng xăng, bị bắt ngồi trên mìn rồi cho nổ tan xác, bị chặt đầu, bị bắn vào ót, bị đập chết bằng bá súng, bị đóng cọc từ dưới bàn tọa lên đến cổ, bị trói tay chân thành từng chùm rồi xô xuống hố chôn sống… Cách giết người dã man như vậy thật xưa nay chưa từng thấy…

- Cái này là đám lính của Mặt Trận hoặc đám cộng sản nằm vùng làm càn chứ hai đứa tui đâu có ra lịnh như vậy…

Ba Duân lên tiếng ngắt lời của Thôi Phán Quan. Cười hực, vị biện lý gằn giọng hỏi.

- Ông nói là ông với Sáu Búa không có ra chỉ thị hả. Ông muốn tôi kêu người lên đây làm chứng…

Ba Duân nín thinh. Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.

- Điều tôi đưa ra đây sẽ chứng minh vụ thảm sát thường dân vô tội là do lệnh của hai bị can Ba Duân và Sáu Búa. Một đảng viên huyện ủy huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên, có bí danh Sơn Lâm bị bắt trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đã khai rằng, việc thảm sát tất cả dân lành vô tội trong vụ Tết Mậu Thân năm 1968 là do lệnh của Quân Ủy Trị-Thiên-Huế và cơ quan này nhận lệnh từ trung ương đảng. Ngoài ra một quản giáo trong trại cải tạo đã huênh hoang tuyên bố với các tù nhân: ” Các anh may mắn được cách mạng khoan hồng tha tội chết, vào đây thì phải biết ăn năn, học tập tốt để sớm trở về sum họp với gia đình. Tôi nói cho các anh biết, nếu năm Mậu Thân, chúng tôi thắng trận thì ba triệu ngụy quân, ngụy quyền và gia đình các anh đã bị giết theo lệnh của Hồ chủ tịch rồi… “

Nghe tới đó Hình Chí Mô giẫy nẩy lên.

- Hổng có đâu… Oan cho tôi quá… Tôi đâu có ra lịnh bất nhơn như vậy… Chú Ba và chú Sáu ra chỉ thị hết trơn. Tôi nói mà nó còn bịt miệng hổng cho tôi nói thì sức mấy mà nó để cho tôi ra lịnh bắt giết ai… Ngay cái bài thơ chúc Tết mà tôi đọc trên đài phát thanh cũng của thằng Sáu làm đó…

Quay qua chỗ Diêm Vương đang ngồi, lão Hình nói với giọng như phân trần.

- Bẫm Diêm Vương… Năm 1969 thì con theo ông Mác về thiên đường. Đầu năm 1968, thì con đã già lắm, lú lẫn thêm bịnh hoạn, cho nên con đâu có biết hai chú ấy làm cái gì… Hai chú ác lắm… Ngay cả con mà hai chú còn chích thuốc cho chết sớm thì mấy chục ngàn quân dân của ngụy ở Huế bị hai chú ấy thảm sát thì con nghĩ chuyện ấy cũng không có gì lạ…

Mọi người trong phòng xử nhao nhao lên khi nghe Hình Chí Mô hé mở một vài bí mật.

- Đáng cái đời nhà ngươi…

- Quả báo nhãn tiền mà…

- Hắn giết không biết bao nhiêu đồng chí của hắn thì bây giờ đồng chí em út của hắn chích thuốc cho hắn sớm lên thiên đường cộng sản là phải rồi…

Thiên hạ mỗi người nói một câu ồn ào cả phòng xử khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra lệnh cho mọi người im lặng. Đợi cho trật tự được vãn hồi xong Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt Ba Duân cùng với câu hỏi bật ra.

- Tôi nghe đồn là sau khi cưỡng chiếm được miền Nam năm 1945, ông và Sáu Búa có đề ra một chính sách mới lạ. Đúng không?

Ba Duân gật gật đầu cười.

- Chính sách này là một sáng tạo ưu việt của tui. Cái này tui gọi là chính sách Ba Xin…

Nhìn Tố Bồi Bút, Diêm Vương hỏi gọn. Bình nhận xét thấy đối với tám bị can thì ông vua âm phủ có cử chỉ thân thiện với họ Tố hơn bảy người kia.

- Lành… Hắn nói cái gì vậy?

Cười cười họ Tố bắt đầu huênh hoang tuyên truyền.

- Bẫm Diêm Vương… Dưới ánh sáng của tư tưởng Mác Lê cũng như dưới sự chỉ đạo nổi bật của đảng, anh Ba đã đề ra chính sách Ba Xin, áp dụng cho dân Nam bộ sau năm 1975… Cái xin thứ nhất là Xin Đi Ở Tù; thứ nhì Xin Đi Vùng Kinh Té Mới và thứ ba Xin Vượt Biên…

Thôi Phán Quan và Diêm Vương nhìn nhau rồi sau đó vị biện lý của âm phủ mới lên tiếng hỏi.

- Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Ông nói lầm hay tôi nghe lầm…

Cười tủm tỉm như có điều gì đắc ý, Tố Bồi Bút thong thả đáp.

- Thưa ngài biện lý… Tôi không nói lầm mà ngài cũng không nghe lầm đâu… Sở dĩ tôi nói Vùng Kinh Té Mới là có cái lý do của nó… Tuy nhiên ngài biện lý hãy để cho tôi nói về cái Xin Đi Ở Tù trước nhất. Dưới sự chỉ đạo anh minh và khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút đã ra một thông cáo là tất cả quân dân cán chính của ngụy phải trình diện để đi học tập ” mươi ngày ” xong sẽ được cho về xum họp với gia đình…

Ai ai trong phòng xử cũng nghe tên Lành nhấn mạnh hai tiếng ” mươi ngày “. Ngừng nói hắn bật cười hì hì như có vẻ thích thú điều gì.

- Thông cáo vừa ra xong là đám quân dân cán chính ùn ùn rủ nhau đi ở tù…

Trên môi vẫn còn nguyên nụ cười, Tố Bồi Bút nhỏ nhẹ thưa.

- Bẫm Diêm Vương… Ngài thấy sự khôn ngoan và sáng suốt của anh Ba và anh Sáu chưa. Cái thông cáo của đồng chí Linh đã phỉnh gạt được luôn cả mấy thằng trí thức có h19ai ba cái bằng tiến sĩ nữa. Ngài cũng biết nếu muốn bắt bỏ tù hết hai ba triệu quân dân cán chính của ngụy không phải dễ. Lộ ra là tụi nó trốn hết bằng không cũng họp nhau làm loạn. Như thế sẽ có đánh nhau to. Để tránh tình trạng ngụy quân, ngụy quyền hô hào nổi dậy chống lại cách mạng, dưới sự chỉ đạo khôn ngoan của anh Ba và anh Sáu, đồng chí Mười Cút chỉ cần ra cái thông cáo nho nhỏ là tụi lính ngụy cụ bị tiền bạc, quần áo, cơm nước xin đi ở tù…

Diêm Vương lắc đầu ngắt lời Tố Bồi Bút.

- Như thế là chúng mày gạt gẫm người ta. Mày hổng có xấu hổ à?

Diêm Vương hỏi. Họ Tố cười hì hì.

- Bẩm Diêm Vương… Gạt gẫm là nghề của đảng con mà. Tụi con gạt người ta nhiều quá rồi riết thành ra mặt dầy hổng có mắc cỡ, xấu hổ hay lương tâm cắn rứt gì hết. Bác đã dạy như thế. Nói láo, nói dóc, nói xạo, lường gạt, chôm chỉa, đối với bác là một nghệ thuật…

Ông vua âm phủ lắc đầu than dài.

- Thằng Lành mày nói chi lạ… Sống mấy ngàn tuổi mà ta chưa bao giờ nghe cái thứ nghệ thuật kỳ cục như bác của ngươi nói… Thôi để cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử hai thằng Ba và Sáu…

Được lệnh của Diêm Vương, vị biện lý của âm phủ hướng về Ba Duân hỏi một câu.

- Có bao nhiêu tù cải tạo chết vì cái dấu hiệu cứa cổ của ông?

- Tôi không biết rõ lắm. Đối với tôi chuyện bỏ tù gần nửa triệu ngụy là cái chuyện nhỏ. Tụi nó sống hay chết là điều hổng đáng quan tâm. Tuy nhiên tôi có đọc bản báo cáo của đồng chí Mười Cút thì sơ sơ chắc cũng phải vài chục ngàn… Một số chết vì bệnh tật, một số chết vì kiệt sức do đói khổ hay nhiễm sơn lam chướng khí, còn một số bị bắn bỏ vì chống đối lại đảng và nhà nước… Thằng nào ngoan ngoãn thì tui ra lệnh các anh em đồng chí trực tiếp thụ lý vụ tù cải tạo cho tụi nó ở tù hai ba năm, thằng nào cứng đầu thì nhốt vô khám tối, còn cứng đầu nữa thì bắn bỏ…

Diêm Vương hừ tiếng nhỏ chưa kịp lên tiếng thì Thôi Phán Quan đã nói thay.

- Tôi có nghe người ta kể chuyện ông ra lịnh tử hình những người tù cải tạo…

Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm, vị biện lý của âm phủ cao giọng như muốn nói cho họ nghe.

- Sau đây tôi kính mời Diêm Vương cùng 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một câu chuyện thuật lại những hành động tàn ác của những người trông coi các trại cải tạo dưới thời hai tên Ba Duân và Sáu Búa cầm quyền. Chuyện này do một người tù cải tạo tên Nguyễn Thiếu Nhẫn ghi lại và sẽ được vị lục sự của tòa đọc cho mọi người nghe…

Thôi Phán Quan bước tới trao xấp hồ sơ cho vị lục sự. Giọng nói trầm bổng của ông ta vang vang trong phòng xử khiến mọi người đều nghe rõ.

- Đó là một buổi chiều ảm đạm vào khoảng tháng 06/1977 ở trại giam Suối Máu thuộc thành phố Biên Hoà. Vào khoảng tuần lễ cuối tháng 03/1977, trung đoàn 775 tổ chức đợt học tập chính trị cho toàn thể trại viên Suối Máu. Giảng viên là tên trung tá chính uỷ với khuôn mặt xương xương, cặp mắt láo liên, đôi môi xám xịt che kín hàm răng ám khói thuốc lào. Năm ngày đầu tuần với những lên lớp, xuống lớp, thảo luận, thu hoạch làm cho những tù binh mệt mỏi, đầu óc trống rỗng. Những luận điệu một chiều cũ rích : « Ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Lao động là vinh quang. Bàn tay ta làm nên tất cả. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm » lúc bổng, lúc trầm mà chính người nói cũng không hiểu mình định nói cái gì. Nhưng mà có cần gì, bởi lẽ tên trung tá chính uỷ cũng chỉ là một con ốc trong cái guồng máy cộng sản sắt máu. Ngày cuối tuần là ngày giải đáp thắc mắc về bài học vùng kinh tế mới. Dưới cái nóng hầm hập phả ra từ mái tôn, các tù binh mệt mỏi ngồi im như những pho tượng, mặc tình tên chính uỷ múa may hò hét, khoa tay khoa chân. Với điệu bộ lấc cấc, gương mặt đầy vẻ tự mãn, tên chính uỷ nhìn xuống đám đông qua chiếc kính đeo trễ gọng trên sóng mũi, rồi cất giọng the thé :

- Thế này nhé : Trong thời gian gần 20 tháng qua các anh đã được đảng và nhà nước khoan hồng tạo điều kiện cho các anh học tập, lao động cải tạo, các anh cũng đã được gia đình thăm viếng, mỗi ngày các anh được xem « ti-di », sách báo. Nói tóm lại các anh đã được tiếp xúc và đã biết được phần nào về chủ nghĩa xã hội tốt đẹp. Là nguỵ quân, các anh đã lớn lên và sống trong chế độ tư bản xấu xa thối nát của miền Nam. Nay qua các bài học, các anh đã được sáng mắt, sáng lòng. Nếu anh nào còn có điều gì thắc mắc nêu lên tôi sẽ giải đáp…

Toàn thể hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ thụp xuống chiếc bục. Mọi người nghe rõ tiếng sòng sọc của chiếc nõ cầy. Khói thuốc bay lên mù mịt. Tên chính uỷ đứng lên cho lệnh giải lao. Một sợi khói thuốc lào còn sót bay qua kẽ răng lúc y nói.

Qua giờ thứ hai, khi lớp học tập hợp xong, bỗng từ phía cuối hội trường có tiếng xầm xì. Tên chính uỷ đứng trên bục giảng, gương mặt rạng rỡ như cô gái giang hồ đêm khuya ế khách bỗng chợp được một khách làng chơi say rượu thèm tình, y ngúc ngúc cái đầu với vẻ tự đắc :

- Anh nào có gì thắc mắc thì cứ tự do phát biểu. Thế mới dân chủ bàn bạc. Tôi cho phép các anh nêu thắc mắc về mọi vấn đề ngoài bài học.

Y đưa tay chỉ thẳng vào một người tù đang đưa tay che mũi:

- Anh gì đấy, có gì thắc mắc cứ đưa thẳng tay lên xin phát biểu, có gì mà phải rụt rè thế. Nào, thắc mắc gì thì cho biết ?

Người tù vừa được nói tới lúng túng đứng dậy, gương mặt anh ta nhăn nhó rất là khó coi :

- Thưa cán bộ tôi không có gì thắc mắc. Nhưng…

Tên chính uỷ khuyến khích :

- Cứ mạnh dạn phát biểu, chả ai bắt tội anh đâu.

Người tù đưa tay gãi gãi đầu, khịt khịt mũi, nói:

- Thưa cán bộ thiệt tình là tôi không có điều gì thắc mắc. Nhưng tôi có điều muốn trình bày nếu cán bộ cho phép…

Tên chính uỷ cười hể hả :

- Cứ nói đi, có gì mà phải phép tắc.

Người tù lại gãi gãi đầu :

- Thưa cán bộ, tôi nghĩ là cán bộ hiểu lầm tôi đưa tay xin phát biểu ý kiến. Sự thực là tôi đưa tay che mũi vì không biết có anh nào chột bụng hay sao đã đánh rắm thối quá, chịu không nổi.

Cả hội trường cười một cái rần. Tên chính uỷ tẽn tò nhưng y cũng không nín được cười. Y lầm bầm : « Thật chẳng ra làm sao cả ».

Đợi hội trường yên lặng, anh ta lại hát bài hát cũ :

- Thế nào ? các anh chẳng có gì thắc mắc cả sao ? Sĩ quan cả, có ăn học cả, chắc chắn các anh phải biết phân biệt tốt xấu giữa hai chế độ. Đảng ta là đảng chủ trương dân chủ bàn bạc. Các anh cứ nêu những ý kiến, thắc mắc. Giải đáp được tôi sẽ giải đáp. Không giải đáp được tôi sẽ trình lên trên. Cần thiết tôi sẽ gặp đồng chí Lê Duẫn xin ý kiến để giải đáp cho các anh. Với danh dự của một người cộng sản, tôi xin hứa sẽ không có sự trù ếm, trả thù…

Mặc y lải nhải, cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ vừa định ngồi thụp xuống bục gỗ kéo điếu thuốc lào, bỗng từ cuối hội trường một người đứng dậy và một giọng nói cất lên :

- Tôi xin có ý kiến…

Mọi người đều quay lại nhìn người vừa lên tiếng. Tên chính uỷ thở phào như người vừa trút xong gánh nặng:

- Thế chứ. Thế nào, mời anh lên đây phát biểu…

Người tù chậm rải tiến lên bục hội trường với vẻ mặt tự tin. Anh ta nhìn tên chính uỷ, nhìn khắp hội trường, rồi quay sang nhìn tên chính uỷ :

- Tôi xin tự giới thiệu tôi là Nguyễn Ngọc Trụ, Tiến sĩ Công Pháp Quốc Tế, cấp bậc: Trung Uý, chức vụ: giảng viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, một vợ, hai con, thân sinh tôi là một Trung Tá trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hiện đang bị tù cải tạo tại miền Bắc…

Anh ta ngừng nói. Cả hội trường im phăng phắc. Tên chính uỷ nhìn anh ta gật gù :

- Anh có ý kiến gì cứ nêu lên. Với danh dự của một người cộng sản tôi xin hứa là sẽ không bắt tội anh đâu, dù tôi không trả lời được những ý kiến, thắc mắc của anh…

Nói xong, y quay về đám đông :

- Thế mới dân chủ chứ, phải không nào ?

Cả hội trường vẫn im phăng phắc trong cái im lặng đầy bất trắc. Nguyễn Ngọc Trụ hắng giọng, lên tiếng. Giọng nói của anh rõ ràng, mạch lạc:

- Như cán bộ đã trình bày, cá nhân tôi đã sống và lớn lên trong sự cưu mang của chế độ tư bản miền Nam. Tôi cũng đồng ý với cán bộ là xã hội miền Nam đầy dẫy những xấu xa, bất công, thối nát, những kẻ lãnh đạo bất tài tham quyền cố vị…

Nguyễn Ngọc Trụ ngừng nói. Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Tên chính uỷ gật gù với ý nghĩ trong đầu: « Có thế chứ ! ».

Giọng nói của người tù trên bục lại vang lên:

- Cũng như cán bộ đã trình bày, qua gần 20 tháng, tôi đã tiếp xúc với xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Tôi đã được gia đình thăm nuôi nên biết được phần nào đời sống thực tế bên ngoài. Tôi cũng đã được đọc sách báo, được xem vô tuyền truyền hình. Thậm chí, tôi còn được sống gần gũi với những con người của chủ nghĩa xã hội miền Bắc là các cán bộ …

Cả hội trường vẫn im phăng phắc. Những người ngồi kế bên như nghe rõ tiếng nín thở của người bên cạnh. Tên chính uỷ bắt đầu đi qua, đi lại. Giọng nói rõ ràng, mạch lạc của người tù trên bục giảng vang lên như một mũi dao nhọn xoáy vào một vết thương đang sưng tấy:

- Qua tiếp xúc giữa hai chế độ, tôi thấy chế độ xã hội chủ nghĩa miền Bắc cũng không tốt đẹp gì hơn chế độ tư bản miền Nam …

Tên chính uỷ há hốc mồm. Cả hội trường im phăng phắc, sững sờ.

Giọng nói người tù trên bục giảng lại vang lên:

- Tôi không tin tưởng là đất nước sẽ tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội với những cái gọi là cách mạng giáo dục đi dôi với cách mạng khoa học kỹ thuật.

Anh ta nhìn thẳng vào mặt tên chính uỷ:

- Tôi xin tạm mượn một hình ảnh để thí dụ: Con ngựa và chiếc xe. Người đánh xe đã tước đoạt mất tự do của con ngựa. Ông ta đã đóng móng vào chân ngựa, đã bịt mắt ngựa, tra hàm thiếc vào miệng ngựa, buộc ngựa vào xe và dùng roi quất vào mông ngựa để ra lệnh kéo cái xe. Chúng tôi và những người dân bây giờ cũng giống như những con ngựa. Đó là ý kiến của tôi về hai chế độ. Xin hết.

Tên chính uỷ xanh mặt. Y thọc mạnh hai bàn tay đang run lên vì tức giận vào hai túi quần màu cứt ngựa. Y nghiến răng lẩm bẩm một điều gì đó không phát ra thành tiếng. Cả hội trường có tiếng xì xào, rì rầm. Nguyễn Ngọc Trụ bình tĩnh trở về chỗ ngồi. Một người nào đó nói nhỏ với anh ta:

- Anh nói làm chi những điều như vậy…

Nguyễn Ngọc Trụ mỉm cười trả lời:

- Tôi phải nói những Sự Thật dù biết là sẽ nguy hiểm đến tính mạng của mình.

Tên chính uỷ ra lệnh giải tán lớp học mặc dù còn phải 2 giờ nữa mới hết giờ. Y hấp tấp quảy cái sắc-cốt lên vai, đi như chạy ra khỏi hội trường với cái dáng đi hai hàng của y.

Ngay sáng hôm sau, Nguyễn Ngọc Trụ được hai tên vệ binh có võ trang vào gọi anh lên trình diện Bộ Chỉ huy Trung Đoàn. Và ngay buổi chiều hôm đó anh bị biệt giam vào conex.

Ba tháng sau. Vào một buổi chiều, một vài người tù đang thơ thẩn ở sân cát cạnh hàng rào kẽm gai bỗng kêu lên :

- Thằng Trụ ra kìa.

Tin tức lan nhanh. Mọi cắp mắt đều đổ xô về chiếc conex. Nguyễn Ngọc Trụ đôi mắt trũng sâu trên đôi má hóp, tóc phủ ót, phủ mang tai, râu ria tua tủa. Hai ống chân ốm tong teo chỉ còn da bọc xương, đứng không nổi phải vịn tay vào thành conex.

giavui
07-11-2014, 09:00 PM
Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn. Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.

Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.

Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên trung tá chính uỷ mà là tên thiếu tá chính trị viên tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề:

- Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi…

Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên thiếu tá chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :

- Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại đảng và nhà nước nên bộ tư lệnh quân khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay…

Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường. Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Tên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói:

- Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu…

Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai:

- Vĩnh biệt anh em !

Và bình tĩnh chờ dợi. Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ, người tù dũng cảm, người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô…

Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang rồi sau đó có tiếng thở dài hòa lẫn trong tiếng khóc nghẹn ngào của vài người nào đó. Có thể là những chiến hữu của anh cũng đã bỏ mình trong trại cải tạo. Có thể họ là cha mẹ, vợ con hoặc anh em của người lính tù cải tạo bất khuất và anh hùng đã chọn cái chết để mắng vào mặt lũ cán bộ cộng sản vô nhân tính. Ông ta đã chọn ‘‘ Ta thà làm ma của nước Việt Nam Cộng Hòa hơn là làm người dân trong xứ cộng sản ‘‘. Hành động của người lính Nguyễn Ngọc Trụ tương tự như Trần Bình Trọng hét vào mặt Thoát Hoan câu nói bất hủ ” Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất bắc…”

Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.

- Chuyện kể thật buồn mà cũng thật hào hùng. Người như vậy mà lại chết sớm trong lúc mấy thằng trật búa như thằng hình thằng hồ, thằng lành, thằng thận, thằng vàng thì lại sống lâu làm chi cho chật đất… Thôi thằng Ba hãy nói tiếp về kế hoạch ngủ luôn của ngươi đi…

Được lịnh của Diêm Vương, Ba Duân hớp ngụm nước lạnh xong hắng giọng tiếp.

- Sáng tạo ưu việt khiến cho tui ưng ý nhất chính là làm cho đám dân ngụy Xin Đi Vùng Kinh Té Mới…

Thấy Thôi Phán Quan mấp máy môi định nói, Ba Duân biết ý nên tiếp liền.

- Đám ngụy quân ngụy quyền xin đi ở tù rồi thì ở nhà vợ con nheo nhóc, đói khổ nên đâm ra ta thán đủ điều. Tuy nhiên đảng và nhà nước đâu có ngu mà lo cho đám dân ngụy này. Dân miền Bắc còn bị nhà nước bỏ đói dài dài thì sức đâu mà tụi tui lo cho mười triệu dân Nam bộ, nhất là dân ở thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ. Phải thức đêm với mấy bà vợ lớn, nhỏ, bé và bồ nhí tui mới nghĩ ra cái vụ Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Với lại bộ đội về thành chưa có đủ chỗ ở nên nếu dụ dỗ hoặc ép uổng đám dân ngụy ở thành thị đi vùng kinh té mới thì tui giải quyết được hai trở ngại lớn. Thứ nhất là đày ải dân ngụy đi vào vùng hoang vu để tăng gia sản xuất. Thứ nhì là cứ mỗi gia đình dân ngụy đi là bộ đội nhào vô xí chỗ liền. Ngài biện lý thấy tui dốt mà khôn không?

Thôi Phán Quan gật gù cái đầu tóc bạc rồi hắng giọng.

- Ông tuy dốt, khôn mà còn thêm ác nữa… Hồi nãy ông Lành có nói về từ ngữ Vùng Kinh Té Mới, rồi bây giờ ông cũng có nhắc tới Vùng Kinh Té Mới. Xin ông vui lòng giải thích cho tòa rõ…

- Muốn làm cho đám dân ngụy tin tưởng và tình nguyện hiến nhà dâng của cho đảng, tui phải chỉ đạo cho cơ quan của nhà nước tuyên truyền là bất cứ gia đình nào đi vùng kinh té mới, họ sẽ được nhà nước cấp phát nhà cửa mới, ruộng đất và dụng cụ để họ tự canh tác và tăng gia sản xuất. Nông phẩm của họ làm ra sẽ được nhà nước mua lại với giá cao…

- Rồi ngươi có mua lại không?

Diêm Vương xen vào. Ba Duân lắc đầu cười.

- Bẩm Diêm Vương… Ngu sao mua… Vả lại nhà nước tiền đâu mà mua… Sau chiến tranh tụi con nợ còn hơn chúa chổm… Đám dân ngụy cũng khờ nên hồ hởi ới nhau đi vùng kinh té mới. Tới nơi họ mới biết thì đã muộn rồi… Hai tiếng kinh té có ý nghĩa đặc biệt của nó thưa ngài biện lý. Kinh là kinh sợ, còn té là té xỉu. Đám dân thành thị của ngụy quen hưởng thụ tiện nghi tư bản, ăn ngon mặc đẹp, bây giờ đối mặt với vùng đất mới hoang vu chúng kinh sợ quá té xỉu hết trơn nên mới gọi là Vùng Kinh Té Mới…

- Tổ cha nó… Thằng đó với thằng Sáu Lừa nói láo như Vẹm… Cái quân cộng sản là cái đồ ăn cháo đá bát, gian xảo lọc lừa… Nhà tui ba đời ủng hộ cách mạng với mặt trận mà khi chiếm được miền Nam rồi bọn chúng nó bắt tui đi cái cùng kinh té chết đói…

Tuy nghe những lời mắng chửi trên song Ba Duân làm lơ. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ hắn tiếp liền.

- Nhiều gia đình không chịu được kham khổ, bệnh hoạn lại lén lút trở về thành thì nhà cửa đã bị bộ đội xí rồi nên chúng Xin Làm Ăn Mày…

- Ta chưa đi Vùng Kinh Té Mới mà chỉ nghe ngươi kể không cũng đủ kinh sợ mà té xỉu rồi…

Diêm Vương lên tiếng. Cười cười Ba Duân nói tiếp.

- Diêm Vương mà nghe con nói về kế hoạch ‘‘ ngủ niên “thời ngài sẽ nín tè luôn…

Tới phiên Thôi Phán Quan vì không dằn được tánh tò mò nên vội xen vào.

- Tôi nghe có người gọi kế hoạch ngũ niên của ông là kế hoạch ngủ luôn. Tại sao họ lại gọi như vậy?

Ba Duân cười hực lên tiếng.

- Chỉ có mấy thằng Việt Kiều phản động và dân Nam bộ chống đối chế độ mới gọi như thế…

Ngừng lại giây lát Ba Duân nói nhỏ.

- Nghĩ đi nghỉ lại thì mấy thằng phản động nói cũng đúng phần nào. Hổng biết tại sao mà tụi nó lại đoán ra cái ý của tui. Khi đề ra kế hoạch ngũ niên là tui muốn bỏ đói dân Nam bộ để tụi nó khỏi làm loạn. Bị đói dài người ra thì tụi nó lo chạy gạo đổ mồ hôi còn hơi sức đâu mà chống đối. Thằng nào đói quá thì ngủ luôn hổng dậy nữa

- Tôi nghe đồn về kế hoạch ngũ niên 2 do ông ban hành từ năm 1976 tới 1980 mà chưa được tận tường lắm…

Căn phòng xử chứa mấy ngàn người im phăng phắc lắng nghe vị tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam nói về kế hoạch ngũ niên, một thành quả mà dân miền Nam nghe tới đều đổ mồ hôi vì phải chạy gạo ăn mỗi ngày.

- Ngài biện lý cũng như mọi người hổng có hiểu cái ý của tui. Tên của nó là ngủ niên chứ không phải ngũ niên. Ngũ niên là năm năm còn ngủ niên của tui là ngủ nguyên năm… Hết năm này dang năm khác…

- Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe coi…

Diêm Vương lên tiếng. Tủm tỉm cười Ba Duân giải thích.

- Bẫm Diêm Vương. Cái kế hoạch ngủ niên của con chủ ý bỏ đói dân Nam bộ làm cho tụi nó đói triền miên rồi ngủ nguyên năm luôn để quên cái đói cái khổ…

- Ông làm cách nào để bỏ đói mười mấy triệu dân miền Nam?

Thôi Phán Quan lên tiếng hỏi. Ba Duân cười cười trả lời.

- Dễ ợt… Kinh tế của chủ nghĩa xã hội đặt nặng vào kỹ nghệ để hổ trợ cho nông nghiệp gia tăng sản xuất từ đó nông nghiệp sẽ giúp ngược lại để kỹ nghệ nặng được phát triển. Con tính là trong kế hoạch ngủ luôn này kỹ nghệ sẽ phát triển từ 16 đến 18% mỗi năm, còn nông nghiệp sẽ tăng từ 8% tới 10%. Lợi tức của dân Nam bộ hàng năm sẽ tăng từ 13% tới 14%…( Trích Sau Bức Màn Đỏ- Hoàng Dung )

- Xạo ke…

- Nói láo như Vẹm…

- Thằng cha đó xạo Diêm Vương ơi…

- Tôi nghe lời của thằng chả chết để lại vợ con hổng ai nuôi…

- Sau năm 75, tiền của già Hồ chùi đít hổng ai thèm…

Thiên hạ la rầm trời. Nghe giọng nói Bình biết mấy người đó là dân miền Nam. Họ là nạn nhân của kế hoạch ngủ luôn hoặc vùng kinh té mới của đảng cộng sản Việt Nam mà hai tên cầm đầu chính là Ba Duân và Sáu Lừa. Có lẽ thông cảm cho sự uất ức của các nạn nhân do đó Diêm Vương cũng không gõ búa bắt họ im lặng. Lát sau mọi người mới ngưng khi giọng nói của Ba Duân cất lên.

- Tui giao cho đồng chí Mười Cút biến kinh té miền Nam rập theo khuôn mẫu của miền Bắc. Dụ dỗ nông dân vào hợp tác xã mà hổng có ai chịu vào, cuối cùng cán bộ cưỡng bách bằng cách tịch thu ruộng đất, dụng cụ nghề nông thì họ giết hết trâu bò để ăn, còn cày bừa thì phè phè, chơi nhiều làm ít hay chỉ làm đủ ăn mà thôi. Vì vậy mà miền Nam bị đói vào năm 1978 và 1979. Mới đầu còn có cơm trắng, sau đó độn khoai rồi sau nữa ăn độn với bo bo…

- Bây giờ ta mới biết là tại sao dân Việt Nam xuống đây đứa nào đứa nấy ốm hơn cò ma, toàn xương bọc da… mở miệng là đòi cơm cơm tối ngày… Hóa ra họ bị xuống đây là vì kế hoạch ngủ luôn của ngươi…

Diêm Vương lên tiếng. Ba Duân cười hì hì tiếp.

- Vì kế hoạch ngủ luôn làm cho dân Nam bộ đói quá nhưng mà con với anh Sáu cũng chưa thỏa dạ… Anh Sáu bảo con cho đồng chí Lành lên làm chức phó thủ tượng đặc trách kinh té…

- Trời đất… Bộ hết người sao mà hai đứa bây lại cho thằng Lành làm phó thủ tượng đặc trách kinh té… Ta nghe còn té ngửa té ngang huống chi dân miền Nam…

- Bẫm Diêm Vương… Con biết đồng chí Lành mà đặc trách về kinh té thì dân miền Nam sẽ té dài dài, té đủ kiểu, như ông già bà lão sẽ té xuống mồ, con nít té xuống sàn, đàn bà té chổng mông, đàn ông té ngửa té xấp… Nhưng cái này là chủ ý của con với anh Sáu và luôn cả các anh em đồng chí trong bộ chín chị. Trong kế hoạch ngủ luôn 2, con với anh Sáu còn bày thêm cái gọi là đánh tư bản và mại sản. Nó là cách lấy của nhà giàu chia cho các anh em đồng chí xài…

- Rồi thằng Lành ở chức vụ phó thủ tượng đặc trách kinh té mà nó có làm được cái gì không?

Nghe Diêm Vương hỏi, Thôi Phán Quan quay nhìn về ghế Tố Bồi Bút đang ngồi. Biết ý, vị phó thủ tượng đặc trách kinh té của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cười hí hí.

- Bẫm Diêm Vương… Với sự hội ý của hai Ba và anh Sáu, sau khi nắm chức phó thủ tượng con ra cái kế hoạch ngủ niên 3 mà mấy thằng phản động đầy ác ý gọi là kế hoạch ngủ khò…

Thiên hạ bật cười cái rần. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn tính nghiêm nghị mà cũng phải tủm tỉm cười. Nhẹ lắc đầu Diêm Vương phán.

- Lại nữa… Thằng Hình viết văn thì chữ nào cũng ấy… Ngươi làm thơ thì có chục tiếng thương rồi bây giờ đi làm kinh té lại lòi ra tiếng ngủ… Tụi bây là quan lớn nhà nước mà tối ngày cứ lo ba cái vụ thương, ấy, ngủ thì làm sao mà lo cho nước cho dân được… Bởi vậy mà dân của ngươi nghèo càng nghèo thêm; nước đã yếu càng thêm yếu…

Bị Diêm Vương lên lớp, Tố Bồi Bút cố gắng bào chữa.

- Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của con đâu ạ… Trước khi con nhận chức đặc trách kinh té, thì anh Ba đã rỉ tai dặn con là cứ làm cho tụi dân Nam bộ kinh với té thì nó mới sợ mà bán nhà cửa và của cải để tìm đường vượt biên. Như thế thì tụi con mỗi đứa chia nhau được vài ngàn cây vàng để dưỡng già… Mấy chú ba ở Chợ Lớn vàng cây nhiều chọi lổ đầu người ta. Biết được chú ba có vàng, nên anh Ba, anh Sáu và tất cả quan lớn của bộ chín chị và nhà nước tìm cách tống cổ chú ba về nước… Đó là kế hoạch quan trọng mà tụi con gọi là phương án 2 mà mấy thằng phản động gọi là phương án ăn cướp 2…

Nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu than dài.

- Thôi để cho mọi người dùng cơm chiều chứ nghe tụi bây nói riết chắc họ kinh với té hết trơn mắc công âm phủ kêu xe cứu thương chở họ vào nhà thương…

Nói xong Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên tòa cho mọi người nghỉ ngơi và sáng mai sẽ tiếp tục.

giavui
07-11-2014, 09:01 PM
Tên chính uỷ quảy cái sắc-cốt, bên hông lủng lẳng khẩu K.54, đứng hỏi Nguyễn Ngọc Trụ những điều gì đó rất lâu. Kế bên là hai tên vộ binh cầm súng trong tư thế nhả đạn. Có lúc Trụ ngã xuống rồi lại cố gắng vịn thành conex đứng lên. Mọi người đều thấy sau mỗi lần tên chính uỷ hỏi một điều gì đó Trụ lại lắc đầu. Những câu trả lời chỉ là những cái lắc đầu.

Tên chính uỷ có vẻ hằn học, quay lại ra lệnh gì đó với hai tên vệ binh và bỏ đi với cái dáng đi hai hàng của y. Trụ nhích từng bước, từng bước rồi khuất hẳn vào conex. Một tên vệ binh đóng sầm cửa conex, khoá lại rồi cũng bỏ đi.

Sáng hôm sau kẻng báo động, còi tập hợp vang lên. Ban chỉ huy trại ra lệnh tập hợp tất cả tù nhân ở hội trường. Người chủ tọa không phải là tên trung tá chính uỷ mà là tên thiếu tá chính trị viên tiểu đoàn. Y nhe răng cười một cách rất vô duyên rồi đi thẳng vào vấn đề:

- Các anh biết đó, hôm nay trại mời các anh lên về chuyện của anh Nguyễn Ngọc Trụ. Thực hết biết anh này. Trung tá chính uỷ đã nhiều lần thuyết phục, yêu cầu anh ta nhận những điều phát biểu trong buổi học là sai. Vậy mà anh ta vẫn khăng khăng không nhận. Anh ta nhất định giữ vững ý kiến và không chịu ra trước mặt anh em nhận là mình sai lầm. Cái chết là anh ta đã nói những điều đó trước mặt anh em để tuyên truyền. Phải chi anh ta chỉ trình bày những ý kiến đó với chúng tôi thì cũng còn được đi…

Tất cả mọi tù nhân ở hội trường đều sững sờ trước sự gian trá, lật lọng của tên thiếu tá chính trị viên nhưng không một ai dám lên tiếng. Và mọi người đều đau nhói khi nghe tên chính trị viên tiểu đoàn tuyên bố :

- Vì anh Nguyễn Ngọc Trụ tiếp tục ngoan cố, chống đối lại đảng và nhà nước nên bộ tư lệnh quân khu quyết định xử tử hình anh ấy. Lệnh sẽ được thi hành chiều nay…

Đó là một buổi chiều tháng Sáu ảm đạm. Nguyễn Ngọc Trụ bị bịt mắt, miệng bị nhét chanh trái, hai tay trói ké ra sau, hai tên vệ binh kéo thốc anh ra pháp trường. Anh ngã quỵ xuống khi được tháo băng bịt mắt, cởi dây trói và lấy quả chanh ra khỏi miệng. Tên sĩ quan Việt Cộng phụ trách việc hành quyết hỏi anh có điều gì yêu cầu không, anh chỉ nói:

- Tôi đã nói lên những Sự Thực và không còn có điều gì yêu cầu…

Anh quay lại mỉm cười với các tù nhân bên trong hàng rào kẽm gai:

- Vĩnh biệt anh em !

Và bình tĩnh chờ dợi. Mười hai tên vệ binh nhắm mắt bắn xối xả những tràng đạn AK vào người Nguyễn Ngọc Trụ, người tù dũng cảm, người đã dám nói lên Sự Thực ngay trong ngục tù cộng sản và mỉm cười bước vào cõi hư vô…

Căn phòng xử chứa mấy ngàn người lặng trang rồi sau đó có tiếng thở dài hòa lẫn trong tiếng khóc nghẹn ngào của vài người nào đó. Có thể là những chiến hữu của anh cũng đã bỏ mình trong trại cải tạo. Có thể họ là cha mẹ, vợ con hoặc anh em của người lính tù cải tạo bất khuất và anh hùng đã chọn cái chết để mắng vào mặt lũ cán bộ cộng sản vô nhân tính. Ông ta đã chọn ‘‘ Ta thà làm ma của nước Việt Nam Cộng Hòa hơn là làm người dân trong xứ cộng sản ‘‘. Hành động của người lính Nguyễn Ngọc Trụ tương tự như Trần Bình Trọng hét vào mặt Thoát Hoan câu nói bất hủ ” Ta thà làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương đất bắc…”

Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng.

- Chuyện kể thật buồn mà cũng thật hào hùng. Người như vậy mà lại chết sớm trong lúc mấy thằng trật búa như thằng hình thằng hồ, thằng lành, thằng thận, thằng vàng thì lại sống lâu làm chi cho chật đất… Thôi thằng Ba hãy nói tiếp về kế hoạch ngủ luôn của ngươi đi…

Được lịnh của Diêm Vương, Ba Duân hớp ngụm nước lạnh xong hắng giọng tiếp.

- Sáng tạo ưu việt khiến cho tui ưng ý nhất chính là làm cho đám dân ngụy Xin Đi Vùng Kinh Té Mới…

Thấy Thôi Phán Quan mấp máy môi định nói, Ba Duân biết ý nên tiếp liền.

- Đám ngụy quân ngụy quyền xin đi ở tù rồi thì ở nhà vợ con nheo nhóc, đói khổ nên đâm ra ta thán đủ điều. Tuy nhiên đảng và nhà nước đâu có ngu mà lo cho đám dân ngụy này. Dân miền Bắc còn bị nhà nước bỏ đói dài dài thì sức đâu mà tụi tui lo cho mười triệu dân Nam bộ, nhất là dân ở thành phố lớn như Sài Gòn, Đà Nẳng, Huế, Nha Trang, Cần Thơ. Phải thức đêm với mấy bà vợ lớn, nhỏ, bé và bồ nhí tui mới nghĩ ra cái vụ Xin Đi Vùng Kinh Té Mới… Với lại bộ đội về thành chưa có đủ chỗ ở nên nếu dụ dỗ hoặc ép uổng đám dân ngụy ở thành thị đi vùng kinh té mới thì tui giải quyết được hai trở ngại lớn. Thứ nhất là đày ải dân ngụy đi vào vùng hoang vu để tăng gia sản xuất. Thứ nhì là cứ mỗi gia đình dân ngụy đi là bộ đội nhào vô xí chỗ liền. Ngài biện lý thấy tui dốt mà khôn không?

Thôi Phán Quan gật gù cái đầu tóc bạc rồi hắng giọng.

- Ông tuy dốt, khôn mà còn thêm ác nữa… Hồi nãy ông Lành có nói về từ ngữ Vùng Kinh Té Mới, rồi bây giờ ông cũng có nhắc tới Vùng Kinh Té Mới. Xin ông vui lòng giải thích cho tòa rõ…

- Muốn làm cho đám dân ngụy tin tưởng và tình nguyện hiến nhà dâng của cho đảng, tui phải chỉ đạo cho cơ quan của nhà nước tuyên truyền là bất cứ gia đình nào đi vùng kinh té mới, họ sẽ được nhà nước cấp phát nhà cửa mới, ruộng đất và dụng cụ để họ tự canh tác và tăng gia sản xuất. Nông phẩm của họ làm ra sẽ được nhà nước mua lại với giá cao…

- Rồi ngươi có mua lại không?

Diêm Vương xen vào. Ba Duân lắc đầu cười.

- Bẩm Diêm Vương… Ngu sao mua… Vả lại nhà nước tiền đâu mà mua… Sau chiến tranh tụi con nợ còn hơn chúa chổm… Đám dân ngụy cũng khờ nên hồ hởi ới nhau đi vùng kinh té mới. Tới nơi họ mới biết thì đã muộn rồi… Hai tiếng kinh té có ý nghĩa đặc biệt của nó thưa ngài biện lý. Kinh là kinh sợ, còn té là té xỉu. Đám dân thành thị của ngụy quen hưởng thụ tiện nghi tư bản, ăn ngon mặc đẹp, bây giờ đối mặt với vùng đất mới hoang vu chúng kinh sợ quá té xỉu hết trơn nên mới gọi là Vùng Kinh Té Mới…

- Tổ cha nó… Thằng đó với thằng Sáu Lừa nói láo như Vẹm… Cái quân cộng sản là cái đồ ăn cháo đá bát, gian xảo lọc lừa… Nhà tui ba đời ủng hộ cách mạng với mặt trận mà khi chiếm được miền Nam rồi bọn chúng nó bắt tui đi cái cùng kinh té chết đói…

Tuy nghe những lời mắng chửi trên song Ba Duân làm lơ. Hớp ngụm nước lạnh cho thông cổ hắn tiếp liền.

- Nhiều gia đình không chịu được kham khổ, bệnh hoạn lại lén lút trở về thành thì nhà cửa đã bị bộ đội xí rồi nên chúng Xin Làm Ăn Mày…

- Ta chưa đi Vùng Kinh Té Mới mà chỉ nghe ngươi kể không cũng đủ kinh sợ mà té xỉu rồi…

Diêm Vương lên tiếng. Cười cười Ba Duân nói tiếp.

- Diêm Vương mà nghe con nói về kế hoạch ‘‘ ngủ niên “thời ngài sẽ nín tè luôn…

Tới phiên Thôi Phán Quan vì không dằn được tánh tò mò nên vội xen vào.

- Tôi nghe có người gọi kế hoạch ngũ niên của ông là kế hoạch ngủ luôn. Tại sao họ lại gọi như vậy?

Ba Duân cười hực lên tiếng.

- Chỉ có mấy thằng Việt Kiều phản động và dân Nam bộ chống đối chế độ mới gọi như thế…

Ngừng lại giây lát Ba Duân nói nhỏ.

- Nghĩ đi nghỉ lại thì mấy thằng phản động nói cũng đúng phần nào. Hổng biết tại sao mà tụi nó lại đoán ra cái ý của tui. Khi đề ra kế hoạch ngũ niên là tui muốn bỏ đói dân Nam bộ để tụi nó khỏi làm loạn. Bị đói dài người ra thì tụi nó lo chạy gạo đổ mồ hôi còn hơi sức đâu mà chống đối. Thằng nào đói quá thì ngủ luôn hổng dậy nữa

- Tôi nghe đồn về kế hoạch ngũ niên 2 do ông ban hành từ năm 1976 tới 1980 mà chưa được tận tường lắm…

Căn phòng xử chứa mấy ngàn người im phăng phắc lắng nghe vị tổng bí thư của đảng cộng sản Việt Nam nói về kế hoạch ngũ niên, một thành quả mà dân miền Nam nghe tới đều đổ mồ hôi vì phải chạy gạo ăn mỗi ngày.

- Ngài biện lý cũng như mọi người hổng có hiểu cái ý của tui. Tên của nó là ngủ niên chứ không phải ngũ niên. Ngũ niên là năm năm còn ngủ niên của tui là ngủ nguyên năm… Hết năm này dang năm khác…

- Ngươi nói sao nói lại cho ta nghe coi…

Diêm Vương lên tiếng. Tủm tỉm cười Ba Duân giải thích.

- Bẫm Diêm Vương. Cái kế hoạch ngủ niên của con chủ ý bỏ đói dân Nam bộ làm cho tụi nó đói triền miên rồi ngủ nguyên năm luôn để quên cái đói cái khổ…

- Ông làm cách nào để bỏ đói mười mấy triệu dân miền Nam?

Thôi Phán Quan lên tiếng hỏi. Ba Duân cười cười trả lời.

- Dễ ợt… Kinh tế của chủ nghĩa xã hội đặt nặng vào kỹ nghệ để hổ trợ cho nông nghiệp gia tăng sản xuất từ đó nông nghiệp sẽ giúp ngược lại để kỹ nghệ nặng được phát triển. Con tính là trong kế hoạch ngủ luôn này kỹ nghệ sẽ phát triển từ 16 đến 18% mỗi năm, còn nông nghiệp sẽ tăng từ 8% tới 10%. Lợi tức của dân Nam bộ hàng năm sẽ tăng từ 13% tới 14%…( Trích Sau Bức Màn Đỏ- Hoàng Dung )

- Xạo ke…

- Nói láo như Vẹm…

- Thằng cha đó xạo Diêm Vương ơi…

- Tôi nghe lời của thằng chả chết để lại vợ con hổng ai nuôi…

- Sau năm 75, tiền của già Hồ chùi đít hổng ai thèm…

Thiên hạ la rầm trời. Nghe giọng nói Bình biết mấy người đó là dân miền Nam. Họ là nạn nhân của kế hoạch ngủ luôn hoặc vùng kinh té mới của đảng cộng sản Việt Nam mà hai tên cầm đầu chính là Ba Duân và Sáu Lừa. Có lẽ thông cảm cho sự uất ức của các nạn nhân do đó Diêm Vương cũng không gõ búa bắt họ im lặng. Lát sau mọi người mới ngưng khi giọng nói của Ba Duân cất lên.

- Tui giao cho đồng chí Mười Cút biến kinh té miền Nam rập theo khuôn mẫu của miền Bắc. Dụ dỗ nông dân vào hợp tác xã mà hổng có ai chịu vào, cuối cùng cán bộ cưỡng bách bằng cách tịch thu ruộng đất, dụng cụ nghề nông thì họ giết hết trâu bò để ăn, còn cày bừa thì phè phè, chơi nhiều làm ít hay chỉ làm đủ ăn mà thôi. Vì vậy mà miền Nam bị đói vào năm 1978 và 1979. Mới đầu còn có cơm trắng, sau đó độn khoai rồi sau nữa ăn độn với bo bo…

- Bây giờ ta mới biết là tại sao dân Việt Nam xuống đây đứa nào đứa nấy ốm hơn cò ma, toàn xương bọc da… mở miệng là đòi cơm cơm tối ngày… Hóa ra họ bị xuống đây là vì kế hoạch ngủ luôn của ngươi…

Diêm Vương lên tiếng. Ba Duân cười hì hì tiếp.

- Vì kế hoạch ngủ luôn làm cho dân Nam bộ đói quá nhưng mà con với anh Sáu cũng chưa thỏa dạ… Anh Sáu bảo con cho đồng chí Lành lên làm chức phó thủ tượng đặc trách kinh té…

- Trời đất… Bộ hết người sao mà hai đứa bây lại cho thằng Lành làm phó thủ tượng đặc trách kinh té… Ta nghe còn té ngửa té ngang huống chi dân miền Nam…

- Bẫm Diêm Vương… Con biết đồng chí Lành mà đặc trách về kinh té thì dân miền Nam sẽ té dài dài, té đủ kiểu, như ông già bà lão sẽ té xuống mồ, con nít té xuống sàn, đàn bà té chổng mông, đàn ông té ngửa té xấp… Nhưng cái này là chủ ý của con với anh Sáu và luôn cả các anh em đồng chí trong bộ chín chị. Trong kế hoạch ngủ luôn 2, con với anh Sáu còn bày thêm cái gọi là đánh tư bản và mại sản. Nó là cách lấy của nhà giàu chia cho các anh em đồng chí xài…

- Rồi thằng Lành ở chức vụ phó thủ tượng đặc trách kinh té mà nó có làm được cái gì không?

Nghe Diêm Vương hỏi, Thôi Phán Quan quay nhìn về ghế Tố Bồi Bút đang ngồi. Biết ý, vị phó thủ tượng đặc trách kinh té của nước Việt Nam Dân Chửi Cười Trừ cười hí hí.

- Bẫm Diêm Vương… Với sự hội ý của hai Ba và anh Sáu, sau khi nắm chức phó thủ tượng con ra cái kế hoạch ngủ niên 3 mà mấy thằng phản động đầy ác ý gọi là kế hoạch ngủ khò…

Thiên hạ bật cười cái rần. Ngay cả Thôi Phán Quan vốn tính nghiêm nghị mà cũng phải tủm tỉm cười. Nhẹ lắc đầu Diêm Vương phán.

- Lại nữa… Thằng Hình viết văn thì chữ nào cũng ấy… Ngươi làm thơ thì có chục tiếng thương rồi bây giờ đi làm kinh té lại lòi ra tiếng ngủ… Tụi bây là quan lớn nhà nước mà tối ngày cứ lo ba cái vụ thương, ấy, ngủ thì làm sao mà lo cho nước cho dân được… Bởi vậy mà dân của ngươi nghèo càng nghèo thêm; nước đã yếu càng thêm yếu…

Bị Diêm Vương lên lớp, Tố Bồi Bút cố gắng bào chữa.

- Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của con đâu ạ… Trước khi con nhận chức đặc trách kinh té, thì anh Ba đã rỉ tai dặn con là cứ làm cho tụi dân Nam bộ kinh với té thì nó mới sợ mà bán nhà cửa và của cải để tìm đường vượt biên. Như thế thì tụi con mỗi đứa chia nhau được vài ngàn cây vàng để dưỡng già… Mấy chú ba ở Chợ Lớn vàng cây nhiều chọi lổ đầu người ta. Biết được chú ba có vàng, nên anh Ba, anh Sáu và tất cả quan lớn của bộ chín chị và nhà nước tìm cách tống cổ chú ba về nước… Đó là kế hoạch quan trọng mà tụi con gọi là phương án 2 mà mấy thằng phản động gọi là phương án ăn cướp 2…

Nghe tới đó Diêm Vương lắc đầu than dài.

- Thôi để cho mọi người dùng cơm chiều chứ nghe tụi bây nói riết chắc họ kinh với té hết trơn mắc công âm phủ kêu xe cứu thương chở họ vào nhà thương…

Nói xong Diêm Vương tuyên bố tạm ngưng phiên tòa cho mọi người nghỉ ngơi và sáng mai sẽ tiếp tục.

giavui
07-11-2014, 09:01 PM
PHẦN 3:
CON CHÓ CỦA TƯ CỘNG

-20 -
Người làm cách mạng ” đè ”

-Kính thưa Diêm Vương. Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Kính thưa quí khán thính giả của ba tầng chín cõi. Hai ngày qua quí vị đã nghe Ba Duân và Sáu Búa thuật kể về những hành động giết người của chính mình. Quí vị cũng đã nghe lời khai của các nhân chứng cũng như các tài liệu mà âm phủ đã trình bày…

Thôi Phán Quan ngừng nói. Ánh mắt rực hào quang của kẻ có mấy ngàn năm tu vi quét một vòng, bắt từ chỗ chín vị bồi thẫm xong xuống tới chỗ khán giả rồi cuối cùng dừng lại nơi bàn tám bị can đang ngồi. Ai ai cũng im lặng chờ nghe lời buộc tội của vị đại diện cho luật pháp của âm phủ.

-Nắm lấy quyền bính trong tay dài hơn hai mươi năm, hai bị can Ba Duân và Sáu Búa đã gây ra tang tóc điêu linh, thống khổ cho vạn vạn người dân vô tội. Những oan hồn chết bởi hai tên này chật đất âm phủ. Tiếng oán than vọng thấu thiên đình. ” Độc ác thay trúc rừng không ghi hết tội… Dơ bẩn thay nước biển không rửa sạch mùi...” Câu nói của người xưa cũng chưa đủ để nói lên tội ác của hai bị can. Nào tổng công kích Mậu Thân. Nào mùa hè đỏ lửa. Nào đại thắng mùa xuân. Nào tù cải tạo. Nào vượt biên. Nào Vùng kinh té mới. Nào kế hoạch ngủ luôn. Nào kế hoạch ngủ khò. Nào đổi tiền. Nào đánh tư bản mại sản. Nào Phương án 2. Nào chiến tranh Miên Việt. Nào chiến tranh Trung Việt. Nào vụ án xét lại. Bao nhiêu người chết? Bao nhiêu người ở tù? Máu của các người lính trẻ chảy thành sông. Thây của họ chất thành núi vì tham vọng quyền lực của hai tên đồ tễ họ Lê. Thế mà trên dương thế, lại có kẻ có mắt như mù, đem tặng cho tên Sáu Búa cái giải thưởng Nobel Hòa Bình. Tại sao họ không đem hắn ra xét xử như tên đồ tể khát máu, một đại tội phạm chiến tranh. Ở Việt Nam, lại có những kẻ muối mặt, không biết xấu hổ, tạc hình, dựng tượng, đặt tên đường cho hai kẻ sát nhân này. Hành vi của họ là phạm tội với trời đất, với tổ tiên. Hành vi dung dưỡng, bao che tội ác, sẽ khuyến khích người ta gây thêm tội ác. Kẻ cầm quyền ở cấp trên ăn cắp thì nhân viên cấp dưới cũng sẽ ăn cắp. Kẻ có chức mà ăn hối lộ thì nhân viên cũng tham nhũng. Kẻ có quyền giết người mà không bị trừng trị thì người dân cũng theo gương đó mà giết người. Kẻ cầm quyền cưỡng hiếp phụ nữ mà không bị kết tội thì đàn ông trong nước cũng nhân đó mà làm chuyện hiếp dâm đàn bà. Kẻ lãnh đạo một nước mà có năm bảy bà vợ thì người dân trong nước sẽ trở thành đa thê hoặc có lắm nhân tình, bồ nhí. Tôi muốn nói tới ” tấm gương đạo đức ” của kẻ cầm quyền…

Ngừng nói Thôi Phán Quan chiếu ánh mắt nghiêm nghị của mình xuống ngay chỗ lão Hình Chí Mô rồi sau đó chuyển sang bảy bị can đang ngồi.

-Bất cứ kẻ cầm quyền nào cũng đều mắc phải một cái bệnh mà tôi gọi là bệnh lãnh tụ. Nghĩ mình là kẻ có chức, có quyền, có tiền, nắm quyền hành trong tay nên muốn làm gì thì làm, chẳng có ai kiểm soát hoặc chế tài họ được. Ở các nước dân chủ và tự do thì cái bệnh lãnh tụ của các kẻ lãnh đạo nhẹ hơn vì hai lý do. Người dân có quyền và có thể xử dụng cái quyền của mình bằng cách bỏ phiếu bất tín nhiệm kẻ cầm quyền. Thứ nhì vì có luật pháp nghiêm minh, do đó kẻ cầm quyền có thể bị bãi chức hoặc bị truy tố ra trước tòa án nếu phạm luật. Riêng trong các nước độc tài cộng sản, cái bệnh lãnh tụ của kẻ cầm quyến rất nặng và rất nhiều. Nó lưu hành theo máu huyết của kẻ cầm quyền. Nó ăn sâu vào trong xương tủy của kẻ cầm quyền. Nó như là cái dịch hay một thứ vi rút nguy hiểm. Do ở chế độ độc tài đảng trị, luật pháp không được thực thi một cách nghiêm minh, kẻ cầm quyền tha hồ muốn làm gì thì làm. Họ biết nếu vi phạm luật pháp; họ sẽ được đàn anh che chở, bằng không chạy chọt đút lót rồi tội ác của họ sẽ được giấu diếm. Điển hình như chế độ độc tài đảng trị ở Việt Nam. Ngồi ở danh vị Bí Thư Xứ Ủy Nam Kỳ mà cưỡng hiếp phụ nữ thì bảo sao thuộc cấp không chê cười và đàm tiếu. Bản thân Ba Duân với Sáu Búa vốn đã không có thứ ” đạo đức cách mạng ”, lại nắm quyền bính trong một chế độ không có luật pháp công minh vì vậy mới buông lung làm theo thú tính của mình. Xem sinh mạng của dân như cỏ rác bởi vậy chúng mới cưỡng bức thanh thiếu niên nam nữ của miền bắc đi vào nam, đi qua Miên để chết cho tham vọng bá quyền của chính chúng và các lãnh tụ của hai nước đàn anh Nga Tàu. Giết người là thú tiêu khiển của hai bị can. Phải thấy máu chảy, người chết thì hai bị can mới ăn ngon ngủ yên được. Bỏ ngoài tai lời than oán vọng thấu trời xanh, mặc cho tiếng đời mai mỉa cười chê; chúng cứ làm điều gì mình muốn. Mặc cho chuyện lưu xú vạn niên, nhơ danh dòng họ; chúng thi hành bất cứ thủ đoạn tàn độc để củng cố quyền lực, bởi vì chúng thừa biết chẳng có ai làm gì chúng được. Tuy nhiên, hôm nay, nhân dân Trời và luật pháp của âm phủ, Thôi Phán Quan tôi, xin chín vị bồi thẫm xét nghiệm theo luật pháp và công tâm của quí vị, sau đó cho hai bị can Ba Duân và Sáu Búa một hình phạt tương xứng với các tội ác của chúng mà tôi nêu ra đây.

1-Dụ dỗ gái vị thành niên.
2-Cưỡng hiếp và gian dâm phụ nữ.
3-Giết người có dự mưu với trường hợp gia trọng.
4-Gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho các nạn nhân của tổng công kích Tết Mậu Thân, mùa hè đỏ lửa năm 1972 ở An Lộc, đại lộ kinh hoàng, tù cải tạo và người vượt biển.

Tôi xin nhấn mạnh với 9 vị bồi thẫm là hai bị can không phải giết một, hoặc hai ba người mà họ đã giết hàng triệu người… Hình phạt dành cho hai bị can phải triệu lần nặng hơn…

Thiên hạ vỗ tay rào rào sau khi nghe xong lời buộc tội của Thôi Phán Quan. Lát sau Diêm Vương mới gõ búa ra hiệu cho mọi người im lặng. Nhân danh chủ tịch bồi thẫm đoàn, Đán bước tới thì thầm với Diêm Vương. Nghe xong ông vua âm phủ gục gặt đầu tỏ vẻ hài lòng rồi tuyên bố hình phạt dành cho hai bị can Ba Duân và Sáu Búa sẽ được tuyên xử trước khi phiên xử của Hình Chí Mô chấm dứt. Phán xong ông ta ra lịnh cho Thôi Phán Quan tiếp tục phiên tòa.

Bước tới đứng trước mặt của Hình Chí Mô, vị biện lý của âm phủ cao giọng.

-Kính thưa quí vị. Hôm nay tôi sẽ mở phiên xử cuối cùng. Đó là phiên xử đặc biệt dành cho Hình Chí Mô. Từ già tới trẻ, từ đàn ông tới đàn bà, từ đông sang tây, từ nam xuống bắc không ai không biết hoặc nghe danh của bị can. Có đám trí thức thiên tả ca tụng bị can là kẻ yêu nước. Đám trí thức phòng lạnh tây phương khen bị can là một anh hùng. Có kẻ nói bị can là một lãnh tụ vỉ đại. Ai muốn khen, muốn ca tụng là quyền của họ. Khi Hình Chí Mô chết, có rất nhiều người như giáo sư đại học, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ hay nhiều lãnh tụ các quốc gia bày tỏ lòng thương tiếc bị can. Số người tán tụng, thương tiếc bị can nhiều lắm. Tuy nhiên có một điều rất lạ, rất đáng ngạc nhiên là, đại đa số dân Việt Nam lại không nhỏ một giọt nước mắt nào để khóc, để tiếc thương lãnh tụ của mình. Không tiếc thương, không khóc đã đành mà họ còn mắng thầm, còn nguyền rũa, còn phỉ nhổ bị can, một kẻ mà đám trí thức thiên tả của tây phương ca tụng là một vĩ nhân. Tại sao?

Nhấn mạnh hai tiếng ” tại sao ? ”, Thôi Phán Quan ngừng lại cho mọi người suy nghĩ về lời nói của mình

-Những ai, nhất là giới trí thức thiên tả của các nước tự do dân chủ ca tụng, tiếc thương Hình Chí Mô bởi vì họ có may mắn không sống ở đất nước Việt Nam. Họ không là nạn nhân của Hình Chí Mô. Họ không bị cai trị bởi một chế độ tàn bạo, không tôn trọng những quyền căn bản của người dân. Họ không bị công an bịt miệng không cho nói trước tòa. Họ không bị công an đạp vào mặt khi đi biểu tình phản đối Trung Cộng xâm chiếm đất đai của nước họ. Họ không bị cảnh sát chìm tới nhà hỏi thăm sức khỏe vì viết báo tố cáo tham nhũng. Họ cũng không bị công an bắt giam vì tội chế diễu kẻ cầm quyền. Họ không bị đưa ra toà với bản án đã được định sẵn. Nếu họ là dân Việt Nam, sống dưới chế độ độc tài đảng trị của cộng sản, họ sẽ thôi, sẽ ngưng lời tán tụng một kẻ không từ bất cứ thủ đoạn, hành động gian ác nào để đạt được mục tiêu tối hậu là biến quê hương của bị can thành một công cụ của đệ tam quốc tế, giúp cho hai nước cộng sản đàn anh thực hiện mộng thống trị lân bang và toàn thế giới. Bị can bán đứng Phan Bội Châu cho Tây. Bị can làm chó săn cho mật thám tây bắt Lê Hồng Phong. Bị can đưa tin cho phòng nhì thực dân Pháp bắt Hà Huy Tập, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Phùng Chí Kiên. Những người đó là ai? Họ là đồng chí của bị can. Hình Chí Mô là kẻ ăn cướp công lao cách mạng của Phan Bội Châu, Hồ Học Lãm, Nguyễn Hải Thần và các đảng phái quốc gia. Hình Chí Mô báo tin cho Pháp biết Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc Dân Đảng sẽ khởi nghĩa ở Yên Bái. Ai giết Tạ Thu Thâu? Hình Chí Mô? Ai giết Bùi Quang Chiêu? Hình Chí Mô. Ai giết Huỳnh Phú Sổ? Hình Chí Mô. Ai giết Nguyễn Bình? Hình Chí Mô. Ai giết Diệp Văn Kỳ? Hình Chí Mô. Ai giết Trương Tử Anh? Hình Chí Mô. Ai giết Lý Đông A? Hình Chí Mô. Ai giết Khái Hưng? Hình Chí Mô. Ai giết Hồ Tùng Mậu? Hình Chí Mô. Ai giết Lâm Đức Thụ? Hình Chí Mô. Ai giết Phạm Quỳnh? Hình Chí Mô? Ai giết Ngô Đình Khôi? Hình Chí Mô. Còn nhiều lắm… nhiều lắm kể không hết. Có thể nói danh sách những người bị Hình Chí Mô trực tiếp hoặc gián tiếp ra lịnh cho thuộc cấp thủ tiêu dài như cuốn sách mấy trăm trang giấy. Có thể nói cuộc đời cách mạng của Hình Chí Mô gắn liền với hành động giết người. Kẻ nào chống đối, hắn giết. Kẻ nào hắn không ưa hắn thủ tiêu. Hắn giết dân lành vô tội. Hắn đạp lên xác người chết để thi hành nghĩa vụ mà đệ tam quốc tế hay đúng hơn đàn anh Stalin đã giao phó là biến các nước nhược tiểu như Việt Nam, Lào, Cao Miên, Thái Lan thành nước cộng sản. Tôi sẽ trình bày các việc xấu xa, nhơ bẩn; các tội ác tày trời của bị can trong phiên xử sau đây cho 9 vị bồi thẫm và tất cả mọi người ở ba tầng chín cõi được biết hầu có một nhận xét đúng đắn về con người hai mặt Hình Chí Mô. Muốn có một cái nhìn ” y như thị ”, ta phải xé nát hào quang mà bị can và các đồng chí của hắn đã cố tình giấu diếm và che đậy để lừa dối dân chúng Việt Nam và toàn thế giới. Thừa lệnh của Trời và Diêm Vương, nhân danh công lý của vũ trụ, Thôi Phán Quan tôi sẽ cố gắng lột trần sự thật bao quanh huyền thoại Hình Chí Mô. Tôi muốn cho dân Việt Nam thấy rõ Hình Chí Mô là một tên phản quốc thay vì là kẻ yêu nước. Tôi muốn cho 80 triệu dân Việt Nam biết Hình Chí Mô là kẻ bán nước. Vì quyền lợi của đảng, cá nhân hoặc phe phái, hắn không ngần ngại dâng hiến đất đai, biển đảo, rừng núi cho đàn anh Trung Cộng để giữ vững chức vị của mình.

Sau thời gian dài tìm kiếm, âm phủ đã sưu tập nhiều hồ sơ, tài liệu được lưu trữ trong văn khố của các quốc gia như Pháp, Tàu, Nga và Việt Nam, sách báo hay các bài viết của các cá nhân đăng tải trên các trang mạng về đời tư của Hình Chí Mô. Bị can có bao nhiêu nhân tình nhân ngãi tôi chẳng màng. Việc bị can có mấy vợ tôi cũng chẳng quan tâm. Chuyện bị can có bồ nhí, đào tơ không làm tôi bận lòng. Tuy nhiên điều khiến cho tôi bất bình là sự lừa dối, bịp bợm của bị can đối với toàn dân Việt Nam. Sự dối trá và lừa bịp này là một tính toán, một cố tình của chính bị can và đảng cộng sản Việt Nam để lường gạt những người dân hiền lành, chất phát và ngây thơ. Bị can và băng đảng của hắn cố tình vẻ ra hình ảnh một ông tiên, ông thánh, vị thần linh hay đúng nghĩa nhất một lãnh tụ đầy đủ đạo đức cách mạng để dân chúng yêu mến, tuân phục và hy sinh cho lãnh tụ. Chủ đích của bị can là gì? Tất cả đều phục vụ cho lãnh tụ. Tất cả đều trở thành nô lệ cho lãnh tụ. Vừa thoát khỏi cái ách đô hộ của thực dân Pháp, thì liền sau đó Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản của hắn lại tròng vào cổ dân chúng Việt Nam một cái ách nô lệ mới còn tàn bạo và khủng khiếp gấp trăm lần. Với uy quyền tuyệt đối, lãnh tụ muốn làm gì thì làm ngay cả đem đất nước vốn đã chịu nhiều điêu linh thống khổ hiến dâng cho đệ tam cộng sản hầu thực hiện mộng thống trị toàn thế giới. Dân chết mặc dân. Người chết mặc người. Bị can và băng đảng của hắn vẫn sống phây phây trên xác người. Bị can vui cười trên tiếng khóc của hàng triệu thanh niên nam nữ yêu nước. Bằng bộ máy tuyên truyền xảo trá với những danh từ hoa mỹ như không gì quí hơn độc lập tự do, bị can và băng đảng của hắn đã giết hàng trăm ngàn trí thức, tương lai và rường cột nước nhà xuyên qua cuộc cải cách ruộng đất, cuộc chiến tranh Đông Dương 1, 2 và 3. Với chủ trương diệt hết nhân tài của đất nước, bị can nói câu ” tri, phú, địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ ”. Tại sao cộng sản phải tiêu diệt trí thức? Giản dị lắm. Những người có ăn học này mới khám phá ra cái giả trá của bị can. Kẻ có trình độ học vấn mới đủ khả năng hoặc cơ hội tiếp xúc với thế giới bên ngoài để tìm ra hồ sơ, giấy tờ, tài liệu chứng minh sự lừa dối và lường gạt của bị can…

Ngừng lại, bước trở lại bàn của mình, uống ngụm nước cho thông cổ, Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp.

-Tôi sẽ trình bày cùng 9 vị bồi thẫm và khán, thính giả của ba tầng chín cõi về tội ác của Hình Chí Mô. Từ đó 9 vị bồi thẫm có thể lượng định để cho hắn một hình phạt tương xứng với tội trạng của hắn. Đối với luật pháp của âm phủ thì Hình Chí Mô đã phạm vào 8 trọng tội sau đây.

1-Lừa dối: đàn bà con gái
2-Lường gạt: dân chúng và các đồng chí.
3-Ăn cắp
4-Gián điệp: được đệ tam quốc tế huấn luyện thành một điệp viên. Nhờ vậy mà Hình Chí Mô có đủ khả năng tuyên truyền, chiêu dụ, lũng đoạn, xâm nhập vào các đảng phái đối lập.
5-Giết người: có dự mưu, gia trọng, cố sát…
6-Bán nước ( bán đất, bán biển, đảo, núi non, rừng rú, quặng mỏ )
7-Phá hoại tổ quốc và dân tộc ( phá hoại gia đình, phong tục, truyền thống, nông nghiệp, công thương và kỹ nghệ )
8-Phản quốc: biến Việt Nam thành 1 chư hầu của Nga Tàu

Hướng về ghế của Diêm Vương đang ngồi đoạn quay qua bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.

-Kính thưa quí vị bây giờ phiên xử Hình Chí Mô bắt đầu…

Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Vị lục sự cất tiếng mời Hình Chí Mô lên ngồi vào ghế bị can. Điều khiến cho mọi người thắc mắc là ông ta không đọc tiểu sử của bị can giống như bảy người trước. Đợi cho bị can an vị xong xuôi, Thôi Phán Quan mới bước tới đứng trước mặt và câu hỏi đầu tiên của ông ta là:

-Xin lỗi ông… Tôi mạn phép hỏi ông bao nhiêu tuổi?

Câu hỏi mở đầu của Thôi Phán Quan dành cho bị can rất lịch sự nếu không muốn nói kiểu cách. Câu hỏi này cũng làm cho khán thính giả tham dự thắc mắc. Ngay cả 9 vị bồi thẫm cũng có cử chỉ ngạc nhiên bằng cách thì thầm với nhau.

Hơi do dự giây lát Hình Chí Mô mới trả lời.

-Thưa ngài biện lý… Tôi sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890. Tính đến năm 2012 thì tôi được 101 tuổi dư…

Gục gặt đầu cười, hướng về nơi 9 vị bồi thẫm đang ngồi, vị biện lý của âm phủ cao giọng.

-Căn cứ vào những tài liệu mà tôi có được trong tay thì:

1-Trong đơn xin học Trường Hành Chính Thuộc Địa năm 1911, ông tự ghi là sinh năm 1892…

Không để cho bị can mở miệng biện bạch, Thôi Phán Quan tiếp liền.

2-Năm 1920, ông khai với một quận cảnh sát tại Paris ngày sinh của mình là 15 tháng 1 năm 1894…

3-Theo một tài liệu do Phòng nhì Pháp lập năm 1931, có sự xác nhận của một số nhân chứng của làng Kim Liên, quê nội của ông, thì ông sinh tháng 4 năm 1894…

4-Trong tờ khai của ông tại Đại sứ quán Liên Xô ở Berlin vào tháng 6 năm 1923, thì ngày sinh là 15 tháng 2 năm 1895…

Diêm Vương gục gặt đầu có vẻ chịu cách tra hỏi bị can trước tòa của Thôi Phán Quan. Bây giờ người ta mới hiểu ra cái thâm ý của vị đại diện luật pháp âm phủ. Người ta được cha mẹ sinh ra có một lần, do đó cũng chỉ có một ngày sinh tháng đẻ thôi. Riêng lão Hình Chí Mô thì lại có tới 4 ngày-tháng-năm sinh khác nhau. Điều này đủ cho bồi thẫm đoàn biết lão nói dối, từ đó họ có ấn tượng xấu với lão.

Chắc cũng biết điều đó nên lão Hình hướng về chỗ bồi thẫm đoàn nói như phân trần.

-Thưa tôi làm cách mạng nên không thể tiết lộ lai lịch của mình… Tôi khai như thế vì lý do an ninh để khỏi bị mật thám tây bắt…

Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

-Ông tên gì?

Đã bị bể mánh về ngày sinh tháng đẻ nên lần này lão Hình không lọt vào bẩy của Thôi Phán Quan nữa.

-Tên cúng cơm của tôi là Nguyễn Sinh Cung…

-Ông còn tên gì khác nữa không?

Biết nếu nói dối thì sẽ lòi ra cái bản mặt xấu trước bồi thẫm đoàn, do đó Hình Chí Mô phải khai thật.

-Sau này tôi còn có tên Nguyễn Tất Thành. Khi ở bên Pháp tôi lấy tên Nguyễn Ái Quốc. Khi hoạt động cách mạng ở bên Tàu tôi lấy tên Hình Chí Mô…

-Ông lấy tên… Là người của âm phủ nên tôi không thông tiếng Việt lắm. Xin ông vui lòng giải thích tiếng ” lấy ” của ông có nghĩa như thế nào?

Hình Chí Mô ấp úng hồi lâu mà chưa chịu trả lời. Hướng về bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan cao giọng.

-Theo như các tài liệu mà âm phủ thu lượm được thì ông bắt đầu có tên Nguyễn Tất Thành năm 1901. Đúng không?

Hình Chí Mô trả lời bằng cái gật đầu. Điều đó không làm thỏa mãn Thôi Phán Quan lập lại.

-Trước tòa, tôi yêu cầu ông trả lời đúng hoặc không đúng…

Liếc thấy Diêm Vương đang hằm hè nhìn mình, rồi ngó qua thấy 9 vị bồi thẫm cũng đang ngó mình, Hình Chí Mô trả lời.

-Đúng… Tôi xác nhận là tôi bắt đầu dùng tên Nguyễn Tất Thành từ năm 1901…

-Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, ông lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp với nghề phụ bếp trên chiếc tàu buôn Amiral Latouche-Tréville. Đúng không?

-Đúng…

Hình Chí Mô trả lời gọn một tiếng. Khẽ lắc đầu Diêm Vương lên tiếng.

-Sao mà ngươi nhiều tên vậy… Mới có 21 tuổi mà ngươi đã có ba tên rồi. Nào Sinh Cung, Tất Thành rồi bây giờ lại thêm Văn Ba…

Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn, Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

-Sau khi tới Pháp thì ông làm gì?

-Tôi làm cách mạng chống thực dân Pháp…

Có tiếng vỗ tay lác đác để khen tặng cho Hình Chí Mô. Cười cười Thôi Phán Quan vặn.

-Tôi cũng được đọc tin tức của đảng cộng sản Việt Nam nói là ông sang Pháp làm cách mạng để giải phóng cho nước ông khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Tuy nhiên tôi cũng nghe tin đồn hoặc cũng được đọc tài liệu về việc ông đi qua và sinh sống ở Pháp. Càng đọc tôi càng mù mờ và bán tín bán nghi. Nay tôi xin được hỏi ông một câu trước tòa là ông sang Pháp để làm gì?

Hình Chí Mô do dự trong thoáng chốc rồi gật đầu.

-Tôi xuống tàu sang Pháp là để làm cách mạng… Tôi xác nhận điều đó trước tòa…

Mỉm cười Thôi Phán Quan chìa tờ giấy đã cũ và vàng ra trước mặt bị can.

-Chắc ông còn nhớ vật này?

Hình Chí Mô thay đổi sắc mặt khi thấy tờ giấy đó. Bước tới chỗ chín vị bồi thẫm đang ngồi, Thôi Phán Quan đưa tờ giấy cho Đán. Xem song anh trao cho Bình rồi chuyền tay đi vòng vòng hết 9 vị bồi thẫm.

giavui
07-11-2014, 09:01 PM
-Bị can lấy tên giả là Văn Ba, xuống tàu đi sang Tây nói để làm cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của ngoại bang là nói dối và lừa gạt mọi người. Thực ra hắn sang Pháp để tìm đường mưu sinh và xin làm quan cho thực dân Pháp. Đây là bằng chứng hiển nhiên… Vị đại diện cho luật pháp của âm phủ nháy mắt ra hiệu cho hai vị sứ giả đang đứng sau lưng của Diêm Vương. Hiểu ý Bạch y sứ giả phát tay áo. Trên bức vách rộng phía bên trái lộ ra màn ảnh truyền hình rồi sau đó hiện lên một vật mà mọi người đều bật lên tiếng kêu ồ sửng sốt khi thấy nó.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_1.jpg?w=529&h=921 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_1.jpg?w=529&h=921)
Marseille le15 Septembre 1911 À Monsieur le Ministre des Colonies Monsieur le Ministre J’ai l’honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l ‘ École Coloniale comme interne. Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l’Amiral Latouche Tréville. Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’ instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’ instruction. Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam. En attendant votre réponse que j ‘ espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ‘ assurance de ma reconnaissance anticipée. Nguyễn-tất Thành,
né à Vinh, en 1892, fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois Tạm dịch: Marseille ngày 15 tháng chín 1911 Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa Kính thưa ông Bộ Trưởng, Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa. Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville). Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích giáo hóa. Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam. Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi. Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán… -Hóa ra là thế… -Hắn nói làm cách mạng mà tại sao lại xin vào học trường thuộc địa… -Bác Hình ơi sao kỳ vậy bác… -Trường thuộc địa là trường gì vậy anh Bảy? Một giọng nói già nua vang lên như để trả lời câu hỏi. -Trường thuộc địa là trường do chính phủ Pháp lập ra để dạy cho các học sinh của các nước thuộc Pháp ra làm quan ở tại xứ sở của mình… Sau khi tốt nghiệp thì họ trở về nước để làm quan cho Pháp… Sau khi xem xong Đán trả lại lá đơn xin học trường thuộc địa của Hình Chí Mô cho Thôi Phán Quan. Cầm lá đơn trong tay, vị biện lý của âm phủ cao giọng. -Đọc lá thư của bị can chúng ta thấy những gì. Trước nhất là ý tưởng phụng sự mẫu quốc của bị can. Thứ nhì là tính cách qui lụy và bợ đỡ của bị can. Điều đó đã được minh chứng qua những dòng chữ: -Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa… -Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp… -Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi… Phòng xử im lặng như mọi người còn đang suy nghĩ về những lời của Thôi Phán Quan đã nói. Lát sau vị biện lý của âm phủ quay sang bị can hỏi một câu. -Ông xác nhận lá thư này chính là lá thư tự tay ông viết để xin nhập học trường thuộc địa tại Ba Lê? Hình Chí Mô trả lời bằng cái gật đầu. Cau mày vị biện lý của âm phủ gằn giọng. -Tôi xin nhắc lại lần nữa là ông phải trả lời đàng hoàng chứ không thể gật đầu… Liếc nhanh Diêm Vương, Hình Chí Mô lên tiếng. -Tôi xác nhận lá thư này do chính tay tôi viết và gởi… Thôi Phán Quan hỏi tiếp. -Ông viết bao nhiêu lá đơn để xin vào học trường thuộc địa? -Hai… Tôi có viết hai lá đơn; một gởi cho tổng thống Pháp và một gởi cho bộ trưởng thuộc địa, nhưng họ đều bác đơn không nhận tôi vào học… -Phải trong đơn gởi cho tổng thống Pháp ông lấy tên là Paul Tất Thành không? Hình Chí Mô nhẹ gật đầu thay cho câu trả lời. -Sau khi đơn xin học bị bác thì ông làm nghề gì để sống? -Tôi vẫn làm phụ bếp trên tàu buôn Amiral Latouche- Tréville một thời gian rồi đi qua Mỹ sau đó trở lại Luân Đôn, thủ đô của nước Anh… Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô bằng câu hỏi. -Tôi nghe đồn ông là người có số đào hoa nhất trong đảng. Đúng không? Hình Chí Mô hơi có vấn đề khi nghe Thôi Phán Quan nói tới hai tiếng ” nghe đồn ”. Ở trong chế độ độc tài chuyên chế của cộng sản Việt Nam thì không có tự do ngôn luận. Không có tự do báo chí, truyền thanh truyền hình gì hết, thành ra dân chúng chỉ còn mỗi cách để thông tin với nhau. Đó là tin đồn hay nói cách khác là tuyên truyền rỉ tai. Dù là tin đồn song rất xác thực bởi vì người tung tin chính là kẻ có chức, có quyền ở trong nội bộ đảng. Bởi vậy mà Hình Chí Mô phải giật mình khi nghe Thôi Phán Quan nói tin đồn. Lắc đầu mấy lượt, Hình Chí Mô quay nhìn Diêm Vương đoạn nói với giọng như phân trần. -Bẫm Diêm Vương… Con cả đời đi đây đi đó làm cách mạng giải phóng nước con khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Con đâu có thì giờ nghĩ tới chuyện bồ bịch lăng nhăng… Đưa tay lên vuốt râu Diêm Vương cười cười buông giọng lửng lơ. -Ta cũng nghĩ như ngươi, tuy nhiên… Hình Chí Mô có chiều suy nghĩ về câu nói của ông vua âm phủ. -Thế thì cô đầm trẻ đẹp Marie Brière ông bỏ cho ai? Thôi Phán Quan lên tiếng. Liếc nhanh bồi thẫm đoàn Hình Chí Mô làm thinh không trả lời. Vị biện lý của âm phủ cười nói tiếp. -Tôi còn nhớ ông làm thơ tặng cho cô ta mà… Ông Tố đã đọc bài thơ đó trước tòa… -Cô Marie không phải là bồ mà chỉ là người quen. Đúng hơn cô ta là thân chủ của tôi. Tôi chụp ảnh cô ta vì cô ta chơi đẹp với tôi… Nói tới đó Hình Chí Mô vội ngưng bặt vì biết mình lỡ lời. Không khi nào chịu bỏ qua cơ hội, Thôi Phán Quan bèn khai thác triệt để câu nói của bị can. -Xin ông vui lòng giải thích cho 9 vị bồi thẫm biết cô ta chơi đẹp với ông như thế nào? Cô ta có hành động, cử chỉ hoặc thái độ gì mà ông lại nói cô ta chơi đẹp? Thôi Phán Quan hỏi liền một lúc hai câu hỏi. Hình Chí Mô im lặng. Hắn biết đã lỡ lời nên im lặng suy nghĩ để bào chữa cho câu nói của mình. Liếc thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn chờ nghe câu trả lời của mình, hắn gắng gượng thốt. -Thì… thì… Tôi chụp ảnh cô ta đẹp… -Tôi biết ông chụp ảnh đẹp tuy nhiên câu hỏi của tôi là… -Cô ta thấy tôi cũng sạch nước cản… Cô ta khen tôi đẹp giai… Cô ta phục tôi vì biết tôi làm cách mạng chống Pháp… -Tôi nhìn nhận là hồi trẻ ông trông cũng đẹp giai. Đây là bức ảnh ông chụp tại Nga Sô năm 1923… Chắc ông còn nhớ? Thôi Phán Quan chìa bức ảnh ra trước mặt Hình Chí Mô. Ngắm nghía bức ảnh của mình giây lát hắn cười cười. -Lúc mới gặp tôi lần đầu tiên, cô Marie có thiện cảm với tôi liền… Cổ khâm phục khi biết tôi bỏ nước ra đi làm cách mạng… -Ủa ông không nói cho cô ta biết là ông làm đơn xin vào học trường thuộc địa để sau này làm quan cho Pháp à? -Ngu sao nói… Chuyện đó tôi giấu biệt luôn… Mới đầu thì chúng tôi chuyện trò rất tâm đầu ý hiệp. Sau nhiều lần đi chơi, cô ta mời tôi về nhà ăn cơm tối mấy lần rồi sau đó thấy tôi tứ cố vô thân, nghề ngỗng cũng hổng có, cô thương quá nên ngõ ý rước tôi về nhà của cô ở… -Rồi ngươi có nhận lời về nhà cô ta ở? Diêm Vương vọt miệng hỏi. Hình Chí Mô tủm tỉm cười. -Dạ con đâu có nỡ lòng nào phụ cái hảo ý của cô Marie. Diêm Vương nghĩ coi con đang bữa đói bữa no, lại thêm thằng chủ nhà trọ sắp tống cổ con ra vì thiếu mấy tháng tiền phòng chưa trả, thì bây giờ có ” cơm no bò cỡi ” thì ngu cách mấy con cũng hổng chịu bỏ qua dịp may, huống chi cô Marie thì vòng 1, 2 và 3 đều hội đủ tiêu chuẩn cách mạng vô sản… -Lành, nó nói cái gì ta hổng hiểu? Diêm Vương lên tiếng hỏi Tố Bồi Bút. Biết hắn là bút nô văn hay thơ giỏi lại học nhiều biết rộng về những chuyện ” thâm cung bí sử ” của các lãnh tụ cao cấp trong đảng nên có thắc mắc ông ta hỏi hắn liền. Họ Tố cười cười. -Bẩm Diêm Vương… Tiêu chuẩn của cách mạng vô sản là người ta hổng có cái gì hết. Cô Marie mà cởi quần áo ra cho bác của con cân đo và chụp ảnh thì cô trở thành kẻ vô sản. Bởi vậy bác con mới nói là đủ tiêu chuẩn cách mạng vô sản… Để con giải thích cho Diêm Vương hiểu thêm về cách cân đo của bác. Thời ấy chưa có thước dây như bây giờ nên bác con phải dùng tay để đo vòng 1,2 và 3 của cô Marie. Bởi vậy tụi con mới bắt chước bác rồi gọi là tiêu chuẩn cách mạng vô sản… Diêm Vương lắc đầu lẩm bẩm. -Bác của ngươi phun ra toàn lý thuyết cách mạng cao xa quá thì ai mà hiểu được… Nói tới đó ông ta vội ngưng lại khi nghe tiếng tằng hắng của Thôi Phán Quan. -Ngoài lý do ” cơm no bò cỡi ” ông còn lý do nào khác hơn để trở thành tình nhân của cô Marie và nhiều người khác… Hình Chí Mô tủm tỉm cười khi nghe câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc nhanh về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi, hắn thong thả thốt.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_2.jpg?w=297&h=320 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_2.jpg?w=297&h=320)

Hình cô Marie Brière chụp chung với Hình Chí Mô ở Hà Nội.
-Thưa ngài biện lý… Tôi có lý do chứ, một lý do đặc biệt mà tôi tạm gọi là lý do cách mạng. Đó là tôi thay mặt dân tôi để trả thù… Hình Chí Mô dừng lại như muốn cho mọi người suy nghĩ về câu nói của mình. Lát sau hắn mới cười lên tiếng nói với Diêm Vương và cũng cốt ý cho mọi người nghe. -Bẫm Diêm Vương… Nước Việt Nam con bị thằng Tây đô hộ cả trăm năm. Nó ỷ mạnh nó đè, chèn, ép dân con. Bởi vậy chủ ý của con đi qua Tây là để đè mấy cô đầm trẻ đẹp. Đó là con đại diện dân con làm cách mạng hay là trả thù cho dân tộc của con… Rồi khi qua tới Nga, bản thân con cũng bị mấy đồng chí trong đảng cộng sản Liên Sô ăn hiếp. Vì vậy mà còn đè cô Véra Vasiliera để trả thù… Diêm Vương và Thôi Phán Quan liếc nhau rồi tủm tỉm cười. Hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi chăm chú nghe mình kể chuyện, Hình Chí Mô nói như phân trần. -Dù chính kiến bất đồng song 9 vị và tôi đây đều là dân Việt. Nước mình, dân mình đã bị các đồng chí Tàu đô hộ cả ngàn năm. Mỗi lần đọc lại lịch sử nước nhà, tôi rất bất bình và ấm ức cho dân mình. Bởi vậy khi được sang Tàu hoạt động, có dịp là tôi cứ đè mấy con xẩm ra để giải tỏa nỗi ấm ức của mình… Nghe tới đó Huyền quay sang thì thầm vào tai Bình. -Ổng đi làm cách mạng mà sao tôi nghe ổng cứ nói đè không vậy anh Bình… Đán vọt miệng xen vào. -Thì ổng làm cách mạng đè mà chị… Nếu sinh ra cùng thời với ổng thì tôi cũng theo ổng đi làm cách mạng đè cho sướng cái thân… Bình cười gật đầu. -Anh nói có lý… Mấy đồng chí theo ổng đi làm cách mạng đè thì người nào cũng vợ cả, vợ lớn, vợ bé, vợ nhỏ, đào trẻ, bồ nhí tùm lum… Dù ba vị bồi thẫm thì thầm với nhau mà Hình Chí Mô cũng nghe được. Hắn chỏ miệng vào câu chuyện. -Tụi nó học nghề của tôi đó… Hồi còn ở Ba Lê, làm nghề phó nháy không đủ ăn tôi phải kiêm thêm nghề thợ đè… Nghe tới đó Diêm Vương vội lên tiếng. -Ta sống mấy ngàn tuổi, làm đủ trăm nghề mà chưa nghe ai nói làm nghề thợ đè. Thôi đã tới giờ rồi. Vậy hãy để cho mọi người ăn trưa chứ ở đây mà nghe thằng Hình nó kể về chuyện đè chắc ta lên máu chết…

giavui
07-11-2014, 09:04 PM
- 21 -
Con dê cụ của đảng http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_4.jpg?w=425&h=297 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_4.jpg)
Thôi Phán Quan tiếp tục phiên xử buổi chiều bằng câu hỏi. -Ông có mấy vợ? Tủm tỉm cười Hình Chí Mô trả lời. -Tôi chưa hiểu ý của ngài. Vợ là nghĩa làm sao. Vợ cả, vợ lớn, vợ bé, vợ nhỏ, vợ mọn, vợ hờ… Vợ có hôn thú hay vợ không chính thức… Nếu tính hết các bà vợ mà tôi vừa kể trên thì nhiều lắm… Hình Chí Mô đưa ngón tay lên nhẫm tính một hồi mới quay qua Diêm Vương. -Bẫm Diêm Vương… Ngài có máy tính cầm tay không cho con mượn một cái. Nhiều quá mười ngón tay con đếm hổng đủ… Hừ tiếng nhỏ Diêm Vương lắc đầu. Thôi Phán quan lên tiếng hỏi. -Ông có vợ lớn vợ nhỏ, nhân tình bồ nhí cả tá mà sao trong hồ sơ của ông lại ghi là không có vợ? -Tôi không muốn cho người ta biết tôi có vợ… Diêm Vương chợt lên tiếng. -Thằng này lạ… Đàn ông thanh niên lớn lên là phải có vợ. Chuyện đó có gì đâu mà ngươi phải giấu diếm… -Bẫm Diêm Vương… Trường hợp của con thì khác… Con đi làm cách mạng đè mà nếu biết con có vợ thì mấy cô đâu dám cho con đè… Với ai con cũng nói là con chửa vợ… Tằng hắng tiếng nhỏ Thôi Phán Quan ngắt lời Hình Chí Mô. -Tôi nghe đồn là khi chân ướt chân ráo tới Ba Lê ông có gặp cô Bourdon… Hình Chí Mô có vẻ buồn khi nghe nói tới tên Bourdon. Lát sau hắn thở dài nói nhỏ. -Cô Bourdon là cô gái đầu tiên tôi quen ở Paris… -Hình như ông có thư từ qua lại với cô ta? Thấy bị can do dự chưa chịu trả lời, Thôi Phán Quan cười tiếp -Theo như lời đồn thì ông đã viết một bức thư tỏ tình và cầu hôn với cô Bourdon. Ông xác nhận điều này… Hình Chí Mô cau mày suy nghĩ. Hắn biết hai tiếng ” lời đồn ” vị đại diện cho luật pháp có một nghĩa đặc biệt. Đó chỉ là một cách nói để tỏ cho bị can biết là ông ta đã nắm được chứng cớ hoặc giấy tờ trong tay. -Bức thư ông viết cho cô Bourdon đề ngày 10 tháng 5 năm 1923. Sau đó hơn 1 tháng sau tức ngày 11 tháng 6 năm 1923, cô ta viết thư hồi âm từ chối lời cầu hôn của ông… Hình Chí Mô lặng thinh. Tủm tỉm cười Thôi Phán Quan tiếp. -Cô Bourdon là người tình đầu tiên của ông? -Đúng như vậy… Tôi có làm thơ tặng cho cô ta… -Phải bài thơ mà thằng Lành đã đọc cho ta nghe… Nghe Diêm Vương lên tiếng hỏi, Hình Chí Mô sắm nắm trả lời. -Bẫm Diêm Vương… Thằng Lành nó nhớ bài thơ trừ vài chữ…

Em Bourdon ơi
Anh thấy trong mắt em
Một thân hình thiên tả
Anh thấy giữa đùi em
Một giai cấp vô sản…
Em Bourdon ơi
Nhìn vào mắt em
Anh thấy
Chiều Paris mưa rơi tầm tả
Nhìn sâu xuống chút nữa
Anh chợt cười ha hả
Ôi thế giới đại đồng
Ôi thiên đường cộng sản
Cũng chưa đã bằng cái đó của em yêu… Dù đã nghe bài thơ một lần rồi song Bình nhận thấy giọng đọc của chính tác giả truyền cảm và trầm bổng hơn. Liếc qua Huyền anh thấy cô bạn gái đang tủm tỉm cười. -Cũng vì bài thơ này mà cô Bourdon từ chối lời cầu hôn của tôi. Trong thư hồi âm cô bảo tôi có quá nhiều tư tưởng ủy mị của tư bản… Trong lúc mọi người lắng nghe Hình Chí Mô nói thì không biết nghĩ sao mà Thôi Phán Quan bước tới thì thầm với Diêm Vương những gì không ai nghe được. Người ta chỉ thấy ông vua âm phủ gật gật đầu nói lớn. -Ta cho phép khanh làm việc đó… Được lệnh của Diêm Vương, Thôi Phán Quan trở lại bàn của mình. Cầm xấp giấy dày cộm, bước tới chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi, ông ta giơ cao xấp tài liệu lên đoạn cao giọng thốt. -Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Đây là những gì tôi thu thập được về các người đã là tình nhân hoặc vợ của Hình Chí Mô mà tôi tạm gọi là hồ sơ về cuộc đời tình ái của lãnh tụ. 1-Cô thợ làm nón ở Paris: Tuy không có hôn thú song cô với Hình Chí Mô có một người con gái tên Louise. 2-Cô Bourdon: Hình Chì Mô viết thư tỏ tình ngày 10 tháng 5 năm 1923, cô có thư từ chối lời cầu hôn ngày 11 tháng 6 năm 1923. Bức thư này được lưu trữ trong văn khố Solotfom. 3-Marie Brière: Hình Chí Mô gặp cô ta vào năm 1920 . Đây có thể là người có con gái với ông như lời ông viết trong di chúc ngày 14/8/1969: “ Trước khi viết phần cuối của tờ di chúc này, tôi xin thú nhận, tôi là một người không phải thần thánh gì nên khi tôi còn sống cũng đủ ” bảy tính ” như kinh nhà Phật đã đề cập. Tôi không có vợ chính thức, nhưng cũng có được đứa con gái lai Pháp. Tôi ước mong con gái tôi, khi đọc tờ di chúc này sẽ tha thứ cho tôi đã không đủ bổn phận làm cha, nhưng phụ tử tình thâm, tôi luôn nhớ tới con gái tôi với muôn vàn âu yếm”. Marie Brière được sử gia Daniel Héméry ghi là người tình cũng là đồng chí. Theo lời đồn đại thì khi Hình Chí Mô về Hà Nội cầm quyền 1945-1946, người Pháp có đưa một số cô đầm từ Pháp sang gặp họ Hình, trong đó có cô Brière chụp ảnh chung với Hình Chí Mô. 4-Một người vợ tại Moscow: Người này do nhà cầm quyền Liên Xô cung cấp. Người đàn bà này có thể là Véra Vasiliera. Con gái của Vera Vasilieva, lúc ấy được 10 tuổi, còn nhớ rằng Hình Chí Mô thường nằm ngủ trên chiếc ghế trường kỷ trong ngôi nhà gỗ mà cô đang sống tại trung tâm Moscow. Lúc đó Hình Chí Mô đã dính líu tới nhiều vụ bắt bớ gây tổn thất nặng nề cho Phân Bộ Viễn Đông lẫn đảng cộng sang Trung Hoa trong năm 1931. Vasiliera là một người đàn bà ngây thơ từng được biết đến là đã bảo vệ những bạn bè bị tố cáo về những tội danh chính trị. Manabendra N. Roy, lãnh tụ Cộng Sản Ấn Độ, ủy viên chính trị của Đệ Tam Quốc Tế, bị khai trừ năm 1928, trong cuốn sách mang tên Men I Met, có nhắc sơ đến Hình Chí Mô như sau: ” Vào những năm 1920, cuộc sống ở Mạc Tư Khoa rất buồn chán và kham khổ vì thế mà Hình Chí Mô đã tìm thú vui nơi đàn bà. Đó là các cô gái giàu có của chế độ tư bản sa đọa hay các cô gái theo cộng sản nhưng lại lãng mạn và phóng đãng vì thế họ bị thu hút mãnh liệt bởi những khóa sinh Á châu “. 5-Lý Huệ Khanh là em gái của Lý Huệ Quần, vợ Lâm Đức Thụ. Từ năm 1925 đến năm 1927, Hình Chí Mô tá túc với Lâm Đức Thụ. Vì vậy mà vợ chồng Thụ đã mối mai cô em gái cho Hình Chí Mô. Hai người yêu nhau say đắm và có với nhau một đứa con gái. Lý Huệ Khanh về sau gia nhập đảng cộng sản Trung Hoa, rồi bị Quốc Dân Ðảng Trung Hoa giết trong vụ biến Quảng Châu Công Xã ngày 12 tháng 12 năm 1927. 6-Cũng theo tin đồn thì sau này khi hoạt động tại Hồng Kông, Hình Chí Mô cũng có một người vợ Tàu và có một con gái. Hồi năm 1950 hắn có nhờ chi bộ đảng cộng sản tìm giúp nhưng không tìm ra tông tích của người này 7-Tuyết Lan: Thời gian hoạt động ở Thái Lan, Hình Chí Mô có yêu một cô gái tên Tuyết Lan, đây cũng chính là tên T. Lan mà hắn đã dùng để viết sách, như cuốn Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện. 8-Tăng Tuyết Minh:
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_3.jpg?w=317&h=211 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_3.jpg)
Tăng Tuyết Minh: thời xuân sắc và lúc tuổi già mòn mỏi đợi chờ (với ảnh vẫn trên tường)
Nguồn: http://www.dprk-cn.com/
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_5.jpg?w=114&h=317 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_5.jpg)
Thư Lý Thụy gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng (Công an) Đông Dương phát hiện ngày 14/8/1928
Nguồn: Daniel Hémery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam. Sau đây là bản dịch lá thư của Hình Chí Mô ( lúc đó có tên Lý Thụy ) gởi cho Tăng Tuyết Minh do Nha Liêm Phóng Đông Dương phát hiện ngày 14-8-1928: Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm,Bất ngôn tự hiểu. Từ nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã da vọng. Tịnh thỉnh nhạc mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thụy. Tóm dịch: Cùng em chia tay nhau, Thấm thoát nháy mắt đã hơn năm, Nhớ nhung tình sâu, Không nói cũng tự biết. Nay nhân gởi tin hồng nhớn, Xa xôi gởi lá thư mang tấm lòng, Mong em yên tâm, Là điều anh trông ngóng. Cũng xin vấn an nhạc mẫu vạn phúc. Người anh vụng về Thụy. Năm 1959, khi Đào Chú, uỷ viên thường vụ bộ chính trị đảng cộng sản Trung Hoa kiêm phó thủ tướng sang thăm Việt Nam, Hình Chí Mô bí mật nhờ một người thân tín trong hàng ngũ lãnh đạo Hà Nội đến nói riêng với Ðào Chú rằng hắn ta muốn tái hôn với một người vợ cũ ở Quảng Ðông. Ðào Chú đã vui vẻ nhận lời, không ngờ hết thời gian Đào Chú điều dưỡng, hy vọng của ông cũng tan thành mây khói. Thủ tướng Chu Ân Lai sau khi nghe vị phó thủ tướng dưới quyền kể lại, đã thận trọng đưa ra nhận định: ” Phải đề nghị phía Việt Nam xem xét đã “. Mặt khác, Lê Duẩn không muốn làm hỏng hình tượng của “Cha già dân tộc”, của Đảng quang vinh. Do đó chuyện… tái ngộ đã không xảy ra. Theo Hồ Chí Minh sinh bình khảo của Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan), Phần 4 cũng nhắc đến Tăng Tuyết Minh: “ Năm 1925, Hình Chí Mô ( lúc này mang tên Nguyễn Ái Quốc ) tại Quảng Châu quen người con gái Trung Quốc tên Tăng Tuyết Minh. Năm 1926 kết hôn, sau khi cưới cả hai cùng ở trong căn biệt thự của Mikhail Borodin, có báo cáo nói rằng kết quả cuộc hôn nhân này là một bé gái “.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_6.jpg?w=319&h=538 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_6.jpg) http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_7.jpg?w=358&h=407 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_7.jpg) Quí vị nào muốn biết thêm chi tiết xin mời vào 2 trang mạng có tên: HCM với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh của Hoàng Tranh (Huang Zheng), Phó Viện Khoa Học Xã Hội, Quảng Tây, Trung Quốc, đăng trên tạp chí Ðông Nam Á Tung Hoành (Trung Hoa) tháng 11-2001. Báo Diễn Ðàn, Paris, số 121, tháng 9-2002 dịch đăng lại, tt.17-20; ” Hồ Chí Minh và người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh” của Khổng Khả Lập. 9- Lâm Y Lan: Năm 1930, Đào Chú sắp xếp để cô gái này cùng Hình Chí Mô đóng giả vợ chồng nhằm bảo vệ cho hắn ta trong lúc phong trào ở Quảng Đông nói chung và khu hành chính Bạch Sắc bị khủng bố. Thời gian sau hai người đã thương nhau. Lâm Y Lan mất vào năm 1968. Trước lúc lâm chung bà ta cũng không quên lấy ra quyển “nhật ký tình yêu” mà người yêu đã tặng cho mình và nhờ người chuyển cho Hình Chí Mô với lời nhắn nhủ khuyên người tình không nên quá buồn phiền. 10-Nguyễn Thanh Linh: Hình Chí Mô đã có đoạn tình duyên ngắn ngủi với cô gái này; tuy nhiên bây giờ không nghe ai nhắc nhở tới cô ta. 11-Nguyễn Thị Minh Khai: cũng như Tăng Tuyết Minh, Minh Khai là người vợ chính thức nghĩa là có giấy hôn thú đàng hoàng. Trong hồ sơ lưu trữ của ban chấp hành đảng cộng sản Nga-xô, người ta tìm ra giấy hôn thú giữa Hình Chí Mô và Nguyễn thị Minh Khai mặc dù đảng cộng sản Việt Nam cứ khăng khăng tuyên bố Nguyễn Thị Minh Khai là vợ của Lê Hồng Phong… Nhìn thẳng vào mặt bị can Thôi Phán Quan hỏi. -Tôi nói điều này có đúng không thưa ông…? -Bẫm Diêm Vương… Con có bị bắt trả lời câu hỏi này không? Nghe bị can hỏi câu trên, Diêm Vương cười cười trả lời. -Ngươi trả lời thì tốt mà không trả lời thì hơi có vấn đề… Tủm tỉm cười Thôi Phán Quan cao giọng tiếp. -Tại sao lại có chuyện tréo cẳng ngỗng như vậy. Sau đây là câu trả lời. Số là trước khi rời Việt Nam qua Ngaxô thì Nguyễn thị Minh Khai là hôn thê của Lê Hồng Phong. Việc này đương sự có báo với trung ương cộng sản lúc đó. Thế rồi khi cả hai được triệu tập qua Nga-xô để học thì Lê Hồng Phong đi trước, còn Minh Khai qua ngã Hồng-kông để được Hình Chí Mô (dưới bí danh Lý Thụy) dạy vỡ lòng tiếng Nga và chính trị sơ đẳng để dễ dàng khi nhập học trường Đại học Phương Đông (Nga). Chẳng biết hắn dạy Minh Khai học ra sao mà chữ chẳng vào “đầu” mà vào “ đầy bụng ”. Câu chuyện đổ bể khi Minh Khai tới Nga-xô nên Lê Hồng Phong đành nuốt hận nghe lời lãnh đạo Nga-xô, nhường hôn thê cho Hình Chí Mô và có giấy giá thú làm bằng để sau này Lê Hồng Phong khỏi lôi thôi. Vì sự thiệt thòi đó và thái độ vâng lời cấp trên mà Lê Hồng Phong được cho làm ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3. Đó là nhân vật cộng sản Việt Nam duy nhất được giữ vị trí gọi là “ lãnh đạo của cộng sản quốc tế ”. Còn Hình Chí Mô, thực ra chưa bao giờ là thành viên trung ương của cộng sản quốc tế. Hắn chỉ công tác ở Cục Phương Đông, một bộ phận của quốc tế 3 mà thôi, giữ nhiệm vụ liên lạc giữa đảng cộng sản Đông-Đương với quốc tế 3. Câu chuyện tình bi ai giữa Hình Chí Mô, Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai được giữ bí mật ngay cả đối với các thành viên cộng sản Đông-Dương. Bởi vì trước đó ai ai cũng biết Minh Khai là hôn thê của Lê Hồng Phong. Hình Chí Mô là một tên gián điệp có năng lực của Nga-xô trong vùng Đông-Nam-Á; còn Minh Khai và Lê hồng Phong đang được đào tạo để thành “lãnh tụ” của cộng sản Đông-Dương, tức đạo quân thứ 5 của Ngaxô tại Đông-Dương. Nếu để lộ việc Minh Khai chửa hoang, Lê Hồng Phong bị Hình Chí Mô cắm sừng vợ của đồng chí mình thì hậu quả sẽ làm hại tới danh tiếng của các lãnh tụ cộng sản. Cuộc tình tay ba đó đã khiến Lê Hồng Phong ngã ngựa. Chẳng là, sau khi được là ủy viên dự khuyết trung ương của quốc tế 3, Lê Hồng Phong được Nga-xô chỉ định về làm tổng bí thư của đảng cộng sản Đông-dương. Khi ấy Hình Chí Mô là phái viên của cục Phương Đông, nên trước khi đáp tàu thủy về Chợ-lớn (Sài-gòn) giả dạng trong vai thương gia người Tàu, Lê Hồng Phong phải ghé qua Thượng-hải (Tàu) để nghe Hình Chí Mô báo cáo tình hình ở Đông-dương lúc đó, cách thức đi cũng như mật khẩu bắt liên lạc với trung ương cộng sản Đông-dương. Chuyện đó chỉ có Lê Hồng Phong và Hình Chí Mô biết với nhau; vậy mà khi Lê Hồng Phong vừa bước chân tới Chợ-Lớn đã bị mật thám Pháp thực dân bắt. Nhớ lại vụ Hình Chí Mô bán cụ Phan Bội Châu cho thực dân Pháp thì tình huống vụ Lê Hồng Phong cũng như vậy. Nghĩa là Hình Chí Mô tìm mọi cách mượn tay thực dân Pháp hãm hại tất cả những ai là đối thủ của hắn bất kể quốc gia hay cộng sản . Đối với Lê Hồng Phong, hắn còn sợ với chức vụ ủy viên dự khuyết trung ương quốc tế 3, kiêm nhiệm tổng bí thư đảng cộng sản Đông-dương, Lê hồng Phong với cái hận hắn cắm cho cặp sừng dê trong vụ Minh Khai, thế nào cũng chờ dịp “ thiến sống ” mình, vì vậy mà hắn phải ra tay trước. ( Trích dẫn từ hồ sơ Con Yêu Râu Xanh của Việt Thường. Có sửa đổi vài chỗ ). Sau này Nguyễn Thị Minh Khai bị mật thám Tây bắt và xử tử hình mà theo lời đồn thì Hình Chí Mô đã báo cho mật thám Tây bắt giết vợ để ém nhẹm chuyện xấu xa của mình. 12-Nông Thị Xuân: Trong phiên xử của Trần Nước Hòn, tôi đã đề cập tới người vợ này của Hình Chí Mô. 13-Đỗ Thị Lạc Sau đại hội Moscow ngày 25-7-1935, Lê Hồng Phong (1902-1942) được Quốc tế Cộng Sản gởi về nước hoạt động, còn Nguyễn Tất Thành (hay Lý Thụy, Nguyễn Ái Quốc) bị thất sủng và bị giữ lại ở Liên Xô cho đến cuối năm 1938, Thành được gởi về Trung Hoa dưới một tên mới là Hồ Quang, điều khiển ban Hải ngoại đảng Cộng Sản Đông Dương. Đầu năm 1940, Lê Hồng Phong bị bắt ở Phan Thiết, đưa vào Sài Gòn, bị đày đi Côn Đảo rồi chết ở ngoài đó năm 1942. Trong khi đó, cuối năm 1940, Nguyễn Tất Thành bắt đầu sử dụng thông hành mang tên Hồ Chí Minh, ký giả của một tờ báo do Cộng Sản Trung Hoa điều khiển. Vào đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, đặt căn cứ ở hang Pắc Bó, châu Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Sau khi củng cố nội bộ, huấn luyện đảng viên, phát triển cơ sở, và tổ chức hội nghị trung ương đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ 8 (tháng 5-1941), đưa Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1909-1988) lên làm Tổng bí thư đảng, Hồ Chí Minh qua Trung Hoa tiếp tục hoạt động, đánh phá các cơ sở cách mạng không cộng sản, và kiếm cách xin Trung Hoa viện trợ. Cuối tháng 8-1942, Hồ bị chính quyền Trung Hoa Quốc Dân Đảng bắt giữ đến tháng 9-1943. Ra khỏi tù, Hồ luôn luôn kiếm cách lấy lòng các tướng quân Trung Hoa ở Liễu Châu như Trương Phát Khuê, Tiêu Văn. Lúc bấy giờ, phía Trung Hoa đang có sự hợp tác quốc cộng để chống Nhật. Tướng Tiêu Văn áp lực các tổ chức cách mạng Việt Nam hợp nhất với nhau. Dầu bị Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội phản đối, Tiêu Văn vẫn cho tiến hành đại hội tại Liễu Châu ngày 28-3-1944 gồm đại biểu của tất cả các tổ chức chính trị Việt Nam. Các phe phái không cộng sản và cộng sản tranh luận gay gắt, nhưng cuối cùng cũng bầu ra được một ban chấp hành mới gồm có bảy ủy viên chính thức và một ủy viên dự khuyết là Hồ Chí Minh, và ba ủy viên giám sát. Trong danh xưng mới, Hồ khéo léo ẩn mình, rất được Tiêu Văn tin cậy. Hồ đề nghị Tiêu Văn cho mình về nước cùng một số cán bộ đã được Trung Hoa huấn luyện, và một số súng đạn, thuốc men và tiền bạc. Tiêu Văn đồng ý cho Hồ về Việt Nam với 18 cán bộ vừa mới tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự Đại Kiều (gần Liễu Châu), cọng thêm 76.000 quan kim, tài liệu tuyên truyền, bản đồ quân sự và thuốc men, nhưng không cấp vũ khí. Hồ về tới Pắc Bó (Cao Bằng) vào gần cuối năm 1944. Trong số 18 cán bộ theo Hồ về nước lần nầy có Đỗ Thị Lạc tức “chị Thuần.” Nhân thân của Đỗ Thị Lạc không được rõ ràng, chỉ biết rằng vào năm 1942, khi tướng Quốc Dân Đảng Trung Hoa là Trương Phát Khuê tổ chức lớp huấn luyện chính trị và quân sự cho các tổ chức cách mạng Việt Nam ở Đại Kiều (gần Liễu Châu), Đỗ Thị Lạc theo học lớp truyền tin. Khi về Pắc Bó, Đỗ Thị Lạc sống chung với họ Hồ một thời gian, lo dạy trẻ em và vận động vệ sinh ăn ở của dân chúng ở Khuổi Nậm gần Pắc Bó. Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách Một cơn gió bụi đã cho biết Đỗ Thị Lạc đã có một người con gái với Hồ Chí Minh. Do tình hình biến chuyển, Hồ rời Pắc Bó đầu năm 1945 qua Trung Hoa, bắt liên lạc và hợp tác với tổ chức OSS dưới bí danh Lucius vào tháng 3-1945. Đầu tháng 5-1945, Hồ về Việt Nam, ghé Khuổi Nậm (Cao Bằng) thăm Đỗ Thị Lạc một thời gian ngắn rồi đi Tân Trào (Tuyên Quang). Từ đó không còn ai nghe nói tới Đỗ Thị Lạc. Cuộc đời tình ái của Hình Chí Mô còn dài lắm tuy nhiên tôi xin tạm dừng lại ở đây. Trong phiên xử sáng mai tôi sẽ trình bày cùng quí vị về tội lường gạt của Hình Chí Mô…

giavui
07-11-2014, 09:05 PM
- 22 -
TÊN ĂN CẮP TÊN NGƯỜI

-Theo như lời đồn thì ông còn có tên Nguyễn Ái Quốc?

Thôi Phán Quan mở đầu ngày thứ nhì của phiên xử Hình Chí Mô bằng câu hỏi trên. Do dự giây lát hắn từ từ trả lời.

-Đúng…

Hình Chí Mô trả lời gọn một tiếng. Hắn biết càng dài vòng văn tự chừng nào càng dễ bị Thôi Phán Quan bắt bẻ vặn hỏi.

-Tên của ông có ý nghĩa lắm. Nghe tên này ai ai cũng biết ông là người yêu nước. Tôi mạn phép hỏi trong trường hợp nào mà ông lại nghĩ ra cái tên Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa cao đẹp như vậy?

Hình Chí Mô im lặng khá lâu như suy nghĩ về câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc qua bên trái thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn như chờ nghe câu trả lời của mình. Liếc chênh chếch về phía bên tay mặt chỗ Diêm Vương đang ngồi hắn thấy ông vua âm phủ đang hằm hè. Ngước lên lại thấy Thôi Phán Quan trợn đôi mắt lấp lóe hàn quang, hắn mỉm cười lên tiếng.

-Tôi đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp thành ra tôi phải lấy tên Nguyễn Ái Quốc để tỏ cho mọi người biết tôi yêu nước…

-Dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc, ông đã viết tài liệu mang tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Đây là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ Việt Nam. Đúng không?

-Đúng… Tôi công nhận chuyện đó…

Hình Chí Mô trả lời thật gọn. Tủm tỉm cười vị đại diện luật pháp của âm phủ bước tới đứng trước mặt bồi thẫm đoàn và giọng nói của ông ta cao lên.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Để biết cái tên Nguyễn Ái Quốc của Hình Chí Mô do đâu mà có, tôi sẽ trình bày cho 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một tập tài liệu với cái tên ” Bút danh Nguyễn Ái Quốc của ai? ” mà âm phủ đã sưu tầm được

Dứt lời ông ta bước tới trao xấp tài liệu cho vị lục sự. Mọi người đều nghe rõ mồn một không sót tiếng nào.

-Về tên Nguyễn Ái Quốc thì có nhiều tài liệu nói .

1-Trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 của tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ (trang 87) thì tờ báo viết bằng chữ Pháp Le Paria có nghĩa là Người Cùng Đinh do đảng cộng sản Pháp xuất vốn và do Nguyễn Thế Truyền hợp tác trông nom. Nguyễn Thế Truyền, người tỉnh Nam Định, có bằng kỹ sư hóa học, ở Pháp rất lâu, có vợ đầm, có hai cô con gái đặt tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị để kỷ niệm tên hai vị nữ anh hùng Việt Nam. Ông là một đảng viên kỳ cựu trong đảng Cộng sản Pháp (trang 89 sđd). Dù là kỹ sư hóa học, nhưng không dùng bằng cấp sống với nghề nầy; trái lại Truyền đi theo con đường chính trị, viết báo hô hào binh vực quyền lợi người dân Việt Nam bị Pháp áp chế. Theo bà Phương Lan Bùi Thế Mỹ (bà viết lại theo lời kể của Tạ Thu Thâu, vì bà cùng nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người đồng hương ở tỉnh Long Xuyên và giữa hai người có giao tình nghĩa huynh nghĩa muội rất đậm đà) thì ban biên tập tờ Le Paria như sau:

“ Trong nhóm của Truyền, có nhiều cây viết mạnh như Truyền, đồng ký tên chung trong mục xã thuyết là Nguyen Le Patriote tức là Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho đó là của một mình Nguyễn Tất Thành, tức là Hình Chí Mô sau nầy. Nhưng sự thật do nhiều người đảm nhận, thay nhau viết, như Hoàng Quang Giụ, một chiến sĩ làm phụ tá cho Truyền, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự v.v… Nhiều người viết cho một mục chung, chớ chẳng phải bút tự riêng cho một cá nhơn nào cả ”.

Theo Phương Lan Bùi Thế Mỹ, thì quyển Kết án Thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) do Nguyễn Thế Truyền là tác giả bán rất chạy ở Việt Nam cũng như ở Pháp (trang 90 sđd). Phạm Quang Trình cũng đặt nghi vấn về tác giả của bản văn đó như sau: “Bản án Chế độ Thực dân Pháp là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của Thực dân Pháp đối với các Dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ An Nam. HCMTT/Tập 2 (tức là quyển Hồ Chí Minh Toàn tập) viết rằng Bản án Chế độ Thực dân Pháp được in lần đầu năm 1925 ở Paris bằng Pháp ngữ, do Nguyễn Thế Truyền đề tựa ”.

2-Phạm Quang Trình cho rằng trong thời gian này Hình Chí Mô đang hoạt động ở Nga, và từ lâu, nhiều nhân vật hoạt động cũng như dư luận đều cho rằng tài liệu này do một nhóm người hoạt động ở Pháp, chủ chốt là Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền cùng một số nhân vật khác ký tên chung là Nguyễn Ái Quấc hay Nguyễn Ái Quốc. Khi sang Nga làm việc cho ban Phương Đông, Hình Chí Mô đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình và sau này cầm nhầm luôn tài liệu đó, tự cho mình là tác giả. Dư luận này đã được nhiều người chú ý và cho là khả tín.

Phạm Quang Trình, trong quyển Chiến đấu (tr. 275), cũng đặt nghi vấn tương tự: “ Có điều lạ là trong thời kỳ này, nhiều bút tích ký tên là Nguyễn Ái Quấc (lối nói của người miền Nam) chứ không phải là Quốc như lối nói của người miền Bắc và miền Trung ( bản in ghi là Quốc khác với bút tích là Quấc), vậy phải chăng có hai hay một nhóm người dùng tên Nguyễn Ái Quốc mà sau này Hình Chí Mô cố ý cầm nhầm chăng? ”

3-Trong tác phẩm Chân Tướng Hồ Chí Minh (trang 47), Cao Thế Dung cũng nhận xét về sự việc mạo nhận bút danh Nguyễn Ái Quốc như sau: “ Nhóm Nguyễn Ái Quốc với cái tên chung xuất hiện trên một số báo như L’Humanité, Le Libertaire, La Vie Ouvrière cũng đều do Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền viết. Hình Chí Mô cũng nhìn nhận khả năng tiếng Pháp học trò của ông, nhưng lanh tay chôm tên Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đã nổi tiếng trên báo L‘Humanité của đảng Cộng sản Pháp. Với tên Nguyễn Ái Quốc này, Hình Chí Mô đi vào cộng đồng cộng sản và thiên tả Pháp. Hắn ta được Nguyễn Thế Truyền giới thiệu với các đồng chí của ông trong đảng Xã Hội và từ đảng Xã Hội, Hình Chí Mô nhảy qua đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện minh chứng rất rõ rệt, không có luật sư Phan Văn Trường và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền thì không có Nguyễn Ái Quốc. Cái danh Nguyễn Ái Quốc và Bản Án Thực Dân Pháp là sản phẩm của Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền”.

4-Một nhân chứng ở Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng nhận xét về ý đồ dùng tên giả của Hồ Chí Minh như sau (Trích Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, tr. 327): “Tuy nhiên, xét kỹ thì một người đã mượn họ tên khác đặt vào mình trong một địa vị cao quý nhất của một nước, người ấy ắt có một tâm địa tráo trở. Vì lẽ gì đã phải giấu tên thực với quốc dân, với quốc tế? Những ngày đầu của chính quyền Việt Minh, trên mặt các báo có thấy nói đến tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng dụng ý là úp mở cho biết Hồ Chí Minh ngày nay tức là Nguyễn Ái Quốc trước ”

Đợi cho vị lục sự dứt lời, Thôi Phán Quan hắng giọng.

-Sau đây là một tài liệu khác chứng tỏ cho chúng ta biết tên Nguyễn Ái Quốc là của người khác chứ không phải của Hình Chí Mô đặt ra. Hắn là kẻ ăn cắp hay chôm chỉa tên của người khác. Tài liệu này mang tên ” Về Trình Độ Tiếng Pháp của Hình Chí Mô ” của trang mạng DDTK. Tôi sẽ trình bày cho bồi thẫm đoàn và quí vị khán thính giả thấy để biết về trình độ tiếng Pháp của bị can Hình Chí Mô…

Vừa dứt lời Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Màn ảnh truyền hình sáng lên và những dòng chữ từ từ hiện ra và mọi người đều thấy rõ:

-Trong bài « Dối trá cuối cùng phải bại lộ » của Cam Vũ ngày 16/4 vừa qua có đăng nguyên văn những câu hỏi và câu trả lời trong cuộc phỏng vấn Hình Chí Mô do một nhà báo Pháp thực hiện năm 1964. Từ lời lẽ ghi âm trong phim, ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã có công ghi thành văn bản.

Sau khi đọc bài này, một số độc giả đã góp ý kiến với Tòa soạn rằng mặc dù ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã viết trong lời giới thiệu « những lỗi Pháp ngữ vô số, những lỗi văn phạm sơ đẳng » nhưng vì họ không rành tiếng Pháp nên muốn biết cụ thể những lỗi ấy là như thế nào.

Sau đây chúng tôi xin đăng một bản phân tích các lỗi trong các câu trả lời của ông Hồ Chí Minh do nhà báo Bút Vàng thực hiện bằng cách đánh dấu và chú thích ngay trong văn bản được ông Nguyễn Ngọc Quỳ ghi lại. Xin mời quý độc giả theo dõi dưới đây.DĐTK

(Bút Vàng chú thích những chỗ sai bằng cách tô màu đỏ và màu tím)

Nguyên văn phỏng vấn và trả lời bằng tiếng Pháp của Hình Chí Mô và một ký giả Pháp. Những dòng in đậm là câu trả lời của Hình Chí Mô.

-Est-ce que vous pensez, Monsieur le Président, qu’il y a une solution militaire à la guerre du Sud Viêt Nam ?

-

Non, parce que ah, vous savez bien que le peuple Viêt Nam, c’est un Un, (un un là cái gì ? Đâu có ai nói tiếng Pháp như thế ?) et le pays du Viêt Nam, c’est Un. Les Américains veulent faire une guerre d’agression, comme qu’ils disent, (thừa chữ que) une guerre non déclarée. Comme vous savez aussi, vous avez pu lire dans la presse mondiale, que plus la guerre prolonge, (phải là “la guerre se prolonge” thì mới đúng) plus les Américains et leurs valets, n’ est ce pas, comment dire ça, (se tournant vers quelqu’un à côté), sa lầy… s’enliser… et plus, ils supportent des échecs comme vous savez là récemment.

-

Par conséquent, la guerre ne peut pas durer éternellement, et je suis très heureux que les politiciens haut placés français ont reconnu cela (aient reconnu mới đúng văn phạm).

-Vous pensez que le général de Gaulle pourrait en quelque sorte, à un certain moment, arbitrer le conflit ?

-Arbitrer ! Qu’est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne sommes pas des équipes de foot ball. Rire et ricanement.

-Au-delà des Accords de Genève si je ne me trompe, une idée du général de Gaulle est la neutralisation de tout le Sud-Est Asiatique. Est-ce c’est une idée qui vous paraît intéressante ?

-

Comme j’ai déjà dit quelquefois, c’est une idée intéressante, mais ça dépend la volonté (depend de la volonté mới đúng) de ces peuples, et… la manière comment on procède.(bồi, dịch nguyên văn tiếng Việt) . à la réaliser. C’est une grande question. n’est-ce pas ?. et je ne peux pas dire que je suis d’accord, n’est-ce pas ?… je ne dis pas que je ne suis pas d’accord, n’est-ce pas ?

Parce que.. vous dites fleurs, fleurs ; il y a beaucoup de sortes de fleurs, il y a des roses, des blanches, des rouges, etc… des fleurs qui sentent bon, d’autres qui ne sentent pas bon… , mais on dit fleurs, n’est-ce pas ?

-Monsieur le Président, nous avons constaté avec chagrin au cours de notre voyage au Nord Viêt Nam, que l’influence française est devenue à peu près inexistante dans votre pays. Les moins de 25 ans ne comprennent plus du tout le français. Et je me demande si, à votre idée, des rapports peuvent se rétablir tels que la France continue à jouer… une sorte de rôle culturel ?

-

Avec la France surtout, et avec tous les autres pays, nous voulons avoir une coopération amicale, culturelle, économique, etc… , mais je suis sûr que vous ne voulez pas avoir (phải xóa bỏ chữ avoir mới đúng), n’est-ce pas, que la France ait l’influence qu’elle avait avant, … c’est une autre chose … mais coopération culturelle, économique, qu’est ce qu’il y a encore ?, sportive par exemple, etc…etc… nous, nous désirons.

-Si la guerre se cristallise au Sud et se poursuit encore pendant quelques années, pensez-vous que l’avenir économique du Nord Viêt Nam soit viable ?

-

Je suis sûr que ça (?) non seulement viable (câu thiếu verbe être, phải viết là c’est), mais ça progresse. Parce que vous avez vu vous-même, vous avez constaté vous-même que, ici, nous travaillons beaucoup, notre peuple travaille beaucoup, avec abnégation, n’est-ce pas ?, et avec dévouement, avec enthousiasme.

D’un côté, nous travaillons pour…, comment dirais-je, pour principalement, n’est-ce pas, de nos propres forces, et aussi nous avons l’aide fraternelle des pays socialistes.

Jusqu’ici, nous avons déjà réalisé des progrès, pas tant comme nous le voulons, nous avons réalisé des progrès et dans l’avenir, nous progressons nous-mêmes.

-Vous mentionnez là l’aide des pays socialistes. Est-ce que cette aide ne s’est pas trouvée légèrement compromise à la suite du conflit idéologique entre la Russie et la Chine ?

-

Non,…… parce que ces questions, n’est-ce pas, n’est pas différence idéologique (ces questions là số nhiều, phải dùng ne sont pas mới đúng) entre nos différents partisfrères, c’est nos affaires intérieures ; ça passera, et l’union…l’unité, ça se fera. Mais l’aide fraternelle continue, continuera, c’est très précieuse pour nous.

-Certains ont l’impression chez nous, Monsieur le Président, que le Nord Viêt Nam se trouve actuellement assez isolé, asphyxié même, et, politiquement , il ne pourra difficilement éviter de devenir une sorte de satellite de la Chine. Qu’est-ce que vous répondez à ça ?

JAMAIS !! (Comme un cri)

Trong lúc mọi người đọc những dòng chữ trên màn ảnh, Bình quay qua cười hỏi Huyền.

-Ở bên Tây ba mươi năm chị nghĩ sao về trình độ nói và viết tiếng Tây của Hình Chí Mô?

Mỉm cười Huyền trả lời chậm.

-Có mấy câu trả lời mà ổng nói còn trật tới trật lui thì làm sao ổng viết nổi quyển Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Ba ông Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Nguyễn Thế Truyền viết thì còn có lý hơn nhiều… Viết sai chính tả người ta cười chết…

Thấy màn ảnh tắt, Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can. Nhếch môi cười ông ta cao giọng thốt.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Sau đây thêm một bài viết mà âm phủ đã tìm được nói về trình độ tiếng Pháp của Hình Chí Mô với tựa đề ” Đơn xin nhập học sai lỗi chính tả ”. Khi vừa đến Pháp, ông liền viết đơn xin học Trường Thuộc địa ở Paris, nơi đào tạo quan chức phục vụ cho các thuộc địa của Pháp trong đó có Đông Dương. Đơn viết làm 2 bản đề ngày 159-1911 gởi cho Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trong đơn xin học nầy, ông đã viết tay một cách nắn nót và ký đề tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Đơn không được chấp thuận vì trường chỉ nhận tuyển sinh do sự đề cử của chính quyền các nước thuộc địa. Nhưng khi viết đơn, ông đã phạm một lỗi chính tả (faute d’orthographe) rất sơ đẳng, chứng tỏ trình độ Pháp văn của ông rất thấp kém. Trong đơn, đúng ra phải dùng chữ subsistance là kế sinh nhai, thì ông lại viết sai thành chữ substance có nghĩa là chất liệu. Với những vị cao niên từng thân thuộc với nền học vấn Pháp thời Pháp thuộc, thì cái lỗi chính tả Hồ Chí Minh phạm phải là một lỗi rất nặng, giống như khi làm toán mà sai con toán phải bán con trâu vậy. Về cái lỗi chính tả trong đơn xin nhập học nầy, xin có lời dẫn giải thêm sau đây.

Nguyên cha của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Huy có quen với cụ Bùi Thức là cha của Bùi Kỷ, trong dịp gặp nhau tại trường thi, lui tới với nhau khi chờ đợi kết quả. Khoa thi Hội 1898, cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, còn cụ Nguyễn Sinh Huy, đến năm 1901, mới đỗ Phó bảng. Thi đỗ xong, cụ Sinh Huy đưa con mình là Tất Thành ra Bắc thăm cụ Bùi Thức ở làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ rất giỏi, mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng, đã học trường Thông ngôn, và được học bổng sang Pháp học trường Thuộc địa từ tháng 2 năm 1911. Lúc Nguyễn Tất Thành mang tên Văn Ba đến Pháp, đi thăm cụ Phan Châu Trinh ở Paris, nhân đó đã gặp lại người quen cũ Bùi Kỷ. Có thể tại nhà cụ Phan, Bùi Kỷ đã gợi ý và thảo lá đơn xin nhập học cho Nguyễn Tất Thành chép lại. Và có lẽ vì trình độ Pháp văn còn thấp kém, trông gà hóa cuốc, bản thảo của Bùi Kỷ viết là subsistance mà Nguyễn Tất Thành chép lại sai thành substance chăng?

Trong thời gian thật dài 72 năm (từ 1911 đến 1983), lá đơn sai lỗi chính tả ấy đã nằm yên trong văn khố của Bộ Hải Ngoại Pháp quốc mà không ai biết cho tới khi hai sử gia Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu tìm được và nêu ra trong tác phẩm

Một Ngôi Trường Khác cho Nguyễn Tất Thành…

Căn phòng xử im lặng rồi lát sau có tiếng xì xào nho nhỏ. Bước trở lại bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ đưa lên cao, vị đại diện cho luật pháp của âm phủ thốt. Không cần qua hệ thống khuếch đại âm thanh mà giọng nói của ông ta rền vang căn phòng xử chứa mấy ngàn người.

-Không ai không biết tới tên Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung. Họ là những anh hùng dân tộc, những anh hùng thứ thiệt vì toàn thể dân Việt đã ban cho họ để cám ơn những gì họ đã đóng góp cho đất nước trong công cuộc chống ngoại xâm giành lấy độc lập và tự do cho tổ quốc. Hình Chí Mô cũng là ” anh hùng dỏm ”, anh hùng tự phong hay tự xưng. Chỉ có những kẻ mặt dầy mới dám tự xưng mình là anh hùng. Chỉ có kẻ không có lòng tự trọng mới viết sách, làm thơ ca tụng chính mình. Để chứng minh cho lời nói đó tôi mời quí vị nghe câu chuyện sau đây.

” Năm 1950, Hình Chí Mô viếng thăm đền thờ Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn ở Kiếp Bạc và xuất khẩu thành bài thơ bảy chữ tám câu:

Bác anh hùng tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công…

Nghe tới đây Diêm Vương vỗ bàn cái rầm cất giọng oang oang.

-Tên Hình Chí Mô này mất dạy quá. Hưng Đạo Vương đã được Trời phong làm thần vì có công lao to lớn với đất nước. Ta gặp Hưng Đạo Vương còn phải gọi là ” ngài ”. Ngươi là thằng giả anh hùng, thứ sở khanh, chuyên môn chôm chỉa, ăn cắp, giết người, không có thứ tội ác nào không làm mà dám xưng ” bác bác tôi tôi ” với ngài Hưng Đạo Vương. Ngươi là thằng vô lễ, vô giáo dục, ngạo mạn, lại thêm không biết xấu hổ. Bây đâu… Đè nó ra quất vào đít nó chục roi để chừa cái tội vô lễ và xấc xược…

Thấy Diêm Vương nổi cơn thịnh nộ, Thôi Phán Quan vội bước tới thì thầm. Không biết ông ta nói gì mà ông vua âm phủ gật đầu gằn giọng.

-Khanh nói như thế thì ta cũng tạm bỏ qua cho hắn. Sau khi phiên tòa xong ta sẽ đặt vấn đề với hắn…

Mỉm cười Thôi Phán Quan vừa đi tới chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi vừa cao giọng thốt.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Tội ăn cắp tên của Hình Chí Mô chưa hết đâu. Ở Pháp bị can ăn cắp tên Nguyễn Ái Quốc của người khác. Thời gian sau khi hoạt động ở Tàu bị can lại ngựa quen đường cũ, đi ăn cắp tên của một người nữa. Ngoài ra với những gì học hỏi được từ các khóa huấn luyện về ngành điệp báo của các cơ quan tình báo của Nga Tàu, bị can lại giở thủ đoạn ăn cướp hay sang đoạt danh tánh các đảng phái cách mạng đang hoạt động chống Pháp tại Tàu. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe qua một tài liệu nhan đề: Tên Hồ Chí Minh là của ai?

( Đoạn văn có chữ in nghiêng dưới đây là bài trích dẫn của 1 tác giả mà người viết xin lỗi không nhớ tên và nguồn trích dẫn )

Biệt danh Hồ Chí Minh lại cũng không phải là tên cúng cơm của Hình Chí Mô. Trong quyển Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (tr. 238 sđd): “ Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Qua Xiêm lánh nạn đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem cả hai sang Tàu cư ngụ ”.

Trong chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi, vợ cụ Hồ Chí Minh thật và viết tiếp: “ Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng ở Tàu thì bao nhiêu năm bà Khôn Nghi cũng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng VN ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”

Người có tên Hồ Chí Minh thật đó tức là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, vị anh hùng đã hy sinh như một liệt sĩ dân tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng, mang quân hàm trung tá, thành viên sáng lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che giấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu, và chiếm luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân quốc dưới quyền Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận Cộng sản).

Đến bây giờ, chúng ta đã biết Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, còn Hồ Chí Minh giả là con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi lại là Nguyễn Tất Thành. Biết là biết vậy thôi, nhưng giả đã biến thành thật quá lâu rồi, cho nên ta cứ đọc và hiểu rằng Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, cùng với biết bao giả danh khác nữa! Nhưng biết là biết vậy thôi, cũng chưa đủ.

Khi biết có hai Hồ Chí Minh, thì phải biết thêm một án mạng, nạn nhân là con gái Hồ Học Lãm, tức con của cụ Hồ Chí Minh thật. Chuyện do tác giả Nguyễn Thái Hoàng ghi chép trong bài Chân dung Hồ Chí Minh qua bài vè dân gian (Bài viết tại Hà Nội tháng 3-2006, Bán tuần báo Việt Luận đăng tải trong số 2052 ngày 17-32006), nguyên văn như sau: “Khi con gái ông Lãm phát hiện ra, làm ầm ỉ trước cửa Phủ Chủ tịch (Hà Nội) vào năm 1946, thì không biết Hình Chí Mô sai bảo ra sao mà trên đường bà này về thăm quê ở Thanh Hóa đã bị thủ tiêu một cách bí mật”.

Liếc lên tường thấy đã tới giờ ăn trưa, Thôi Phán Quan cười lên tiếng.

-Tôi xin chấm dứt về chuyện ăn cắp tên người khác của bị can Hình Chí Mô ở đây. Sau khi ăn trưa xong, trong phiên xử kế tiếp tôi sẽ trình bày thêm về tội lừa gạt của Hình Chí Mô…

giavui
07-11-2014, 09:05 PM
- 22 -
TÊN ĂN CẮP TÊN NGƯỜI

-Theo như lời đồn thì ông còn có tên Nguyễn Ái Quốc?

Thôi Phán Quan mở đầu ngày thứ nhì của phiên xử Hình Chí Mô bằng câu hỏi trên. Do dự giây lát hắn từ từ trả lời.

-Đúng…

Hình Chí Mô trả lời gọn một tiếng. Hắn biết càng dài vòng văn tự chừng nào càng dễ bị Thôi Phán Quan bắt bẻ vặn hỏi.

-Tên của ông có ý nghĩa lắm. Nghe tên này ai ai cũng biết ông là người yêu nước. Tôi mạn phép hỏi trong trường hợp nào mà ông lại nghĩ ra cái tên Nguyễn Ái Quốc có ý nghĩa cao đẹp như vậy?

Hình Chí Mô im lặng khá lâu như suy nghĩ về câu hỏi của Thôi Phán Quan. Liếc qua bên trái thấy 9 vị bồi thẫm đang chăm chú nhìn như chờ nghe câu trả lời của mình. Liếc chênh chếch về phía bên tay mặt chỗ Diêm Vương đang ngồi hắn thấy ông vua âm phủ đang hằm hè. Ngước lên lại thấy Thôi Phán Quan trợn đôi mắt lấp lóe hàn quang, hắn mỉm cười lên tiếng.

-Tôi đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp thành ra tôi phải lấy tên Nguyễn Ái Quốc để tỏ cho mọi người biết tôi yêu nước…

-Dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc, ông đã viết tài liệu mang tên Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Đây là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của thực dân Pháp đối với các dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ Việt Nam. Đúng không?

-Đúng… Tôi công nhận chuyện đó…

Hình Chí Mô trả lời thật gọn. Tủm tỉm cười vị đại diện luật pháp của âm phủ bước tới đứng trước mặt bồi thẫm đoàn và giọng nói của ông ta cao lên.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Để biết cái tên Nguyễn Ái Quốc của Hình Chí Mô do đâu mà có, tôi sẽ trình bày cho 9 vị bồi thẫm và mọi người nghe một tập tài liệu với cái tên ” Bút danh Nguyễn Ái Quốc của ai? ” mà âm phủ đã sưu tầm được

Dứt lời ông ta bước tới trao xấp tài liệu cho vị lục sự. Mọi người đều nghe rõ mồn một không sót tiếng nào.

-Về tên Nguyễn Ái Quốc thì có nhiều tài liệu nói .

1-Trong quyển Nhà Cách Mạng Tạ Thu Thâu 1906-1945 của tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ (trang 87) thì tờ báo viết bằng chữ Pháp Le Paria có nghĩa là Người Cùng Đinh do đảng cộng sản Pháp xuất vốn và do Nguyễn Thế Truyền hợp tác trông nom. Nguyễn Thế Truyền, người tỉnh Nam Định, có bằng kỹ sư hóa học, ở Pháp rất lâu, có vợ đầm, có hai cô con gái đặt tên là Trưng Trắc và Trưng Nhị để kỷ niệm tên hai vị nữ anh hùng Việt Nam. Ông là một đảng viên kỳ cựu trong đảng Cộng sản Pháp (trang 89 sđd). Dù là kỹ sư hóa học, nhưng không dùng bằng cấp sống với nghề nầy; trái lại Truyền đi theo con đường chính trị, viết báo hô hào binh vực quyền lợi người dân Việt Nam bị Pháp áp chế. Theo bà Phương Lan Bùi Thế Mỹ (bà viết lại theo lời kể của Tạ Thu Thâu, vì bà cùng nhà cách mạng Tạ Thu Thâu là người đồng hương ở tỉnh Long Xuyên và giữa hai người có giao tình nghĩa huynh nghĩa muội rất đậm đà) thì ban biên tập tờ Le Paria như sau:

“ Trong nhóm của Truyền, có nhiều cây viết mạnh như Truyền, đồng ký tên chung trong mục xã thuyết là Nguyen Le Patriote tức là Nguyễn Ái Quốc, mà nhiều người cho đó là của một mình Nguyễn Tất Thành, tức là Hình Chí Mô sau nầy. Nhưng sự thật do nhiều người đảm nhận, thay nhau viết, như Hoàng Quang Giụ, một chiến sĩ làm phụ tá cho Truyền, Hoàng Quang Bích, Văn Thu, Nguyễn Như Phong, Nguyễn Văn Tự v.v… Nhiều người viết cho một mục chung, chớ chẳng phải bút tự riêng cho một cá nhơn nào cả ”.

Theo Phương Lan Bùi Thế Mỹ, thì quyển Kết án Thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Française) do Nguyễn Thế Truyền là tác giả bán rất chạy ở Việt Nam cũng như ở Pháp (trang 90 sđd). Phạm Quang Trình cũng đặt nghi vấn về tác giả của bản văn đó như sau: “Bản án Chế độ Thực dân Pháp là tập tài liệu tố cáo chính sách đàn áp bóc lột của Thực dân Pháp đối với các Dân tộc thuộc địa ở châu Phi và ở Đông Dương, trong đó có xứ An Nam. HCMTT/Tập 2 (tức là quyển Hồ Chí Minh Toàn tập) viết rằng Bản án Chế độ Thực dân Pháp được in lần đầu năm 1925 ở Paris bằng Pháp ngữ, do Nguyễn Thế Truyền đề tựa ”.

2-Phạm Quang Trình cho rằng trong thời gian này Hình Chí Mô đang hoạt động ở Nga, và từ lâu, nhiều nhân vật hoạt động cũng như dư luận đều cho rằng tài liệu này do một nhóm người hoạt động ở Pháp, chủ chốt là Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền cùng một số nhân vật khác ký tên chung là Nguyễn Ái Quấc hay Nguyễn Ái Quốc. Khi sang Nga làm việc cho ban Phương Đông, Hình Chí Mô đã lấy tên Nguyễn Ái Quốc làm tên riêng của mình và sau này cầm nhầm luôn tài liệu đó, tự cho mình là tác giả. Dư luận này đã được nhiều người chú ý và cho là khả tín.

Phạm Quang Trình, trong quyển Chiến đấu (tr. 275), cũng đặt nghi vấn tương tự: “ Có điều lạ là trong thời kỳ này, nhiều bút tích ký tên là Nguyễn Ái Quấc (lối nói của người miền Nam) chứ không phải là Quốc như lối nói của người miền Bắc và miền Trung ( bản in ghi là Quốc khác với bút tích là Quấc), vậy phải chăng có hai hay một nhóm người dùng tên Nguyễn Ái Quốc mà sau này Hình Chí Mô cố ý cầm nhầm chăng? ”

3-Trong tác phẩm Chân Tướng Hồ Chí Minh (trang 47), Cao Thế Dung cũng nhận xét về sự việc mạo nhận bút danh Nguyễn Ái Quốc như sau: “ Nhóm Nguyễn Ái Quốc với cái tên chung xuất hiện trên một số báo như L’Humanité, Le Libertaire, La Vie Ouvrière cũng đều do Phan Văn Trường hay Nguyễn Thế Truyền viết. Hình Chí Mô cũng nhìn nhận khả năng tiếng Pháp học trò của ông, nhưng lanh tay chôm tên Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ đã nổi tiếng trên báo L‘Humanité của đảng Cộng sản Pháp. Với tên Nguyễn Ái Quốc này, Hình Chí Mô đi vào cộng đồng cộng sản và thiên tả Pháp. Hắn ta được Nguyễn Thế Truyền giới thiệu với các đồng chí của ông trong đảng Xã Hội và từ đảng Xã Hội, Hình Chí Mô nhảy qua đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện minh chứng rất rõ rệt, không có luật sư Phan Văn Trường và kỹ sư Nguyễn Thế Truyền thì không có Nguyễn Ái Quốc. Cái danh Nguyễn Ái Quốc và Bản Án Thực Dân Pháp là sản phẩm của Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền”.

4-Một nhân chứng ở Hà Nội là bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng nhận xét về ý đồ dùng tên giả của Hồ Chí Minh như sau (Trích Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, tr. 327): “Tuy nhiên, xét kỹ thì một người đã mượn họ tên khác đặt vào mình trong một địa vị cao quý nhất của một nước, người ấy ắt có một tâm địa tráo trở. Vì lẽ gì đã phải giấu tên thực với quốc dân, với quốc tế? Những ngày đầu của chính quyền Việt Minh, trên mặt các báo có thấy nói đến tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng dụng ý là úp mở cho biết Hồ Chí Minh ngày nay tức là Nguyễn Ái Quốc trước ”

Đợi cho vị lục sự dứt lời, Thôi Phán Quan hắng giọng.

-Sau đây là một tài liệu khác chứng tỏ cho chúng ta biết tên Nguyễn Ái Quốc là của người khác chứ không phải của Hình Chí Mô đặt ra. Hắn là kẻ ăn cắp hay chôm chỉa tên của người khác. Tài liệu này mang tên ” Về Trình Độ Tiếng Pháp của Hình Chí Mô ” của trang mạng DDTK. Tôi sẽ trình bày cho bồi thẫm đoàn và quí vị khán thính giả thấy để biết về trình độ tiếng Pháp của bị can Hình Chí Mô…

Vừa dứt lời Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Màn ảnh truyền hình sáng lên và những dòng chữ từ từ hiện ra và mọi người đều thấy rõ:

-Trong bài « Dối trá cuối cùng phải bại lộ » của Cam Vũ ngày 16/4 vừa qua có đăng nguyên văn những câu hỏi và câu trả lời trong cuộc phỏng vấn Hình Chí Mô do một nhà báo Pháp thực hiện năm 1964. Từ lời lẽ ghi âm trong phim, ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã có công ghi thành văn bản.

Sau khi đọc bài này, một số độc giả đã góp ý kiến với Tòa soạn rằng mặc dù ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã viết trong lời giới thiệu « những lỗi Pháp ngữ vô số, những lỗi văn phạm sơ đẳng » nhưng vì họ không rành tiếng Pháp nên muốn biết cụ thể những lỗi ấy là như thế nào.

Sau đây chúng tôi xin đăng một bản phân tích các lỗi trong các câu trả lời của ông Hồ Chí Minh do nhà báo Bút Vàng thực hiện bằng cách đánh dấu và chú thích ngay trong văn bản được ông Nguyễn Ngọc Quỳ ghi lại. Xin mời quý độc giả theo dõi dưới đây.DĐTK

(Bút Vàng chú thích những chỗ sai bằng cách tô màu đỏ và màu tím)

Nguyên văn phỏng vấn và trả lời bằng tiếng Pháp của Hình Chí Mô và một ký giả Pháp. Những dòng in đậm là câu trả lời của Hình Chí Mô.

-Est-ce que vous pensez, Monsieur le Président, qu’il y a une solution militaire à la guerre du Sud Viêt Nam ?

-

Non, parce que ah, vous savez bien que le peuple Viêt Nam, c’est un Un, (un un là cái gì ? Đâu có ai nói tiếng Pháp như thế ?) et le pays du Viêt Nam, c’est Un. Les Américains veulent faire une guerre d’agression, comme qu’ils disent, (thừa chữ que) une guerre non déclarée. Comme vous savez aussi, vous avez pu lire dans la presse mondiale, que plus la guerre prolonge, (phải là “la guerre se prolonge” thì mới đúng) plus les Américains et leurs valets, n’ est ce pas, comment dire ça, (se tournant vers quelqu’un à côté), sa lầy… s’enliser… et plus, ils supportent des échecs comme vous savez là récemment.

-

Par conséquent, la guerre ne peut pas durer éternellement, et je suis très heureux que les politiciens haut placés français ont reconnu cela (aient reconnu mới đúng văn phạm).

-Vous pensez que le général de Gaulle pourrait en quelque sorte, à un certain moment, arbitrer le conflit ?

-Arbitrer ! Qu’est-ce que vous comprenez par le mot arbitrer ? Nous ne sommes pas des équipes de foot ball. Rire et ricanement.

-Au-delà des Accords de Genève si je ne me trompe, une idée du général de Gaulle est la neutralisation de tout le Sud-Est Asiatique. Est-ce c’est une idée qui vous paraît intéressante ?

-

Comme j’ai déjà dit quelquefois, c’est une idée intéressante, mais ça dépend la volonté (depend de la volonté mới đúng) de ces peuples, et… la manière comment on procède.(bồi, dịch nguyên văn tiếng Việt) . à la réaliser. C’est une grande question. n’est-ce pas ?. et je ne peux pas dire que je suis d’accord, n’est-ce pas ?… je ne dis pas que je ne suis pas d’accord, n’est-ce pas ?

Parce que.. vous dites fleurs, fleurs ; il y a beaucoup de sortes de fleurs, il y a des roses, des blanches, des rouges, etc… des fleurs qui sentent bon, d’autres qui ne sentent pas bon… , mais on dit fleurs, n’est-ce pas ?

-Monsieur le Président, nous avons constaté avec chagrin au cours de notre voyage au Nord Viêt Nam, que l’influence française est devenue à peu près inexistante dans votre pays. Les moins de 25 ans ne comprennent plus du tout le français. Et je me demande si, à votre idée, des rapports peuvent se rétablir tels que la France continue à jouer… une sorte de rôle culturel ?

-

Avec la France surtout, et avec tous les autres pays, nous voulons avoir une coopération amicale, culturelle, économique, etc… , mais je suis sûr que vous ne voulez pas avoir (phải xóa bỏ chữ avoir mới đúng), n’est-ce pas, que la France ait l’influence qu’elle avait avant, … c’est une autre chose … mais coopération culturelle, économique, qu’est ce qu’il y a encore ?, sportive par exemple, etc…etc… nous, nous désirons.

-Si la guerre se cristallise au Sud et se poursuit encore pendant quelques années, pensez-vous que l’avenir économique du Nord Viêt Nam soit viable ?

-

Je suis sûr que ça (?) non seulement viable (câu thiếu verbe être, phải viết là c’est), mais ça progresse. Parce que vous avez vu vous-même, vous avez constaté vous-même que, ici, nous travaillons beaucoup, notre peuple travaille beaucoup, avec abnégation, n’est-ce pas ?, et avec dévouement, avec enthousiasme.

D’un côté, nous travaillons pour…, comment dirais-je, pour principalement, n’est-ce pas, de nos propres forces, et aussi nous avons l’aide fraternelle des pays socialistes.

Jusqu’ici, nous avons déjà réalisé des progrès, pas tant comme nous le voulons, nous avons réalisé des progrès et dans l’avenir, nous progressons nous-mêmes.

-Vous mentionnez là l’aide des pays socialistes. Est-ce que cette aide ne s’est pas trouvée légèrement compromise à la suite du conflit idéologique entre la Russie et la Chine ?

-

Non,…… parce que ces questions, n’est-ce pas, n’est pas différence idéologique (ces questions là số nhiều, phải dùng ne sont pas mới đúng) entre nos différents partisfrères, c’est nos affaires intérieures ; ça passera, et l’union…l’unité, ça se fera. Mais l’aide fraternelle continue, continuera, c’est très précieuse pour nous.

-Certains ont l’impression chez nous, Monsieur le Président, que le Nord Viêt Nam se trouve actuellement assez isolé, asphyxié même, et, politiquement , il ne pourra difficilement éviter de devenir une sorte de satellite de la Chine. Qu’est-ce que vous répondez à ça ?

JAMAIS !! (Comme un cri)

Trong lúc mọi người đọc những dòng chữ trên màn ảnh, Bình quay qua cười hỏi Huyền.

-Ở bên Tây ba mươi năm chị nghĩ sao về trình độ nói và viết tiếng Tây của Hình Chí Mô?

Mỉm cười Huyền trả lời chậm.

-Có mấy câu trả lời mà ổng nói còn trật tới trật lui thì làm sao ổng viết nổi quyển Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp. Ba ông Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh và Nguyễn Thế Truyền viết thì còn có lý hơn nhiều… Viết sai chính tả người ta cười chết…

Thấy màn ảnh tắt, Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt bị can. Nhếch môi cười ông ta cao giọng thốt.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Sau đây thêm một bài viết mà âm phủ đã tìm được nói về trình độ tiếng Pháp của Hình Chí Mô với tựa đề ” Đơn xin nhập học sai lỗi chính tả ”. Khi vừa đến Pháp, ông liền viết đơn xin học Trường Thuộc địa ở Paris, nơi đào tạo quan chức phục vụ cho các thuộc địa của Pháp trong đó có Đông Dương. Đơn viết làm 2 bản đề ngày 159-1911 gởi cho Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa. Trong đơn xin học nầy, ông đã viết tay một cách nắn nót và ký đề tên thật của mình là Nguyễn Tất Thành. Đơn không được chấp thuận vì trường chỉ nhận tuyển sinh do sự đề cử của chính quyền các nước thuộc địa. Nhưng khi viết đơn, ông đã phạm một lỗi chính tả (faute d’orthographe) rất sơ đẳng, chứng tỏ trình độ Pháp văn của ông rất thấp kém. Trong đơn, đúng ra phải dùng chữ subsistance là kế sinh nhai, thì ông lại viết sai thành chữ substance có nghĩa là chất liệu. Với những vị cao niên từng thân thuộc với nền học vấn Pháp thời Pháp thuộc, thì cái lỗi chính tả Hồ Chí Minh phạm phải là một lỗi rất nặng, giống như khi làm toán mà sai con toán phải bán con trâu vậy. Về cái lỗi chính tả trong đơn xin nhập học nầy, xin có lời dẫn giải thêm sau đây.

Nguyên cha của Hồ Chí Minh là cụ Nguyễn Sinh Huy có quen với cụ Bùi Thức là cha của Bùi Kỷ, trong dịp gặp nhau tại trường thi, lui tới với nhau khi chờ đợi kết quả. Khoa thi Hội 1898, cụ Bùi Thức đỗ Tiến sĩ, còn cụ Nguyễn Sinh Huy, đến năm 1901, mới đỗ Phó bảng. Thi đỗ xong, cụ Sinh Huy đưa con mình là Tất Thành ra Bắc thăm cụ Bùi Thức ở làng Châu Cầu, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên Bùi Kỷ rất giỏi, mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng, đã học trường Thông ngôn, và được học bổng sang Pháp học trường Thuộc địa từ tháng 2 năm 1911. Lúc Nguyễn Tất Thành mang tên Văn Ba đến Pháp, đi thăm cụ Phan Châu Trinh ở Paris, nhân đó đã gặp lại người quen cũ Bùi Kỷ. Có thể tại nhà cụ Phan, Bùi Kỷ đã gợi ý và thảo lá đơn xin nhập học cho Nguyễn Tất Thành chép lại. Và có lẽ vì trình độ Pháp văn còn thấp kém, trông gà hóa cuốc, bản thảo của Bùi Kỷ viết là subsistance mà Nguyễn Tất Thành chép lại sai thành substance chăng?

Trong thời gian thật dài 72 năm (từ 1911 đến 1983), lá đơn sai lỗi chính tả ấy đã nằm yên trong văn khố của Bộ Hải Ngoại Pháp quốc mà không ai biết cho tới khi hai sử gia Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu tìm được và nêu ra trong tác phẩm

Một Ngôi Trường Khác cho Nguyễn Tất Thành…

Căn phòng xử im lặng rồi lát sau có tiếng xì xào nho nhỏ. Bước trở lại bàn của mình, cầm lấy xấp hồ sơ đưa lên cao, vị đại diện cho luật pháp của âm phủ thốt. Không cần qua hệ thống khuếch đại âm thanh mà giọng nói của ông ta rền vang căn phòng xử chứa mấy ngàn người.

-Không ai không biết tới tên Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi và Quang Trung. Họ là những anh hùng dân tộc, những anh hùng thứ thiệt vì toàn thể dân Việt đã ban cho họ để cám ơn những gì họ đã đóng góp cho đất nước trong công cuộc chống ngoại xâm giành lấy độc lập và tự do cho tổ quốc. Hình Chí Mô cũng là ” anh hùng dỏm ”, anh hùng tự phong hay tự xưng. Chỉ có những kẻ mặt dầy mới dám tự xưng mình là anh hùng. Chỉ có kẻ không có lòng tự trọng mới viết sách, làm thơ ca tụng chính mình. Để chứng minh cho lời nói đó tôi mời quí vị nghe câu chuyện sau đây.

” Năm 1950, Hình Chí Mô viếng thăm đền thờ Hưng Ðạo Ðại Vương Trần Quốc Tuấn ở Kiếp Bạc và xuất khẩu thành bài thơ bảy chữ tám câu:

Bác anh hùng tôi cũng anh hùng,
Tôi, bác cùng chung nghiệp kiếm cung.
Bác thắng quân Nguyên thanh kiếm bạc,
Tôi trừ giặc Pháp ngọn cờ hồng.
Bác đưa một nước qua nô lệ
Tôi dắt năm châu đến đại đồng.
Bác có linh thiêng cười một tiếng
Rằng tôi cách mạng đã thành công…

Nghe tới đây Diêm Vương vỗ bàn cái rầm cất giọng oang oang.

-Tên Hình Chí Mô này mất dạy quá. Hưng Đạo Vương đã được Trời phong làm thần vì có công lao to lớn với đất nước. Ta gặp Hưng Đạo Vương còn phải gọi là ” ngài ”. Ngươi là thằng giả anh hùng, thứ sở khanh, chuyên môn chôm chỉa, ăn cắp, giết người, không có thứ tội ác nào không làm mà dám xưng ” bác bác tôi tôi ” với ngài Hưng Đạo Vương. Ngươi là thằng vô lễ, vô giáo dục, ngạo mạn, lại thêm không biết xấu hổ. Bây đâu… Đè nó ra quất vào đít nó chục roi để chừa cái tội vô lễ và xấc xược…

Thấy Diêm Vương nổi cơn thịnh nộ, Thôi Phán Quan vội bước tới thì thầm. Không biết ông ta nói gì mà ông vua âm phủ gật đầu gằn giọng.

-Khanh nói như thế thì ta cũng tạm bỏ qua cho hắn. Sau khi phiên tòa xong ta sẽ đặt vấn đề với hắn…

Mỉm cười Thôi Phán Quan vừa đi tới chỗ 9 vị bồi thẫm ngồi vừa cao giọng thốt.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Tội ăn cắp tên của Hình Chí Mô chưa hết đâu. Ở Pháp bị can ăn cắp tên Nguyễn Ái Quốc của người khác. Thời gian sau khi hoạt động ở Tàu bị can lại ngựa quen đường cũ, đi ăn cắp tên của một người nữa. Ngoài ra với những gì học hỏi được từ các khóa huấn luyện về ngành điệp báo của các cơ quan tình báo của Nga Tàu, bị can lại giở thủ đoạn ăn cướp hay sang đoạt danh tánh các đảng phái cách mạng đang hoạt động chống Pháp tại Tàu. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe qua một tài liệu nhan đề: Tên Hồ Chí Minh là của ai?

( Đoạn văn có chữ in nghiêng dưới đây là bài trích dẫn của 1 tác giả mà người viết xin lỗi không nhớ tên và nguồn trích dẫn )

Biệt danh Hồ Chí Minh lại cũng không phải là tên cúng cơm của Hình Chí Mô. Trong quyển Anh Thư Nước Việt Từ Lập Quốc Đến Hiện Đại, tác giả Phương Lan viết về một vị anh thư tham gia cách mạng vào đầu thế kỷ 20 là bà Ngô Thị Khôn Nghi như sau (tr. 238 sđd): “ Bà Ngô Thị Khôn Nghi, con gái cụ Ngô Quảng, một nhà tiền bối cách mạng, một tướng lãnh xuất sắc trong nghĩa quân Cần Vương và Quang Phục ở làng Tam Đa, tổng Vạn Trình, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Bao phen vào sanh ra tử, qua nhiều lần thất bại, cụ Ngô Quảng phải bôn tẩu qua Xiêm rồi thất lộc ở đó. Qua Xiêm lánh nạn đặng một năm, thì cụ có được hai người con, một trai một gái. Chị gái tức là Khôn Nghi, em trai tên Ngô Chính Học, được đoàn thể cách mạng đem cả hai sang Tàu cư ngụ ”.

Trong chương của sách đã dẫn, tác giả Phương Lan cẩn thận đặt phụ đề là Ngô Thị Khôn Nghi, vợ cụ Hồ Chí Minh thật và viết tiếp: “ Bà Khôn Nghi qua Tàu cũng vào trường học, sau đó kết duyên cùng cụ Hồ Học Lãm. Bao nhiêu năm cụ Lãm hoạt động cách mạng ở Tàu thì bao nhiêu năm bà Khôn Nghi cũng hoạt động cách mạng ở bên cạnh chồng và nhiều đồng chí khác. Nhóm làm cách mạng VN ở Tàu, không ai không biết gia đình này, từ người quốc gia cho tới người Cộng sản.”

Người có tên Hồ Chí Minh thật đó tức là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, vị anh hùng đã hy sinh như một liệt sĩ dân tộc vì đã chiến đấu đến cùng khi Pháp đánh thành Nam Định năm 1883. Hồ Học Lãm tham gia phong trào Đông Du và Duy Tân do Phan Bội Châu lãnh đạo, sang Nhật du học rồi trở về Tàu, gia nhập Quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng, mang quân hàm trung tá, thành viên sáng lập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội năm 1936. Khi Hồ Học Lãm qua đời, thì Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc xử dụng ba chứng minh thư của Hồ Học Lãm mang tên Hồ Chí Minh để che giấu tông tích cộng sản của mình, để tiện việc di chuyển trên đất Tàu, và chiếm luôn tên Hồ Chí Minh (vì vào lúc đó, Trung Hoa Dân quốc dưới quyền Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã từ bỏ chính sách Liên Nga Dung Cộng nên không chấp nhận Cộng sản).

Đến bây giờ, chúng ta đã biết Hồ Chí Minh thật là Hồ Học Lãm, con của Án sát Hồ Bá Ôn, còn Hồ Chí Minh giả là con của Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi lại là Nguyễn Tất Thành. Biết là biết vậy thôi, nhưng giả đã biến thành thật quá lâu rồi, cho nên ta cứ đọc và hiểu rằng Nguyễn Sinh Cung là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, cùng với biết bao giả danh khác nữa! Nhưng biết là biết vậy thôi, cũng chưa đủ.

Khi biết có hai Hồ Chí Minh, thì phải biết thêm một án mạng, nạn nhân là con gái Hồ Học Lãm, tức con của cụ Hồ Chí Minh thật. Chuyện do tác giả Nguyễn Thái Hoàng ghi chép trong bài Chân dung Hồ Chí Minh qua bài vè dân gian (Bài viết tại Hà Nội tháng 3-2006, Bán tuần báo Việt Luận đăng tải trong số 2052 ngày 17-32006), nguyên văn như sau: “Khi con gái ông Lãm phát hiện ra, làm ầm ỉ trước cửa Phủ Chủ tịch (Hà Nội) vào năm 1946, thì không biết Hình Chí Mô sai bảo ra sao mà trên đường bà này về thăm quê ở Thanh Hóa đã bị thủ tiêu một cách bí mật”.

Liếc lên tường thấy đã tới giờ ăn trưa, Thôi Phán Quan cười lên tiếng.

-Tôi xin chấm dứt về chuyện ăn cắp tên người khác của bị can Hình Chí Mô ở đây. Sau khi ăn trưa xong, trong phiên xử kế tiếp tôi sẽ trình bày thêm về tội lừa gạt của Hình Chí Mô…

giavui
07-11-2014, 09:06 PM
- 23 -
Tên ” lái buôn người ”

-Năm 1923, ông rời nước Pháp đi qua Đức rồi từ Đức qua Nga. Đúng không?

-Đúng… Tôi thừa nhận chuyện đó.

Hình Chí Mô trả lời. Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

-Ông đi qua Liên Xô để làm gì?

Do dự giây lát họ Hình mới thong thả trả lời.

-Tôi muốn thăm nước Liên Xô…

-Vào năm 1915, ông từng lưu trú ở thành phố Boston của nước Mỹ. Năm 1916 ông rời nước Mỹ tới ở nước Anh. Năm 1917 ông trở lại nước Pháp cho tới năm 1923 mới đi qua Liên Xô. Tôi mạn phép hỏi lý do gì làm cho ông thăm viếng các nước đó?

Dường như muốn giải thích cho rõ ràng câu hỏi của mình, Thôi Phán Quan tiếp nhanh.

-Như ông đi du lịch, kiếm cách mưu sinh, thay đổi chỗ ở vì sinh kế hoặc để học hỏi những cái hay cái đẹp của các nước tư bản…

Liếc nhanh bồi thẫm đoàn, Hình Chí Mô từ từ trả lời câu hỏi.

-Như tôi đã xác nhận ở trên. Tôi đi làm cách mạng để giải phóng dân tộc tôi khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp…

-Đi làm cách mạng đè mà khoe hoài… Thôi bỏ đi tám…

Diêm Vương hướng mắt về chỗ có tiếng nói phát ra. Hình Chí Mô nhìn Thôi Phán Quan. Vị biện lý của âm phủ mỉm cười hắng giọng.

-Âm phủ có tự do ngôn luận nên thiên hạ ai muốn nói gì cũng được. Mời ông cho nghe tiếp…

-Vì lý do làm cách mạng do đó tôi phải tìm hiểu cái sở trường và sở đoản của xã hội tư bản. Vào thời buổi đó bốn nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô là khuôn mẫu cho xã hội tây phương. Vì vậy mà tôi muốn tìm hiểu để học hỏi cái hay cái đẹp của người để sau này áp dụng vào đất nước tôi. Ngài biện lý cũng biết là thời buổi đó văn minh cơ khí của tây phương đã dấy lên và tràn lan khắp nơi…

-Ngoài mục đích học hỏi ông còn có mục đích gì khác hơn?

Hơi nghĩ ngợi giây lát Hình Chí Mô mới trả lời câu hỏi của Thôi Phán Quan.

-Ngoài chuyện học hỏi tôi cũng có ý tìm kiếm một sự giúp đỡ khác…

Vừa thấy Thôi Phán Quan mở miệng, Hình Chí Mô biết thế nào ông ta cũng hỏi nên hắn mau mắn trả lời.

-Sau khi ở Hoa Kỳ, Anh và Pháp thời gian, tôi thấy ba nước này không giúp ích gì được cho tôi trong chuyện cách mạng giải phóng dân tộc nên tôi mới tính đường sang Liên Xô…

Khẽ gật gù vị biện lý âm phủ cười buông một câu hỏi.

-Năm 1920 ông có tham dự hội nghị của Đảng Xã Hội Pháp. Đúng không?

-Đúng…

-Ông bỏ phiếu ủng hộ Đệ Tam Quốc Tế hay là Quốc Tế Cộng Sản do Lê Nin thành lập vào tháng 3 năm 1919. Cũng trong hội nghị này ông trở thành đảng viên của Đảng Cộng Sản Pháp. Đúng không?

Hình Chí Mô chưa vội trả lời. Nhìn vào xấp tài liệu mà Thôi Phán Quan đang cầm, hắn có vẻ suy nghĩ. Dĩ nhiên hắn đủ khôn ngoan để biết là vị biện lý âm phủ đã nắm trong tay những hồ sơ về các hoạt động của mình. Nếu phủ nhận thì lòi ra tội nói dối. Như thế sẽ mất điểm với bồi thẫm đoàn.

-Ngài biện lý nói không sai…

Hình Chí Mô giảo hoạt ở chỗ không nhìn nhận đúng mà chỉ nói không sai.

Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp.

-Ông qua Nga năm 1923 tức là sau khi Lê Nin thành lập nước Liên Bang Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết gọi tắt là Liên Xô. Đúng không?

-Đúng…

-Ông tự động đi hay Đảng Cộng Sản Pháp phái ông đi qua Liên Xô?

-Tôi tự động đi nhưng tôi xin Đảng Cộng Sản Pháp giúp đỡ lộ phí…

-Ông làm gì khi tới Liên Xô năm 1923?

Nhìn nụ cười của vị biện lý Hình Chí Mô biết mình không thể nói dối vì ông ta đã nắm được tài liệu. Cách hay nhất là khai thật.

-Tôi tham dự Đại Hội Quốc Tế Nông Dân được mở ra vào tháng 3…

-Rồi ông làm gì nữa?

-Lấy danh nghĩa đại diện cho Đảng Cộng Sản Pháp, tôi tham dự Đại Hội Kỳ 5 của Đệ Tam Quốc Tế được mở ra từ tháng 17 tháng 6 tới ngày 8 tháng 7 năm 1924. Sau đó tôi được giao cho làm nhân viên trong Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế…

-Điều này có nghĩa là ông là đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Đúng không?

-Không đúng…

-Ngoài chuyện trở thành nhân viên của Ủy Ban Tuyên Truyền của Đệ Tam Quốc Tế, ông còn làm việc gì, bất cứ việc gì?

Thôi Phán Quan nhấn mạnh bốn tiếng ” bất cứ việc gì ”. Do dự giây lát Hình Chí Mô lắc đầu.

-Tôi chỉ làm nhân viên tình nguyện cho Ủy Ban Tuyên Truyền Quốc Tế thôi mà không có làm việc gì khác hơn nữa…

Nghe bị can trả lời như thế, Thôi Phán Quan cười nhạt.

-Sau thời gian ở Liên Xô thì ông đi đâu?

-Năm 1924 tôi rời Liên Xô đi qua Quảng Châu thuộc vùng Hoa Nam của Tàu. Vùng này gần với Việt Nam do đó rất tiện cho tôi liên lạc với các đảng phái quốc gia của Việt Nam chống Pháp đang hoạt động tại đây…

-Ông làm gì để sống trong thời gian ở Quảng Châu?

-Tôi bán báo, bán thuốc lá để sống qua ngày. Cuộc sống rất vất vả và bận bịu. Một bữa nọ thấy trên báo cần thông dịch viên nên tôi tới xin làm thông dịch viên cho ông Borodin. Đây là phái bộ của Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của ông Tôn Dật Tiên…

-Họ trả lương cho ông bao nhiêu?

-Đủ cho tôi sống…

Thôi Phán Quan hỏi dồn có lẽ vì câu trả lời của bị can không làm ông ta hài lòng.

-Đủ cho ông sống là bao nhiêu?

-Tôi làm cách mạng nên đời sống rất giản dị…

Cười cười Thôi Phán Quan bước tới chỗ Đán và Bình đang ngồi cùng với giọng nói của ông ta cao lên.

-Kính thưa 9 vị bồi thẫm. Bị can Hình Chí Mô nói đi bán báo và thuốc lá để sống qua ngày trong lúc lưu trú tại Quảng Châu là hắn nói dối. Cũng như việc hắn đọc báo thấy đang tin cần thông dịch viên nên mới tới xin làm thông dịch cho Borodin là gian trá. Sau khi nghe qua đoạn tài liệu này quí vị sẽ biết rõ sự thực…

Dứt lời Thôi Phán Quan trao cho vị lục sự một xấp giấy. Mọi người im lặng lắng nghe giọng đọc rõ ràng của vị lục sự.

-Trong ngày Lễ Lao động 1-5-1924, tại Mạc Tư Khoa, thủ đô của Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc được đứng trên khán đài danh dự cùng với các đại biểu Quốc Tế Cộng sản sau lá cờ đỏ thêu hàng chữ ” Chúng tôi nguyện đem Lá Cờ của Người đi khắp thế giới ”. Chữ Người của khẩu hiệu trên là Lênin, lá cờ là Cờ Búa Liềm của Liên Xô, còn khẩu hiệu trên là mục tiêu tranh đấu của Cương lĩnh Lênin về vấn đề thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc còn đi xa hơn nữa khi long trọng hứa hẹn với Manuilski như sau: “ Tôi (Nguyễn Ái Quốc) còn chịu trách nhiệm trước Quốc Tế Nông Dân về tham gia chỉ đạo phong trào nông dân châu Á ”. Manuilski tuyên bố trao cho Nguyễn Ái Quốc trọng trách lớn hơn: “ Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chấp thuận đề nghị của đồng chí. Quốc tế Cộng sản cử đồng chí làm ủy viên ban Phương Đông, phụ trách cục Phương Nam, chỉ đạo phong trào cách mạng ở các nước Đông Nam châu Á ”. Nguyễn Ái Quốc hứa với Manuilski: “ Tôi tin rằng lần sau gặp đồng chí thì Tổ quốc Việt Nam của tôi đã có đảng Cộng sản ”. Cũng vì lời hứa đó, ngày 25-9-1924, Ban Chấp Hành Quốc tế Cộng sản ra quyết định: “ Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ ”…

-Hắn đúng là cộng sản thứ thiệt rồi Anh Bảy ơi…

Một người nào đó lên tiếng. Giọng nói già nua vang lên.

-Dĩ nhiên hắn là cộng sản thứ thiệt. Cái gì của Hình Chí Mô cũng giả trá hết trừ cái chuyện hắn là cộng sản thì thật…

Cười cười khi nghe lời phát biểu trên, hướng về 9 vị bồi thẫm đang ngồi, vị biện lý của âm phủ tiếp tục cuộc chất vấn.

-Ngày 11 tháng 11 năm 1924 ông rời Liên Xô tới Quảng Châu thuộc Hoa Nam của Tàu?

-Đúng không?

-Đúng…

-Ông là phụ tá kiêm thông dịch viên cho Borodin, trưởng đoàn trong phái bộ của Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Hoa của Tôn Dật Tiên. Đúng không?

-Đúng…

-Như vậy ông là nhân viên của Liên Xô. Chắc họ trả lương cho ông nhiều lắm?

Hình Chí Mô lắc đầu quầy quậy.

-Tôi tình nguyện làm việc mà không có lương hướng gì hết. Tôi muốn theo phái đoàn của ông Borodin để tới đất Tàu hoạt động cách mạng. Những gì mà ông nói ở trên là tôi chỉ hứa hẹn với Liên Xô để họ giúp tôi chống lại thực dân Pháp…

Thôi Phán Quan cười nhạt khi nghe lời bào chữa của bị can.

-Thế ông làm gì để sống trong thời gian ở Quảng Châu?

-Như tôi đã nói là tôi làm thông ngôn cho ông Borodin. Liên Xô không có trả lương mà chỉ cho tôi chỗ ăn ở và chút ít xài vặt…

Nhẹ gật đầu, Thôi Phán Quan nói với 9 vị bồi thẫm đồng thời cũng muốn nói cho mọi người đang hiện diện trong phòng xử.

-Bị can nói là bị can bán báo, bán thuốc lá, rồi đọc mục rao vặt trên báo thấy tin cần người thông ngôn nên bị can tới xin việc với phái bộ Liên Xô của ông Borodin. Chuyện đó hoàn toàn bịa dặt. Sự thật trong lịch sử bang giao Nga Hoa trong thời gian Tôn Dật Tiên còn chủ trương Liên Nga Dung Cộng thì phái bộ Borodin được Nga phái sang Quảng Châu cố vấn cho Trung Hoa Dân quốc có đồng chí Nguyễn Ái Quốc (dưới ám danh Lý Thụy) tháp tùng với mọi chi phí do ban Phương Đông đài thọ. Liên Xô trả lương hàng tháng cho bị can 60 rúp. Chuyện này không ai biết vì bị ông ém nhẹm luôn. Tới năm 2002, nữ tiến sĩ người Mỹ tên Sophia Quinn-Judge đã tìm thấy trong văn khố của Nga Sô một ngân phiếu 5000 rubles của Quốc Tế Nông Dân gởi cho Nguyễn Ái Quốc vào tháng 8-1925. Số tiền 5000 rubles tương đương với 2500 Mỹ kim vào lúc đó…

Nhìn thẳng vào mặt Hình Chí Mô, Thôi Phán Quan gằn giọng.

-Nếu chỉ làm viên thông ngôn thường thì tại sao Liên Xô lại gởi cho ông số tiền lớn như vậy. Ông phải là một đảng viên quan trọng thì họ mới gởi nhiều tiền cho ông. Đúng không?

Hình Chí Mô làm thinh. Im lặng đồng nghĩa với thừa nhận. Bắt gặp Thôi Phán Quan liếc mình ra hiệu, Diêm Vương hội ý bèn lên tiếng.

-Ngươi biết điều thì khai thật đi… Ta biết hết chuyện ngươi làm tuy nhiên ta muốn biết ngươi có thành tâm hối cải…

-Bẫm Diêm Vương con đâu có làm gì quấy đâu. Con chỉ nhờ họ cấp tiền để con làm cách mạng…

-Thằng này ngoan cố lắm…

Diêm Vương nói với Thôi Phán Quan. Khẽ gật đầu như đồng ý, vị biện lý của âm phủ cười nhẹ nói với bồi thẫm đoàn.

-Bị can là nhân viên lãnh lương của Đệ Tam Quốc Tế để thực hiện công tác thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Bị can được trả lương 200 rubles tức tương đương với 100 đô la một tháng vào năm 1924. Sau đây là lá thư của bị can xin được trả lương.

THƯ GỬI BAN CHẤP HÀNH QUỐC TẾ CỘNG SẢN

Từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau 3 tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc . Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định. Vậy chuyến đi sẽ là một chuyến đi để khảo sát và nghiên cứu.

A-Thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản.
B-Thông báo cho Quốc tế Cộng sản về tình hình chính trị, kinh tế và xã hội của thuộc địa này.
C- Tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó
D- Tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền.

Tôi hành động thế nào để hoàn thành nhiệm vụ này? Số tiền cần thiết cho sự ăn ở của tôi sẽ là bao nhiêu? -Hẳn là tôi sẽ phải đổi chỗ luôn, duy trì những mối liên hệ với các giới khác nhau, trả tiền thư tín, mua những ấn phẩm nói về Đông Dương, tiền ăn và tiền trọ, v.v., v.v.. Tôi tính rằng, tôi cần phải có một ngân sách xấp xỉ 100 đôla Mỹ mỗi tháng, không kể hành trình Nga -Trung Quốc (vì tôi không biết giá vé).

Ngày 11-4-1924.
Nguyễn Ái Quốc

Bị can nói đi làm cách mạng, đời sống thiếu thốn và kham khổ song thực ra bị can được Đệ Tam Quốc Tế cấp nơi ăn chốn ở. Khi được cấp nhà nhỏ quá thì bị can than và không đồng ý, kêu nài phải xét lại và cho một chổ ở thoải mái hơn. Trong thư kêu nài về nhà ở, bị can viết:

Gửi Đồng Chí PÊTƠRỐP, Chủ Tịch BAN PHƯƠNG ĐÔNG

Tôi đã nhận được bức tối hậu thư của Sở quản lý nhà giục phải trả 40 rúp 35 côpếch về chỗ ở của tôi, không có thì tôi sẽ bị đưa ra toà. Trong những tháng mười một, tháng mười hai, tháng giêng và tháng hai tôi thuê phòng số 176, ở đây bao giờ cũng có 4 và 5 người thuê. Ban ngày thì tiếng ồn liên tục ngăn trở tôi làm việc. Ban đêm tôi bị rệp ăn thịt, không cho tôi nghỉ ngơi. Từ tháng ba, tôi nhận một phòng nhỏ, rất nhỏ. Sở quản lý nhà buộc tôi gánh 13 rúp 74 cho tháng ba, và 11 rúp 61 cho những tháng sau.

So sánh không gian hẹp và trang bị quá đơn sơ với các phòng khác rộng hơn nhiều, tiện nghi hơn, có nhiều đèn, điện thoại, tủ, ghế bành dài, phòng tắm, v.v. và tiền thuê thoả đáng thì giá mà người ta muốn buộc cho tôi là hoàn toàn đáng công phẫn. Vì vậy tôi xin đồng chí vui lòng làm một cuộc điều tra. Và sau cuộc điều tra đó, với mọi quyết định của mọi toà án, tôi tuân theo tinh thần của đồng chí về công bằng và bình đẳng.

3-1924
Nguyễn Ái Quốc

Các điều trên cho ta biết sự dối trá, lọc lừa của bị can. Hắn dối trá với mục đích gì? Chẳng qua là để lừa gạt những phần tử cách mạng chân chính của các đảng phái quốc gia đang hoạt động ở Quảng Châu. Muốn được sự ủng hộ của họ, bị can phải giấu mình là đảng viên của cộng sản quốc tế, được trả lương để thiết lập Đảng Cộng Sản Đông Dương rồi sau đó biến ba nước Việt Miên Lào thành cộng sản… Để chứng minh bị can Hình Chí Mô không bao giờ có thực tâm vì dân tộc và tổ quốc Việt Nam, tôi sẽ trình bày một câu chuyện sau đây…

Dứt lời Thôi Phán Quan bước tới đứng trước mặt Hình Chí Mô cùng với câu hỏi bật ra mà khi nghe xong ai ai cũng đều thắc mắc dù không nói ra. Họ nghĩ câu hỏi của ông ta lạc đề.

-Ông có làm nghề buôn bán bao giờ chưa?

Hình Chí Mô cau mày. Ông ta ngạc nhiên vì câu hỏi đi ra ngoài lề của phiên xử. Dù vậy ông ta vẫn cẩn thận trả lời.

-Xin lỗi ngài biện lý… Tôi chưa bao giờ làm nghề buôn bán bất cứ thứ gì…

Thôi Phán Quan cười cười thốt.

-Tôi nghĩ ông có làm nghề buôn bán và ông rất thành công trong cái nghề buôn bán người…

Có tiếng xì xầm nho nhỏ trong căn phòng xử im lặng rồi sau đó câu nói vang lên.

-Cha biện lý này gớm thật…

-Kính thưa quí vị. Để chứng minh bị can Hình Chí Mô là kẻ chuyên môn mua bán người, tôi xin mời một người lên làm chứng…

Hướng về nơi dãy bàn các nhân chứng đang ngồi, Thôi Phán Quan cao giọng.

-Kính mời ông Nguyễn Công Viễn lên ngồi vào ghế nhân chứng…

Đán với Bình đều nhận thấy Hình Chí Mô tỏ ra có vấn đề khi thấy nhân chứng xuất hiện. Dường như hắn ta nhận ra điều mà Thôi Phán Quan định làm. Vị biện lý hỏi liền sau khi nhân chứng làm xong mọi thủ tục.

-Xin ông vui lòng cho tòa biết sơ qua về ông…

Khẽ gật đầu Nguyễn Công Viễn nhỏ nhẹ thốt.

-Tôi tên thật là Nguyễn Công Viễn nhưng tôi còn có tên khác là Lâm Đức Thụ…

-À thì ra là thế…

Có giọng của người nào đó vang lên. Đoán người vừa lên tiếng quen biết với mình nên họ Lâm mỉm cười tiếp.

-Tôi sinh ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Tôi cũng sinh năm 1890, cùng tuổi với Nguyễn Tất Thành. Hưởng ứng lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu tôi muốn được sang Nhật Bản học hỏi song vì hoàn cảnh nên khi cụ Phan đi qua Tàu thì tôi tháp tùng theo cụ qua Quảng Châu. Tại đây cụ Phan lập ra Việt Nam Quang Phục Hội thì tôi cũng gia nhập hội này. Cũng tại Quảng Châu tôi gặp Nguyễn Ái Quốc, lúc này với bí danh là Lý Thụy…

-Lúc này ông có biết Lý Thụy là đảng viên của Đệ Tam Quốc Tế chưa?

-Tôi chưa biết. Tôi cứ nghĩ Quốc cũng là thành phần quốc gia chống Pháp nên lấy tình thực mà đãi hắn. Tôi mang hắn về nhà tôi ở. Sau đó hắn nhờ tôi kiếm cho một cô vợ Tàu để bớt cô đơn trong khi lưu vong nơi xứ người. Tội nghiệp hắn nên tôi mới bàn với vợ tôi làm mai em vợ là cô Lương Huệ Khanh cho Quốc…

-À… thì ra là thế…

giavui
07-11-2014, 09:06 PM
Thôi Phán Quan mỉm cười khi nghe câu nói của người nào đó.

-Lợi dụng tình quen biết cộng thêm với sự tuyên truyền lão luyện của một điệp viên, Quốc dẫn dụ tôi đi theo cộng sản. Lúc đó tôi mới biết hắn là đảng viên của Cục Phương Đông thuộc Quốc Tế 3. Cũng nhờ sự trợ giúp ngầm của tôi mà Quốc mới xâm nhập vào Tâm Tâm Xã rồi sau đó chiêu dụ được các thành viên của tổ chức này theo hắn. Tuy nhiên hắn vẫn không cho bất cứ ai biết hắn là cộng sản trừ tôi. Bên ngoài hắn vẫn mang cái lốt người quốc gia chống Pháp. Chỉ trong vòng bảy tháng thôi, Quốc đã nắm quyền chỉ huy Tâm Tâm Xã rồi sau đó cải tên thành Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội… Lúc đó hắn mới bật mí cho mọi người biết hắn là cộng sản gộc. Những thành viên của Tâm Tâm Xã nào không chịu theo thì hắn loại trừ bằng cách gởi người đó về Việt Nam xong báo cho mật thám đón bắt…

-Cụ Phan Bội Châu có biết Tâm Tâm Xã đã bị chi phối bởi Nguyễn Ái Quốc chưa?

Lâm Đức Thụ thở dài lắc đầu.

-Chưa… Cụ Phan chưa biết… Tôi biết là tôi có tội. Tôi đã làm nên một tội ác tày đình. Tôi là một tội đồ của dân tộc…

-Ông làm nên tội gì mà ông gọi là tày đình?

Liếc nhanh Hình Chí Mô đang ngồi ở ghế bị can, Lâm Đức Thụ trả lời nhỏ song ai cũng nghe được.

-Tôi cùng với Quốc bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp…

-Thằng phản quốc…

-Quân bán người ghê tởm…

-Để tôi lên hỏi thăm sức khỏe của hắn…

Thiên hạ la rầm lên khiến cho Diêm Vương phải gõ búa ra lệnh cho mọi người im lặng.

-Ông và Hình Chí Mô làm cách nào để bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp? Bán với giá bao nhiêu?

Ngập ngừng giây lát họ Lâm trả lời.

-Cụ Phan là chính nhân quân tử nên đâu có bao giờ ngờ tới thủ đoạn ma giáo của Quốc. Nhờ quen biết lâu năm và thường xuyên theo dõi tôi biết được lộ trình di chuyển của cụ. Tôi báo cho Quốc và Quốc báo cho mật tháp Pháp ở Thượng Hải. Thế là tụi mật thám đón bắt cụ về Việt Nam. Mất cụ Phan, phong trào Đông Du cũng như Việt Nam Cách Mệnh Đồng Minh Hội tan rã. Vụ bán cụ Phan tụi này được Pháp trả cho 100 ngàn đồng bạc Đông Dương…

-Đồ cái quân tham tiền…

-Thằng bất nhân bất nghĩa…

-Vậy mà hắn huênh hoang nói làm cách mạng…

-Chắc tại nghề cách mạng đè hết thời rồi nên hắn chuyển sang nghề lái buôn người…

-Mới bán có một mình cụ Phan mà hai đứa nó bỏ túi trăm ngàn…

Tuy nghe hết những lời mắng nhiếc của thiên hạ song Hình Chí Mô và Lâm Đức Thụ vẫn tỉnh bơ. Liếc nhanh Hình Chí Mô, họ Lâm cười nói tiếp với Thôi Phán Quan

-100 ngàn đồng bạc Đông Dương lớn lắm. Lúc đó con trâu chỉ giá có 5 đồng thôi. Nghề buôn bán người này coi bộ làm dễ mà ăn ngon nên tôi với Quốc cứ tiếp tục làm trong nhiều năm nữa. Mỗi thanh niên Quang Phục Hội ( tổ chức nầy do cụ Phan Bội Châu thành lập để đưa đón người xuất ngoại ) sang Tàu phải nộp cho tôi ở Hồng Kông hoặc cho đại diện của tôi ở Quảng Châu hai bức hình, nói là để lập hồ sơ xin vào trường võ bị Hoàng Phố. Đến ngày những sinh viên này tốt nghiệp, sẵn sàng lên đường về nước để hoạt động cách mạng thì số phận mỗi người đã được định sẵn. Những người nghe theo tuyên truyền cộng sản và gia nhập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội thì được an toàn đưa về quê hương để hoạt động bí mật cho cộng sản. Còn những người vẫn khăng khăng giữ vững lập trường quốc gia thì hễ qua khỏi biên giới là bị mật thám đón bắt, vì theo ám hiệu riêng của Quốc với mật thám Pháp, tôi sẽ trao cho họ ở Hồng Kông một tấm ảnh của những người mà Quốc không thu phục được. Những thanh niên này bị bắt và bị đưa vào tù, khiến phong trào quốc gia ở Việt Nam mất liên lạc với trụ sở ở Quảng Châu. Những người trong nước phái ra liên lạc với bên ngoài hoặc bị Quốc dẫn dụ theo hắn còn không thì hắn chỉ điểm cho Pháp bắt bỏ tù. Tình trạng cứ tiếp diễn đến nỗi những sinh viên tốt nghiệp Hoàng Phố không chịu theo cộng sản sợ hãi không dám về nước và chỉ còn cách gia nhập quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Dần dà phong trào quốc gia mỗi ngày mỗi suy sụp và phong trào cộng sản do Quốc chỉ huy mỗi ngày một lớn mạnh hơn…

Phòng xử lặng trang sau khi Lâm Đức Thụ ngừng nói. Lát sau Diêm Vương mới lên tiếng hỏi.

-Thằng Hình này ác thì thôi. Rồi kết quả chuyện buôn bán người của ngươi với thằng Hình ra sao?

Liếc nhanh Hình Chí Mô, Lâm Đức Thụ thở dài từ từ trả lời câu hỏi của Diêm Vương.

-Bẫm Diêm Vương… Con cùng với Quốc bán cụ Phan Bội Châu cho Pháp xong rồi thì sau đó tới lượt con lại bị thằng Quốc bán cho Pháp để giấu diếm chuyện bán đứng cụ Phan Bội Châu…

-Đáng cái đời nhà ngươi. Ta nghe ông Nguyễn Hải Thần khen ngươi có ăn học và khôn ngoan lại thêm dòng dõi cách mạng mà ăn phải cám xú nên u mê đi theo tụi cộng sản làm chuyện phản dân hại nước để đến nỗi vong mạng và làm nhơ danh dòng họ. Ngươi không biết cộng sản là quỉ ma yêu tinh sao mà chơi với nó… Ta còn không dám lại gần nó vì sợ bị lây con vi trùng cộng sản của nó…

Bị Diêm Vương xì nẹt, Lâm Đức Thụ làm thinh. Tằng hắng tiếng nhỏ, Thôi Phán Quan cao giọng nói.

-Để làm sáng tỏ thêm vụ án bán Phan Bội Châu, tôi kính mời bồi thẫm đoàn và quí vị đọc thêm một tài liệu sau đây…

Màn ảnh truyền hình từ từ sáng rực lên cho mọi người thấy rõ những dòng chữ:

-* Trong lịch sử VN thời Pháp thuộc, Phan Bội Châu (1867-1940) thường được nhắc đến như một chí sĩ, một nhà cách mạng nổi bật. Là một nhà nho ưu thời mẫn thế, Phan Bội Châu (PBC) đã chọn cho mình con đường cứu nước, cứu dân mà kẻ sĩ xứng danh nào cũng không thể từ chối khi đất nước lâm nguy theo câu nói đã thành châm ngôn: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Mới 17 tuổi, PBC đã thảo hịch Bình Tây Thu Bắc và tích cực vận động thành lập Thí Sinh Quân để góp sức vào phong trào kháng Pháp đương thời. Nhưng phong trào Cần Vương cũng như lực lượng triều đình Huế lúc đó không đủ sức đương cự với quân Pháp nên tất cả đều tan rã. Trong khi người Pháp tiếp tục tiến hành bình định để củng cố chính quyền thực dân, PBC không từ bỏ chí hướng đã có. Vừa dùng ngòi bút sáng tác thơ văn để nung nóng nhiệt tình cứu nước, ông vừa bôn ba tìm gặp các phần tử đấu tranh để gây dựng lực lượng chống Pháp.

PBC đã tiếp xúc với nhiều người từng chiến đấu trong hàng ngũ Cần Vương của Phan Đình Phùng, từng tới Yên Thế gặp Đề Thám, bàn tính việc đấu tranh với nhiều nhân vật trí thức yêu nước như Nguyễn Hàm, Đặng Thái Thân… và đặc biệt đưa ra chủ trương “giao kết giáo đồ ” vận động tín đồ Thiên Chúa Giáo. Đây là một chủ trương hết sức mới mẻ vì vào thuở đó vẫn có định kiến là tín đồ Thiên Chúa Giáo ủng hộ thực dân Pháp. PBC cho rằng cuộc đấu tranh chỉ thành công khi đạt được sự hợp quần dân tộc và tin tưởng tuyệt đối ở lòng yêu nước của giáo dân.

Thực tế chứng minh PBC hoàn toàn nghĩ đúng vì sau đó phong trào nhận được sự đóng góp rất lớn của tín đồ Thiên Chúa giáo, gồm cả các vị linh mục ở nhiều giáo xứ như linh mục Thông xứ Mộ Vinh, linh mục Truyền xứ Mỹ Dụ, linh mục Thông xứ Quỳnh Lưu, Nghệ An và linh mục Ngọc xứ Ba Đồn, Quảng Bình… PBC đã ghi lại trong PBC niên biểu rằng: “công ơn các người giáo dân phù giúp rất nhiều” và ghi lại một kết quả rất đáng kể của chủ trương là “ các đám mây mù nghi ngờ giữa Lương Giáo, quét một trận sạch bong”

(1).

Năm 1905, PBC cùng Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ xuất dương qua Trung Hoa rồi Nhật Bản, bắt đầu phát động phong trào Đông Du cứu nước. Trong số giáo đồ Thiên Chúa Giáo hưởng ứng phong trào có tu sĩ Mai Lão Bạng với biệt danh Già Châu đã đích thân đưa một nhóm thanh niên tới tận Hong Kong gặp PBC năm 1908 và sau đó trở thành cộng sự viên đắc lực của PBC.

Suốt 20 năm lưu vong ở Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, PBC kết giao với nhiều nhân vật tên tuổi trong chính giới Trung Hoa, Nhật Bản như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên, bá tước Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), tử tước Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Ki)… thành lập Việt Nam Quang Phục Hội cùng nhiều hội đoàn khác thúc đẩy, hỗ trợ các phong trào đấu tranh ở trong nước bằng sách báo tuyên truyền và giúp đỡ võ khí… (2)

PBC trở thành tiêu biểu của lòng yêu nước, động cơ kích động thu hút mọi người tham gia hoạt động lật đổ ách thực dân, trở thành kẻ đại quốc phạm đối với chính quyền bảo hộ Pháp nên đã bị kết án tử hình khiếm diện vào năm 1913 cùng với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và Nguyễn Hải Thần.

Sau khi Lênin cướp chính quyền thành công tại Nga, PBC đã nghĩ tới việc kết giao với người Nga để tìm thêm sự yểm trợ cho lực lượng đấu tranh VN. Trong PBC niên biểu (3), PBC khen Lênin có tài về chiến lược đấu tranh cách mạng nên có ý muốn gửi một số du học sinh nhờ Liên Xô giúp đỡ cho việc huấn luyện. Vì thế năm 1920, PBC đã đi Bắc Kinh gặp hai người Nga và ghi lại cuộc gặp gỡ đó như sau:

“Năm Canh Thân (1920), tháng 11, tôi nghe được người của Đảng Xã Hội Cộng Sản của nước Hồng Nga nhóm họp ở Bắc Kinh khá nhiều mà đại bản doanh của họ chính là nhà Bắc Kinh đại học. Tôi vì tính sẵn ham lạ mà nghiên cứu chân lý của đảng Cộng Sản… Tôi đi Bắc Kinh… tới thăm Thái Nguyên Bồi tiên sinh… Thái mới giới thiệu tôi với hai người Nga, một người lao nông Nga La Tư du Hoa đoàn đoàn trưởng (tên chữ Nga tôi không nhớ được), một người là Hán văn tham tán Lạp tiên sinh là thuộc viên của đại sứ GiaLạp-Hãn.

Lần này là lần thứ nhất mà tôi trực tiếp kết giao với người Nga. Tôi có hỏi Lạp tiên sinh rằng: “Người nước tôi muốn đi du học quý quốc, nhờ tiên sinh chỉ vẽ đường lối cho”. Lạp nói rằng: “Chính phủ Lao Nông đối với đồng bào thế giới ở nước Nga rất là hoan nghênh, người Việt Nam nay du học lại tiện lợi lắm. Do Bắc Kinh đến Hải Sâm Uy, đường thủy, đường bộ thông được cả. Do Hải Sâm Uy đến Xích Tháp có đường sắt vào Tây Bá Lợi Á, đi thấu được vào Mạc Tư Khoa, kể hành trình chỉ có 10 ngày thôi. Học sinh tới Nga tất trước phải đến Bắc Kinh, có đại sứ nước Lao Nông ở đó, vào xin lĩnh chứng thư và giấy giới thiệu. Được chứng thư của đại sứ thì từ Xích Tháp đến Mạc Tư Khoa, các tổn phí tiền xe và thực dụng thảy có chính phủ Lao Nông ưu đãi cho. Kể từ Việt Nam đến đất Nga, nhu phí chỉ trong 200 đồng chắc dễ biện lắm. Nhưng du học sinh trước khi vào học tất phải quyết tâm thừa nhận những điều kiện như dưới này: 1– Tín ngưỡng chủ nghĩa Cộng Sản. 2– Học thành rồi, về nước tất phải gánh lấy những việc tuyên truyền chủ nghĩa Lao Nông. 3– Học thành rồi, về trong nước mình phải ra sức làm những sự nghiệp cách mệnh. Còn như phí tổn chi dụng trong khi tại học và khi về nước, nhất thiết do chính phủ Lao Nông đảm nhiệm.

Bấy nhiêu lời như trên là những lời mà lúc ấy tôi hội thoại với ông Lạp. Ông Hoàng Đình Tuân dùng tiếng Anh thông dịch cho tôi… Người Nga khi nói chuyện với tôi biểu hiện một cách hòa ái thành thực, tư sắc rành thấy là không đạm không nồng. Tôi còn nhớ một câu rằng: “Chúng tôi được thấy người Việt Nam là bắt đầu từ ông. Ông nếu dùng được chữ Anh làm một bản sách kể cho hết chân tướng người Pháp ở Việt Nam đem cho chúng tôi, chúng tôi cảm tạ mà không dám quên” (4)

Sau lần tiếp xúc này, PBC trở về Quảng Châu không gặp gỡ người Nga nữa mà chỉ lo trung hưng Quang Phục Hội theo tình hình mới, nhất là sau khi xẩy ra vụ Phạm Hồng Thái ám sát toàn quyền Merlin tại Sa Điện. PBC gặp Tưởng Giới Thạch, Lý Tế Thâm đề nghị giúp đưa du học sinh Việt Nam vào trường Hoàng Phố và bàn với các đồng chí cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội đổi thành Việt Nam Quốc Dân Đảng dựa theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

PBC hoàn tất việc soạn thảo các văn kiện căn bản như đảng cương, chương trình vào tháng 9 năm Giáp Tý tức khoảng tháng 10-1924 giao cho Hồ Tùng Mậu đưa về trong nước lấy thêm ý kiến, rồi rời Quảng Châu về Hàng Châu. Theo hồi ức PBC niên biểu, PBC không rõ Hồ Tùng Mậu có chuyển tài liệu về nước không nhưng từ khoảng đầu năm 1925, PBC nhiều lần nhận được thư góp ý của Hồ Chí Minh.

Đây là thời gian Hồ Chí Minh báo cáo với Đệ Tam Quốc Tế về việc vừa lập xong nhóm bí mật Cộng Sản Đoàn với 8 người thuộc Tâm Tâm Xã trong đó có con rể PBC là Vương Thúc Oánh đang hoạt động ở Thái Lan được Hồ Tùng Mậu đích thân qua gặp đưa về Quảng Châu. Hồ Chí Minh đang cùng nhóm này sắp xếp biến Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh Niên Đồng Chí Hội vào tháng 6-1925 là thời gian mà người Việt Nam tranh đấu tại Trung Hoa dự trù tổ chức lễ tưởng niệm liệt sĩ Phạm Hồng Thái hy sinh ngày 19-6-1924 (tức ngày 15-5 Giáp Tý).

Sự có mặt của PBC trong dịp này là điều mong đợi của mọi người và cũng hoàn toàn hợp ý PBC đang muốn nhân dư vang tiếng bom Phạm Hồng Thái hun nóng nhiệt tình tranh đấu. Do đó, PBC rời Hàng Châu ghé Thượng Hải theo dự trù xuống thuyền tại đây về Quảng Châu.

PBC thuật lại:

“Mười hai giờ đồng hồ chính trưa ngày 11 tháng 5 âm lịch (5) , xe lửa Hàng Châu đi đến Bắc trạm, tôi vì cớ nóng gởi bạc cho ông Trần nên gởi đồ hành lý ở nhà chứa đồ mà tay tôi xách một cái kha-băng nhỏ. Vừa ra cửa trạm thì thấy có một cái cỗ xe hơi, xe khá lịch sự, đứng xung quanh có 4 người Tây, tôi không nhận được ra người Pháp. Bởi vì xứ Thượng Hải người Tây nước nào cũng có, khách sang trọng biết chừng nào mà kể, đem xe hơi rước khách cũng là thông lệ của các lữ quán to.

Tôi có biết đâu chiếc xe hơi này là đồ gian của kẻ cướp bắt cóc người. Tôi mới ra khỏi cửa trạm vài ba bước thì thấy có một người Tây hung dữ lại trước mặt tôi dùng tiếng quan thoại mà nói với tôi rằng: “Trứa cơ xe hấn hảo, xính xin xang xàng xe! – Xe này rất tốt, mời tiên sinh lên xe!”. Tôi đương cự rằng: “ Ngộ bú giảo! – Tôi không cần!”

Thình lình người Tây nữa ở sau xe ra, hết sức đẩy tôi lên xe. Máy xe tức khắc vặn, tôi đã vào tô giới Pháp rồi. Xe chạy đến bờ bể thì binh thuyền nước Pháp đã chực sẵn. Tôi từ đó thành ra người tù phạm ở trong tàu binh”. (6)

Tin PBC bị bắt trở thành làn sóng thúc đẩy bùng nổ một phong trào đấu tranh lan rộng khắp các miền đất nước và ngay tại chính quốc Pháp. Gần như mọi thành phần, mọi giới đều lên tiếng đòi tha PBC, xóa bỏ bản án tử hình khiếm diện năm 1913. Nhiều phần tử trí thức, sinh viên học sinh, đại diện các nghiệp đoàn… nối nhau gửi thư bênh vực PBC tới Hội Quốc Liên, tòa án quốc tế La Haye, Quốc Hội và chính phủ Pháp. Những nhân vật nổi tiếng thân Pháp như học giả Phạm Quỳnh cũng công khai yêu cầu ân xá cho PBC.

Dư luận sôi nổi kéo dài nhiều ngày trước và sau ngày 23-11-1925 là ngày khai diễn phiên tòa tại Hà Nội. Ngay giữa phòng xử luôn rộ lên những tiếng phản đối và đã có một người đứng ra xưng rõ họ tên quê quán là Nguyễn Khắc Doanh, người xã Trình Xuyên, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định đệ đơn xin Tòa cho được chết thay PBC. Trong Việt Sử Tân Biên, Phạm Văn Sơn đã ghi lại cảnh hàng trăm bà già buôn thúng bán bưng quỳ dọc theo phố hàng Đường, Hà Nội dâng thỉnh nguyện thư xin ân xá cho PBC vào lúc Toàn Quyền Alexandre Varenne vừa nhậm chức đi thị sát qua khu phố này. (7)

Đây là lần đầu chính quyền thuộc địa Pháp đứng trước một phong trào đấu tranh quyết liệt và có quy mô bao trùm toàn cõi Việt Nam. Kết quả, Tòa chỉ đưa ra một án tù treo và Toàn Quyền Varenne phải cử Khâm Sứ Trung Kỳ Pierre Pasquier đích thân tới phòng giam Hỏa Lò gặp PBC, sắp xếp việc đưa đi an trí tại Huế.

PBC bị bắt khiến hàng ngũ dân tộc yêu nước mất một điểm tựa mang tính chỉ đạo nhưng đã củng cố thêm niềm tin đặt vào các phong trào đấu tranh và hun nóng nhiệt tình của mọi giới ở trong nước. Riêng PBC cho tới khoảng 1928-1929 khi ngồi viết PBC niên biểu vẫn không hiểu vì sao mật thám Pháp lại biết rõ hành trình của mình để chờ sẵn tại Bắc trạm Thượng Hải, ngoài một mối nghi ngờ:

“Ai dè lúc tôi ra đi, thì cái thời giờ hành động của tôi đã có kẻ nhất nhất mật báo với người Pháp mà cái người mật báo đó lại chính là người ở chung với tôi, từng nhờ tôi nuôi nấng… Người ấy nghe nói tên là Nguyễn Thượng Huyền… gọi cụ Thượng Hiền bằng ông chú, thông chữ Hán, đã từng đậu cử nhân, chữ Pháp, chữ quốc ngữ cũng đủ xài. Tôi nhân yêu tài nó, lưu nó làm thư ký còn như nó làm ma cho Pháp thì tôi có nghĩ tới đâu!” (8)

PBC không cho biết đã được nghe ai nói Nguyễn Thượng Huyền làm ma (tức mật thám) cho Pháp và báo rõ hành trình của ông, tuy nhiên có vẻ tin theo. Vào lúc PBC được nghe nói như thế thì tại Hà Nội, năm 1928, nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã cho phát hành tập tài liệu Ai bán đứng cụ PBC? của tác giả Nhượng Tống nêu đích danh người báo cho mật thám Pháp bắt PBC là nhóm Lý Thụy, Lâm Đức Thụ. Nhượng Tống phát giác sự việc trên dựa theo nhiều nguồn tin từ những người xung quanh PBC tại Trung Hoa.

Vào thời điểm đó, Lý Thụy cũng như Lâm Đức Thụ không phải những nhân vật tên tuổi trong hàng ngũ đấu tranh và cũng chưa tiêu biểu nổi cho một xu hướng chính trị rõ rệt nào ngoài tư cách người của tổ chức Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội vừa được thành hình. Điều mọi người biết về Lâm Đức Thụ chỉ là còn có tên Trương Béo hoặc Hoàng Chấn Đông, tên thật là Nguyễn Công Viễn, từng tham gia Tâm Tâm Xã của PBC và có tương quan với tòa lãnh sự Pháp tại Hong Kong.

Như vậy, những nguồn tin mà Nhượng Tống nhận được chắc chắn không do dụng ý chống cộng nhắm xuyên tạc về lãnh tụ Hồ Chí Minh như các tác giả Cộng Sản Việt Nam sau này nêu ra. Trên thực tế, cái tên Hồ Chí Minh chỉ xuất hiện từ tháng 8-1945 và năm 1928 không ai biết Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc. Hơn nữa, dù năm 1949 Nhượng Tống bị Cộng Sản ám sát tại Hà Nội, nhưng vào năm 1928, Nhượng Tống chưa hề đặt Cộng Sản vào thế thù địch.

Nhượng Tống bước vào làng báo năm 1924 chuyên hoạt động về văn hóa cho đến cuối tháng 12-1927 mới gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học. Tập tài liệu Ai bán đứng cụ PBC? có thể được viết từ trước thời điểm này để ấn hành kịp vào năm 1928 và như thế Nhượng Tống không những chưa biết Lý Thụy là cán bộ Đệ Tam Quốc Tế mà thậm chí còn không biết Lý Thụy là ai nữa. Người ta đã biết tới cuối năm 1929, Việt Nam Quốc Dân Đảng còn cử người qua Thái Lan liên lạc với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội đề nghị giúp đỡ võ khí để khởi nghĩa.

Thực ra, không chỉ riêng Nhượng Tống nhận được các tin tức cho biết Lý Thụy và Lâm Đức Thụ chủ mưu bán đứng PBC. Năm 1948, trên tạp chí Cải Tạo tại Hà Nội số tháng 10-1948 được Joseph Buttin-ger trích lại (9), Đào Trinh Nhất đã viết bài Một bí mật chưa ai nói ra nêu tên Hồ Chí Minh là kẻ chủ mưu bán đứng PBC cho mật thám Pháp.

Đặc biệt hơn, chính Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là người từng có Lâm Đức Thụ bên cạnh nhiều năm ở Trung Hoa cũng ghi lại sự việc này như sau:

“Cuối tháng 5 năm 1925, Lâm Đức Thụ viết thư và gửi tiền lên Hàng Châu cho ông PBC, mời về Quảng Châu nhân dịp kỷ niệm Phạm Hồng Thái ngày 19 tháng 6, làm một cuộc tuyên truyền lừng lẫy cho cách mệnh Việt Nam. Ông Phan nhận được thư và tiền, liền đi Thượng Hải để đáp tàu thủy về Quảng Châu. Ông Phan đi rồi, mãi không thấy có thư từ gì về, bọn Hồ Học Lãm ở Hàng Châu lấy làm lạ, viết thư hỏi các đồng chí ở Quảng Châu. Thư trả lời nói không thấy ông Phan xuống đó, ai cũng lo.

Hơn một tháng sau, Lâm Chi Hạ, chủ nhiệm Quân Sự Biên Tập Xứ, tiếp được một phong thư từ Sán Đầu gửi tới, có kèm theo một mảnh thư do ông Phan viết, mới biết là ông bị bắt rồi.

Gửi thư ấy đến Lâm Chi Hạ là một học sinh Tàu. Người này cho biết rằng nhân dịp nghỉ hè, từ Thượng Hải về Sán Đầu thăm nhà, gặp ông Phan ở trên tàu thủy, ông Phan thừa lúc người đi kèm không ở cạnh, nói chuyện với y và viết mảnh giấy ấy, nhờ y gửi đi Hàng Châu cho Lâm Chi Hạ.

Cứ như lời ông Phan nói trong mảnh giấy ấy thì khi ông đi xe lửa từ Hàng Châu đến Thượng Hải, vừa ra khỏi cửa ga, liền bị mấy người cảnh sát tô giới Anh núm lấy, điệu lên xe hơi đưa đến tô giới Pháp giao cho người Pháp. Ông bị giam ở đó ít lâu, rồi bị giải về nước bằng tàu thủy.

Lâm Đức Thụ ở Quảng Châu, lúc đầu cố phao vu cho người này người khác để che lấp tội ác của mình nhưng về sau thấy ông Phan bị bắt về đến trong nước, thành ra một cuộc tuyên truyền có hiệu lực cho cách mệnh, Lâm Đức Thụ mới khoe với mọi người đó là công hắn, vì chính hắn bắt ông Phan. Hắn lại nói sở dĩ bắt ông Phan là vì hắn nghĩ ông đã trở nên già hủ, không thích hợp với thời đại mới nữa, ở ngoài bất quá biết làm mấy câu văn tuyên truyền hão bằng chữ Nho, chẳng được chuyện gì, không bằng đưa ông về nước lấy bản thân ra làm lợi khí tuyên truyền, lại có ích hơn” (10)

Những ý kiến mà Cường Để ghi là của Lâm Đức Thụ đã được Hoàng Văn Chí dựa theo tài liệu của nhạc phụ là Sở Cuồng Lê Dư xác nhận là ý kiến của Hồ Chí Minh. Lúc đó, nhóm Lâm Đức Thụ rất tin theo Hồ Chí Minh và đang tính toán biến Tâm Tâm Xã thành tổ chức riêng. Một vấn đề khiến cả nhóm ưu tư là có thể gặp trở ngại khi PBC không đồng ý, vì PBC đang tiến hành việc cải tổ Việt Nam Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng theo khuôn mẫu Trung Hoa Quốc Dân Đảng.

Lê Dư theo PBC hoạt động trong Tâm Tâm Xã nhưng gần gũi với Lâm Đức Thụ. Vì thế, Lê Dư đã được nghe nhắc tới ý kiến của Hồ Chí Minh – lúc đó mang tên Lý Thụy và biệt danh Vương Sơn Nhị. Theo Lê Dư, Hồ Chí Minh đã nói:

“Cụ đã gần đất xa trời mà chẳng nên công việc gì, chi bằng bán cụ cho Pháp lấy tiền cho Đảng ta”.

Một người trực tiếp nghe Hồ Chí Minh phát biểu như trên là Vương Thúc Oánh. Vương Thúc Oánh là người thứ 7 trong 9 hội viên bí mật của Cộng Sản Đoàn thành lập vào tháng 2-1925. Lúc đó, Vương Thúc Oánh rời Thái Lan theo Hồ Tùng Mậu về Quảng Châu và luôn có mặt trong mọi phiên họp bàn bạc về hoạt động của nhóm.

“Trong cuốn sách tự thuật in vào năm 1962, Vương Thúc Oánh cho biết trong phiên họp khoảng đầu năm 1925 của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, một hội vừa mới được Lý Thụy móc nối và thành lập, và Vương Thúc Oánh có hiện diện trong buổi họp đó, Lý Thụy nói: “Cụ Phan ái quốc thật, nhưng cụ đã quá già, đầu óc rất khó hấp thụ những trào lưu tư tưởng mới. Cụ lại quá thành thực, dễ tin người …”

Lý Thụy đã lý luận hãy để cho cụ Phan trở thành biểu tượng đấu tranh bằng cách để người Pháp bắt giam cụ Phan xong rồi Hội tổ chức các cuộc đấu tranh cho cụ. Song song, khi bán tin cho người Pháp bắt cụ, người Pháp phải gởi lại cho Hội một số tiền và Hội dùng số tiền này để phát triển lực lượng. Lý luận “nhất cử lưỡng tiện” này đã được các thành viên trong Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội biểu quyết chấp thuận”. (11)

Vương Thúc Oánh là con rể PBC cũng không thể phản đối và số tiền nhận được từ người Pháp trong vụ này, theo Vương Thúc Oánh, là 10 vạn quan, tức 100 ngàn quan. Vụ “bán người” này được hầu hết các tác giả khác nhắc tới trong số có Đào Văn Hội, tác giả Ba nhà chí sĩ họ Phan, cho biết thêm một chi tiết khác:

“Sau khi PBC đi Hàng Châu, Lý Thụy và Lâm Đức Thụ đã triệu tập các nhà cách mạng tại Quảng Châu lại, trừ Nguyễn Hải Thần, để bàn về vấn đề tài chánh. Không ai đưa ra được giải pháp nào về vấn đề này. Lâm Đức Thụ đã đề nghị hy sinh cụ PBC… Và hội nghị đã ủy cho Lâm Đức Thụ và Phan Vị đến tiếp xúc với tòa TLS Pháp ở Hương Cảng để thương lượng” (12).

* Bài viết trên đây được lược trích từ HCM-Nhận Định Tổng Hợp-Minh Võ.

Phòng xử lặng trang sau khi mọi người đọc xong những dòng chữ cuối cùng trên màn ảnh truyền hình. Có lẽ họ còn đang bàng hoàng về những bí mật đã được giấu kín mấy chục năm cho tới bây giờ mới bật mí nhờ vào sách báo và các mạng lưới thông tin toàn cầu.

giavui
07-11-2014, 09:07 PM
-24-
Đạo đức cách mạng thứ nhất của bác:
LỪA VỚI BỊP…

Tiếng động vang lên từ chiếc búa làm bằng cây của Diêm Vương báo hiệu phiên xử Hình Chí Mô ngày thứ nhì được tiếp tục. Thôi Phán Quan thong thả rời khỏi ghế ngồi của mình. Bước tới đứng trước mặt bị can ông ta buông một câu.

-Trong đời cách mạng ông đi đây đi đó và làm thê làm mướn để sinh sống? Đúng không?

Hình Chí Mô cau mày như suy nghĩ về câu nói trên rồi sau đó mới trả lời.

-Đúng… Tôi làm thuê làm mướn, làm đủ mọi nghề để sống…

Hơi mỉm cười vị biện lý âm phủ hỏi.

-Ông có làm thuê làm mướn cho các cơ quan gián điệp không?

Tiếng xì xầm thoạt đầu nhỏ rồi sau đó lớn dần lên.

-Bộ bác là điệp viên hả anh Bảy?

-Chứ còn gì nữa. Bác còn giỏi hơn Jame Bond 007 của Anh và Tống Văn Bình Z28 của Việt Nam mình nữa. Bác là thầy của Trần Bạch Đằng, Phạm Ngọc Ẩn, Mười Hương và Lê Câu…

Đợi cho người nào đó dứt lời, Thôi Phán Quan nhắc lại câu hỏi của mình.

-Ông có làm thuê làm mướn cho các cơ quan gián điệp không?

-Tôi già rồi nên không nhớ được nhiều chuyện cũ…

Hình Chí Mô chối quanh.

-Vậy để tôi nhắc lại cho ông nhớ… Ngày 16-91934, ông nhập học khóa tình báo ngắn hạng 6 tháng của KGB với tư cách là học viên nội trú của đại học Lênin, mang tên giả là Linov với bí số 375. Tại học viện Nghiên cứu các Vấn đề Thuộc địa, ông lãnh đạo tiểu tổ các học sinh Việt Nam và dùng tên giả là Lin… Ông xác nhận điều này?

Thấy bị can dụ dự chưa chịu trả lời, Thôi Phán Quan cười thốt.

-Ông muốn tôi trình tòa nhân chứng và tài liệu?

Hình Chí Mô lắc đầu. Thôi Phán Quan hỏi lại.

-Như vậy là ông xác nhận ông là điệp viên của KGB?

-Tôi chỉ học một khóa bổ túc 6 tháng…

-Như vậy là ông đã tham dự các khóa học căn bản từ trước, bởi vậy ông mới học thêm khóa bổ túc. Đúng không?

Hình Chí Mô gượng gạo gật đầu vì biết mình nói hớ nên bị Thôi Phán Quan bắt bẻ. Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn đang ngồi, vị biện lý của âm phủ cao giọng nói với bị can đang ngồi trước mặt.

-Trong thời đệ nhị thế chiến vào khoảng năm 1945, Hình Chí Mô hoạt động khắp vùng rừng núi Việt Bắc với các tên giả Già Thu, Sáu Sán, Ong Ké. Sau đó, bị can lại sang Tàu rồi bị bắt vì bị tình nghi là gián điệp của Nhật. Lần nầy, bị can được Trương Bội Công và Nguyễn Hải Thần bảo lãnh nên tướng Trương Phát Khuê trả tự do cho bị can. Nhờ khả năng tình báo do KGB đào luyện, bị can được tướng Trương Phát Khuê tin dùng và cho phục vụ trong ngành quân báo của Bộ Tư Lệnh Đệ Tứ Chiến Khu ở Hoa Nam. Xuyên qua cơ quan tình báo của Trung Hoa, bị can bắt liên lạc với tình báo Hoa Kỳ do Charles Fenn và thiếu tá Archimedes Patti, đặc vụ phụ trách chiến trường Đông Dương của OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA. Bị can trở thành một trong 25 điệp viên của Charles Fenn với bí danh Lucius, bí số 19. Bị can được Charles Fenn cung cấp cho 6 khẩu súng lục 38 cùng với 120 băng đạn. Ngoài ra họ còn viện trợ cho bị can nhiều súng ống, đạn được và quân dụng. Đúng không?

-Đúng…

Trở lại bàn của mình, cầm quyển sách đưa lên, Thôi Phán Quan cao giọng.

-Kính thưa Diêm Vương… Kính thưa Bồi Thẩm Đoàn… Kính thưa quí vị… Sau đây tôi xin trình tòa một tài liệu, đúng hơn là quyển sách nói về những hạot động của Hình Chí Mô dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc ở Liên Xô từ năm 1923 cho tới năm 1938. Đó là quyển Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà…

Ngừng lại giây lát vị biện lý của âm phủ thong thả nói tiếp.

-Hồng Hà là bút hiệu của Hà Văn Trường, người viết cuốn Đại Thắng Mùa Xuân của Văn Tiến Dũng. Mang cấp bậc đại tá, nguyên tổng biên tập nhật báo Nhân Dân của đảng cộng sản Việt Nam, nguyên bí thư trung ương đảng kiêm trưởng ban đối ngoại trung ương, Hồng Hà có cơ hội tiếp cận với nguồn tài liệu quan trọng của đảng cộng sản Việt Nam và các đảng cộng sản quốc tế. Vì vậy những gì ông ta trình bày trong sách chúng ta có thể tin được phần nào. Với sự thận trọng cần thiết, tôi thiết nghĩ chúng ta có thể đọc để tìm thấy một vài chi tiết trong sách, chứng minh hành trình cách mạng của Nguyễn Ái Quốc là phục vụ cho cộng sản quốc tế cũng như Nguyễn Ái Quốc là đảng viên thâm niên của cộng sản Liên Xô. 16 năm, tính từ 1923 tới 1938; bị can đã nhiều lần đến và đi, lưu trú nhiều năm ở Nga, được cộng sản Liên Xô huấn luyện thuần thục để sau này trở thành lãnh tụ của đảng cộng sản Đông Dương. Bây giờ tôi xin mời quí vị theo dõi đoạn đời cách mạng của Nguyễn Ái Quốc tại Liên Xô từ năm 1923 cho tới năm 1938. Tôi cũng xin nhấn mạnh danh xưng ” anh Nguyễn ” trong sách chỉ tới Nguyễn Ái Quốc… Đoạn văn có chữ in nghiêng sau đây được trích nguyên văn trong sách Bác Hồ trên đất nước Lê Nin của Hồng Hà…

Thôi Phán Quan phất tay áo rộng. Màn ảnh rộng hiện ra cho mọi người đọc thấy những dòng chữ.

-Anh Nguyễn cho rằng Liên Xô của Lê-nin không phải là địa ngục mà cũng chưa phải là thiên đường. Liên Xô có những khó khăn và có những thiếu sót nhưng Liên Xô đang đứng vững, đang đi tới, sẽ phồn vinh, giàu mạnh, và chế độ trên đất nước này là ưu việt, là tấm gương và là tương lai của các dân tộc. Anh đã thấy vàng trong cát, thấy cây và thấy cả rừng. Phải có cái nhìn biện chứng, một tư duy khoa học và một tấm gương cách mạng trong đẹp mới có được niềm tin như thế vào lúc cái xã hội mới ấy chỉ vừa mới nhú mầm.

Còn nhân dân Mát-xcơ-va và nhân dân Liên Xô thì vẫn vui tươi, hăng say lao động, không động dao, không bi quan trước những khó khăn trong đời sống, vì họ hiểu tại sao có những khó khăn đó và thấy con đường đúng đắn nhất của họ là lao động quên mình xây dựng đất nước vì lợi ích nhân dân Nga và vì cách mạng thế giới, với niềm tin rằng một tương lai tươi sáng, hạnh phúc sẽ đến với họ, mức sống của ngày mai do thái độ lao động của họ hôm nay quyết định. Cứ nhìn những khuôn mặt quanh anh, những công nhân, nông dân, trí thức đang làm việc đủ thấy nét rạng rỡ, tự hào và tự tin của những người chủ đất nước và làm chủ vận mệnh của mình.

Hàng trăm con người reo hò, tung mũ nhảy múa, vây quanh những chiếc xe hơi AMO đầu tiên ra xưởng. Chiếc xe mui trần, cục mịch, hai chỗ ngồi tượng trưng cho tinh thần tự lực tự cường của nhân dân xô-viết hãnh diện lăn bánh qua các đường phố thủ đô. Hàng vạn nhân dân đứng kín sân bay Tu-si-nô xem máy bay biểu diễn trong ngày hội hàng không, và hoan hô dậy đất kỷ lục bay của nước Nga năm 1923 : cao 1200 mét với tốc độ 200 ki-lômét / giờ. Những tốp thanh niên vác cuốc xẻng đi xây nhà máy thủy điện Vôn-khốp, vừa đi vừa hát vang…

Anh Nguyễn tắm mình trong không khí lạc quan, tự do ấy. Chưa bao giờ anh thấy mình khoan khoái như lúc này sống giữa Mát-xcơ-va, sống giữa môt xã hội mà hôm nay đã là ngày mai rồi.

Khung cảnh ấy càng giục giã anh lao tới thực hiện lý tưởng của đời mình. Từ Mát-xcơ-va, trái tim cộng sản ấy nghĩ tới quê hương, đồng bào, đồng chí và bao nhiêu công việc của cách mạng chưa được giải quyết. Anh lo đến trách nhiệm của người cộng sản quan tâm tình hình Tổ quốc và các nước thuộc địa luôn muốn thúc đẩy cái gì ngưng trệ trong cuộc đấu tranh để giải phóng nhân dân. Vừa tới Mát-xcơ-va, anh vội viết thư ngay cho các đồng chí Trung ương Đảng Cộng sản Pháp:

“ Các đồng chí,

Những quyết định của Quốc tế thứ hai về vấn đề thuộc địa có hai tác động song song nhưng trái ngược nhau, một mặt, chủ nghĩa đế quốc áp bức, thấy trước hậu quả nặng nề của chính sách đó nếu được thực hiện đúng, bắt đấu đề phòng và ra sức tuyên truyền ngu dân và đàn áp. Mặt khác, nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa thức tỉnh bởi tiếng vang cách mạng tự nhiên quay nhìn về Quốc tế của chúng ta, chính đảng duy nhất hứa quan tâm đến họ với tình anh em và họ đặt vào chính đảng đó tất cả niềm hi vọng giải phóng. Từ đó chúng ta có thể không phải chỉ phá tan ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dân bóc lột và lay chuyển tình thế mà còn biến mối cảm tình hoàn toàn cảm tính và thụ động của nhân dân các thuộc địa đối với chúng ta thành một mối cảm tình có lý tính, có hành động thật tự giác nếu các nghị quyết của Quốc tế cộng sản chúng ta được thực hiện. Khốn thay, những nghị quyết đó cho đến nay chỉ dùng để tô đẹp vào tờ giấy ! Thử hỏi các chi bộ cộng sản Pháp, Anh và ở các nước thực dân khác đã làm gì cho các thuộc địa ? Họ có một chính sách và chương trình rõ ràng, cụ thể và nhất quán về vấn đề thuộc địa không ? Những đảng viên của các chi bộ có hiểu thuộc địa là cái gì không và có hiểu tầm quan trọng của nó không ? Có thể trả lới tất cả là không.

Đối với các thuộc địa Pháp,

a) Một ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa đã được thành lập.
b) Một mục về thuộc địa đã được mở trên báo Nhân Đạo.
c) Trong các Đại hội Đảng toàn quốc đã có những tuyên bố ủng hộ nhân dân các thuộc địa.
d) Đã có hai chuyến đi tuyên truyền của những đại biểu quốc hội người của Đảng.

Sau khi thành lập được ít lâu và khi được dùng các cột báo Nhân Đạo một cách dễ dàng, Ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa đã hoạt động khá tốt. Nhiều tài liệu và nhiều tin tức lý thú từ các thuộc địa bắt đấu gửi đến cho họ. Chiến dịch do nó tiến hành trên báo Đảng chống sự lạm dụng và những tội ác của bọn thực dân đã làm choc n đế quốc và các báo của nó phải lo sợ. Nhưng cái diễn đàn đó về vấn đế thuộc địa bỗng bị báo Nhân Đạo bỏ đi đột ngột. Không có phương tiện làm việc và hoạt động, Ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa và chúng luôn luôn sợ bị cải chính và vạch trần.

Điều đó đặc biệt gây ra cảm giác nặng nề trong nhân dân các thuộc địa. Dù không có hiệu quả, các tuyên bố trong các Đại hội Đảng toàn quốc ủng hộ nhân dân các thuộc địa đã góp phần củng cố cảm giác của họ đối với Đảng. Người ta không thể cứ nhắc đi nhắc lại mãi một điều giống nhau trong khi không làm gì cả. Và những người bị áp bức đáng thương, thấy chúng ta chỉ hứa nhưng không làm gì, bắt đầu tự hỏi chúng ta là những người nghiêm túc thật sự hay là những anh bịp. Chuyến đi của các đồng chí V. Cu-tuya-ri-ê và A. Béc-tu sang Angiê-ri và Tuy-ni-di, gần như cùng lúc với những cuộc ngao du cả các đại biểu quốc hội tư sản, được nhân dân châu Phi hoan nghênh. Nên có hững chuyến đi cùng tính chất như thế đến tất cả các thuộc địa khi kết quả có thể chắc chắn là đáng khích lệ.

Nhưng thay vì tăng cường tuyên truyền, chúng ta đã đánh trống bỏ dùi và bỏ lỡ những cơ hội tốt. Chúng ta đã làm rất ít việc trong lúc có bãi công đẫm máu ở Mác-tiních, nạn đói ở Bắc Phi và cuộc nổi dậy ở Đa-hô-mây.

Trong trường hợp sau, chúng ta đã mang về một bộ mặt thảm hại. Báo Đảng đưa tin về cuộc nổi dậy sau báo chí tư sản nhiều ngày và mươi ngày sau báo Sự Nghiệp. Trong khi chính quyền thuộc địa đã ra lệnh giới nghiêm, tập trung binh lính, huy động tàu chiến, phát động bộ máy đàn áp, bắt giam các chiến sĩ cách mạng từ 5 đến 10 năm, trong khi báo chí viết thuê tiếp tục một chiến dịch lừa dối và bóp nghẹt triệt đẻ, thì chúng ta bằng lòng với hai, ba bài báo nhỏ không có triển vọng gì. Không phải không khôi hài và không buồn rầu khi trong bóng tối những nhà tù “ văn minh “, những anh em Đa-hô-mây đáng thương của chúng ta đọc điều thứ 8 trong số 28 điều của Quốc tế cộng sản nói rằng : “ Mỗi Đảng Cộng sản cam kết ráo riết hoạt động trong quân đội nước mình chống mọi sự áp bức nhân dân thuộc địa, và nó phải ủng hộ, không chỉ bằng lời nói mà bằng hành động, phong trào giải phóng dân tộc”.

Lúc này buộc tội quá khứ và ngồi tiếc thời gian đã mất là vô ích. Tốt nhất là trong tương lai phải biết dùng nó. Chúng tôi yêu cầu Đảng :

1. Công nhận chính thức Đảng bộ Mác-tê-ních (nhóm G. Giô-rét).
2. Mở lại mục Thuộc địa trên báo Nhân Đạo.
3.Đề nghị tiểu ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa cung cấp tài liệu cho Ban thuộc địa và hai hoặc ba tháng một lần gửi đến ban đó báo cáo công tác. 4. Động viên các đảng bộ thuộc địa, nơi nào có, đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phát triển của Đảng.
5. Mở trên các báo của Đảng mục Vấn đề thuộc địa để người đọc làm quen với các việc của thuộc địa.
6. Nói đến các thuộc địa ở mọi đại hội, cuộc mít tinh hoặc cuộc họp của Đảng.
7. Khi nào tình hình của Đảng cho phép, cử các nghị sĩ đi thăm các thuộc địa.
8. Tổ chức những công đoàn hoặc lập những nhóm tương tự ở các thuộc địa.

Mát-xcơ-va tháng 7-1923
NGUYỄN ÁI QUỐC”

Mát-xcơ-va chào mừng ngày khai mạc Hội nghị nông dân quốc tế bằng những số báo đặc biệt, những lá cờ tung bay trên Hồng trường và trên các đỉnh tháp điện Crem-li, Báo Sự thật của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô ngày 10-10-1923 đăng hàng chữ lớn suốt bề ngang trang nhất:

“Hôm nay bên trong tường thành điện Crem-li diễn ra hội nghị nông dân toàn thế giới đầu tiên. Những đội ngũ nông dân đang đến hỗ trợ giai cấp công nhân.

Chống lại liên minh áp bức và ăn cướp của bọn tư bản và địa chủ, sự liên minh vĩ đại công nông đang phát triển. Chào mừng các bạn đồng minh chiến đấu mới ! Tay cầm tay, vai kề vai thân thiết, chúng ta hãy vùng dậy chống bọn tư bản, chống những cuộc chiến tranh mới mà chúng đang mưu toan, chống những kế hoạch của chúng hòng bóp nghẹt nhân dân lao động !”

Anh Nguyễn cùng các đại biểu quốc tế đi bộ qua Hồng trường để vào nơi họp. Nhân dân đứng trên hè giáp nhà bách hóa tổng hợp vẫy tay chào. Một biểu ngữ lớn treo bên đường : “Tin tưởng và quyết tâm thực hiện chính sách kinh tế mới của Lê-nin !”

Lê-nin đã nói được và đọc được các báo cáo, nhưng Người vẫn còn yếu, không đến dự Đại hội quốc tế nông dân mà Người mong đợi từ lâu.

Nhưng số phận người nông dân thuộc địa sống dưới chế độ thực dân – phong kiến thì còn tồi tệ gấp chục lần. anh Nguyễn là người đại diện thuộc địa duy nhất miêu tả trước Đại hội tình cảnh đồng bào nông dân của anh và đọc bản cáo trạng tội ác kẻ thù của dân tộc anh.

Đấy là vào lúc 16 giờ 30 phút ngày 13-10-1923, tại phiên họp thứ 7 của Đại hội. Mặc chiếc áo sơ-mi vải xám, tóc cắt ngắn, vóc gầy, anh Nguyễn bước lên diễn đàn trong tiếng vỗ tay sôi nổi, kéo dài của toàn Đại hội, trong đó có những người chưa biết nước Việt Nam ở đâu trên quả đất. Anh nói bằng một giọng chân thành, tự nhiên và nhiệt tình :

“Thưa các đồng chí.

Tất cả các đồng chí đều đã nói về tình cảnh nông dân đất nước các đồng chí. Tôi sẽ không làm tròn bổn phận của tôi nếu được đặc quyền đến đây với các đồng chí mà tôi lại không nói một đôi lời về tình cảnh nông dân nước tôi.

Để minh họa tình cảnh nông dân Đông Dương, tôi phải làm một sự so sánh : một bên là người nông dân Nga và một bên nữa là nông dân Đông Dương. Nông dân Nga giống như một người ngồi chễm chệ trong chiếc ghế bành còn nông dân Việt Nam thì giống như một người bị trói vào cột, đầu ngược xuống đất. Nói thế không phải là nói phóng đại đâu, sau đây các đồng chí sẽ thấy rõ.

Khi các đồng chí đi qua Quảng trường Đỏ, các đồng chí thấy có một dòng chữ : “Nhà thờ là thuốc phiện của thế giới” ; nhưng chúng tôi, nhờ nền văn minh phương tây, chúng tôi có cả nhà thờ lẫn thuốc phiện.

Về thuốc phiện, tôi sẽ xin chỉ kể lại với các đồng chí rằng mỗi năm chính phủ Pháp phương tây đã bán cho nhân dân Việt Nam, 20 triệu người, trên 400 triệu đô-la thuốc phiện. Mặc khác, người ta tính ra rằng cứ 1000 đại lý bán rượu và thuốc phiện thì không có lấy 10 trường học. Các đồng chí thấy sự việc như thế đấy.

giavui
07-11-2014, 09:07 PM
Bây giờ tôi xin nói với các đồng chí về vấn đề nhà thờ. Tôi đã nói với các đồng chí rằng những tên thực dân đã tước đoạt tài sản của người Việt Nam như thế nào. Bây giờ tôi xin nói để các đồng chí biết Chúa Ki-tô đã tước đoạt tài sản của nông dân như thế nào.
Trong cuộc xâm chiếm Đông Dương chính những nhà truyền đạo Thiên chúa đã đi do thám để báo cho đội quân chiếm đóng biết những kế hoạch phòng thủ của nước chúng tôi. Cũng chính những nhà truyền đạo đã dẫn đường những đội quân tiến công, cũng chính những nhà truyền đạo đã lợi dụng tình trạng đất nước rối loạn để ăn cắp những văn bản chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của ngưởi nông dân này nọ hay của một làng nào đó. Khi hòa bình được lập lại, nông dân trở về thì tất cả ruộng đất đều đã bị các nhà truyền đạo nắm được văn bản nói trên, chiếm mất. Chính bằng cách đó, mà ở Nam Kỳ những nhà truyền đạo Thiên chúa có trên một phần tư ruộng đất cày cấy được. Ở Cao Miên, các nhà truyền đạo nắm trên một phần ba ruộng đất, ở Bắc Kỳ, chỉ riêng ở thủ phủ, trong thành phố Hà Nội, các nhà truyền đạo có những bất động sản rộng mênh mông. Không phải chỉ bằng cách đó họ chiếm của cải, ruộng đất của nông dân. Các đồng chí đều biết rằng trong các nước ven biển, nhất là trong những nước ở Viễn Đông, thường xảy ra giông bão và lụt lội làm cho mùa màn thất bát ; các nhà truyền đạo lợi dụng những dịp đó để ứng tiền trước cho nông dân vay với những tỷ suất lãi rất nặng và một thời hạn rất ngắn. Biết rõ rằng làm như vậy thì nông dân không bao giờ có thể trả nợ được, các nhà truyền đạo đòi nông dân phải đem ruộng đất ra bảo đảm. Đến hạn trả nợ, toàn bộ ruộng đất của nông dân đều rơi vào tay những người truyền đạo. Các đồng chí đã thấy bọn thực dân bóc lột nông dân như thế nào và các quan chức của chúa tước đoạt nông dân như thế nào. Bây giờ, còn có những kẻ bóc lột khác nữa, chẳng hạn như nhà nước. Dù mủa màng có xấu đến mức nào đi nữa, nông dân Việt Nam vẫn cứ phải đóng thuế, nông dân phải bán mùa màng của mình đi ; đẻ khỏi bị bỏ tù (hễ đóng thuế chậm là họ bị bỏ tù) họ phải bán non mùa màng của họ, nghĩa là bán trước khi gặt ; họ bán cho con buôn theo cách ước lượng bằng mắt. Bằng cách đó con buôn mua lúa trước khi gặt bằng một giá rất rẻ và sau đó đem bán lại rất đắt. Như vậy là người nông dân Việt Nam không phải bị trói vào chiếc cột như tôi đã trình bày với các đồng chí, mà họ còn bị đóng đinh câu rút bởi bốn thế lực liên hợp là : Nhà nước thực dân, tên thực dân, Chúa Kitô và con buôn. Chắc các đồng chí sẽ hỏi rằng tại sao nông dân Việt Nam không tổ chức nhau lại, không làm như các đồng chí là thành lập hợp tác xã. Chỉ vì họ không thể làm như thế được. Tôi phải nói với các đồng chí rằng chúng tôi bị cai trị bởi một chế độ nô lệ. Chúng tôi không được quyền tự do đi lại ; chẳng hạn như chúng tôi không được đi từ Mátxcơ-va đến Pê-tơ-rô-grát được ; chúng tôi phải xin được giấy thông hành, nếu không họ sẽ bắt giữ và ném chúng tôi vào tù. Cũng vậy, chúng tôi không được quyền hội họp trên 4 hoặc 5 người nếu không xin được giấy đặc biệt của chính quyền Pháp. Tôi cũng sin nhắc lại rằng các đồng chí đã nói đến chính quyền vô sản về việc lật đổ chủ nghĩa tư bản. Nhưng tất cả những điều các đồng chí nói ở đây sẽ trở thành vô ích, nếu các đồng chí quên mất cái yếu tô quân phiệt thực dân. Các đồng chí đều biết các sự việc. Trong chiến tranh thế giới, chỉ riêng ở nước Pháp, người ta đã đưa từ các thuộc địa về trên một triệu người bản xứ để tham gia chiến tranh. Trong những năm 1916-1917, người ta đã chở về 2 triệu tấn ngũ cốc, trong khi dân bản xứ châu Phi và Đông Dương chết đói. Thưa các đồng chí, để kết thúc, tôi phải nhắc lại với các đồng chí rằng Quốc tế của các đồng chí chỉ trở thành một quốc tế khi không những nông dân phương tây, mà cả nông dân phương đông, nhất là nông dân các thuộc địalà những người bị bóc lột và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia Quốc tế của các đồng chí (vỗ tay). Nông dân bị giai cấp tư sản bóc lột và áp bức không kém công nhân. Phải đấu tranh để tự giải phóng. Giai cấp duy nhất đã đấu tranh thẳng tay chống chế độ hiện nay là giai cấp công nhân ; vì vậy nông dân và công nhân là hai bạn đồng minh tự nhiên. Chỉ với lực lượng của riêng mình, nông dân không bao giờ có thể trút bỏ được gánh nặng đang đè nén họ. Sống tản mác trong các làng mạc, họ có thể nổi dậy và tiến hành đấu tranh, nhưng một mình họ thì không thể chiếm được bộ máy nhà nước và giữ được bộ máy đó. Đời sống xã hội hiện nay phụ thuộc trước hết vào những trung tâm công nghiệp lớn mạnh và vào những đường giao thông. Những kẻ nắm đường sắt, nhà máy, hầm lò, những kẻ thống trị trong các thành thị, luôn luôn có thể đè bẹp nông thôn. Hiện nay, chính giai cấp tư sản là kẻ nắm được tất cả những thứ đó, và chỉ công nhân mới tước được của giai cấp tư sản những phương tiện thống trị mạnh mẽ của nó, mới có thể chỉ đạo sản xuất và tương lai của nhân loại. Trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai cấp nông dân. Những trào lưu cơ hội chủ nghĩa, phỉnh nịnh nông dân, coi công nhân là lực lượng chủ yếu, là động lực duy nhất của cách mạng, là đội ngũ cách mạng nhất, chỉ dẫn tới chủ nghĩa phiêu lưu, chủ nghĩa cực đoan, vô chính phủ và đi tới chỗ phản bội chủ nghĩa Lê-nin mà thôi”. Cả Đại hội đứng dậy vỗ tay hồi lâu hoan nghênh bản tham luận xuất sắc của anh Nguyễn. Giữa một vài tiếng nói lầm lẫn cất lên trong Đại hội, đánh giá rất thấp hoặc cường điệu, đề cao quá đáng vai trò nông dân, ý kiến của anh nổi lên ngắn gọn, đầy lẽ phải và có sức thuyết phục, làm cho các đại biểu và các nhà báo xô-viết có mặt tại Đại hội rất chú ý. Lần đầu trên một diễn đàn quốc tế anh nói rõ quan điểm của anh về sứ mệnh lịch sử, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và vị trí của nông dân trong cách mạng. Anh hiểu biết vấn đề nông dân từ thực tiễnViệt Nam và từ những năm làm công nhân ở các châu Âu, Mỹ, Phi, lăn lộn trong phong trào công nhân và tiếp thụ ánh sáng của Lê-nin. Tầm nhìn sâu rộng, tư duy cách mạng của anh đánh giá đúng vai trò nông dân, chỗ mạnh và chỗ yếu của nó, và ngay từ buổi bình minh ấy của phong trào chung, anh đã báo động thế giới về nguy cơ của những trào lưu cơ hội chủ nghĩa phản Lê-nin. Các nhà điện ảnh xô-viết quay phim anh khi anh kết thúc bài tham luận trở về chỗ ngồi, vừa đi vừa giơ tay chào đáp lại tiếng hoan hô của các đại biểu nông dân khắp năm châu. Đại hội quyết định thành lập Quốc tế nông dân, thông qua Dự thảo điều lệ và khẩu hiệu : “Công nhân và nông dân các nước, hãy đoàn kết lại !”. Trước ngày chuyển ra nhà hát lớn Mát-xcơ-va để làm lễ bế mạc trọng thể, Đại hội bầu những người lãnh đạo Quốc tế nông dân. Các đại biểu nghiên cứu lý lịch và lời giới thiệu những người được cử ra và ứng cử. 122 đại biểu chính thức bỏ phiếu kín bầu Ban Chấp hành và Đoàn Chủ tịch. Với lòng mếnyêu, niềm tin cậy, Đại hội bầu anh Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ có tầm nhìn và lập trường lê-nin-nít vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế nông dân cùng với 10 người nữa : Smiếc-nốp (Nga xô-viết), Đôm-ban (Ba Lan), Bu-éc-ghi (Đức), Va-dây (Pháp), Rít-lơ (Tiệp Khắc), Gơ-rô (Bunga-ri), Đu-ơ-rô (Thụy Điển), Gơ-ri (Mỹ), Gan-van (Mêhi-cô), Xen Ca-ta-i-a-ma (Nhật Bản). Anh Nguyễn là đại biểu thuộc địa duy nhất được chọn vào cơ quan lãnh đạo tối cao của tổ chức Quốc tế nông dân. Cùng với các đồng chí khác trong Đoàn Chủ tịch, để đáp lại những tiếng vỗ tay, tiếng chào mừng, tiếng hoan hô của Đại hội, anh Nguyễn xúc động bước lên lễ đài và cũng là bước lên một vị trí mới trong đời hoạt động cách mạng của mình : vị trí một chiến sĩ cách mạng quốc tế chân chính. Đứng giữa hội trường An-đrê-ép—xki, xen vào tiếng nhạc Quốc tế ca, anh Nguyễn giơ cao nắm tay cùng với Đại hôi hô lớn : “ Các bạn nông dân toàn thế giới ! Các bạn hãy đứng dậy, sát cánh với công nhân để cùng đấu tranh chống lại tư bản thực dân và bọn đại địa chủ phong kiến !” Trong thời gian màn ảnh mờ dần để chuẩn bị chuyển sang một đoạn văn khác, giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan vang lên. -Kính thưa 9 vị bồi thẫm… Đoạn văn trên cho chúng ta thấy rõ một điều. Bị can Hình Chí Mô vào năm 1923 đã trở thành đảng viên đảng cộng sản quốc tế. Trái tim của bị can là trái tim cộng sản, xem chế độ cộng sản của đất nước Liên Xô là ưu việt. Liên Xô là nước mẹ của bị can chứ không phải là Việt Nam nghèo nàn khốn khổ. Là thành viên của Chủ Tịch Đoàn Quốc Tế Nông Dân, bị can đã tự nguyện chiến đấu cho cộng sản, áp đặt lên quê hương mình một chế độ độc tài chuyên chế vô nhân và tàn hại dân tộc mà chúng ta đã thấy hiện nay… Từ bản yêu sách 8 điểm của anh gửi Hội nghị Véc-xay năm 1919 đến bản dịch Lời kêu gọi này của Quốc tế nông dân, anh đã viết rất nhiều, không mệt mỏi, để trực tiếp truyền bá về Đông Dương chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tinh thần yêu nước và tinh thần quốc tế vô sản. Báo Lơ Pa-ria, các bài báo của anh trên báo Nhân Đạo và Tạp chí Cộng sản ở Pháp về tới Việt Nam, được bí mật truyền tay nhau qua các nhà máy, làng quê, các trường Bưởi Hà Nội, Quốc Học Huế, Sa-xơ-lu Lô-ba Sài Gòn, thức tỉnh, cổ vũ và lôi cuốn cả một thế hệ Việt Nam hướng về chân lý cách mạng của thời đại, về con đường cứu nước, cứu dân… Người trực tiếp gieo những hạt giống đầu tiên ấy của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, của sự nghiệp giải phóng dân tộc trên đất Việt Nam chính là anh, không phải ai khác, và càng không phải là một người nước ngoài nào khác. Lời kêu gọi của Quốc tế nông dân, mà anh là một trong những nhà lãnh đạo chủ yếu, phát đi từ Mát-xcơ-va bằng tiếng Việt còn là sự tỏ tình đoàn kết chiến đấu của nhân loại tiến bộ trên thế giới đối với nhân dân Việt Nam. Các nhà báo ở Mát-xcơ-va bắt đầu gọi anh là chiến sĩ quốc tế cộng sản. Một trong số những nhà báo đó đến trụ sở Quốc tế nông dân nông dân yêu cầu được phỏng vấn anh. Đấy là nhà báo và là nhà thơ xô-viết nổi tiếng Ô-xíp Man-đenxtam, phóng viên báo “Ngọn lửa nhỏ”, người đã gặp anh tại Đại hội Quốc tế nông dân và có rất nhiều cảm tình với anh khi nghe anh nói trước Đại hội. – Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cho biết ảnh hưởng của phong trào Găng-đi ở Đông Dương như thế nào ? Manđen-xtam hỏi – Ở nước đồng chí người ta có nói đến chủ nghĩa Găng-đi không ? Anh Nguyễn trả lời bằng tiếng Pháp : – Không ! Người Việt Nam bình thường, người nông dân Việt Nam chìm đắm trong đêm tối dày đặc. Họ không biết những gì xảy ra trên thế giới. Một sự tăm tối hoàn toàn. Rồi bằng một giọng khinh bỉ, anh nói đến cái gọi là “nền văn minh” phương Tây thực hiện ở Việt Nam. Nhưng với con người đã đi khắp thế giới ấy, khi nói đến những anh em, bè bạn, đối với anh tức là những người da đen, da nâu, da vàng bị mất nước, thì giọng anh tha thiết, trìu mến và thương yêu biết chừng nào. Anh Nguyễn kể tiếp : -Năm 13 tuổi, tôi lần đầu được nghe những từ Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”… Và tôi muốn học hỏi ít điều ở nền văn minh Pháp để khám phá những gì ẩn nấp sau những từ đó. Nhưng trong các trường bản xứ, người Pháp chỉ đào tạo những con vẹt. Họ giấu sách báo không cho chúng tôi xem. Không chỉ cấm đọc những tác giả cận đại mà cả Rút-xô và Mông-tét-ski-ơ nữa… Nhân dân chúng tôi bị áp bức và bóc lột một cách tàn bạo, bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Chúng tôi đã bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện. Ở Việt Nam, nhà tù nhiều hơn trường học. Người bản xứ nào có tư tưởng cách mạng đều bị bắt và có khi bị giết mà không cần xét xử. Chúng tôi không có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do lập hội. Chúng tôi không có quyền sống hoặc đi du lịch ở nước ngoài. Chúng tôi sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập… Trong tạp chí “Ngọn lửa nhỏ” tháng chạp năm 1923,Ô. Man-đen-xtam tả lại cuộc gặp gỡ nói trên trong bài phóng sự chiếm cả một trang báo nhan đề “Gặp mộtchiến sĩ quốc tế cộng sản : Nguyễn Ái Quốc” kèm theo tấm ảnh anh Nguyễn…
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_8.jpg?w=448&h=308 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_8.jpg)
Nguyễn Ái Quốc với các chiến sĩ cộng sản quốc tế Trương Thái Lôi (Trung Quốc) và Kataiama (Nhật Bản) trong thời gian hoạt động ở Mátxcơva.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_9.jpg?w=450&h=268 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_9.jpg)
Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (7/1924) tại Mátxcơva. Cái chết của Lê Nin năm 1924 là một sự kiện quan trọng trong quãng thời gian Nguyễn Ái Quốc sống ở Liên Xô. Đây là cảm tưởng của Nguyễn Ái Quốc khi nghe Lê Nin chết: ” Sáng ngày 22-2-1924, theo lệ thường, anh Nguyễn xuống tầng một của khách san Luých, nơi có phòng ăn tập thể, để ăn sáng. Bỗng loa truyền thanh báo tin : Lênin đã từ trần ! Tiếp theo là bản nhạc tang. Anh Nguyễn sững sờ, lòng đau như thắt lại. Anh muốn kêu lên : Không thể như thế được ! Điều đó không có thực ! Nhưng rồi mọi người trong phòng ăn, từ đồng chí phục vụ đến đồng chí lãnh đạo phong trào công sản quốc tế, tất cả đều khóc nức nở. Anh Nguyễn nhìn qua cửa kính thấy trên nóc nhà “Mốt-xô-viết” một lá cờ tang để rủ. Nỗi đau buồn ập lấy người anh : Thế là anh không được gặp Lê-nin nữa ! Đấy là một điều ân hận lớn trong đời anh… Bằng lời văn trong sáng, giản dị, sự nhận xét cô đọng sâu sắc, tình cảm chân thành và nồng cháy, anh Nguyễn viết: :
“Lê-nin đã mất ! Tin này đến với mọi người như sét đánh ngang tai, truyền đi khắp các bình nguyên phì nhiêuở châu Phi và các cánh đồng xanh tươi ở châu Á. Đúng, những người da đen và da vàng chưa có thể biết rõ Lê nin là ai, nước Nga ở đâu. Bọn đế quốc thực dân cố ý bưng bít không cho họ biết. Sự ngu dốt là một trong những chỗ dựa chủ yếu của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng tất cả họ, từ những người nông dân Việt Nam, đến người dân săn bắn trong các rừng Đa-hô-mây, đã thầm nghe nói rằng ở một góc trời xa xăm có một dân tộc đã đánh đuổi được bọn chủ bóc lột họ và hiện đang tự quản lý lấy đất nước mà không cần đến bọn chủ và bọn toàn quyền. Họ cũng đã nghe nói rằng nước đó là nước Nga, rằng có những người dũng cảm, mà người dũng cảm nhất là Lê-nin. Chỉ như thế cũng đủ làm cho họ ngưỡng mộ sâu sắc và đầy nhiệt tình đối với nước đó và lãnh tụ của nước đó. Nhưng không phải chỉ có thế. Họ còn được biết rằng người lãnh tụ vĩ đại này sau khi giải phóng nhân dân nước mình, còn muốn giải phóng các dân tộc khác nữa. Người đã kêu gọi các dân tộc da trắng giúp đỡ các dân tộc da vàng và da đen thoát khỏi ách áp bức của bọn rumi, của tất cả bọn ru-mi, toàn quyền, công sứ, v. v… và để thực hiện mục đích ấy, Người đã vạch ra một cương lĩnh cụ thể. Lúc đầu họ tưởng trên đời không thể có một người như thế và cương lĩnh như thế được. Nhưng về sau họ được biết tin, tuy lờ mờ, về Đảng Cộng sản, về tổ chức gọi là Quốc tế cộng sản đang đấu tranh vì những người bị bóc lột, và tất cả những người bị bóc lột, trong đó có cả họ nữa, họ biết rằng chính Lê-nin là người lãnh đạo tổ chức này. Và chỉ như thế cũng đã để cho những người đó, tuy văn hóa kém cỏi nhưng là những người có thiện chí và biết ơn, hết lòng tôn kính Lê-nin. Họ coi Lê-nin là người giải phóng cho họ. Lê-nin đã mất rồi thì chúng ta biết làm thế nào ? Liệu có những người dũng cảm và rộng lượng như Lê-nin để không quản thời gian và sức lực chăm lo đến sự nghiệp giải phóng của chúng ta không ? Đó là những điều mà quần chúng nhân dân bị áp bức ở các thuộc địa băn khoăn tự hỏi. Còn chúng tôi, chúng tôi vô cùng đau đớn trước sự tổn thương không thể nào đến bù được và chia sẻ nổi buồn chung của nhân dân các nước với những người anh, người chị của chúng tôi. Song chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có chi bộ của các nước thuộc địa, sẽ thực hiện được những bài học và những lời giáo huấn mà vị lãnh tụ đã để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người đã căn dặn chúng ta, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu mến của chúng ta đối với Người hay sao ? Khi còn sống, Người là người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn của chúng ta. Ngày nay, Người là ngôi sao sáng chỉ đường cho chúng ta đi tới cuộc cách mạng xã hội. Lê-nin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Kính thưa quí vị. Tôi không biết khi hai đấng sinh thành qua đời, bị can Hình Chí Mô có sững sờ, lòng đau như cắt hoặc như sét đánh ngang tai như khi bị can nghe tin Lê Nin chết. Chắc là không, bởi vì trong trái tim cộng sản của Nguyễn Ái Quốc-Hình Chí Mô không có tình tự dân tộc, cha mẹ, anh chị em gì hết. Bị can chỉ biết có Quốc Tế 3…

giavui
07-11-2014, 09:09 PM
25 -
Đạo Đức Cách Mạng thứ nhì của Bác:
DỐI VÀ GẠT -Ngày 11 tháng 11 năm 1924, bị can Hình Chí Mô, đặt chân tới Quảng Châu với bí danh mới Lý Thụy và một nhiệm vụ mới: thiết lập Đảng Cộng Sản Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo của đệ tam quốc tế cộng sản… Bỏ dở câu nói của mình, Thôi Phán Quan chỉ tay vào màn ảnh. Mọi người im lặng đọc từng dòng chữ hiện ra. -Đường phố Quảng Châu còn ngùn ngụt khí thế cách mạng. Anh Nguyễn đến ở và làm việc tại cơ quan đồng chí Bô-rô-đin, cố vấn của ông Tôn Dật Tiên, đặt tại khu Đông Sơn. Đây là một khu nhà nhỏ dành riêng cho các chuyên gia Liên Xô cùng gia đình, những người theo tiếng gọi của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản, xa Tổ quốc thân yêu, đến một vùng thời tiết khắc nhiệt và tình chính trị chưa ổn định để giúp đỡ cách mạng Trung Quốc. Tại đây, anh Nguyễn gặp cả tướng Bliu-khe, mang tên ở Trung Quốc là Ga-lin, cố vấn quân sự cao cấp của ông Tôn Dật Tiên. Người tầm thước, vai rộng, tóc hung hung cắt ngắn như mọi chiến sĩ Hồng Quân, đồng chí Bliu-khe từng là Tổng tư lệnh, Bộ trưởng Quốc phòng, Chủ tịch Hội đồng quân sự nước Cộng hòa Viễn đông thuộc Liên Xô. Đồng chí có nhiều công lao góp phần xây dựng quân đội cho cách mạng Trung Quốc, tổ chức những cuộc hành quân chống bọn phản động và nhất là đã chỉ huy giành thắng lợi trong cuộc bắc phạt lần thứ nhất. Anh Nguyễn ở và làm việc trong một ngôi nhà hai tầng. Anh ở tầng một, đồng chí Bô-rô-đin ở tầng hai. Cương vị của anh trong tổ chức Quốc tế cộng sản và nhiệm vụ công tác của anh ở Quảng Châu chỉ có Bô-rôđin và vợ là đồng chí Pha-nhi-a Xê-mê-nô-vô-na Bô-rôđi-a biết. Về công khai, anh là cố vấn riêng và người phiên dịch của đồng chí Bô-rô-đin, đồng thời là phóng viên của hãng Rô-xta. Trong cơ quan của Bô-rô-đin mà người ta còn gọi là Phủ Đại nguyên soái Liên Xô hoặc lãnh sự quán Liên Xô, làm việc giữa tập thể các đồng chí chuyên gia xô-viết, anh Nguyễn mang thêm một tên Nga :Ni-lốp-xki. Nhưng các bạn quen gọi anh là đồng chí Lý… Kính thưa quí vị… Quảng Châu vào năm 1924, là cái nôi của các phần tử quốc gia lưu vong chống Pháp trên đất Tàu. Đây cũng là địa bàn hoạt động của Việt Nam Quang Phục Hội và Tâm Tâm Xã do cụ Phan Bội Châu lập ra. Vì thế hội này trở thành mục tiêu của Lý Thụy trong công tác biến nó thành ra cái nhân của Đảng Cộng Sản Đông Dương với cái tên mới: Việt Nam Cách Mệnh Đồng Chí Hội. Anh Nguyễn đến chỗ ở của nhóm “Tâm tâm xã” và tự giới thiệu tên là Vương, thăm hỏi các nhà yêu nước, đồng chí của Phạm Hồng Thái, và bàn chuyện quê hương, đất nước. Đấy là những thanh niên sôi nổi, hăng hái cách mạng, nhiều người là đồng hương Nghệ An với anh và từ Xiêm tới: Anh Hồ Tùng Mậu, 28 tuổi, người huyện Quỳnh Lưu, Lê Hồng Sơn, 28 tuổi, người huyện Nam Đàn, Lê Hồng Phong, 22 tuổi, người huyện Hưng Nguyên, cùng những thanh niên khác : Nguyễn Giản Thanh, Đặng Xuân Hồng, Lâm Đức Thụ tức Trương béo… Tất cả những biến động chính trị, những phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng nhân dân ở Quảng Châu tác động rất mạnh đến các đồng chí Việt Nam ở Quảng Châu. Được sự hướng dẫn và giáo dục của anh Nguyễn, họ đã bắt đầu nhìn thời cuộc Trung Quốc, thế giới và Tổ quốc mình bằng đôi mắt mới, quan điểm và tình cảm mới, vừa khoa học vừa cách mạng . Những người thanh niên yêu nước ấy tiếp thu được từ anh Nguyễn ánh sáng rực rỡ của một chủ nghĩa mới, một chủ nghĩa có sức thuyết phục và lôi cuốn, đem lại thế giới quan vàhân sinh quan cách mạng cao quý của giai cấp công nhân, khác xa chủ nghĩa của ông Phan Bội Châu cũng như của ông Tôn Dật Tiên, và cũng khác xa cái mẫu quân chủ Nhật Bản mà có thời “Việt Nam quang phục hội” ngưỡng mộ hết lòng. Họ cảm thấy náo nức như mở hội trong đời, và trong buổi bình minh của sự giác ngộ lớn lao có tính bước ngoặt, họ thấy dâng lên niềm hạnh phúc tìm thấy đường lối cách mạng mới và người lãnh đạo xuất sắc. Anh Nguyễn tuyên truyền, giải thích cho từng người về mục đích, nhiệm vụ cách mạng và kết nạp từng người vào nhóm nồng cốt cách mạng, với điều lệ hoạt động do chính anh thảo. Lễ kết nạp nhóm đơn giản nhưng rất trang trọng. Anh Nguyễn đọc chương trình, điều lệ của nhóm, người giới thiệu phát biểu ý kiến về người được kết nạp. Rồi người được vào nhóm nòng cốt đọc lời thề tuân theo chương trình, điều lệ, nguyện chiến đấu suốt đời cho lý tưởng cách mạng. Một trong những người được kết nạp cuối cùng là Vương Thúc Oách, con rể ông Phan Bội Châu. Anh mới ở trong nước ra, đến gặp anh Nguyễn và kể những việc mình đã làm khi ở Việt Nam. Thuộc nhóm “Tâm tâm xã”, Vương Thúc Oách được cử về nước đem thư của Cường để gửi cho Thân Trọng Huê, Thượng thư Bộ lại triều đình Huế và thư gửi vua Khải Định, cùng với thư của ông Phan Bội Châu gửi các thân sĩ yêu nước. Sau đó, Vương Thúc Oách sang Xiêm, ở chỗ ông Đặng Thúc Hứa, một kiều bào yêu nước. Hai ngày sau anh gặp anh Hồ Tùng Mậu, từ Quảng Châu về nước và từ nước sang Xiêm để trở lại Quảng Châu. Gặp anh, Hồ Tùng Mậu nói : -Mọi công việc chúng ta làm từ trước đến nay hỏng hết cả. Công việc phải đình lại thôi… Có đường lối mới rồi ! Và Hồ Tùng Mậu nói với Vương Thúc Oách về đường lối của anh Nguyễn… Anh Nguyễn chăm chú hỏi và nghe Vương Thúc Oách kể tình hình mọi mặt ở Đông Dương, tình hình kiều bào ở Xiêm, các cơ sở quen biết ở Việt Nam và ở Xiêm. Trong một phố nhỏ và nghèo khổ của Quảng Châu, một ngày tháng hai năm 1925, chín người thanh niên, đầu tiên của nhóm nòng cốt, bầu bí thư của nhóm và cũng là người lãnh đạo của họ: Đồng chí Lý Thụy (tức anh Nguyễn). Chín người đó là : Lý Thụy, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ, Vương Thúc Oánh, Trương Văn Lễnh, Lưu Quốc Long.
Đấy là cái mầm non của tổ chức cộng sản mà anh Nguyễn ôm ấp kế hoạch xây dựng từ lâu và trào lưu của thời đại đang đòi hỏi. Một bức điện tối mật của toàn quyền Đông Dương Méc-lanh đầu năm 1925 gửi về Bộ Thuộc địa Pháp báo: xuất hiện ở Quảng Châu một người cách mạng Việt Nam tên là Lý Thụy hoạt động rất tích cực trong số những người Việt Nam tại đây và dùng những biện pháp tuyên truyền có xu hướng cộng sản chủ nghĩa. Đối với anh Nguyễn, công việc hàng đầu lúc này là chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Một công việc to lớn, phức tạp, khó khăn, đòi hỏi sự trung thành với chủ nghĩa Mác – Lê-nin, sự thống minh, đầu óc khoa học, tính kiên nhẫn, tác phong cụ thể, tỉ mỉ. Anh đã mất nhiều công sức để theo dõi và nghiên cứu tình hình Đông Dương, gây dựng những cơ sở đầu tiên, và điều cực kỳ quan trọng là hình thành một tổ chức thích hợp để mở đầu và rèn luyện, diễn tập theo con đường Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tạo ra cái nền móng để xây nên tòa lâu đài vĩ đại là Đảng Cộng sản. Anh chăm lo đến từng người nòng cốt trung kiên để đi tới tổ chức mà anh đã phác thảo, vì anh thấy rõ muốn có tổ chức phải đào tạo được những con người đáp ứng yêu cầu của tổ chức đó. Trong ngôi nhà hai tầng ở khu Đông Sơn, Quảng Châu, anh đã nghĩ rất lung đến việc tạo ra một đội ngũ cán bộ Việt Nam đầu tiên, có lập trường và quan điểm của giai cấp công nhân, cùng anh đưa cách mạng Việt Nam đi vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Anh đã liên hệ nhiều lần với trường Đại học Phương Đông ở Mát-xcơ-va và trường Quân sự Hoàng Phố để tìm hiểu khả năng tiếp nhận đào tạo giúp những cán bộ Việt Nam… Nhưng cuối cùng anh thấy tốt nhất là phải trực tiếp truyền bá những hiểu biết, kinh nghiệm và đạo lý cách mạng mới cho những đồng bào yêu nước mà anh đã chọn lựa. Ngày 19-2-1925, anh viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế cộng sản : “Các đồng chí thân mến, Tình hình Đông Dương tôi đã tả trong báo cáo đầu tiên của tôi. Tôi chỉ báo để các đồng chí biết ba việc sau đây: Đảng Lập hiến, mà tôi đã nói đến trong báo cáo cuối cùng của tôi, vừa được tăng cường bằng việc gia nhập của một nhà cách mạng Việt Nam lão thành, một nhà nho, bị kết án tử hình, được ân xá, trục xuất sang Pháp và cuối cùng vào quốc tịch Pháp nhờ ơn Chính phủ He-ri-ô. Cương lĩnh do Đảng này công bố là Pháp – Việt hợp tác và giới thượng lưu Việt Nam được vào quốc tịch Pháp. Những người bảo thủ và những người dân chủ Pháp ở Đông Dương tranh giành lẫn nhau như những người cầm đầu của họ làm ở Pháp. Mới đây có những truyền đơn chống đế quốc rải ở Nam Kỳ (Tôi cho rằng – qua những lời trích – những truyền đơn đó là của Ban thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp). Bọn bảo thủ kêu lên : Bọn bôn-sê-vích ! Những người dân chủ trả lời ngay : chính các anh dựng lên chuyện này để dọa chúng tôi. Chính phủ Xiêm vừa trao cho Chính phủ Pháp một nhà cách mạng Việt Nam lão thành từ Trung Quốc đến. Chính phủ Xiêm thường yêu cầu trục xuất những người cách mạng Việt Nam lánh nạn ở Xiêm. Nhà cách mạng vừa bị trục xuất đã bị chém đầu, không có xử án, 24 giờ sau khi về tới Sài Gòn.
Công việc đã làm: Chúng tôi đã lập được một nhóm bí mật 9 người, 2 người đã được phái về nước, 3 người ra mặt trận (trong quân đội của ông Tôn Dật Tiên), một đi công tác quân sự (cho Quốc dân Đảng). Trong số những người đó, có 5 đảng viên dự bị Đoàn Thanh niên Cộng sản”…
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_10.jpg?w=640&h=480 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_10.jpg) Lớp huấn luyện kết thúc, anh chọn các học sinh xuất sắc Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu làm giảng viên phụ cho anh trong khóa học sau, và cử Hoàng Lùn, Lê Huy Điểm về trong nước chọn những thanh niên nhiệt tình yêu nước sang học chính trị ở Quảng Châu. Rồi anh phái Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Nhật Tân về tận biên giới Việt Trung đón anh em thanh niên từ trong nước ra. Khóa ấy lúc lên đường gốm mười người, tới được Quảng Châu tám người, trong số đó có thầy giáo Trần Phú, từ nay lấy bí danh là Quý, họ Lý. Những người học trò đầu tiên của anh Nguyễn được trang bị một tư tưởng hoàn toàn mới và trở thanh hạt nhân của phong trào cách mạng mới, của một tổ chức cách mạng mới do anh lập ra một ngày tháng 6 năm 1925. Đấy là “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”, tổ chức cách mạng đầu tiên của Việt Nam đi theo đường lối chủ nghĩa Mác – Lê-nin, với tôn chỉ và mục đích: trước làm cách mạng giải phóng dân tộc, sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ở Quảng Châu, anh Nguyễn và những người yêu nước Việt Nam sắp tổ chức giỗ đầu liệt sĩ Phạm Hồng Thái, thì được tin cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt khi cụ trên đường từ Hàng Châu đi Quảng Châu, tại ga xe lửa Bắc Thượng Hải. Bốn tên mật thám Pháp giả lái xe tắc-xi bắt cóc cụ đưa về tô giới Pháp, rồi đưa xuống tàu Pháp chờ ở bến Ngô Tùng, giải về Hải Phòng. Rồi tiếp đến vụ bọn phản động ở Quảng Châu đâm chết ông Liêu Trọng Khải, người cùng anh sáng lập HộiLiên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tình hình Quảng Châu đang biến động lớn. Thấy phong trào cách mạng của nhân dân lên mạnh, các thế lực đế quốc và bọn phản động Trung Quốc điên cuồng phản kích. Bọn đế quốc Anh, Mỹ bắn phá Nam Kinh, Thượng Hải. Sau ba lần khởi nghĩa thất bại, công nhân Thượng Hải bị dìm trong biển máu. Tưởng Giới Thạch trở mặt hoàn toàn. Hắn tiến công cách mạng, giết một loạt những người yêu nước, cướp quyền lãnh đạo Quốc dân Đảng, giải tán các công hội, nông hội và gây ra những vụ thảm sát lớn. Ngày 12-4-1927 bè lũ Tưởng làm đảo chính phản cách mạng ở Thượng Hải. Hôm sau ở Quảng Châu, Đảng Cộng sản Trung Quốc, các đoàn thể quần chúng, và cả “Việt Nam thanh niên các mạng đồng chí hội” phải rút vào bí mật. Cơ quan của đồng chí Bô-rô-đin và các chuyên gia Liên Xô rút về Vũ Hán nơi những người cánh tả Quốc dân Đảng còn nắm quyền. Anh Nguyễn tránh về vùng nông thôn Hải Lục Phong để duy trì công việc của Hội. Một đêm khuya, đồng chí Trương Văn Lễnh, chạy đến anh báo tin : “Bọn Tưởng Giới Thạch đang lùng bắt anh đấy. Anh em ở Tổng bộ đề nghị anh cần nhanh chóng rời khỏi Quảng Châu, anh em thu xếp đi sau”. Bọn lính quân phiệt của Tưởng xông vào nơi ở của anh Nguyễn. Lúc này anh đã ngồi ở Hương Cảng. Cảnh sát, mật thám Anh ở Hương Cảng xét hỏi anh và bắt anh rời Hương Cảng trong vòng 24 giờ. Anh chạy đến Thượng Hải, giữa lúc bọn Tưởng Giới Thạch đang khủng bố gắt gao. Anh mặc thật sang trọng, vào ở một khách sạn lớn, chúng không để ý. Nhưng không thể kéo dài được vì quá tốn tiền, anh thấy chỉ còn một cách – và cách này anh em Tổng bộ đã nói với anh khi tiếng súng đảo chính của Tưởng Giới Thạch nổ ở Quảng Châu – là anh phải đi Liên Xô ngay. Anh rời Trung Quốc, nơi anh đã nhìn thấy một sự phản bội tệ hại nhưng lại là nơi anh đã gây dựng thành công một tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam đầy hứa hẹn… Màn ảnh tắt cung với tiếng nói của Thôi Phán Quan vang vang trong căn phòng xử im lặng.

giavui
07-11-2014, 09:10 PM
-Những gì trong đoạn văn trích dẫn ở trên đưa chúng ta tới một kết luận. Bị can Hình Chí Mô, bí danh Nguyễn Ái Quốc, Lý Thụy hay bất cứ tên giả mạo nào, cũng là đảng viên trung kiên của cộng sản đệ tam quốc tế và sáng lập viên đảng cộng sản Việt Nam. Bị can được phái tới Quảng Châu tìm cách xâm nhập và biến các đảng phái quốc gia chống Pháp thành cộng sản dưới quyền chỉ đạo của bị can. Hắn đã đạt được kết quả mỹ mãn nhờ vào sự hiểu biết và những thủ đoạn gian manh của một nhân viên tình báo được đào tạo qua các khóa huấn luyện đặc biệt của các cơ quan tình báo Liên Xô. Dấu kín tung tích của một đảng viên cộng sản quốc tế, Hình Chí Mô xuất hiện ở Quảng Châu như một phần tử quốc gia yêu nước thương dân, tranh đấu cho độc lập và tự do của dân tộc. Bằng cái vỏ bọc cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp, bị can móc nối, tuyên truyền, dụ dỗ các thanh niên trẻ đầy nhiệt huyết trong cũng như ngoài nước thành đảng viên của Việt Nam Thanh Niên Cách Mệnh Đồng Chí Hội, tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong suốt thời gian hoạt động ở Quảng Châu từ tháng 11 năm 1924 cho tới tháng 12 năm 1927, không một ai biết Lý Thụy là đảng viên cộng sản. Nếu có ai biết thì người đó sẽ bị bị can thủ tiêu bằng cách bán cho mật thám Pháp. Dịch vụ buôn người quốc gia và bán đồng chí hái ra tiền đủ để cho bị can bành trướng ảnh hưởng của đảng. Không một ai biết Lâm Đức Thụ và Lý Thụy đã bán bao nhiêu thanh niên yêu nước của các đảng phái quốc gia như Quang Phục Hội, Quốc Dân Đảng và vô số phần tử quốc gia không theo đảng phái nào…
Ngừng lại, hớp ngụm nước cho thấm giọng xong Thôi Phán Quan thong thả tiếp. -Điều mà tôi muốn nhấn mạnh ở đây là bản chất lừa bịp, dối gian và xảo trá của Hình Chí Mô. Bị can lợi dụng lòng tốt, sự tín nhiệm và tình thương yêu tổ quốc của các đồng chí để trục lợi cho bản thân và mẫu quốc cũng như người cha già Lê Nin của bị can. ” Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam ”. Câu này là một bằng chứng hiển nhiên. Tổ tiên, ông bà, cha mẹ, đất nước Việt Nam của bị can đã bị hủy hoại để nhường chỗ cho mẫu quốc Liên Xô, cha già Lê Nin, Xít Ta Lin và đồng bào Nga xô. Ở trong người của bị can là một trái tim cộng sản, máu Liên Xô và nhung nhúc những con ” vi trùng mác-lê ”, biến bị can thành một quỉ vương tàn bạo vô nhân tính. Hỡi đồng bào cả nước, Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được… Kính thưa quí vị… Trên đây là những lời nói đầu tiên trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà bị can Hình Chí Mô đã đọc ngày 2 tháng 9 năm 1945 tại Quảng Trường Ba Đình trước sự chứng kiến của hàng trăm ngàn người dân trong nước. Hồ Chí Minh xuất hiện như vị anh hùng yêu nước thương dân. Than ôi… Người ta đã lầm… Độc lập đâu không thấy mà chỉ thấy độc tài, độc đảng. Tự do thì có nhưng lại là đặc quyền của đảng. Đó là tự do giết người, tự do bắt bớ và giam cầm người dân, tự do bán nước và tự do tham nhũng. Độc lập, tự do, dân chủ chỉ là cái bánh vẻ của một đại ma đầu chính trị treo lơ lửng trước mặt mà mọi người không bao giờ được nếm để biết mùi vị. Nó chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền dùng để kích động lòng yêu nước của dân chúng, để cho người ta chết cho bác và đảng. 57 năm đã trôi qua, người dân Việt vẫn sống, gồng mình sống trong chế độ công an trị. Đấu tố, cải cách ruộng đất, cải tạo tư tưởng, thủ tiêu, bắt bớ, giam cầm, lưu đày biệt xứ, nghèo khổ và lầm than vẫn tiếp diễn cho tới ngày hôm nay. Bị can Hình Chí Mô đã dối gạt, lừa bịp dân chúng Việt Nam từ lâu lắm rồi… Thôi Phán Quan ngừng nói. Hướng về chỗ bồi thẫm đoàn ông ta hắng giọng. -Sau đây tôi xin trình bày thêm về những hành động ” cách mạng bịp ” của bị can Hình Chí Mô để cho 9 vị bồi thẫm và mọi người được tận tường về con người ngoài mặt thì nói quốc gia mà lại có trái tim cộng sản… Anh Nguyễn đến Hương Cảng với hộ chiếu mang tên Tống Văn Sơ. Thành phố sắp đón xuân mới. Trên các hè đường, người ta bán hoa đào, mẫu đơn, thủy tiên, cá vàng. Người đi sắm Tết nườm nượp. Anh Nguyễn gặp lại anh Hồ Tùng Mậu, cùng nhau bàn việc chuẩn bị chỗ họp và đón các đại biểu từ trong nước ra. Riêng anh Nguyễn còn bận nghiên cứu, dự thảo những văn kiện cho Hội nghị sắp tới, viết báo cáo về tình hình Đông Dương cho Quốc tế cộng sản trên cơ sở những tin tức anh nắm được ở Thượng Hải và Hương Cảng. Một học sinh Việt Nam ở trường Đại học Phương Đông, Mát-xcơ-va, đã trở về nước. Sắp tới có các học sinh từ trong nước ra Hương Cảng để đi học ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn sẽ phải lo thu xếp cho họ đi. Một đồng chí phụ trách của tổ chức cách mạng Mã Lai vừa từ Xin-ga-po và một đồng chí cộng sản Nam Dương từ đảo Gia-va tới gặp anh Nguyễn để hỏi một số ý kiến. Anh đã gửi về Quốc tế cộng sản một báo cáo về tình hình Mã Lai. Đến Hương Cảng trước tất cả là đoàn đại biểu An Nam Cộng sản Đảng gồm hai đồng chí Châu Văn Liên và Nguyễn Thiệu đáp tàu từ Sài Gòn. Tiếp đến là đoàn đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng gồm hai đồng chì Nguyễn Đức Cảnh và Trịnh Đinh Cửu đáp tàu Liêm Châu từ bến Hải Phòng. Họ phải ngồi bó gối dưới gầm giường một người của tổ chức làm điện báo viên dưới tàu. Hai đoàn đều được người liên lạc của anh Nguyễn đón riêng rẽ, đi tàu điện hai tầng về nhà nghỉ. Riêng Đông Dương Cộng sản Liên đoàn do thành lập chậm không kịp gửi đại biểu đến. Người liên lạc của anh Nguyễn đến nhà nghỉ đón các đại biểu đi phà mười phút qua eo biển sang Cửu Long. Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác. Anh Nguyễn bố trí cuộc họp hợp nhất ở xa trung tâm Hương Cảng, cách hẳn một eo biển, để giữ bí mật đối với Thụ. Các đại biểu đi lại về đêm, không ra phố Hương Cảng ban ngày, e gặp Thụ. Cửu Long là một bán đảo đông dân, phần lớn là người lao động. Các đại biểu được dẫn đến một xóm thợ nghèo nàn, chập hẹp, bẩn thỉu, vào ngôi nhà một tầng nhỏ bé, bàn ghế đơn sơ, là gia đình công nhân. Anh Nguyễn gặp nhân dân, chúc mừng năm mới bằng tiếng Quảng Đông : “Cống hỉ ! Cống hỉ !”. Cuộc họp tiến hành trang nghiêm, vì người dự ai cũng nhận thức được tầm quan trọng lớn lao của nó. Đồng chíVương, tức Nguyễn Ái Quốc ngồi giữa, nhân danh Quốc tế Cộng sản tuyên bố lý do Hội nghị. Chỉ có uy tín, cương vị, đạo đức, năng lực, kinh nghiệm và óc tổ chức của anh mới tạo ra được cuộc Hội nghị này, mới làm cho những ý kiến khác nhau cùng ngồi lại được để tìm chân lý và tiếng nói chung, mới chỉ được hướng đi tới cho phong trào. Ngồi bên phải anh là anh Nghĩa (tức Nguyễn Thiệu), và anh Việt (tức Châu Văn Liêm), đại biểu An Nam Cộng sản Đảng. Bên trái là anh Chí (tức Trịnh Đình Cửu), anh Trọng (tức Nguyễn Đức Cảnh), đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng. Ngoài ra còn có anh Lương (tức Hồ Tùng Mậu) và anh Đỗ (tức Lê Văn Phan) là những người chuyên lo bố trí nhà ở, nơi họp, việc đi lại, thỉnh thoảng dự một vài buổi họp để góp báo cáo về tình hình. Anh Nguyễn đề nghị từng đoàn đại biểu phát biểu ý kiến về vấn đề hợp nhất. Các đại biểu trình bày sôi nổi những quan điểm, ý nghĩ và dự định của mình. Sau những buổi lắng nghe các ý kiến, anh Nguyễn kết luận: “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”. Tất cả mọi người giơ tay biểu quyết đồng ý. Những lời phân tích, giải thích, chỉ dẫn của anh Nguyễn trước và trong Hội nghị đã làm tan biến những thành kiến, hoài nghi, thắc mắc, lo âu trong các đại biểu. Ai cũng thấy rõ sự bức thiết phải lập một Đảng Cộng sản thống nhất. Khi thảo luận chọn tên Đảng, có ý kiến đền ghị lấy tên An-nam Cộng sản Đảng, có ý kiến nên gọi là Đông Dương Cộng sản Đảng. Anh Nguyễn nói:
– Không nên lấy tên An-nam mà cũng không lấy tên Đông Dương. Chúng ta nên đặt tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Tất cả mọi người nhất trí tán thành ý kiến của anh Nguyễn, mừng rỡ chào đón Đảng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam đã ra đời để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mác-xít lê-nin-nít chân chính, chấm dứt tình trạng khủng hoảng, rời rạc, thiểu phương hướng rõ trong phong trào chống đế quốc thực dân và phong kiến ở Việt Nam.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_11.jpg?w=640&h=480 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_11.jpg)
Lễ thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (Tháng 2 năm 1930) Duyệt xét đoạn văn trên chúng ta thấy rõ ràng chỗ nào cũng cộng sản, ở đâu cũng cộng sản. Nào là An Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn. Đây là lời phát biểu của anh Nguyễn tức Nguyễn Ái Quốc trong Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà. “Thế là chúng ta đều là những người cách mạng giống nhau cả thôi. Ở Liên Xô, Anh, Mỹ, Pháp, cả đến các nước thuộc địa như Ấn Độ, Nam Dương, mỗi nước chỉ có một Đảng Cộng sản. Vì vậy nước Việt Nam không thể có ba Đảng Cộng sản. Chúng ta phải đoàn giai cấp, đoàn kết toàn dân, đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Để đạt mục đích ấy phải thống nhất tổ chức. Nhân danh Quốc tế cộng sản tôi đề nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản chân chính, thống nhất, các đồng chí có đồng ý không ?”. Thế là Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời đúng như ý nguyện của bị can. Đấy là vào ngày 3-2-1930, một trong những ngày sung sướng nhất trong đời anh Nguyễn. Đấy là lúc khắp nơi vang tiếng pháo nổ, đón một mùa xuân mới: Xuân Canh Ngọ, chào mừng sự xuất hiện một Đảng kiểu mới, mácxít lê-nin-nít chân chính. Ít có người Việt Nam biết ngày 3-2-1930 là ngày Chúa Quỉ Hình Chí Mô lộ mặt. Với sự trợ giúp của các con quỉ nhỏ trong đảng cộng sản Việt Nam, bị can đủ quyền phép để lèo lái cuộc cách mạng chống Pháp đem độc lập và tự do của dân Việt thành cuộc thánh chiến cho một ” Đảng kiểu mới, mác-xít lê-ninnít chân chính ”. Anh viết thư cho các đồng chí đại diện Đảng Pháp ở Quốc tế cộng sản: Các đồng chí thân mến, 1- Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. về vấn đề tổ chức, tôi đã gửi báo cáo cho Bộ Phương Đông. Do đó, tôi thấy không cần nhắc lại ở đây, các đồng chí sẽ xem báo cáo đó ở Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản. 2- Tôi có mấy yêu cầu và câu hỏi sau đây với các đồng chí. Cần giáo dục các đồng chí Việt Nam chúng tôi, vì trình độ tư tưởng, lý luận và kinh nghiệm chính trị của các đồng chí đó còn rất thấp. Tôi yêu cầu các đồng chí : (a) cho chúng tôi một tủ sách (các tác phẩm của Mác và Lê-nin, và các sách khác cần cho việc giáo dục cộng sản chủ nghĩa) ; (b): gửi cho chúng tôi báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín Quốc tế và cả Điều lệ, Cương lĩnh của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản. 3- Cách gửi : sách thì đóng vào những gói nhỏ, báo và tài liệu thì cho vào phong bì, giấu vào trong các đầu đề : Điều lệ và Chương lĩnh. 4- Cho tôi vài địa chỉ chắc chắn ở Pa-ri để chúng tôi có thể viết thư cho các đồng chí. Cho chúng tôi biết tên những con tàu chạy đường Pháp – Viễn Đông trên đó các đồng chí Pháp làm việc và cho chúng tôi biết tên các đồng chí đó để chúng tôi có thể bắt liên lạc với họ (chúng tôi ở đây buộc phải thay đổi chỗ ở luôn cho nên không thể cho biết địa chỉ được). 5- Chúng tôi sẽ làm thế nào để sự hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp thực sự có hiệu quả. 6- Tôi được biết có những đồng chí Việt Nam ở Pa-ri lợi dụng danh nghĩa đảng viên để nhận (nói đúng hơn là bòn rút) tiền của các công nhân Việt Nam. Tôi đề nghị các đồng chí kiểm soát họ để tránh gây ấn tượng xấu trong công nhân. (B) (nguyên văn có chữ (B) chưa rõ nghĩa) Hoàng là một người tốt nhưng không biết gì về chính trị. Anh đã gửi những người phản cách mạng đến trường Đại học các dân tộc Phương Đông (những người nhiệt tình theo phái Nguyễn Thế Truyền) và đã cử những người đại biểu (đến đại hội lần thứ sáu) đánh lẫn nhau và gây những chuyện tai tiếng. Tôi đề nghị từ nay Trường không nhận các đại biểu hoặc học sinh Việt Nam nào không có sự giới thiệu của Đảng Cộng sản Việt Nam. 7- Coi như bước đầu của sự hợp tác, tôi đề nghị Đảng Cộng sản Pháp công bố một bức thư góp ý kiến với Đảng Cộng sản Việt Nam và ra lời kêu gọi lính pháp ở Đông Dương. Thư và lời kêu gọi đó phải ngắn gọn để chúng tôi có thể dịch và phân phát dưới hình thức truyền đơn (do chúng tôi phải in theo lối cổ sơ). Tôi đề nghị các đồng chí gửi cho tôi bản gốc những tài liệu đó. 8- Địa chỉ gửi cho tôi : Về thư (Gửi cho Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đề trên phong bì : Ông Vích-to Lơ-bông, 123, đại lộ Cộng hòa, Pa-ri, Pháp). Vềsách báo : Ông Lý, Hương Cảng tiểu dạ báo, 53, phố Uyn-hêm, Hương Cảng. 9- Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi. Tôi hiện là Đảng viên Đảng Cộng sản Pháp hay Đảng Cộng sản Việt Nam ? Cho đến khi có lệnh mới, tôi vẫn phải chỉ đạo công việc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi không tham gia Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi chưa trở về Đông Dương được, nhất là lúc này, chúng đã ban cho tôi một cái án tử hình vắng mặt. Sự ủy nhiệm công tác của Quốc tế Cộng sản cho tôi đã hết hạn chưa ? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Bộ Phương Đông ở đây ? Tôi đề nghị các đồng chí nhắc Ban Thường vụ Quốc tế cộng sản cho quyết định về việc này. 10. Sau khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam có lời kêu gọi sẽ được phân phát trong cả nước vào khoảng ngày 20/3. Tôi đề nghị các đồng chí:
a) Công bố trên báo Nhân đạo và tạp chí Thư tín quốc tế lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Chuyển những thư kèm theo và trả lời cho tôi biết.
Ngày 27/2/1930
Lời chào cộng sản thân ái
NGUYỂN ÁI QUỐC Anh Nguyễn còn viết thư cho đại diện Tổng công hội thống nhất Pháp trong Quốc tế Công hội : Đồng chí thân mến, Đề nghị đồng chí hỏi Đảng hộ về việc gửi các báo và tạp chí của Đảng cho chúng tôi để chúng tôi dịch đăng báo của chúng tôi. Đầu đề và tên báo, tạp chí nên gấp vào bên trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi một tờ báo tư sản của nước các đồng chí để cãi với cảnh sát nếu chúng phát hiện chúng tôi nhận báo chí cộng sản.
Lời chào cộng sản
Thay mặt Đảng Cộng sản Đông Dương
NGUYỄN ÁI QUỐC
Ngày 27/2/1930
Địa chỉ của tôi :
Ông Lý Hương Cảng tiểu dạ báo Số nhà 53, đường Uyn-hêm, Hương Cảng Ngày hôm sau, anh Nguyễn lại viết thư gửi cho Văn phòng đại diện Đảng Cộng sản Anh ở Quốc tế cộng sản : Đồng chí thân mến, Tôi đề nghị đồng chí gửi cho tôi báo Đời sống công nhân và tạp chí của Quốc tế Công hội đỏ. Các báo đó sẽ dán tem Pháp và tên báo giấu ở phía trong. Đồng thời gửi cho chúng tôi bất kỳ một tờ báo tư sản nào (nhận ở báo Đời sống công nhân). Đây chỉ là một cách để cãi với cảnh sát nếu chúng biết chúng tôi nhận các báo “phá hoại”.
Lời chào cộng sản thân ái
Thay mặt Đảng Cộng sản Việt Nam (Đông Dương)
NGUYỄN ÁI QUỐC
Địa chỉ của tôi :
Ông Lý Hương Cảng tiểu dạ báo
Số nhà 53, đường Uyn-hêm,
Hương Cảng Anh Nguyễn ngày đêm lo nghĩ về công việc và tình hình đồng chí, đồng bào trong nước, nhưng anh không quên trách nhiệm Quốc tế cộng sản đã giao cho anh là xây dựng phong trào cách mạng của toàn vùng Đông-Nam châu Á. Để làm việc đó, anh chọn Hương Cảng là căn cứ hoạt động thuận tiện nhất. Từ đây, anh giữ các đầu mối liên lạc với các cơ sở cách mạng và các đồng chí cộng sản trong vùng, với Quốc tế cộng sản qua đường Hương Cảng – Mác-xây – Pa-ri – Mát-xcơ-va và nhất là với trong nước, qua đường Hương Cảng – Hải Phòng – Sài Gòn… Cũng từ đấy, anh liên hệ công tác dễ dàng với các cơ quan quốc tế mà anh tham gia hoạt động : Văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản ở Thượng Hải, Văn phòng Tổng công hội Thái Bình Dương, Bộ Phương Đông của Liên đoàn chống đế quốc…

giavui
07-11-2014, 09:11 PM
Từ tháng giêng đến tháng 4-1931, ở Sài Gòn, nơi đóng cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, chúng giăng một mẻ lưới lớn, dựa vào sự phản bội của tên Ngô Đức Trì, bắt nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng bí thư Trần Phú. Lê Văn Kiệt, vừa đi dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế công hội họp ở Mát-xcơ-va về tới Sài Gòn cũng bị bắt. Trong khi đó, sớ mật thám Pháp ở Đông Dương phái ba tên ác ôn Pa-ri, Ca-na-vagi-ô và Ri-ni-ê-ri sang tô giới Pháp ở Thượng Hải theo dõi và bắt anh Nguyễn Lương Bằng, Đỗ Ngọc Du, Lê Quang Đạt, Lưu Quốc Long và chị Lý Phượng Đức. Lưu Quốc Long nhảy từ gác ba xuống đường, hy sinh ngay tại chỗ. Tên Nê-rông, phụ trách Vụ chính trị Sở mật thám Bắc Kỳ cùng một bọn ác ôn từ Hà Nội sang Hương Cảng để dò xét và phối hợp với mật thám Anh lùng bắt những người cộng sản Việt Nam. Ngày 21-4, chúng bắt anh Hồ Tùng Mậu, chị Minh Khai tức cô Duy hoặc Trần Thái Lan hoặc Lý Huệ Phượng, đang làm cán bộ liên lạc ở văn phòng chi nhánh Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản đóng tại Hương Cảng do anh Nguyễn phụ trách. Bọn mật thám đế quốc tìm anh Nguyễn nhưng anh đổi chỗ ở luôn và đi đi về về giữa Hương Cảng – Thượng Hải – Xiêm – Mã Lai, chúng khó theo dõi. Chúng đã có kế hoạch : nếu phát hiện anh trên đất Trung Quốc, không thuộc các tô giới của chúng, thì chúng sẽ thuê người bắt cóc anh đưa về tô giới. Có lần, chúng bắt được một tài liệu ở một chi bộ cộng sản Sài Gòn trong đó nói rằng anh Nguyễn sốt ruột trước tình hình các đồng chí trong nước bị bắt nhiều, sẽ về Sài Gòn để kiểm tra công tác của Trung ương Đảng và góp ý kiến. Thế là chúng bố trí một lực lượng mật thám khá đông để đón bắt ở Sài Gòn và Hải Phòng, nhưng không có kết quả.
Trong khi sục sạo ở Sải Gòn, ngày 30-4-1931, mật thám Pháp bắt được anh Nguyễn Thái từ Hương Cảng mới tới mang thư của anh Nguyễn đề ngày 24-4-1931 gửi Trung ương Đảng. Sau đó, Hồ Lan Sơn, được anh Nguyễn phái từ Hương Cảng về Sài Gòn để tìm liên lạc với Trung ương cũng bị địch bắt ngày 11-5. Địch đã có thể khẳng định : anh Nguyễn đang ở Hương Cảng. Trong khi đó đế quốc bắt ở tô giới Anh tại Thượng Hải một nhân vật quan trọng: Nu-len, tên thật là Ru-éc, phụ trách văn phòng Bộ Phương Đông Quốc tế cộng sản, cơ quan đóng tại Thượng Hải. Từ đó, bọn đế quốc cùng nhau tìm đến một cơ quan khác của Bộ Phương Đông đặt ở Xinga-po. Đấy là văn phòng giao dịch của một hiệu buôn ơ trung tâm thành phố có đăng ký đàng hoàng và có môn bài đầy đủ. Tên chánh mật thám người Anh thuê một ngôi nhà ngay trước cửa văn phòng hiệu buôn để quan sát. Văn phòng mở cửa từ 7 giờ sáng đến trưa. Một người phục vụ trông nom nhà cửa, quét dọn. Từ trưa đến chiều, văn phòng không làm việc, nhưng người chủ văn phòng vẫn tiếp nhiều khách. Sở mật thám bí mật kiểm duyệt toàn bộ các công văn, thư từ của văn phòng này gửi đi Thượng Hải, Hương Cảng, Pa-ri. Thư viết chữ Pháp và chữ Anh, nói về buôn bán, nhưng có hơi hướng của mật mã. Bọn mật thám chụp ảnh người chủ văn phòng, theo nhiều kiểu khác nhau, gửi về Lơn-đơn để điều tra. Trên giấy tờ đăng ký, người chủ đó mang tên Xéc-giơ Lơ-phrăng. – Tôi xin trân trọng giới thiệu với các đồng chí đây là đồng chí Lin, cán bộ của Quốc tế cộng sản. Theo quyết định của Ban bí thư Quốc tế cộng sản, từ nay ngoài công tác ở Bộ Phương Đông, đồng chí Lin nhận thêm nhiệm vụ lãnh đạo nhóm học sinh Việt Nam ở Nin Ca Pê (Viện nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa viết tắt theo tiếng Nga). Quốc tế Cộng sản cho anh Nguyễn biết Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ba ngưởi và Đảng Cộng sản Xiêm và Mã Lai hai người từ trong nước ra, đi dự Đại hội lần thứ 7 Quốc tế cộng sản đã tới Mát-xcơ-va bằng chuyến xe lửa Vla-đi-vô-xtốc – Mát-xcơ-va. Đấy là nét mới của phong trào, chứng tỏ Đảng ta đã khôi phục được lực lượng sau những năm sống trong bão táp khủng bố và đàn áp. Được sự trợ giúp của Quốc tế cộng sản, Ban lãnh đạo của Đảng ở ngoài nước, đứng đầu là đồng chí Lê Hồng Phong, được thành lập năm 1934 ở Ma Cao. Các cơ sở bị địch phá được lập lại. Các Xứ ủy mới được xây dựng. Đảng vẫn sống và phát triển. Biết ơn những đồng chí, đồng bào trung kiên, bất khuất, giữ trọn niềm tin son sắt ở Đảng, ở tiền đồ dân tộc ; biết ơn những liệt sĩ anh hùng đã ngã xuống trong ngục tù và trên trường bắn vì sự nghiệp cách mạng vẻ vang ; Cảm ơn Quốc tế cộng sản, các Đảng Cộng sản anh em, các tổ cức quốc tế đã đấu tranh bằng mọi hình thức chống bàn tay khủng bố của thuộc địa Pháp ở Đông Dương và đã lên tiếng ủng hộ, cổ vũ những người cộng sản Đông Dương giữ vững ý chí, tiến lên và quyết thắng. Anh dặn tất cả mọi người phải đổi tên trong thời gian ở Liên Xô. Đồng chí Lê Hồng Phong mang tên Hải An, đồng chí Minh Khai là Phan Lan và Đôn Min, đồng chí Tú Hưu là Văn Tân. Anh dẫn một số học sinh đi xem “Ba bài ca về Lê-nin” của nhà đạo diễn nổi tiếng Véc-tốp, chiếu nhân dịp lần thứ 10 ngày Lê-nin từ trần. Anh muốn họ thấy giờ phút đau thương bi tráng mười năm về trước mà anh đã sống ở Mát-xcơ-va, để càng nhớ Lê-nin. Từ năm 1924 ấy anh đã viết : “Chúng tôi tin tưởng rằng Quốc tế cộng sản và các chi bộ của nó, trong đó có các chi bộ của các nước thuộc địa, sẽ thực hiện được những bài học và những lời di huấn mà lãnh tụ để lại cho chúng ta. Làm những điều mà Người ra đi dặn lại, đó chẳng phải là phương pháp tốt nhất để tỏ tình yêu của chúng ta đối với Người hay sao ? Tình cảm anh Nguyễn đối với Lê-nin là lòng hiếu thảo, một đức tính Việt Nam. Để vận dụng tốt chủ nghĩa Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, tiếp thu thêm kinh nghiệm quốc tế đã được tổng kết và trao dồi thêm lý luận cách mạng, anh ghi tên theo một khóa nghiên cứu lý luận của Trường Quốc tế Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Trong bản khai lý lịch gửi trường, anh viết: “Địa vị xã hội : Người cách mạng. Nghề nghiệp chính: làm công tác Đảng”. Trường này được thành lập năm 1926 theo nghị quyết Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản mà chính anh Nguyễn đã giơ tay biểu quyết. Trường dành riêng cho các đồng chí lãnh đạo Đảng Cộng sản các nước tư bản và các nước thuộc địa. Trong số giảng viên của trường có đồng chí Xta-lin. Phương pháp học chủ yếu là các nhân tự nghiên cứu sau khi nghe giảng viên giới thiệu đề tài. Trường đặt ở một nơi khá kín đáo, thuận tiện cho việc bảo vệ các đồng chí quốc tế. Đây là một ngôi nhà hai tầng màu vàng, xây từ đầu thế kỷ 19, nguyên là biệt thự của một công tước Nga, mang biển số nhà 25 ở giữa phố Vô-rốp-xcô-vô. Phố này ở trung tâm Mát-xcơ-va mà lại rất yên tĩnh, ít người, ít xe cộ qua lại với những hàng cây cao rợp bóng cùng nhiều lâu đài và dinh thự cũ. Trường Quốc tế Lê-nin, lúc mới lập mang tên Lớp quốc tế Lê-nin, ở phía sau một vường cây rậm, có giậu sắt, người đi ngoài đường không thấy. Ở cửa nhỏ bước vào nhà, hai bên tường đắp phù điêu đầu sư tử và dưới mái hiên treo hai chiếc đèn lồng kiểu cổ. Tại đây, theo nguyên tắc tổ chức chặt chẽ của Quốc tế cộng sản, Ban thẩm tra tư cách các nghiên cứu sinh, gồm 12 người do đồng chí Na-sốp làm trưởng ban, họp ngày 16-9-1934 để xem hồ sơ về anh Nguyễn. Cuộc họp ra quyết định “Nhận đồng chí Lin, Đảng Cộng sản Đông Dương, vào Trường Quốc tế Lê-nin, số hiệu 375, niên khóa 1934-1935”. Cũng như mọi đại biểu dự Đại hội, anh Nguyễn viết bản sơ yếu lý lịch và quá trình hoạt động cách mạng của mình. Làm sao mấy dòng chữ có thể miêu tả đầy đủ lịch sử cuộc chiến đấu hết sức thần kỳ của anh với những chặng đường, đất nước, công việc, cảnh ngộ mà anh đã trải qua. Anh trả lời ngắn gọn tất cả những câu hỏi in sẵn mà theo nguyên tắc và thủ tục thẩm tra tư cách đại biểu người ta đưa anh trong bốn trang giấy : Bản tự khai – Tên hoặc bí danh trong Đảng ? : Tống Văn Sơ.
– Tên hoặc bí danh dùng trong Đại hội ? : Lin.
– Thành phần gia đình ? : Nhà nho.
– Trình độ văn hóa ? : Tự học.
– Đồng chí đã học ở trường Đảng nào ?: Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
– Nghề nghiệp : Tôi làm nghề thủy thủ. 10 năm trời tôi đi làm thuê.
– Phương tiện sinh sống hiện nay ? : Tôi đang học ở Trường quốc tế Lê-nin.
– Đồng chí đã hoặc đang tham gia chi bộ nào của Quốc tế cộng sản, từ năm nào ? : Từ năm 1920 đến năm 1930 : tôi là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp. Từ năm 1930 đến nay : là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Đồng chí có tham gia đảng phái nào khác không, và nếu có, từ bao giờ ? : Không.
– Đồng chí đã qua những công tác gì từ Đại hội lần thứ 6 (Quốc tế cộng sản) đến nay ? : Từ năm 1928 : tôi tổ chức phong trào công nhân và nông dân ở Xiêm. Năm 1930-1931: tôi tổ chức Đảng Cộng sản Đông Dương.
– Đồng chí có bị bắt vì hoạt động cách mạng không ? Hoặc bị vào tù, hoặc đi đày, vào ngục bao nhiêu năm ? : Năm 1931 tôi bị bắt. Ngồi tù 2 năm. Năm 1933 tôi trốn thoát.
– Đồng chí đã dự những Đại hội, hội nghị quốc tế nào ? : Tôi đã dự Đại hội lần thứ năm Quốc tế cộng sản. Đại hội lần thứ ba Quốc tế công đoàn.
– Đồng chí từ đất nước mình đến hoặc đang sống ở nước ngoài ? : Tôi đang sống ở nước ngoài.
– Đồng chí có tham gia Nghị viện hoặc hội đồng hành chính nào không ? Không.
– Đồng chí biết những ngoại ngữ gì ? Tôi biết các tiếng Pháp, Anh, Đông Dương, Quảng Đông, Ý và một ít tiếng Nga. >Người khai LIN. Đại hội 7 Quốc tế cộng sản thông qua nghị quyết của hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản năm 1931, quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một chi bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản và bầu đồng chí Lê Hồng Phong là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Một vinh dự lớn lao, một trách nhiệm nặng nề của Đảng Cộng sản Đông Dương, một sự cổ vũ mạnh mẽ đối với phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng toàn thế giới. Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản và anh Nguyễn tích cực chuẩn bị cho các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu về nước. Hai người đóng giả là cặp vợ chồng đi du lịch sang Pháp rồi từ đó đi Hương Cảng, về Việt Nam. Việc thu xếp chuyến đ hết sức tỉ mỉ. Phải làm đủ các giấy tờ hợp pháp đi đường, qua nhiều nước tư bản chủ nghĩa và thuộc địa. Lại còn phải mua sắm cho hai người những quần áo, giày dép, va-li mới và sang trọng,đúng “mốt” Tây Âu, vì không được phép mang trên người bất cứ một thứ vật nhỏ gì sản xuất ở Liên Xô. Ngoài ra còn có vé xe lửa hạng nhất, vé trọ ở các khách sạn cũng loại nhất và 5.000 đô-la để tiêu dọc đường. Anh Nguyễn phổ biến kinh nghiệm sống ở các nước tư bản chủ nghĩa, dặn cách giữ bí mật và các ám hiệu cần thiết : trước khi đến Hương Cảng, phải lên bến Xin-ga-po mua sắm quần áo Trung Quốc để thay. Đến Hương Cảng, phải vào ở khách sạn, rồi đến trước cửa Ngân hàng hối đoái Anh, cầm một điếu xì-gà ở tay, chờ một người Pháp đi qua, trao đổi mật hiệu để liên lạc với cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương ở nước ngoài. Trong buổi gặp cuối cùng các đồng chí Minh Khai và Tú Hưu ở Mát-xcơ-va, anh Nguyễn dặn một số việc quan trọng và anh đề nghị hai người nhớ kỹ, thuộc nhẩm trong bụng chứ không được ghi chép một chữ nào. Anh Nguyễn nói ôn tồn : – Thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp dịp may hiếm có đối với chúng ta, không nên bỏ lỡ. Điều quan trọng lúc này là cũng cố sự đoàn kết vững chắc trong Đảng, đặc biệt là sự đoàn kết giữa bộ phận ở trong nước và bộ phận ở hải ngoại. Khi về tới Sài Gòn, các đồng chí chuyển cho anh Duy (anh Lê Hồng Phong) mấy ý kiến sau đây : Một là do kết quả thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp, tình hình Đông Dương sẽ thay đổi theo chiều hướng tích cực. Do đó bộ phận Trung ương Đảng ở hải ngoại cần phải trở về nước ngay để trực tiếp lãnh đạo phong trào yêu nước, chỉ để lại ở nước ngoài một nhóm cán bộ rất nhỏ để liên lạc với quốc tế. Hai là, khắp mọi nơi, kể cả Việt Nam, bọn tờ-rốt-kít đã bộc lộ chân tướng phản động của chúng. Đảng ta phải dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu diệt chúng về chính trị. Không được có một thỏa hiệp nào, một nhượng bộ nào đối với chúng. Ba là, phải ra sức lập một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc, thu hút tất cả mọi lực lượng yêu nước rộng rãi, tất cả những người nào tán thành đấu tranh cứu nước, cứu dân. Nhưng phải nhớ rằng việc lập mặt trận ấy không được lúc nào đi ngược lại lợi ích của Đảng và giai cấp. Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thật nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đãng mới giành được địa vị lãnh đạo. Tiễn hai đồng chí của mình ở sân ga Bi-ê-lô-rút-xi-a đi Ba Lan trên đường sang Pháp, anh Nguyễn lại nói : – Cố nhớ những lời tôi dặn nhé và kể lại cho anh Duy. Tôi nhắc lại : dứt khoát không được thỏa hiệp với bọn tờrốt-kít đấy ! Những ý kiến chỉ đạo trên đây ít lâu sau anh viết về cho các đồng chí ở Việt Nam, ghi trên những tờ giấy cuốn thuốc lá để giữ bí mật và ký tên P.C. Mọi điều kiện đã chín muồi để anh về nước. Do sự trưởng thành của các Đảng Cộng sản trên thế giới và do những biến đổi mới của phong trào quốc tế, bản thân Quốc tế cộng sản có sự cải tổ lớn về bộ máy làm việc và phương thức hoạt động. Sau Đại hội lần thứ 7, Đoàn chủ tịch Quốc tế cộng sản quyết định tăng thêm tính độc lập, quyền hạn và trách nhiệm của Đảng Cộng sản mỗi nước, thu hẹp phạm vi và quyền hạn chỉ đạo của Quốc tế cộng sản. Từ nay, mỗi Đảng Cộng sản hoàn toàn gánh vác lấy việc lãnh đạo trực tiếp Đảng mình. Các ban phụ trách các cục và bộ của Quốc tế cộng sản, trong đó có Cục phương Nam và Bộ Phương Đông, trước đây lãnh đạo phong trào và các đảng toàn khu vực, nay giải thể. Quốc tế cộng sản cũng bỏ các đại diện của mình đặt ở các Đảng, bỏ đi nhiều ban, bộ, chỉ giữ lại Bộ Cán bộ và Bộ Tuyên truyền và Công tác quần chúng, một văn phòng làm nhiệm vụ phối hợp và hợp tác giữa các Đảng. Tổng bí thư và các ủy viên ban bí thư Quốc tế cộng sản làm chức năng của mình với sự cộng tác của đại diện các Đảng ở cạnh Quốc tế cộng sản là người chịu trách nhiệm thông báo tình hình hoặc góp ý kiến khi thảo những văn kiện, hoặc nghị quyết của Quốc tế cộng sản liên quan đến Đảng mình. Đảng Cộng sản Đông Dương từ nay cũng phải tự quản hoàn toàn công việc lãnh đạo cách mạng nước mình, nếu chiến tranh xảy ra, mất liên lạc với Quốc tế cộng sản, thì càng phải chủ động, kịp thời, sáng tạo, độc lập công tác. Đảng vừa bầu Tổng bí thư mới : đồng chí Nguyễn Văn Cừ người hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” lớp đầu tiên, một người cộng sản chân chính, mới 26 tuổi nhưng cuộc đời cách mạng đã chói lọi chiến công, một chiến sĩ anh hùng, bất khuất, đầy năng động tính. Bị địch giam ở nhà tù Côn Đảo đồng chí Nguyễn Văn Cừ vẫn cùng các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng dạy văn hóa, chính trị và chủ nghĩa Mác – Lê-nin cho anh em trong tù. Nhiều đảng viên cộng sản tươi trẻ và xuất sắc như các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng… bị địch đẩy vào các ngục tối và bị tra tấn đã được trả lại tự do nhờ ảnh hưởng của Mặt trận bình dân Pháp và đã lại lao ngay vào cuộc chiến đấu mới. Bộ phận công khai của Đảng ở Bắc Kỳ đã ra báo giữa Hà Nội, báo Tin Tức, do đồng chí Trường chinh làm bí thư chi bộ báo, là cơ quan tuyên truyền và thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Dưới sự lãnh đạo của nhóm Tin Tức, một cuộc mít tinh lớn hai vạn rưởi người đã diễn ra tại khu Đấu Xảo Hà Nội đòi “Cơm áo, Hòa bình, Tự do”. Trong khi đó, ở Sài Gòn, cũng có mít tinh lớn hàng nghìn người đủ các tầng lớp nhân dân tham gia. Những đám mây đen chiến tranh phát xít đang ùn ùn kéo tới. Nhưng bão táp cách mạng đã bắt đầu nổi lên phía chân trời. Tình hình và phong trào hơn lúc nào hết rấtcần trên đất Việt Nam sự có mặt của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, ngôi sao sáng dẫn đường, vị lãnh tụ thiên tài và giàu kinh nghiệm chiến đấu. Trung ương Đảng mong ngóng đồng chí về. Dân tộc và lịch sử chờ đợi đồng chí… Đoạn văn trên là đoạn trích dẫn cuối cùng của tôi về quyển Bác Hồ Trên Đất Nước Lê Nin của Hồng Hà. Bỏ qua những hoa ngôn xảo ngữ, lời ca tụng, tâng bốc bác; tác giả cũng hé mở cho ta thấy tính lưu manh, tráo trở, lọc lừa của bị can. A tòng với Lâm Đức Thụ bán cụ Phan Bội Châu và vô số thanh niên không chịu theo cộng sản cho Pháp, thế mà bị can lại trút tội ác đó lên đầu kẻ cộng tác với mình. ” Lúc này anh Nguyễn và mọi người đã nhìn thấy bộ mặt xấu của Lâm Đức Thụ, phụ trách tổng bộ “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội”. Thụ ở một ngôi nhà sang trọng lưng chừng núi tại Hương Cảng, sống xa hoa, bệ vệ, kịch liệt chống việc thành lập Đảng Cộng sản. Một số hội viên “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” từng dự lớp học do anh Nguyễn mở ở Quảng Châu bị thực dân bắt. Họ thấy bọn chúng có trong tay những tấm ảnh chụp lớp học ở Quảng Châu mà hồi đó chỉ có Lâm Đức thụ là người hay đứng ra chụp để “làm kỷ niệm”. Lâm Đức thụ đã sinh bụng khác…” Đây là hành động ” ăn cháo đá bát ” nói theo kiểu Việt Nam chúng ta. Còn nói theo kiểu cộng sản là ” anh Nguyễn ” bắt đầu máng vào cổ Lâm Đức Thụ bản án ” Việt Gian, phản quốc ” để rồi sau này ra lịnh thủ tiêu người cộng tác biết quá nhiều các hành vi phản dân hại nước của mình. Hình ảnh bị can Hình Chí Mô, vị lãnh tụ của đảng cộng sản Việt Nam gắn liền với bịp-lừa-dốigạt-gian-ác… Ngày mai tôi xin trình bày cùng 9 vị bồi thẫm và tất cả mọi người trong ba tầng chín cõi về nhân vật được coi như một trong những thiên hạ đệ nhất ác.

giavui
07-11-2014, 09:12 PM
- 26 -
Đạo Đức Cách Mạng thứ ba của bác:
ÁC TRÙM THIÊN HẠ
-Có bao nhiêu người đã chết bởi bị can Hình Chí Mô? Đó là một câu hỏi mà âm phủ cũng chưa có câu trả lời chính xác dù đã bỏ công sưu tầm kể từ khi có người đầu tiên chết bởi tay Quỉ Vương, bí danh mới của Hình Chí Mô, tên đồ tễ lớn nhất và khát máu nhất trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Trần Thủ Độ chôn sống vài trăm tôn thất Lý triều so ra cũng chưa bằng một phần ngàn cuộc tắm máu trong vụ Cải Cách Ruộng Đất, Mậu Thân ở Huế hay Đại Lộ Kinh Hoàng ở Quảng Trị. Biết bao nhiêu người, triệu triệu người, trẻ có, già có, đàn ông có, đàn bà có, nông dân, trí thức, học sinh, sinh viên, thợ thuyền; tất cả là tinh hoa của dân tộc Việt đã bỏ mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và viễn chinh sang xứ Chùa Tháp. Có đám người thúi mồm, dơ miệng cố gắng bào chữa cho hành động sát nhân của Quỉ Vương là hắn hy sinh bao nhiêu nhân mạng đó cốt ý giành lại độc lập và tự do cho xứ sở. Sự hy sinh hàng triệu nhân mạng này chỉ có ý nghĩa khi đất nước thực sự độc lập và dân chúng được thực sự hưởng tự do và dân chủ. Điều đó đã không xảy ra. Độc lập không có. Tự do không bao giờ tới. Dân chủ chỉ là danh từ trống rỗng tương tự như cái bao tử của người dân… Ngừng lại giây lát như để cho 9 vị bồi thẫm suy nghĩ về lời nói của mình, Thôi Phán Quan hắng giọng tiếp. -Với phép mầu và những thủ đoạn gian ngoa xảo trá, Quỉ Vương biến những kẻ hiền lành, lương thiện thành những quỉ con, quỉ nhỏ, quỉ lớn, quỉ già, quỉ trẻ, quỉ cái; tất cả bọn họ lãnh lệnh giết người một cách điên cuồng và mù quáng. Họ là những người đã bị cướp mất linh hồn. Tất cả những thứ quỉ đó cũng có tội, nhưng cũng không có tội lớn bằng Quỉ Vương. Bây giờ tôi kính mời quí vị cùng âm phủ đi theo bước chân giết người của Quỉ Vương Hình Chí Mô… Thôi Phán Quan ngừng lời. Thiên hạ đồng quay nhìn về màn ảnh. Tuy nhiên họ lại nghe giọng nói của ông ta vang lên trong bầu không khí im lặng. -Chúng ta đã đi qua một chặng dài 1.000 năm đẹp của lịch sử trước khi đến cảnh ngục tù do Hồ Quỉ Vương xây dựng để tìm gặp nhà sư Tuệ Minh bất hạnh bị giam cầm và tra tấn ở đấy cho đến chết! Nhà sư là nhân vật xuất hiện ở chương chót trong tác phẩm Địa Ngục Sình Lầy của tác giả Trần Nhu. Tác giả cũng là một người tù bất hạnh, bạn đồng tù với nhà sư Tuệ Minh. Sau đây là đôi dòng về tác giả Trần Nhu, trích trang bìa sau quyển Địa ngục sình lầy: “TRẦN NHU sinh năm 1938 tại Tiên Lãng, Hải Phòng, Bắc Việt Nam. Trước 1958 đi học và sáng tác Văn học. Năm 1958 bị tù vì vượt biên qua Lào quốc và sáng tác Văn học. Ra tù năm 1960. Bị bắt lại năm 1961 vì tranh đấu cho nhân quyền. Ra tù 1978. Vượt biên cuối 1981. Định cư tại Hoa Kỳ 1982.” Như thế đó, phải vượt thoát khỏi đất Việt và đến tuổi ngũ tuần, Trần Nhu mới được Nữ thần Tự do trao cây viết lại để anh hoàn thành tác phẩm Địa ngục sình lầy. Quyển sách được xuất bản năm 1990 lúc tác giả 52 tuổi! Trong Lời nói đầu, ta đọc được tâm tình thật cảm động của tác giả: “Tôi viết để làm dịu đi những gay gắt, cam go ác liệt, để làm nhẹ vơi đi niềm ô nhục, làm yên ổn lương tri bị hành hạ của hàng triệu con người. Tôi viết để gột rửa trong đáy mắt những bà mẹ dòng lệ xót. Tôi viết cho hàng triệu nạn nhân đã chết, tôi viết cho những người còn sống nhưng không được quyền ăn nói, tôi viết cho quê hương đã bị vắt kiệt, tôi viết về quê hương đang bị đè nặng bởi những cái bóng vĩ đại, những cái bóng đã xô đẩy cả Dân tộc tôi xuống vực thẳm, đã đổ bóng tối lên cả một vùng trời”. Xin trở lại chuyện người tù là nhà sư Tuệ Minh. Một buổi chiều cuối hạ năm 1965, khi Trần Nhu chuyển từ trại Xuân Giang đến trại Hoàng Xu Phì ở đông bắc tỉnh Hà Giang, thì đã gặp sư Tuệ Minh bị giam ở đấy không biết từ năm nào. Trại Hoàng Xu Phì thật xứng đáng là ngục tù mẫu mực của chế độ Hồ Quỉ Vương. Ở Cổng Hậu sát bìa rừng có Nhà Xác, địa điểm được chọn lựa quá khéo rất thuận lợi cho việc kéo xác tù đi chôn. Nhà Xác lại đối diện với Nhà Giáo Dục, lại một thiết kế rất khôn ngoan. Trong Nhà Giáo Dục bày ngổn ngang những dụng cụ tra tấn như kìm búa, dùi sắt, dùi tre, mũ gò bằng tôn sắt, loại tôn dày, vài cuộn dây rừng, v.v… Về mùa nóng cũng như mùa lạnh, nhà này có một lò than luôn luôn cháy đỏ, dùng để nung dùi và mũ sắt. Mũ này người tù ở trại gọi là “mũ cụ”. Mũ gõ bằng loại tôn sắt giống như chiếc mũ cối của bộ đội, mũ được nung đỏ, rồi trói tù lại chụp lên đầu, làm cho người tù kêu rú, rống lên. Theo tiếng rú khiếp đảm của những người tù xấu số, lũ chuột rừng kéo vào hàng đàn chạy lăng xăng qua lại giữa Nhà Giáo Dục và Nhà Xác chờ được thưởng thức bữa tiệc thịt người do Quản giáo Việt cộng thết đãi! Trong văn phong của Trần Nhu, nhân dáng hình hài của sư Tuệ Minh còn sót lại sau những năm dài trong ngục tù của chế độ Hồ Quỉ Vương như sau: “…Chợt tôi thấy một cảnh vệ và hai tù nhân trong ban trật tự của trại, nhưng họ ở bên hình sự, lôi kéo xền xệt trên mặt đất, một người gầy nhom, bẩn thỉu, tanh hôi vào cửa buồng và giao cho Buồng trưởng. Người tù bò bốn chân, quần để tuột xuống hẳn ống cẳng chân, làm cả khoảng bụng, đít phơi trần truồng. Manh áo nhuộm máu đã khô, che không kín lưng, phía dưới để hở rõ bộ xương sườn xám đét, khô đầu trơ sọ tráng loét xuống tận cổ, hai tai bị cắt cụt, đôi mắt trũng sâu như lỗ đáo, dòi bọ bò lêu nghêu khắp thân thể. Tự nhiên một cảm giác ớn lạnh luồn vào cơ thể chạy suốt chân. Tôi nhìn người tù, không còn ra hình dáng con người nữa, nó méo mó biến dạng một cách khủng khiếp.” Nhưng thật lạ! Ở nhà sư Tuệ Minh, thân thì “những vết rạch ngang dọc trên đầu, trên mặt, cổ và bộ ngực. Tai không còn nghe rõ, miệng không còn đọc kinh niệm Phật, thân thể không còn nguyên vẹn như xưa, lột hết cả áo tu hành, con người trần trụi.” Ở nhà sư Tuệ Minh, ở bộ xương còn biết cử động ấy, dường như có một dấu hiệu lạ, toát ra một phong độ kiên hùng, vững chắc. Trần Nhu thuật tiếp rằng sư Tuệ Minh bình tĩnh tưởng như không có chuyện đau đớn thể xác, không rên xiết, hoàn toàn không. Rồi những ngày sống kế tiếp, Sư lẳng lặng ngồi tư thế tụng niệm của đức Phật, vẫn không một tiếng rên xiết, tuyệt nhiên không. Trần Nhu hỏi một lão tù già về sư Tuệ Minh, qua giọng thều thào như nghẹt ở cuống họng, lão kể lể từng câu, ngừng năm, mười phút, rồi thuật tiếp, chuyện kể luôn đứt đoạn, câu nghe được cũng rất khó hiểu: “Sư khừ khừ… bị a… khừ khừ… a… kỷ luật a… vì a… khừ khừ… nghỉ ngày a… Phật đản a… Rồi a… Ban Giám thị a… khừ khừ a… cắt tai… khừ khừ… gọt đầu a… khừ khừ… sư… khừ khừ… bằng mảnh chai a… khừ khừ… dùi nung đỏ a… khừ khừ… sư… a… sư!” Nhà sư Tuệ Minh chết trong trại giam Hoàng Xu Phì. Mãi sau này, Trần Nhu mới biết rõ pháp danh ngài là Tuệ Minh, quê Thiện Hóa, thuộc xứ Thanh. Ngài xuất gia đầu Phật lúc tuổi mười lăm, với sư cụ Thích Thiện Hòa tại chùa Thiên Phúc bên dòng sông Đáy tỉnh Sơn Tây, nơi mà ngày xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đắc đạo. Nhắc lại lúc Cách mạng Mùa thu 1945, sư Tuệ Minh có mặt trong đoàn Đại biểu tỉnh Sơn Tây, đến Hà Nội ngày 2-9-1945 để tham dự buổi mừng Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Ngài tham gia phong trào Phật tử Yêu nước theo truyền thống của tiền nhân, theo Tự tình Dân tộc. Rồi nhà sư Tuệ Minh bị kết tội “lừa dối nhân dân, tuyên truyền phản cách mạng” và bị bắt giam ở trại Hoàng Xu Phì cho đến chết… Cùng phát biểu y như trên, tác giả Trần Nhu, người tù nhân 20 năm của Việt Cộng, viết trong đoạn kết luận cho quyển Địa Ngục Sình Lầy của ông với lời văn như sau: “Ngày ấy, sư Tuệ Minh mang ý niệm tôn kính cụ Hồ như những bậc vĩ nhân yêu mến loài người. Khi cụ nói: -Mọi người đều được dựng lên “bình đẳng” trong đó có quyền sống, quyền được hưởng tự do, quyền tín ngưỡng, và dĩ nhiên không thiếu sót một thứ quyền nào cả… Với lời lẽ trịnh trọng như một Washington, cụ hỏi: - Tôi nói đồng bào nghe rõ không? Tất cả xúc động, đồng thanh: - Thưa cụ, rõ! Nhưng lời hứa… Đó chỉ là lời hứa! Còn phải có thời gian… Rồi thời gian trôi đi. Mười năm sau. Đốt kinh, phá chùa, bắt tăng ni… cũng vẫn bộ mặt ấy! Vẫn ông cụ ấy! Vẫn thằng chọ chọe ấy! Bá ngọ, thằng cuội xứ Nghệ!”… Căn phòng xử rộng thênh thang chứa mấy ngàn người im lặng tới độ hầu như người này nghe được hơi thở của người kia. Thật lâu Diêm Vương mới lên tiếng. -Tên Hình đúng là quỉ nên mới cho người hành hạ và giết cả kẻ tu hành… Đây là một tội ác không thể thứ tha được… Giọng nói trầm hùng của Thôi Phán Quan vang lên ngắt lời của Diêm Vương. -Chưa hết đâu thưa Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm. Nạn nhân của Quỉ Vương còn nhiều vô số kể, dài bằng Ải Nam Quan tới tận Mũi Cà Mau. Ở đâu có người là nơi đó có nạn nhân của hắn. Bây giờ tôi mời quí vị nghe tiếp những mẫu chuyện về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô và đảng cộng sản của hắn… -HCM không mang tự do cho Dân tộc cho nên pháo thủ Phạm Đình Sơn phải vượt biên tìm tự do, nhưng một người hùng Điện Biên khác là Trung tá pháo binh HoàngTiến Như không được may mắn như vậy. Ông chết trong trại tập trung Hoàng Xu Phì ở Hà Giang, đã chết rồi mà còn bị tên đại úy quản giáo, giống như loài khỉ vượn chưa kịp hóa kiếp thành người, trong cơn giận dữ, rút dao găm “đâm ngoáy” vào đôi mắt chưa chịu nhắm hẳn. Chuyện kể: sau chiến thắng Điện Biên, người hùng Trung tá Hoàng Tiến Như về thủ đô, ngực mang đầy huy chương, nhưng lại mất niềm tự do lớn nhất của đời mình: ông không cưới được người mình yêu! Nàng là Lê Thị Phượng, sinh viên Đại học Văn khoa năm thứ hai bị đuổi học vì tham gia phong trào Nhân văn -Giai phẩm nên Đảng không cho phép ông cưới nàng! Để đi theo tiếng gọi của con tim, Trung tá Như xin ra khỏi Đảng. Thảmkịch đời ông bắt đầu. Ông bị bắt đưa về trại tâm thần Sơn Tây, bị tra tấn dã man gần một tháng, và tiếp tục bị tra tấn ở trại tập trung Hoàng Xu Phì đến khi lê lết, quằn quại, sống như một cái xác không hồn. Đúng một năm, khi gượng đi lại được, sau mấy tháng lao động đền tội, ông bị rút gân chân, lột từng mảnh da đầu, cắt trụi tai, và để cho cái chết đến từ từ trên tấm thân tàn phế! Câu chuyện bi thảm này được viết lại trong quyển Địa ngục sình lầy (tr.201-264), tác giả Trần Nhu là bạn đồng tù đã nhận xét: “Đời tù! Sống cực hình, chết lại càng cực! Và thê thảm. Tôi chưa hề thấy cái chết nào ghê rợn như cái chết của viên Trung tá Pháo binh Điện Biên Phủ.” -Hiện tại anh Phan văn Tuấn là một thuyền nhânđược định cư ở Sydney, Úc Châu. Vào Tết Mậu Thân 1968, cậu bé Tuấn 16 tuổi đang học lớp Đệ tam trường tư thục Nguyễn Du ở Huế. Ngày mồng hai Tết (Thứ năm 12-1968), VC tràn ngập Huế, Tuấn bị bắt cùng với mười mấy thiếu niên khác cùng lứa tuổi với anh. Mấy ngày đầu, VC bắt họ làm dân công đi khuân vác. Sau đó, VC bắt họ đào hầm vào ban đêm ở quanh vùng Gia Hội, những hầm mà Tuấn tưởng rằng chỉ để bọn chúng ẩn núp, không ngờ đó sẽ là những hầm chôn người. Đến bây giờ, tuổi đã gần lục tuần, Phan Văn Tuấn nhớ lại chuyện xưa, thuật lại rằng những người bị VC bắt, bị trói hai tay sau lưng thành từng chùm, mỗi chùm khoảng 15, 16 người, và bị sắp đứng xoay lưng về cái hố. Một tên VC ăn mặc theo lối chính quy với nón cối đọc bản án tử hình. Rồi một tên du kích áo đen ngắn tay, quần đen ngắn, mang dép râu, đội nón tai bèo, dùng súng AK bắn mộttràng vào người đầu tiên. Ông này bị trúng đạn, té ngược ra sau, và lọt xuống hố, kéo theo cả chùm người bị cột chung. Đây, lời tả chân của Phan Văn Tuấn, Nam Dao ghi lại: “Ông té xuống, quý vị biết không, mấy người sau có trúng đạn gì đâu, cũng lăn xuống. Lăn và lộn, lộn vòng xuống, lật ngửa ra. (Tuấn khóc rống lên). Nó bắt tôi lấp! Nó kêu lấp, lấp, lấp lẹ! (Vẫn khóc). Tôi không lấp, nó đánh tôi. Tôi nhìn mấy người đó, tôi khóc, tôi khóc! Không! Người ta còn sống mà! Lấp đi! Không! Thế là nó dọng báng súng vào tôi, súng AK nó dọng, nó dọng đàng sau xương sống tôi (Vừa thở như bị ngộp, vừa khóc). Chưa được, nó quay mũi lưỡi lê nó đâm tôi, nó đâm vào sườn tôi. Trời ơi, máu me! Nó đâm! Mấy thằng bạn, thằng nào cũng khóc! Nó đánh, nó đánh! Tôi phải lấp, phải lấp. Tôi lấp đồng bào tôi (Khóc nức nở). Trời ơi, trời ơi, Thượng Đế coi này! Bây giờ tôi nhớ tôi có tội quá Tôi nhớ mấy con mắt đồng bào, mấy người dưới hố ngó tôi. Trời, trời, trời, trời ơi! VC ơi là VC! Không lấp thì nó đánh! Lấp thì bà con tôi chết! Thôi, thôi, lạy Phật, lạy Trời, lạy Thượng Đế. Chưa có thằng nào nó tàn ác như vậy… (Tiếp tục khóc).” Người phỏng vấn Nam Dao cũng khóc theo và an ủi Tuấn: “Anh không phải là người giết đâu. Tội đó là mấy thằng Cộng sản” Cả hai người Nam Dao và Tuấn đều khóc và người viết hàng chữ nầy đến đây cũng khóc theo, phải lau nước mắt mới viết tiếp được, và lần nào đọc lại bản thảo cũng không cầm được nước mắt, thương cho Đồng bào Huế và thương cho cả Dân tộc VN! Những lần chôn sau, Tuấn thuật tiếp, VC chỉ lấy báng súng AK dộng vào người đứng đầu cho anh ta ngã té xuống kéo theo cả dây người xuống hố, người nào ngoi lên thì VC xoay ngược cuốc đập vào đầu cho bể sọ. Tuấn thuật tiếp rằng suốt mười mấy đêm, họ đã đào mười mấy cái hố và đã chôn mười mấy lần. Đến khi phi cơ trực thăng của Quân Lực VNCH xuất hiện để truy kích, thừa lúc VC lo trốn máy bay, Tuấn cùng ba người bạn cùng xóm bỏ chạy. VC bắn theo, bắn chết một thằng chạy chậm đàng sau. Đến khi Tuấn và hai bạn còn lại gặp lính của Quân lực VNCH, một cảnh vô cùng cảm động diễn ra, ngắn ngủi thôi, nhưng là bức tranh tình cảm tuyệt đẹp đủ sức nói lên tất cả Tình Quân dân như cá với nước và Chính nghĩa của Quân lực VNCH. Trong suốt “Cuộc Chiến tranh của HCM gây ra để đánh Dân tộc”, Quân đội QGVN được thành lập từ thời Quốc trưởng Bảo Đại với mục tiêu ngăn chận làn sóng đỏ của Cộng sản để bảo vệ dân. Quân đội lớn mạnh và đổi tên thành Quân lực VNCH qua Đệ nhất Cộng hòa và Đệ nhị Cộng hòa. Thành tích bảo vệ Dân tộc suốt gần ba mươi năm đó,CHÍNH NGHĨA CỦA QUÂN LỰC VNCH, xin được diễn tả hùng hồn bằng lời thuật của anh Tuấn với chị Nam Dao như sau: “Trời ơi, tôi kể chị nghe : trong tay bọn VC mấy chục ngày, đến lần đầu tiên gặp anh lính Cộng hòa (ảnh cầm khẩu súng, ảnh ngoắc ngoắc tới). Trời ơi, tôi tới tôi ôm ảnh đó chị! Trời ơi, giống như mẹ đi chợ về! Tôi ôm ảnh tôi khóc, khóc nức nở. Ba thằng ôm ảnh khóc nức nở, không bảo nhau gì hết. Tự nhiên cái lòng thương người lính VNCH, một người mà mình thấy có sự bảo vệ… Tôi ôm ảnh khóc! Ảnh vuốt đầu nói: “Không sao đâu! Không sao đâu! Không sao đâu em!” Bắt đầu tôi kể từ đầu đến cuối. Ảnh dắt vô cho ăn. Phía sau có nước, ảnh cho tắm…” Tàn cuộc, trong số mười mấy thiếu niên Huế bị VC bắt đi đào hầm và chôn người trong chiến trận Tết Mậu Thân đó, chỉ có Tuấn và 2 người chạy thoát. Số còn lại bị VC dẫn theo và bắn chết hết khi chúng rút lui khỏi Huế! Mấy ngày sau, khi tìm đặng xác, “Trời ơi, đứa nào cũng lỗ chỗ trên đầu!”, anh Tuấn vừa kể vừa khóc.( Câu chuyện do Thông tín viên Nam Dao của Đài TwoVNR phỏng vấn Phan Văn Tuấn và được viết lại trong bài Vụ thảm sát Tết Mậu Thân (Bns Tự do Ngôn luận số 46 ngày 1-3-2008 ). -Sau đây là câu chuyện nói lên “thành tích đuổi dân đi vùng kinh tế mới” để cướp đoạt nhà cửa ở Sài Gòn. Câu chuyện về một người mẹ trẻ bị đưa đi vùng Kinh tế mới đã tự thiêu và ôm chặt 2 đứa con để cùng chết chung với mình. Thời điểm: người tường thuật là người tù học tập cải tạo Uyên Thao không nhớ rõ mùa đông năm 79 hay 80. Vào lúc đó, Uyên Thao ở Trại tù K6 trên đồi Phượng Vĩ dưới chân núi Chứa Chan, tiếp giáp với khu Kinh tế mới của người mẹ trẻ. Gần đấy có chợ Ngã Ba Đồn. Ba tuần lễ trước đó, Uyên Thao lao động phác cỏ và gặp người thiếu phụ cũng đang dọn đất gần đó. Người mẹ cuốc cỏ và cào cỏ lại, thằng bé 5 tuổi và con chị nó không lớn hơn nó bao nhiêu giúp mẹ ôm những bó cỏ vào góc bờ. “Tôi ở quận Năm, lên đây hơn hai năm rồi. Mười tám tháng nay, ba mẹ con tôi chưa biết hạt gạo là gì. Tội nghiệp thằng bé mới năm tuổi”. Đó là tâm sự của người mẹ, Uyên Thao chỉ nghe được như vậy, chưa kịp nói lời an ủi, thì cán bộ quản giáo võ trang phát hiện khoảng cách quá gần giữa họ nên ôm súng đi tới! “Sự nghiệp giải phóng biến miền Nam thành địa ngục trần gian” hoà hợp hoà giải với “thành tích đuổi dân đi vùng Kinh tế mới” đã đến “trình độ” 3 tuần lễ sau đó. Buổi tối đó, cán bộ giảng dạy về lập trường đấu tranh cách mạng và chỉ trích thói hư tật xấu trong nếp sống cũ của người dân miền Nam. Một điều bất ngờ và cực kỳ hi hữu trong các Trại học tập cải tạo của VC, người thiếu phụ mà chồng không biết lưu lạc phương nào đó, người mẹ trẻ có hai con còn quá nhỏ bị bỏ cho đói khát và thất học đó, người cư dân ở quận Năm Sài Gòn bị Đảng đuổi đi để cướp nhà, “người con gái Việt Nam da vàng” mà Đảng ác nhân đã dồn đến đường cùng đó, chính Người thiếu phụ can cường đó vụt đứng lên giữa lớp học và nói như hét vào mặt người cán bộ: “Tôi khỏi cần nghe ai dạy dỗ. Tôi bị lùa tới cái xó rừng nầy là quá đủ rồi. Tôi chẳng biết Đảng với Cách mạng của các ông là những thứ gì. Bây giờ tôi phải về lo cho mấy đứa con tôi”. Khuya hôm ấy, cơn hoả hoạn nhỏ bùng lên, thiêu rụi túp lều của ba mẹ con. Cả khu Kinh Té Mới đều chạy đến túp lều để cùng đứng chết trân nhìn ngọn lửa hoành hành. Giữa đống tro tàn, xác người mẹ trẻ cháy đen tay còn vòng ôm chặt hai đứa con cũng cháy đen như mẹ. Lời giải thích tìm ra dễ dàng: người mẹ “về lo cho mấy đứa con” đã nổi lửa hoả thiêu và ôm chặt hai đứa con để cùng chết chung với mình!!! Thôi Phán Quan dứt lời. Có tiếng thở dài. Có tiếng sụt sùi. Có tiếng khóc nghẹn ngào. Lát sau Diêm Vương mới quay qua chỗ Hình Chí Mô đang ngồi. -Ngươi đúng là quỉ rồi… Khi nghe Diêm Vương phán, Thôi Phán Quan cười bước về chỗ dãy bàn của nhân chứng và giọng nói rang rảng của ông ta vang lên. -Bị can Hình Chí Mô là tên đồ tễ lớn nhất trong lịch sử Việt Nam. Thế mà có những kẻ có ăn học, tự xưng là thi sĩ lại muối mặt làm thơ hùa theo bị can để ca tụng hành vi giết người. Tôi gọi những kẻ làm thơ đó là thi sĩ-vô liêm sỉ. Mời quí vị nghe qua những vần thơ của thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam… Diêm Vương và 9 vị bồi thẫm đồng quay nhìn về chỗ Tố Bồi Bút đang ngồi khi nghe Thôi Phán Quan nói câu thi sĩ-vô liêm sỉ lớn nhất của đảng cộng sản Việt Nam.
-- Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ.
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong.
Cho đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng.
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít Ta Lin bất diệt”…
- Bọn địa chủ cắm vòi hút máu.
Phải vùng lên mà đấu thẳng tay!
Thực dân địa chủ một bầy.
Chúng là thú vật, ta đây là người”
Vừa nghe xong hai bài thơ Diêm Vương lên tiếng hỏi liền. -Phải thơ của thằng Lành không? Nhẹ gật đầu Thôi Phán Quan hắng giọng. -Bẫm Diêm Vương đúng ạ. Đó là hai vần thơ tuyệt tác của đại thi sĩ-đại vô liêm sỉ họ Tố. Bài thứ nhất có tên là ” Thơ Giết ” còn bài thứ nhì tên ” Tự Khoe Là Người ”… Lắc đầu ông vua âm phủ hướng về chỗ họ Tố đang ngồi. -Thiệt hết biết thằng Lành… Ngươi khoe ngươi là người mà nghe qua hai bài thơ ta nghĩ lũ bây là ” người-cộng sản mất hết tình người…” Bị Diêm Vương xỉ vả Tố Bồi Bút cười làm thinh. -Kính thưa quí vị. Sau đây mời quí vị nghe qua hai bài thơ của đại thi sĩ-đại vô liêm sỉ lớn thứ nhì…
-Anh em ơi! Quyết chung lưng.
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung kẻ thù.
Địa hào, đối lập ra tro.
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc lên cho sáng khắp đường.
Thắp đuốc lên cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn chúng ra đây.
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày… chết thôi!”
Đó là bài ” Thơ Máu ” của Xuân Diệu lấy cảm hứng từ vụ đấu tố của Cải Cách Ruộng Đất. Còn đây là bài ” Thơ Bắn ”…
-Máu kêu máu trả thù
Súng đâu anh em đâu
Bắn nó thủng yết hầu
Bắn tỉa, bắn dài lâu
Tôi nghe đồn là sau khi bốn vần thơ này được ra đời thì dân chúng khen nức khen nở, khen tới độ họ đem ” lộng kiến ” bốn bài thơ này… -Thơ gì nghe kinh bỏ mẹ… -Nghe xong bốn áng thơ tuyệt tác này tôi nuốt cơm hổng nổi anh Chín… -Bởi vậy tên Tố mới được cho làm thứ trưởng đặc trách Kinh Té… Dân miền nam sau 75 đọc thơ hắn té xỉu hết trơn. Tao nghe đâu hồi trước 1975, bác và đảng còn tính đem mấy bài thơ này ghi âm và phát thanh vào miền nam để cho lính Việt Nam Cộng Hòa nghe mà kinh sợ bắn giết nên quăng súng đầu hàng… Đợi cho tiếng nói dứt, Thôi Phán Quan cao giọng nói với bồi thẫm đoàn. -Sau đây là một số nhân chứng và nạn nhân kể lại những vụ giết người của bị can Hình Chí Mô và các đồng đảng của hắn đã nhúng tay vào máu… -Tác giả Phạm Văn Liễu, trong quyển Trả Ta Sông Núi, đã tường thuật về tình hình ở miền Bắc như sau: “Suốt cuối tháng 8, đầu tháng 9-1945, những vụ ám sát, thủ tiêu, cắt cổ, mổ bụng, buộc đá thả sông (mò tôm) xảy ra như cơm bữa, từ thành thị tới thôn quê. Nạn nhân phần đông là những người có đôi chút tiếng tăm hay gia sản. Cán bộ Cộng sản chụp cho họ cái mũ “Việt gian” để biện minh cho những vụ thảm sát vô nhân đạo này. Khi bị báo chí chất vấn về những vụ bắt bớ bừa bãi, Phó Chủ tịch Mặt trận Việt Minh kiêm Bộ trưởng Tuyên truyền Trần Huy Liệu trâng tráo đáp: “Tất cả những người bị bắt giữ đều là những người có tội với quốc dân.” Những tội nhân này, theo báo chí Cộng sản, có cả những cựu đồng chí VNQDĐ của Trần Huy Liệu như Nguyễn Ngọc Sơn, Nguyễn Thế Nghiệp, ông bà Đào Chu Khải, các tu sĩ Phật giáo và một số linh mục, thày giảng, trùm đạo Thiên Chúa Giáo”. “Ngày 5-9-1945, Võ Nguyên Giáp còn nhân danh Bộ Nội vụ Chính phủ Cách mạng Lâm thời đặt đảng Đại Việt và các tổ chức Thanh niên không nằm trong Mặt trận Việt Minh ra ngoài vòng pháp luật. Từ ngày này, các đội tự vệ, du kích địa phương đêm đêm gậy gộc, giáo mác, tăng cường bằng vài khẩu súng lục hay ngựa trời, kéo nhau đi bắt Việt gian và gián điệp cho Tây! Tại miền Bắc, hàng trăm, hàng ngàn người bị bắt, giết…”
Chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ Những câu chuyện về Việt gian thật phổ biến trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến. Sau đây là chuyện kể của Nghiêm Kế Tổ trong quyển Việt Nam máu lửa (trang 128) với đầy đủ chi tiết hơn. “Số dân tản cư ngày mỗi nhiều. Quân đội Pháp càng ngày càng mở rộng mặt trận. Những người tản cư cũ lại xê dịch đi chút nữa và những người tản cư mới bắt đầu rời bỏ quê hương, cứ như thế mãi. Dân chúng với cuộc đời vô định đã làm mồi dần cho muỗi độc, cho lam sơn chướng khí, cho bom đạn, cho các trận càn quét… Những bà đài các ở thành thị vui vẻ khi đặt quang gánh lên vai kĩu kịt thúng xôi chè hay trầm tĩnh bên gia tài chỉ còn vẻn vẹn một quán nước con con. Nhưng, tất cả sản nghiệp mất đi, chưa đủ, ngày ngày giơ đầu hứng bom và đạn, chưa đủ, ngày ngày lên cơn sốt rét, chưa đủ, người dân còn phải hứng một điều đau khổ về tinh thần trên sức chịu đựng: những vụ bắt bớ liên tiếp với lời sỉ vả Việt gian. Nếu quân đội Pháp có bắt được dân tưởng lầm là Việt Minh mà giết đi chăng nữa, sự chết đó cũng không đau lòng lắm bằng theo Chánh phủ mà Chánh phủ lại xử bắn vì tội…Việt gian. Thật là cay đắng, mỉa mai và chua xót! Những người bắt Việt gian thường khi chẳng phải là Công an mà cũng chỉ là dân như những người tản cư. Đấy là những dân quê giữ nhiệm vụ canh gác làng mạc và nếu mặt trận tràn tới, họ cũng sẽ lại tản cư để rồi cũng có thể bị những người dân vùng khác tình nghi và bắt bớ. Những cớ để bắt trên bước đường tản cư vô định của dân chúng thật là thiên hình vạn trạng: Cô tiểu thư vô tình cầm gương soi trong khi có tiếng động cơ máy bay tận phía chơn trời: đúng là Việt gian báo hiệu cho không quân Pháp đến bắn phá. Một cái mũ trắng đội trên đầu, một chiếc nón phe phẩy cho mát trên cánh đồng mênh mông, thậm chí một kẻ ngồi đại tiện trên góc quả đồi trơ trọi cũng bị nghi là Việt gian báo hiệu cho địch. Rồi một vài nén hương châm cắm vô tình trên phần mộ, rồi tờ giấy bạc của bao thuốc lá thơm ném bâng quơ trên bãi cỏ: Việt gian, Việt gian tất… Một học sinh mang theo trong người chiếc bút chì nhiều mầu hay một cụ già mặc chiếc áo sa tanh cũ trong có mép vải viền tam tài: đấy là cờ của Pháp, đấy là dấu hiệu để Việt gian nhận nhau cho dễ. Kinh hoàng của người dân trước việc bắt bớ vì lý do Việt gian lên đến tột bực. Hơn thế nữa, người dân còn luôn luôn bị hoảng hốt, tưởng tượng xung quanh mình ai cũng có thể là Việt gian, có thể bất cứ lúc nào máy bay Pháp cũng nhờ được Việt gian chỉ dẫn bắn phá nơi mình cư ngụ. Số nạn nhân Việt gian lên đến hàng ngàn, hàng vạn. Giam cầm, đầy ải hoặc thủ tiêu? Chẳng ai biết, chẳng ai hay. Được thế, dân quân du kích, Công an, hay Ủy ban kháng chiến cứ việc bắt bớ thẳng tay, không thương tiếc”. -Xác người trôi đầy sông. Một nhân chứng khác là tác giả Vũ Trọng Kỳ trong quyển Bốn Đời Chạy Giặc đã phải bỏ nghề kiểm lâm để mua một thuyền nan nhỏ buôn bán một ít đồ hàng trên sông ở khoảng Đò Lèn và đã chứng kiến (trang 187 sđd): “Bồng bềnh trên mặt nước, tâm thần tôi luôn luôn hồi hộp vì thấy mạng con người buổi loạn ly như treo trên sợi tóc. Hàng ngày thấy những tử thi, đàn ông, đàn bà, con trẻ, nhiều cái không toàn thân, lõa lồ, mất đầu, hay cụt cẳng, có cái chân tay bị trói, hết thẩy chương, sình, nổi lều bều, theo giòng nước cuốn, hoặc bị mắc vào đám bèo đám rong, quang cảnh thật hãi hùng”.

giavui
07-11-2014, 09:13 PM
- 27 -
Đạo Đức Cách Mạng thứ tư của bác:
Ngoài miệng thì niệm nam mô
Trong bụng thì chứa một bồ dao găm

-2-9-1945 là ngày ông đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng chục ngàn dân chúng ở Quãng Trường Ba Đình. Tôi nói đúng không?

Thôi Phán Quan mở màn phiên xử Hình Chí Mô sáng hôm nay bằng câu hỏi này. Họ Hình có vẻ suy nghĩ giây lát mới trả lời.

-Ông nhớ không sai… Đó là ngày quan trọng của tôi cũng như của toàn dân Việt Nam…

-Đây là đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn độc lập mà ông đã tuyên bố với đồng bào cả nước:

-Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo Hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lời nói bất hủ ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ.

Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các Dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là lẽ phải không ai chối cãi được…

Đúng không? -Đúng… Ông nhớ không sai một chữ nào… Cười cười Thôi Phán Quan hỏi tiếp. -Ông có thực hành đúng những gì ông hứa hẹn với đồng bào của ông không? Ông có thực thi tự do, dân chủ, no ấm cho họ không?

Ngần ngừ giây lát Hình Chí Mô cười trả lời.

-Chưa mà chắc hổng bao giờ tôi làm…

-Tại sao?

-Tại vì… tại vì… Mọi người đều hiểu sai ý nghĩa của bản tuyên ngôn mà tôi đã đọc ngày 2-9-1945…

-Ông có thể cho tòa biết ý nghĩa của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập mà ông đã đọc?

-Được chứ… Đồng bào trong nước lúc bấy giờ hiểu sai cái ý nghĩa của hai chữ độc lập của tôi. Nó có một ý nghĩa đặc biệt hơn. Độc là độc tài, còn lập là thiết lập. Như vậy hai tiếng ” độc lập ” của tôi là thiết lập một chế độ độc tài chuyên chế, độc tài đảng trị như ở Liên Xô mà đồng chí vĩ đại Lê Nin và XítTa-Lin đã làm hay Mao Chủ Tịch đã lập ở Trung Hoa lục địa. Đồng bào tôi lúc đó, tám mươi năm sống dưới chế độ ngu dân của thực dân Pháp nên hiểu sai ý nghĩa của hai tiếng độc lập mà tôi đã tuyên cáo với quốc dân đồng bào trong ngày 2-91945…

Từ Diêm Vương cho tới 9 vị bồi thẫm mà luôn cả mấy ngàn người đang hiện diện trong phòng xử đều trợn trắng hai con mắt sau khi nghe Hình Chí Mô giải thích về hai tiếng độc lập. Ông vua âm phủ thở khì.

-Ngươi đúng là thứ ăn nói ngược ngạo…

-Bẫm Diêm Vương… Cái này hổng phải lỗi của tôi mà do ở tiếng quốc ngữ của tôi nó có nhiều ý nghĩa sâu xa quá bởi vậy ai muốn nói sao cũng được và hiểu sao cũng được…

Diêm Vương cứng họng. Ở âm phủ mấy ngàn năm, không có tiếp xúc với thế giới bên ngoài do đó ông ta làm sao cãi lại một người nổi tiếng nói một đàng làm một nẻo, nói như vậy mà hổng phải như vậy. Chi có Thôi Phán Quan là giữ được thái độ bình thản. Hướng về đám đông đang ngồi dưới kia ông ta cao giọng.

-Kính thưa quí vị… Thủ tiêu các đảng phái đối lập, hạ sát những phần tử quốc gia yêu nước chưa đủ, Hồ Quỉ Vương còn chiếu cố tới hai thành phần mà cộng sản coi như kẻ thù không đội trời chung. Đó là giới trí thức và tôn giáo. Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo đều có tên trong sổ phong thần của quỉ vương. Sau đây tôi kính mời quí vị nghe lời thuật kể về vụ sát nhân ghê tởm của bị can và băng đảng cộng sản…

-Đúng ngay ngày 19-8-1945, ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, thì ở Hà Đông sư phụ của Thầy Thích Quảng Độ là Hòa thượng Thích Đức Hải bị xử tử.

Ngày 19-8-1945, vào lúc 10 giờ sáng, Hòa thượng Thích Đức Hải, trụ trì tại chùa Linh Quang, xã Thanh Sam, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông đã bị đánh đập dã man trước khi bị hành quyết tại bãi cỏ trước đình làng Bặt thuộc phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, cách chùa của hòa thượng hai cây số. Trong bức thư gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười ngày 19-8-1994, Hòa thượng Thích Quảng Độ giãi bày như sau:

“Nhưng dù có bị giết chăng nữa thì tôi cũng nói lên niềm tin vững chắc của tôi là chủ nghĩa Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài. Không phải bây giờ tôi mới có niềm tin ấy, mà nó đã nảy sinh trong tôi ngay từ lúc 10 giờ sáng ngày 19-8-1945 (hồi đó tôi 18 tuổi) khi tôi nhìn sư phụ tôi, hai tay bị trói bằng dây kẽm quặt về phía sau, cổ đeo hai tấm biển viết mấy chữ Việt gian Bán nước, một tấm trước ngực một tấm sau lưng, đứng giữa sân đình làng Bặt, hai bên một đoàn người tay cầm gậy gộc giáo mác, cu liêm bồ cào đứng canh gác. Một nhóm người mệnh danh là quan tòa của Tòa án nhân dân đứng trên thềm đình để xử án. Họ bắt sư phụ tôi quì xuống sân đình và cúi đầu nghe tòa luận tội. Nhưng sư phụ tôi đã không chịu làm thế. Một người từ trên thềm đình bước xuống đứng trước mặt sư phụ tôi, nói: “Mày là thằng Việt gian Bán Nước mà còn ngoan cố à?”

“Nói xong, họ đấm vào quay hàm thầy tôi mấy cái, một dòng máu từ trong miệng sư phụ tôi ứa ra, chảy theo cằm nhỏ xuống thấm đỏ tấm biển Việt gian Bán nước ở trước ngực. Lập tức họ tuyên án tử hình rồi đưa sư phụ tôi ra trước bãi cỏ trước đình, máu từ miệng sư phụ tôi tiếp tục chảy ra, thấm vạt áo dài, nhỏ xuống sân đình. Khi đến bãi cỏ, họ vật sư phụ tôi nằm nghiêng xuống rồi một người bắn vào màng tai sư phụ tôi ba phát súng lục, lại một dòng máu đỏ tươi phun lên thẳng tắp và sư phụ tôi chết liền tại chỗ. Dòng máu ấy với hình ảnh sư phụ tôi hai tay bị trói nằm chết trên bãi cỏ máu me đầy mặt, hai tấm biển Việt gian Bán nước thấm máu, vạt áo thấm máu, hai bàn chân thấm máu, máu vương trên bãi cỏ, chỗ nào cũng thấy máu. Tất cả những hình ảnh ấy đến nay đã 49 năm rồi mà tôi vẫn còn nhớ như in và tưởng chừng như mới hôm nào đó thôi. Thật là một cơn ác mộng.”

“Trong cơn đau đớn tột cùng và hai hàng nước mắt tuôn chảy, ngay từ giờ phút ấy, ngồi trên bãi cỏ nhìn xác sư phụ tôi, tôi đã nghĩ Cộng sản sẽ không tồn tại lâu dài, lí do: Cộng sản chủ trương căm thù đấu tranh giai cấp, đánh và giết người như thế là ác quá, mà cái ác thì thường không bền, lịch sử đã chứng minh điều đó. Bởi lẽ, tâm lí người ta nói chung, tuyệt đại đa số đều yêu cái thiện ghét cái ác, mà cái người ta đã ghét thì khó tồn tại lâu được. Bảy mươi bốn năm tồn tại (1917-1991) của chế độ Cộng sản Liên sô không phải là một thời gian lâu dài nếu so với 215 năm tồn tại của triều đại nhà Lý tại Việt Nam mà, theo giáo sư Hoàng Xuân Hãn, là một triều đại thuần từ nhất trong lịch sử Việt Nam.”

Bức thư Hòa thượng Thích Quảng Độ viết ngày 19-81994 gởi cho Tổng bí thư Đỗ Mười là một bức thư lịch sử vô cùng quan trọng, bởi vì đúng vào ngày 19 tháng tám 49 năm trước, tức là ngày Hồ Chí Minh cướp chính quyền 19-8-1945, máu vị chân tu Thích Đức Hải đã chảy thấm tấm biển Việt gian Bán nước, để khởi đầu cho CƠN PHÁP NẠN do Cộng sản vô thần gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, hòa thượng Thích Quảng Độ cũng tố cáo Cộng sản đã sát hại vị sư bá và sư tổ của mình.

Vị sư bá của Hoà thượng Thích Quảng Độ (tức là đạo huynh của Hòa thượng Thích Đức Hải) là Hòa thượng Thích Đại Hải. Ngài trụ trì chùa Pháp Vân (chùa Dâu) thuộc tỉnh Bắc Ninh, cũng đã bị Cộng sản bắt vào năm 1946 và sau đó đã chết vì bị kết tội là đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng.

Vị sư tổ của Hòa thượng Thích Quảng Độ pháp huý là Thích Thanh Quyết trụ trì chùa Trà Lũ Trung, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Năm 1954, Cộng sản vào chùa bảo ngài có tội dùng tôn giáo chính là thuốc phiện để ru ngủ nhân dân và sẽ bị qui định thành phần đưa ra đấu tố. Ngài quá sợ bèn thắt cổ chết để khỏi bị mang ra đấu tố…

-Ở miền Trung, chỉ 4 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Việt Cộng xử dụng thủ đoạn mời các nạn nhân Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh đi họp rồi âm thầm thủ tiêu bằng cách lấy xẻng cuốc đập chết và vùi chôn xác ở một vùng của rừng Hắc Thú thuộc tỉnh Quảng Trị.



Từ quyển Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ

Trong 5 vị thành lập Ủy ban Kiến quốc ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để là Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Vũ Văn An, Vũ Đình Dy và Lê Toàn (Ngô Đình Diệm làm lãnh tụ, bác sĩ Chữ làm phó) thì có 2 vị đã bị Cộng sản sát hại: Vũ Đình Dy bị Cộng sản xử tử năm 1945 và qua năm sau 1946, Vũ Văn An cũng bị xử tử trong điều kiện tương tự (Hồi k ý Nguyễn Xuân Chữ, trang 18). Hai lãnh tụ quan trọng Quốc dân đảng là Nguyễn Ngọc Sơn và Nguyễn Thế Nghiệp mà Bác sĩ Chữ có được gặp mấy lần trong thời gian trước ngày Việt Minh đảo chính, đều bị cắt tiết ở Trèm Vẽ, xác thả trôi sông. Bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ cũng tường thuật những cách giết người dã man của Hồ Chí Minh vào thời gian đó như sau (Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ, trang 303): “Thời kỳ đầu, Việt Minh cầm chính quyền, cán bộ còn thiếu súng đạn. Chôn sống, cắt tiết, đành là những triệu chứng căm thù, cũng còn là những phương pháp tiết kiệm đạn. Ở đây, cắt tiết còn thêm moi gan trong những trường hợp giết vì thù cá nhân. Lại còn một thủ đoạn nữa, tàn nhẫn bội phần, là lấy búa bổ lên đầu người, như đồ tể bổ vào đầu vật…



Vụ sát hại Tín đồ Cao Đài ở Quảng Nam và Quảng Ngãi

Trích từ Bạch thư Cao Đài giáo do Giáo hữu Ngọc Sách Thanh phổ biến ở California, Hoa kỳ, ngày 9-41999, các tín hữu Cao Đài ở những tỉnh phía nam Trung phần đã gánh chịu tai ách về Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh như sau:

“Trong suốt ba tuần lễ từ 19-8-1945, chỉ riêng trong phạm vi tỉnh Quảng Ngãi, đã có 2.791 Chức sắc, Chức việc và Tín hữu Cao Đài đã bị những người Cộng sản Việt Nam sát hại bằng đủ mọi cách, như chém đầu, chôn sống, thả biển và cả hình thức tùng xẻo như thời Trung cổ. Trong đó có các vị Chức sắc cao cấp như Đức Liễu Tâm Chơn Huỳnh Ngọc Trác, Giáo sư Lê Đức, Giáo sư Ngọc Thành Thanh, các Giáo hữu Nguyễn Trân, Lê Đường, Lê Quang Viện, Nguyễn Sử, Nguyễn Kỉnh, Bùi Phụng, Nguyễn Thống, Trần Lương Hiếu, v.v… Giáo sư Nguyễn Hồng Phong cùng năm nhân sĩ khác bị giết tại Làng Bầu, Quảng Nam.

“Việc sát hại tập thể người Cao Đài này vì lẽ họ không chối bỏ đức tin Thượng Đế, Tự do Tôn giáo và Nhân quyền. Đây là lệnh của Hồ Chí Minh ban ra cho Nguyễn Chánh, Phạm Văn Đồng thi hành sự chém giết tại Quảng Ngãi; còn Hồ Nghinh, Hoàng Minh Thắng thi hành tại Quảng Nam, Đà Nẵng. Hơn thế nữa, họ còn tiêu diệt chôn sống nhà trí thức nổi tiếng Tạ Thu Thâu, quý Nhân sĩ chân chánh quốc gia như các ông Cao Văn Trung, Hồ Hóc, Hồ Nhãn, Hồ Hồng, và hàng loạt những người bất đồng chánh kiến khác cũng bị giết hại tại Quảng Ngãi tháng 8-1945.”



Vụ sát hại sông Lòng Sông

Nhắc lại thời điểm 23-9-1945 ngày Nam bộ Kháng chiến, khi quân Pháp trở lại tái chiếm Sài Gòn, nhóm Đệ tứ đã tập hợp các toán võ trang để chống cự. Trong khi nhóm Trần Văn Giàu và Nguyễn Văn Trấn kéo khỏi Sài Gòn đi về phía Bình Chánh, Tân An thì nhóm võ trang Đệ tứ tập trung và lập bản doanh ở vùng suối Xuân Trường, Thủ Đức. Tác giả Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu trong quyển Những ngày qua tường thuật vụ ra tay hèn hạ của nhóm Đệ tam của Trần Văn Giàu như sau (trang 130 sđd):

“Bộ đội của Trần Văn Giàu, Dương Bạch Mai thay vì lo đánh Pháp lại tìm cách bao vây giải giới nhóm này với chủ trương để thống nhất bộ đội võ trang. Nhiều người trong nhóm võ trang Đệ tứ đã không đồng ý cho giải giới, nhưng nhiều người khác lại không muốn có chuyện đổ máu giữa người Việt với nhau. Cuối cùng 64 người trên 68 có mặt hôm ấy bỏ thăm chịu ở lại, chấp thuận chịu cho giải giới. Những liệt sĩ này không ngờ là họ đã tự trói tay để sau này bị giết tập thể ở sông Lòng Sông ở Phan Thiết.” Trong số 64 người bị giết ở địa điểm sông Lòng Sông này, có 2 người nổi tiếng là Phan Văn Hùm và Trần Văn Thạch.



Tác giả Hứa Hoành tường thuật

Bằng cách thu thập tài liệu theo lời kể của những nhân chứng ở miền Nam vào lúc đó, trong bài Việt Minh Cộng sản cướp công kháng chiến chống Pháp ở miền Nam, Hứa Hoành thuật lại những thủ đoạn ám sát khủng bố như sau:

“Từ ý nghĩa cuộc chiến tranh Vệ quốc, chống lại kẻ thù trở thành xâm lăng là Pháp, bọn Cộng sản chỉ hô hào, tuyên truyền để giành lấy chính nghĩa, rồi đêm đêm tìm cách bắt những người nào chống lại chúng, thủ tiêu. Ban ngày chúng mời đến họp, thành lập ủy ban, ban đêm chúng gõ cửa dẫn đi mất. Mấy ngày sau, xác nạn nhân sình thối trôi nổi trên sông. Thời kỳ đó Việt Minh khủng bố còn hãi hùng hơn cả Thực dân. Chúng bắt người bỏ vào bao bố, trấn nước cho chết gọi là mò tôm, hoặc bắt người mổ bụng dồn trấu, với tội danh mơ hồ Việt gian, hoặc không bao giờ kết tội gì cả.”

Trong bài Dưa hấu Trà Bang (do Nguyệt san Làng Văn số 101 tháng 1-1993), tác giả Hứa Hoành nói về địa danh Ba Động, vùng đất ven biển của tỉnh Trà Vinh, là do nơi đó có 3 đụn cát gió thổi bồi lên nên dân chúng mới gọi là Ba Động. Tác giả Hứa Hoành viết:

“Ba Động có một con sông chảy ngang qua, song song với bờ biển. Năm 1936, Pháp cho bắc cây cầu sắt nối liền với nhà nghỉ mát của họ mới xây ngoài bờ biển. Năm 1946, Cộng sản lấy danh nghĩa “tiêu thổ kháng chiến” để phá sụp cầu, đến nay cũng không bắc lại được. Con sông Ba Động từng chứng kiến cảnh giết người man rợ của Cộng sản. Chúng bắt các nhân sĩ yêu nước thuộc Phật giáo Hòa Hảo như Chung Bá Khánh, Đỗ Hữu Thiện, Võ Văn Thời, Lâm Thành Nguyên… đem neo dưới nước cho chết ngộp. Riêng ông Lâm Thành Nguyên may mắn tự mở trói được, trong đêm tối lẩn trốn trong các bụi rậm thoát hiểm.”

Cách giết người gọi là mò tôm trên đây, có lẽ phổ biến khắp nước. Ở miền Bắc, bác sĩ Nguyễn Xuân Chữ nghe một người học trò lớp y tá của ông trò chuyện với các bạn học và viết lại trong Hồi ký Nguyễn Xuân Chữ như sau: “Thày mà Quốc dân Đảng, cũng tôm cả thày”. Thời Việt Cộng, nói “Cho thầy đi mò tôm” chi cho dài. Phải nói ngắn gọn “Tôm cả thầy” thì mới “trình độ” hơn!

-Tham khảo bài viết CSVN đã từng giết tập thể tín đồ PGHH của tác giả Nguyễn Huỳnh Mai, bài đăng ở Thương nghiệp Tuần báo số 106, ngày 12-8-1999.

Ngày 25-7-1999, một tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là cụ Phan Thanh Nhãn, lúc đó 84 tuổi cư ngụ tại Garden Grove, tiểu bang California, đã viết Thỉnh nguyện thơ gởi Quốc hội, các cơ quan Lập pháp và Hành pháp Hoa Kỳ, các cơ quan Nhân quyền và Truyền thông Quốc tế tố cáo tội ác Việt Cộng như sau:

1- Cộng sản giết người và chôn trong những hầm chôn tập thể. Ở xã Tân An gần nhà cụ có 2 hầm chôn 400 người. Tại xã Mỹ Ngãi, rạch ông Cả Điền quận Cao Lãnh có 4 hầm, trong đó có 3 hầm chứa 180 người chết vì đạo. Hai hầm khác chôn 652 người tại xã Tân Thành quận Tân Hồng (là hai quận cũ Tân Châu và Hồng Ngự nhập lại). Riêng 9 hầm nữa, cụ Nhãn không biết rõ số người, tại đình Long Thuận xã Long Thuận tỉnh Long Xuyên.

2-Riêng về gia đình cụ có 15 người là cha mẹ, anh em, và bà con ruột thịt trong nhóm bị bắt 115 người. Tất cả bị trói tréo tay sau lưng bằng dây chì và chở trên chiếc ghe cà dom vào rạch Cá Gừa xã Mỹ Ngãi quận Cao Lãnh tỉnh Sa Đéc (cũ), nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, đến 3 cái hầm lớn đã đào sẵn. Theo nhân chứng còn sống sót kể lại, thì Cộng sản đem từng người đến miệng hầm, dùng dao găm đâm vào hang cua ở cần cổ rồi đạp cho rớt xuống hầm. Nếu có ai còn sống bò dậy thì chúng lấy chày vồ đập vào đầu rồi xô trở xuống, sau cùng lấp đất lại. Vào lúc cụ Nhãn viết thỉnh nguyện thơ nầy, cụ cho biết hai tên hung thủ tham gia cuộc tàn sát là tên Quắn đã chết và tên Năm Hỉ lúc đó còn sống và ngụ tại chợ Trần Quốc Toản, thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

3-Cụ Phan Thanh Nhãn đau lòng nói rằng em gái cụ là người ăn chay trường, mặc y phục màu dà, và tu theo Phật giáo Hòa Hảo, vì xinh đẹp nên bị ba tên thay phiên nhau hãm hiếp! Sau đó chúng mổ bụng lấy gan làm đồ nhậu tại nhà Nguyễn Xuân Vinh, tại xã Tân An Cao Lãnh. Cha mẹ ông vì thương con bị hãm hiếp, đã kêu la nên cũng bị giết luôn!

Trong Bản Cáo trạng của cụ Phan Thanh Nhãn, chúng ta đếm được tất cả 18 hầm chôn tập thể. Nhưng tổng số nạn nhân bị sát hại thì không thể nào kiểm chứng được!



Hầm chôn người tập thể ở Mỹ Tho năm 1945

Luật sư Hình Thái Thông, bạn học của Tạ Thu Thâu ở trường Bổn Quốc, sau có du học ở Pháp, cũng là nạn nhân Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh. Tác giả Phương Lan Bùi Thế Mỹ chỉ viết vài dòng ngắn ngủi (Trích quyển Nhà Cách mạng Tạ Thu Thâu, tr. 90): “Thông làm trạng sư ở Sài Gòn sau về Mỹ Tho, rồi bị giết hại trong Phong trào Thanh niên Tiền phong, 1945, chôn tập thể một hầm gần 100 người tại Quởn Long (Chợ Gạo Mỹ Tho), năm sáu năm sau mới tìm thi hài ra được.”

Bà góa phụ Hình Thái Thông, sau là giáo sư dạy Pháp văn trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho, các học sinh vào đầu thập niên 1950 đều có học Pháp văn với bà.



Đám Giỗ hội ở Gò Công

Xin nhắc lại một thiên tai xảy ra ở Gò Công vào năm Giáp Thìn cách đây hơn 100 năm, tức là khoảng tháng 31904. Đó là một cơn Sóng thần Tsunami ập vào miền duyên hải tỉnh Gò Công, vùng Vàm Láng và cửa Cần Giờ, gây thiệt mạng rất nhiều, gần như gia đình nào cũng có người bị chết. Vì cơn sóng thần đó, nên ở Nam Kỳ có câu vè truyền tụng “Đèn nào cao bằng đèn Châu Đốc – Gió nào độc bằng gió Gò Công”. Từ đó về sau, vào ngày kỷ niệm Sóng thần, gia đình nào cũng làm đám giỗ. Đi khắp vùng, vì nhà nào cũng cúng giỗ, nên mới có tên là “Đám Giỗ hội”.

Vào Mùa thu “Kách mệnh” 1945, Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh cũng gây một “Đám Giỗ hội” tương tự như Tsunami 1904 ở Gò Công. Theo lời kể của một vị cao niên quê ở Gò Công là L.T.Q., thì nạn nhân là ông Đốc Phủ Hải và một số nhân viên làm việc ở Tòa Hành chánh khoảng trên 20 người đã bị Việt Minh Cộng sản tố cáo là “Việt gian”. Thế rồi họ bị tàn sát tập thể và chôn trong một hầm ở xã Bình Thành cách tỉnh lỵ 13 cây số. Theo lời kể của vị cao niên ấy, thì vào lúc đó ông Đốc Phủ Hải đã về hưu và là người rất nhân đức nên được người dân Gò Công thương yêu kính trọng!



Thêm vài vụ xử tử ở Gò Công

Ông Đốc Phủ Hải bị sát hại vì bị tố cáo là “Việt gian”, nhưng thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư dạy môn sử địa ở trường Trung học Trương Vĩnh K ý, thì bị giết vì thuộc thành phần “Trí thức”. Trong quyển Những ngày qua, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu nhắc đến Trần Thanh Mậu cùng là học sinh nội trú trường Petrus Ký với ông. Về những vụ xử tử nầy, Bác sĩ Trần Ngươn Phiêu viết như sau (trang 36 sđd):

“Trần Thanh Mậu là người có nhiệt tâm với đất nước, thường bàn với anh em nội trú về tương lai Việt Nam trong các giờ chiều sau buổi học. Khi Việt Minh cướp chánh quyền ở Miền Nam, anh thuộc những thanh niên đã tiên phong góp sức nhưng đã bị Cộng sản đem ra xử tử ở sân vận động Gò Công cùng hơn mười thanh niên trí thức và thầy Nguyễn Văn Thành, vị giáo sư sử địa trường Petrus K ý. L ý do thầm kín thật ra là vì các anh thuộc thành phần trí thức hăng hái nhưng hay chỉ trích các sai trái của Cộng sản địa phương. Đảng Tân Dân chủ lúc bấy giờ có phái Đặng Ngọc Tốt từ Sài Gòn đến can thiệp cho các anh nhưng không hiệu quả. Tốt chỉ có nước khóc và ôm anh em trước giờ hành quyết mà thôi!”



Những vụ sát nhân lẻ tẻ

Việt Minh Cộng sản đã sát hại 2 vị cao niên đạo Cao Đài. Theo lời kể của anh Ng. Đ. L., một thuyền nhân tỵnạn hiện ở Sydney: “Chú Ba Ân và chú Bảy Ri, lúc đó đã trên 60 tuổi, thường cúng tứ thời mỗi ngày. Hôm đó, trong khi 2 người đang cúng kỳ 12g khuya ở bàn Thiên ngoài trời, thì bị chúng bắt dẫn đến bờ sông Cái và giết chết. Ba ngày sau, xác 2 người nổi lên, dân làng mới biết 2 người bị đập đầu chết và vạt áo dài họ mặc lúc làm lễ đã bị cột dính vào nhau.”

Người tín đồ Cao Đài thứ 3 là bác Ba Chà bị chúng cho đi mò tôm. Khi chân bác chạm đáy sông, bác đạp bung lên nên dây cột sút ra. Khi trồi lên, Bác còn bị đập đầu, nhưng không chết. Bác lặn xuống và lần theo đáy sông lặn đi thật xa. Đến khi hết hơi, bác trồi lên, tấp vào bờ bất tỉnh. May cho bác vì đến đó bọn sát nhân đã bỏ đi. Bác may mắn thoát chết, nhưng không dám ở Long Hựu nữa, bác đành bỏ cả nhà của ruộng vườn, di tản lên Thánh thất Tây Ninh lánh nạn.

-Câu chuyện anh B. Đ. Ph., người tỉnh Trà Vinh hiện định cư ở Sydney, trốn chạy Cộng sản cũng giống như bác Ba Chà ở Long Hựu, tỉnh Long An. Gia đình anh tất cả đều theo đạo Cao Đài, nhà ở gần thánh thất nhỏ của tỉnh nhà. Cũng vào khoảng 1946, người chú ruột của anh bị Việt Cộng giết! Biết không thể sống ở Trà Vinh được nữa, cha anh mới âm thầm sắp xếp cuộc trốn chạy. Chờ đến nửa đêm, cả nhà lặng lẽ xuống ghe, bỏ lại tất cả tài sản nhà của ruộng vườn, theo đường sông, tìm cách về Tây Ninh để tỵ nạn Cộng sản. Vào lúc đó, anh B. Đ. Ph. còn quá nhỏ nên anh không nhớ phải mất mấy ngày chiếc ghe tỵ nạn của gia đình anh mới đến Tây Ninh và phải đi theo thủy lộ nào. Vào lúc đó, Thánh thất Tây Ninh là vùng an toàn cho tín đồ đạo Cao Đài, và gia đình anh B. Đ. Ph. là những thuyền nhân tỵ nạn Cộng sản đầu tiên, trước đồng bào di cư miền Bắc năm 1954 và những thuyền nhân sau ngày Quốc hận 30-4-1975.

-Sau đây là câu chuyện của anh L. V. Ng., một thuyền nhân hiện định cư ở Sydney.

Anh cũng là một tín đồ đạo Cao Đài quê ở ấp Trâm Vàng, làng Thạnh Phước, quận Gò Dầu Hạ, tỉnh Tây Ninh. Một đêm trong năm 1947, Việt Cộng về ấp, đốt nhà và sát hại những tín đồ Cao Đài trong ấp của anh. Lúc đó anh 12 tuổi. Anh còn nhớ núp trong rừng chồi gần đó, anh nhìn thấy nhà của anh, của bác anh, và các nhà khác cháy rực cả góc trời. Bác của anh, một nông dân ròng rặc không biết một chữ Pháp cũng bị giết cùng với một số bạn đạo khác. Nhà ông Ba Mít bị cháy, lửa ăn qua chiếcxe bò là phương tiện làm ăn của ông. Ông bất kể mạng sống, liều chết chạy lại kê vai kéo chiếc xe ra khỏi đám lửa. Một tên Việt Cộng thấy vậy, cũng chạy lại đâm ông chết. Đến sáng, cha anh dẫn đàn con 5 đứa đi lánh nạn, mẹ anh bồng đứa con nhỏ nhất, anh cũng cõng một đứa em, đoàn người lết bết đi đến Châu Vi, một vuông đất trống gần bót Cao Đài. Trên đường đi, ngang qua nhà ông Thàng, họ nhìn thấy xác mẹ ông Thàng nằm chết cong queo trên đống than còn đang bốc khói. Theo lời anh L. V. Ng, tất cả những tín đồ Cao Đài đều bị giết trong đêm đó.



Mang súng vào lớp xử tử học sinh

Câu chuyện do một nhân chứng vốn là học sinh và saunầy là đại tá Nguyễn Văn Ánh thuật lại và do giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm là cựu hiệu trưởng của trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký ghi chép trong quyển Trường Trung học Petrus Ký và nền giáo dục phổ thông Việt Nam (trang 56):

“Một học sinh Petrus Ký bị xử tử ngay trong lớp học trước sự ghê sợ của giáo sư và học sinh của trường… Hồi năm 1950, một buổi chiều, khoảng 2 hay 3 giờ, trong giờ Pháp văn của giáo sư Nguyễn Văn Hai, có 6 người lạ mặt xông vào trường Petrus Ký. Hai người đi thẳng vào lớp Troisième Année B. Mấy người còn lại đứng canh chừng ở bên ngoài. Hai người vào lớp kêu tên hai học sinh của lớp nầy. Họ bắt một trong hai học sinh đó lên trên chỗ vách tường gần bàn giáo sư. Họ đọc to bản án tử hình cho mọi người nghe. Sau khi đọc xong bản án, một trong hai tên nầy dùng súng lục bắn chết anh học trò kia ngay trước sự chứng kiến của giáo sư Hai và tất cả học sinh của lớp Troisième Année B. Sau khi thi hành xong thủ đoạn, cả bọn cùng chạy ra đường Cộng hòa vừa hô to khẩu hiệu Việt Nam Độc lập muôn năm. Người bị xử tửtên là Minh, mà theo đại tá Ánh thì là một học sinh học hành rất chăm chỉ và là người có phẩm hạnh không có gì đáng chê trách… Bản án kết tội anh Minh là làm mật thám cho Pháp. Dù có hay không, việc xử tử công khai một học sinh ngay tại lớp học, ở trong một trường học lớn, trước sự chứng kiến của giáo sư và học sinh, vẫn là một hành động khát máu và hoàn toàn trái ngược với luân lý giáo dục.”

Theo lời kể của cụ Nguyễn Trân, thì số nạn nhân bị sát hại trong đại họa Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh là 8000 người trong vòng 40 ngày. Theo giáo sư Stephen Morris thuộc Viện Nghiên cứu Đông Á (Institute of Asean Studies), trường Đại học U. C. Berkeley, thì chỉ trong vòng 6 tháng cuối năm 1945 và đầu năm 1946, Cộng sản Việt Nam đã tàn sát đến 10 ngàn người của phía Quốc gia và phe Đệ IV Quốc tế. Chi tiết nầy được trích từ quyển Việt Nam, cuộc chiến tranh Quốc gia-Cộng sản của Nhóm Nghiên cứu Lịch sử ở Santa Clara, California (trang 281). Nhưng nếu chúng ta làm bản tổng kết của các tác giả vừa tường thuật trên đây, thì số nạn nhân trong Lễ Tế cờ của Hồ Chí Minh không thể dưới con số 20.000 người được…

Thôi Phán Quan ngừng đọc. Gấp xấp giấy dày cộm lại, hướng về chỗ 9 vị bồi thẫm đang ngồi ông ta cất giọng trầm và buồn.

-Bị can Hình Chí Mô giết người thì nhiều không kể xiết. Tuy nhiên cái khiến cho hắn trở thành ” ác nhất thiên hạ ” chính là hành hạ và giết chóc trẻ con. Sau đây là những câu chuyện kể thật đau lòng nói về hành động vô nhân của bị can…



Vung mã tấu chặt ngón tay em học sinh nhỏ tuổi nhất

Vào một ngày trong niên học 1961-1962, trong địa hạt tỉnh An Xuyên, “Việt Cộng đã chận các em học sinh đang đi đến trường, chọn một em nhỏ nhất trong nhóm rồi vung mã tấu chặt đứt một ngón tay của em và hăm dọa nếu còn tiếp tục đến trường thì các em sẽ chịu hình phạt như thế!”(Trích bài Liên Hoa của tác giả Phan Thịnh, Nguyệt san Làng Văn số 203 tháng 7-2000, trang 26). Tác giả Phan Thịnh kể thêm rằng: “Toàn tỉnh An Xuyên, số học sinh bị sút giảm 20.000 em, 150 trường học phải đóng cửa, khoảng hơn 60 giáo viên bị bắt cóc hoặc bị giết! Trong niên học đó, trên toàn lãnh thổ miền Nam đã có đến 630 trường học phải đóng cửa vì sách lược khủng bố này”.

Sách lược khủng bố giáo viên và học sinh kể trên gây những hậu quả thảm khốc như thế, đến nỗi Hiệp hội các Tổ chức Sư phạm Thế giới (World Confederation of Organizations of the Teaching Profession) đã phải cử một phái đoàn đến miền Nam Việt Nam để điều tra. Bài viết của ký giả John B. Hubbell tường trình sự việc trên được đăng tải trên Reader’s Digest (số tháng 11-1968) và thành đề tài cho Phan Thịnh viết bài Liên Hoa nói trên.



Chặt hai bàn tay em bé 7 tuổi

Cũng từ bài viết đăng trên số Reader’s Digest đó của ký giả John B. Hubbell, bài được Trung tướng TQLC Lewis Walt giới thiệu, chúng ta đọc thêm được tội ác kinh hoàng của Việt Cộng như sau (Bài do anh Thuận một độc giả ở Queensland gởi Diễn đàn độc giả của Tuần báo Saigon Times ngày 28-10-2004):

“Viên xã trưởng cùng với bà vợ như người điên cuồng, vì một trong các đứa con của họ, một bé trai mới 7 tuổi, đã bị mất tích từ bốn ngày rồi. Họ tìm đến Trung tướng Lewis W. Walt để cầu cứu vì tin rằng đứa bé đã bị VC bắt cóc.”

“Rồi đột nhiên, thằng bé thoát ra khỏi rừng, chạy băng qua các đồng lúa để trở về làng. Thằng bé vừa chạy vừa khóc. Mẹ nó vội chạy ra, ôm nó vào lòng, và đau xót kinh hoàng khi thấy cả hai bàn tay đứa nhỏ bị chặt đứt và trên cổ nó có đeo một cái bảng, ghi những dòng chữ cảnh cáo cho cha nó.”

Thì ra VC muốn phá bỏ kỳ bầu cử sắp sửa diễn ra của Việt Nam Cộng Hòa nên mới cảnh cáo ông xã trưởng, hay bất kỳ người nào trong làng, cả gan đi bỏ phiếu, ông sẽ chịu những điều tệ hại hơn nữa cho những đứa con còn lại của ông ta.



Ném lựu đạn vào đêm lửa trại học sinh Qui Nhơn

Vào một đêm năm 1972, tại sân vận động Qui Nhơn, trong khi học sinh và hướng đạo sinh trường trung học Cường Để đang vui vầy với lửa trại thì tên Việt Cộng nằm vùng là Vũ Hoàng Hà quăng lựu đạn vào đám lửa trại để tàn sát những học sinh và nhà giáo trong tay không một tấc sắt! Cuộc thảm sát gây 14 học sinh bị mất mạng và một số bị thương. Cô giáo sư Pháp văn Đặng Thị Bạch Yến, có giọng ca thật điêu luyện như ca sĩ chuyên nghiệp, đến để vui lửa trại với các em trại sinh, bị chết ngay tức khắc. Cô chết đi tuổi chỉ vừa 30, để lại ba đứa con 4 tuổi, 2 tuổi và 1 tuổi mồ côi mẹ. Chồng cô là giáo sư Anh văn Tạ Quang Khánh bị thương nặng. Khi xe cứu thương đến, ông chân bước lên xe, tay ôm mớ ruột bị lòi ra ngoài, thân mang đầy vết lựu đạn!

Một nhân chứng cho biết thủ phạm Vũ Hoàng Hà leo qua nấp ở chùa Long Khánh và được cơ sở nằm vùng của Mặt trận Giải phóng Miền Nam đưa vào mật khu lẩn trốn. Sau khi chiến thắng miền Nam, Vũ Hoàng Hà được phong Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Định kiêm Ủy viên Trung ương Đảng. Mãi sau này, các báo Việt Cộng đổ vấy rằng vụ thảm sát đó là do nhóm Fulro của Đồng bào Thượng gây ra!

Ba đứa trẻ mồ côi mẹ năm 1972, thì chỉ 5 năm sau lại mang tang cha. Vết thương quá nặng, Giáo sư Tạ Quang Khánh không sống sót được 10 năm theo lời dự đoán của các Bác sĩ điều trị! Nhưng trời cao có mắt. Câu chuyện có hậu. Ba đứa trẻ mồ côi vì sự tàn ác của Việt Cộng năm nào thì bây giờ trở thành những công dân tốt phục vụ cho một xã hội đầy tình người đã giúp đỡ và cưu mang chúng. Tạ Quang Khôi và Tạ Quang Khiêm là kỹ sư điện (EE) và cô em út trong nhà là Tạ Thị Ngân Hà, bị mồ côi mẹ lúc 1 tuổi, trở thành bác sĩ nội khoa phục vụ tại bệnh viện Oklahoma, Hoa Kỳ. Câu chuyện do giáo sư Nguyễn Lý Tưởng tường thuật, ông là bạn học tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế đồng khóa với vợ chồng Giáo sư Tạ Quang Khánh (Theo nguồn tin: Vietnam Library Net).



Pháo kích vào trường tiểu học Cai Lậy

Ngày 9-3-1973, một ngày đầy máu và nước mắt đến với trường tiểu học Cai Lậy, tỉnh Định Tường. Thủ phạm là Mặt trận Giải phóng Miền Nam đã dùng súng cối 82 ly, do Trung Cộng sản xuất, bắn vào trường vào lúc 12g55’. Số thương vong theo Tướng Lâm Quang Thi trong quyển The death of South Vietnam: an autopsy (xuất bản năm 1986) là 34 em chết và 70 bị thương, theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ: 32 tử vong và 55 bị thương. Cuộc thảm sát ở Cai lậy gây thương cảm khắp nơi. Khắp miền Nam, lễ tưởng niệm và lạc quyên được tổ chức để an ủi và giúp đỡ gia đình bị nạn. Nhạc sĩ Anh Bằng viết bài nhạc khóc các em học sinh Cai Lậy có những câu như sau: “Hỡi Bé thơ ơi, sao tội tình gì Em lại bỏ đi, Em lại bỏ đi? Kìa thầy giảng bài tình thương trong lớp. Bạn bè cùng ngồi chăm chỉ lắng nghe. Sao Em vội bỏ mái trường ngày xưa thân mến, vội bỏ ra đi?”



Tội ác bỏ đói dân để lùa thanh niên vào bộ đội

Câu chuyện giữa 2 người tù, một già một trẻ, do Ngục sĩ Nguyễn Chí Thiện thuật lại trong quyển Hỏa Lò (trang 277). Người tù trẻ thuộc thế hệ thiếu nhi sống dưới chế độ hộ khẩu của Hồ Chí Minh. Quê anh ở Thái Bình, mang tiếng là vựa thóc, là “ Quê hương năm tấn ”, nhưng đói lắm. Bình quân, mỗi đầu người hàng tháng chỉ được 9 cân gạo, nên anh ta bị đói từ lúc còn bé. Đến 17 tuổi, anh phải khai man thành 18 để được vào bộ đội. Cuộc đối thoại như sau:

- Thế mày trúng tuyển bộ đội ngay?

-Vâng, được biết trúng tuyển, con mừng hơn mẹ con sống lại. Thế là hết cảnh đói mòn, đói mỏi. Mấy đứa gầy yếu quá bị loại, buồn như cha chết. Có đứa khóc.

-Hồi đó, chúng mày có biết đi B, chết rất nhiều không?

-Chúng con biết chứ. Trai làng bao đứa đã vong mạng. Hai thằng em họ con cũng đã chết ở Khe Sanh.

- Chúng mày không sợ chết à?

-Chẳng đứa nào sợ cả. Cái đói triền miên đáng sợ hơn nhiều. Bố bảo, đi bộ đội, chết chưa thấy đâu, đã thấy no trước mắt. Hai mốt cân gạo, một cân rưỡi thịt, một cân đường, mỗi tháng. Nghe trên thông báo tiêu chuẩn đó, chúng con thèm rỏ rớt, rỏ dãi. Cứ như là giấc mơ ấy. Chiến đấu dũng cảm được thăng chức lên sĩ quan. Tiêu chuẩn còn cao hơn nữa. Hơn đi thanh niên xung phong nhiều.

Thiên đường XHCN của Hồ Chí Minh rất cần được đối chiếu với đời sống công nhân trong các nước tư bản mà Cộng sản luôn luôn mạt sát là bóc lột công nhân. Không cần đi đâu cho xa, bên nước láng giềng Campuchia, tác giả Nguyễn Văn Khậy trong quyển Kampuchia trong bối cảnh chiến tranh Đông Dương đã diễn tả cảnh sống sung túc của công nhân đồn điền cao su Krek sau năm 1945, khi Đồng Minh thắng Nhật và người chủ Pháp bị Nhật giam trước đây được thả về để cai quản đồn điền. Tác giả Nguyễn Văn Khậy viết (trang 361 sđd):

“Từ đây cách đối xử với công nhân có chiều tiến bộ hơn so với những năm về trước. Đầu tiên, công nhân được giảm bớt 1/3 số cây cao su được cạo trong ngày, tăng lương, nhà thương có bác sỹ với thuốc men đầy đủ, chăm sóc kỹ lưỡng. Lương tiền phát đầy đủ hơn, nhất là đồn điền phụ trách bán các thứ vải, giày, xe đạp, vỏ xe đạp… thêm vào đó thực phẩm, thịt heo, thịt bò và vô số nhu yếu khác, bán chịu, bán thiếu cho công nhân được khấu trừ vào lương cuối tháng, giá rẻ hơn ngoài thị trường 30%. Đặc biệt cung cấp gạo hoàn toàn miễn phí cho công nhân kể cả gia đình theo tiêu chuẩn người lớn 800 gr, trẻ em dưới 12 tuổi là 600 gr.”

Đến đây, người viết có thắc mắc mới điện thoại hỏi tác giả Nguyễn Văn Khậy (hiện an cư lập nghiệp ở Sydney) nếu người công nhân có vợ và nhiều con thì sao? Tác giả trả lời rằng:“Vợ và tất cả các con đều có tiêu chuẩn được phát gạo miễn phí, và thường thì công nhân dư gạo, mới đem số gạo dư ra ngoài đồn điền bán lại hoặc trao đổi lấy các món khác với người dân địa phương.”

Căn phòng xử thật yên lặng. Dường như người ta đang bận tâm suy nghĩ điều gì đó. Lát sau giọng nói của Thôi Phán Quan vang lên.

-Kính thưa quí vị. Cám ơn quí vị chịu khó ngồi nghe tôi trình bày về tội sát nhân của bị can Hình Chí Mô. Sáng may tôi sẽ trình bày thêm hai tội trạng của bị can. Đó là tội bán nước và phá hoại đất nước…

giavui
07-11-2014, 09:13 PM
- 28 -
Đạo Đức Cách Mạng thứ năm của bác:
BÁN NƯỚC
Thiên hạ đi dự phiên tòa càng lúc càng đông thêm tới mức âm phủ phải dời phiên xử vào trong đại sảnh đường rộng gấp mấy lần căn phòng cũ. Đợi cho bị can Hình Chí Mô làm xong thủ tục, Thôi Phán Quan mới mời Phạm Văng Vàng làm nhân chứng. Tuy hơi ngạc nhiên song họ Phạm cũng bước lên ngồi vào ghế nhân chứng. Khi hắn làm xong thủ tục, vị biện lý của âm phủ đặt liền câu hỏi. -Trước khi ông đặt bút ký công hàm ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận nhận lãnh hải 12 hải lý của Trung Cộng thì… Thôi Phán Quan mỉm cười ngừng nói. Ông ta nhận thấy vị thủ tướng của Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có vấn đề liền khi nghe tới vụ ông ta ký công hàm bán nước ngày 14-9-1958. -Theo như ” lời đồn ” thì trước khi ông ký công hàm đó, bộ chín chị của đảng cộng sản Việt Nam có mở phiên họp kín. Đúng không? Do dự giây lát Phạm Văng Vàng lên tiếng. Dường như muốn lấy điểm với Diêm Vương hoặc bồi thẫm đoàn, hắn vui vẻ giảng giải một cách rành mạch. -Lời đồn của ngài biện lý đúng lắm. Ngay khi cái thông cáo về biển của nước đàn anh Trung Hoa vỉ đại do đồng chí anh minh và sáng suốt Chu Ân Lai ký được gởi cho Việt Nam thì bác gọi tôi vào họp trong phủ chủ tịch. Ngoài tôi còn có anh Thận, anh Ba, anh Sáu và anh Giáp… Ngừng lại giây lát vị thủ tướng thâm niên nhất của nhà nước cộng sản Việt Nam cười tiếp. -Gọi là họp chứ thật ra thì bác đã quyết định rồi. Bác nói với bọn tôi như thế này: ” Trung Quốc giúp chúng ta cuộc kháng chiến chống Pháp chín năm ròng về đủ mọi phương diện. Họ viện trợ cho chúng ta từ cây kim, sợi chỉ, trang bị quân đội ta từ đầu tới chân: mũ Trung Quốc, quần áo Trung Quốc, giầy Trung Quốc… Bây giờ kháng chiến thắng lợi, họ muốn một vài hòn đảo nhỏ, lẽ nào ta từ chối? ” ( Trần Nhu- Tướng Đi Đêm )… -Vậy là bác cúng Hoàng Sa và Trường Sa cho Tàu thực hả anh Chín? -Chứ còn gì nữa. Năm 1958, bác còn mạnh cùi cụi chứ đâu có bịnh hoạn ốm đau gì đâu mà bảo bác không biết. Đang làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư thì nếu bác không bằng lòng cúng bố bảo thằng Chì Cháy cũng hổng dám ký tên vào cái công hàm bán nước ngày 14-9-1958. Chẳng qua bác sợ nhân dân nói bác bán nước nên mới nắm tay Chì Cháy bắt ký tên… -Làm sao anh biết vậy anh Chín… -Dân họ biết họ nói cho tao nghe… Mày đừng tưởng dân ngu… Dù bác và đảng có giấu dân cũng biết. Bởi vậy mới có mấy câu vè sau đây:
-Bây giờ chết mẹ đảng ta,
Đám chệch tràn lan khắp nước nhà,
Chẳng thà bám đít bu theo Mỹ,
Thoát cảnh lầm than ôi xót xa.
Nghe bốn câu thơ Diêm Vương tủm tỉm cười lên tiếng. -Thơ này ta nghe còn hay hơn thơ của thằng Lành. Hắn xưng thi sĩ mà làm thơ nghe điếc con ráy… Như muốn đi thẳng vào chuyện quan trọng hơn nên Thôi Phán Quan nghiêm giọng hỏi. -Trong buổi họp đó bác của ông còn nói thêm điều gì nữa không? Phạm Văng Vàng liếc nhanh Hình Chí Mô đang ngồi nơi ghế bị can rồi lắc đầu trả lời. -Không có… Bác chỉ nói như vậy rồi bảo tôi ký tên vào cái công hàm 14-9-1958 mà thôi… Thôi Phán Quan cười hực. Giơ cao xấp hồ sơ đang cầm trong tay ông ta cao giọng. -Kính thưa bồi thẫm đoàn… Đây là một hồ sơ chứa đựng nhiều hình ảnh về những chuyến đi đêm của bị can Hình Chí Mô sang nước đàn anh vỉ đại để bàn chuyện bán nước trong đó có vụ nhường Ải Nam Quan cho Tàu… Vị biện lý của âm phủ phất tay áo rộng. Mọi người đều thấy trên màn ảnh hiện lên những hình ảnh như là bằng chứng hiển nhiên về hành động bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam…
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_12.jpg?w=300&h=196 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_12.jpg)
Hình G1. HCM bí mật sang Quảng Tây ngày 16.01.1950
(HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình) Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_13.jpg?w=300&h=225 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_13.jpg)
Hình G2. HCM bang giao với TC tại cổng Nam Quan trong những năm 1950 -Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội – Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”. -Ngày 26.09.1954, Hồ Chí Minh dẫn đầu đoàn đại biểu CSVN xuất phát từ cổng Nam Quan tham dự hội nghị tại Nam Ninh. -Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quansang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_14.jpg?w=300&h=188 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_14.jpg)
Hình G3. Phạm Văn Đồng ra mắt Chu Ân Lai -Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan. Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_15.jpg?w=300&h=188 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_15.jpg)
Hình G4. HCM và CÂL yến tiệc xa hoa tại Bắc Kinh tháng 06/1955 -Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam. -CSVN phản ứng! Ngày 27.04 đến 02.05.1959, TrungViệt hội nghị vấn đề biên giới tại Bằng Tường. Ngày 10.05.1959, chính phủ Trung Cộng quyết định xóa bỏ đơn vị “huyện Mục Nam”. Ninh Minh, Long Tân, Bằng Tường trở về đơn vị hành chính cũ. -Ngày 04.09.1959, Chu Ân Lai đáp máy bay đến Bằng Tường hội đàm cùng Hồ Chí Minh vấn đề biên giới Trung-Việt. -Năm 1960, Phạm Văn Đồng trồng cây si để làm mốc cho Km0 của Việt Nam.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_16.jpg?w=300&h=188 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_16.jpg)
Hình G5. Cây si do PVĐ trồng (???)
Cây si do PVĐ trồng (?) nhìn từ bên phía VN. Vị trí tương ứng với khoảng cách của tường thành cổng Nam Quan cũ bên VN)
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_17.jpg?w=300&h=188 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_17.jpg)
Hình G6. Cây si PVĐ nhìn từ bên cổng Hữu Nghị Quan của TC
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_18.jpg?w=300&h=188 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_18.jpg)
Hình G7. Cây si PVĐ nhìn từ trên lầu thành Hữu Nghị Quan.
Cụm nhà trắng là Hải Quan TC xây lại trên nền “nhà tròn”. Xa thẳm bên kia là cột Km0 hiện tại. -Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.

Hình G8. Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc”hội đàm” giữa CÂL và HCM
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_20.jpg?w=300&h=219 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_20.jpg)
Hình G9. Bảng vàng ghi lại sự kiện -Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn. Và kể từ sau đó, chính phủ CSVN đã dâng trọn Ải Nam Quan cho Trung Cộng để tiếp nhận viện trợ vũ khí tiến đánh miền Nam-Việt Nam Cộng Hòa.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_21.jpg?w=372&h=309 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_21.jpg)
Hình G10. Hữu Nghị Quan năm 1965. Biểu ngữ của TC và hình Mao Trạch Đông phơi vào phần lãnh thổ VN
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_22.jpg?w=372&h=261 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_22.jpg)
Hình G11. So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959. Đoàn đại biểu CSTC lễ phép chụp ảnh tại cổng Nam Quan bên phía VN -Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới TrungViệt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_23.jpg?w=347&h=231 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_23.jpg)
Hình G23. Phụ ảnh tham khảo “Cột Mốc Số 18″ giả mạo (?)
Đây là “Cột Mốc Số 18″ mà TC cho rằng đã đặt tại cổng Nam Quan. Khác với “Cột Mốc Số 18″ theo Hiệp ước Pháp-Thanh (đã trình bầy nơi chương I) Trên cột mốc này khắc rằng: “BORNE.18 ANNAMCHINE, Đệ Thập Bát Bài, Đại Pháp Quốc Việt Nam, Đại Trung Hoa Dân Quốc Vân Nam”. Lịch sử nào ghi rằng Pháp thay mặt VN ký kết Hiệp ước Biên giới với chính quyền của Tưởng Giới Thạch? Loại cột mốc này là cùng kiểu với cột mốc số 53 tại khu vực Thác Bản Giốc. Những cột mốc thật sự của Hiệp ước Pháp-Thanh đã tiêu biến nơi đâu ? Không ai biết rõ hơn biên giới Trung-Việt bằng Đảng CSVN, nhưng họ có nói gì không về hiện tượng này? Lặng câm! Ta nên nhớ, trong đề cương của Đảng CSVN do HCM soạn ra vào năm 1940 đã chủ trương một cách mù quáng: “Không công nhận bất cứ văn kiện, hiệp ước nào của thực dân Pháp thay mặt VN ký kết với quốc gia khác!” Sự ra đời của “Km 0” cho đến nay vẫn rất khó hiểu. Theo “truyền thuyết”, “Km 0” ra đời vào năm 1960 và Phạm Văn Đồng đã trồng cây si để đánh dấu vị trí. Có thực sự là PVĐ trồng cây si để đánh dấu vị trí biên giới Trung-Việt hay không? Hay chỉ đơn thuần là việc trồng cây kỷ niệm một sự kiện nào đó? (thói màu mè của CSVN). Năm 1958, chính tay PVĐ đã ký văn bản dâng biển cho Trung Cộng, bản đồ Bắc Việt thì Đảng CSVN dâng cho Trung Cộng vẽ, trong thời điểm lệ thuộc sự viện trợ của Trung Cộng thì làm sao nói chuyện căng thẳng biên giới, lãnh hải được. Còn cây si là cây si nào? Cây si thuộc loại cây nhiệt đới có sức tăng trưởng và phát tán rất nhanh. Không thể nào cho rằng cây si mà PVĐ trồng là cây si đứng sau cột “Km0”. Hãy xem hình (so sánh với cây si trước cổng HNQ ở chương II).
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_24.jpg?w=369&h=265 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_24.jpg)
Hình G26. “Km0″ “Km0″ trong những năm đầu 2000, khi đang xây dựng lại cảnh quan “Hữu Nghị” và kế hoạch cao tốc NamHữu .
Lúc này trên cột còn ghi “Hữu Nghị Quan” và cây si PVD còn đó.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_25.jpg?w=300&h=217 (http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/04/phien-toa-duoi-am-phu-3_img_25.jpg)
Hình G27. “Km0″ mất chữ Quan
“Cây si PVĐ” bị đốn bỏ dã man vào năm 2005. Cột mốc cũng chỉ còn chữ “Hữu Nghị”.
Đảng CSVN không dám nhận thêm chữ “Quan”. Xóa bỏ vĩnh viễn lịch sử để làm vừa lòng đàn anh TC! Màn ảnh mờ dần dần trong lúc giọng nói sang sảng của Thôi Phán Quan vang lên trong căn phòng xử im lặng. -Quí vị đã xem qua một số hình ảnh nói lên phần nào chủ trương bán nước của Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam. Nhiều cuộc đi đêm, đàm phán, thương thảo bí mật đã diễn ra giữa bị can và giới cầm quyền Trung Cộng là khởi điểm cho những hiệp ước nhượng đất, nhượng biển, bán rừng, cho thuê quặng mỏ, cho mướn đất của các kẻ kế quyền về sau này…

giavui
07-11-2014, 09:15 PM
- 29 -
Đạo Đức Cách Mạng thứ sáu của bác:
PHÁ HOẠI VĂN HÓA
Đợi cho Hình Chí Mô làm thủ tục và an vị vào ghế bị can xong xuôi, Thôi Phán Quan mới thong thả cất giọng. -Tôi nghe ông cũng có viết văn và làm thơ? Hình Chí Mô mỉm cười chưa chịu trả lời câu hỏi rất giản dị của Thôi Phán Quan. Có lẽ ông ta sợ lọt vào bẫy. Thật lâu ông ta mới trả lời gọn. -Tôi cũng thích thơ văn nên có làm thơ và viết văn chút chút… Gật gù cười vị đại diện cho luật pháp âm phủ lên tiếng. -Ông có làm thơ vậy chắc ông biết hai câu thơ này:
-Thằng trời đứng ra một bên
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời…
Nghe Diêm Vương hừ tiếng nhỏ và thấy đôi mắt lóe hào quang, Đán với Bình biết ông ta giận dữ khi nghe hai câu thơ trên. -Thơ của ai vậy? Ông vua âm phủ hỏi gọn. Thôi Phán Quan lắc đầu cười. -Bẫm Diêm Vương… Thần nghe con nít hát nghêu ngao mà không biết tác giả cũng như nguồn gốc của hai câu thơ này… -Bẫm Diêm Vương con biết ạ… Đang ngồi ở dưới dãy bàn dành cho nhân chứng, Tố Bồi Bút vọt miệng thốt. Diêm Vương gật đầu cười. -Ừ… Thằng Lành là đại thi sĩ thời chắc nó biết ai làm hai câu thơ bất nhơn này… Ngươi lên đây nói cho mọi người nghe đi… Được lệnh của Diêm Vương, họ Tố hớn hở đi lên ngồi vào ghế nhân chứng. Vừa an tọa xong Tố thi sĩ nói liền. -Bẫm Diêm Vương… Số là sau khi gồm thu hai miền nam bắc lại thì với khí thế vươn cao đụng trời, vâng lời bác và đảng các đội thủy lợi ở nam bộ trương cao khẩu hiệu lên khắp nơi, khoe tài làm thủy lợi và kêu TRỜI bằng “ thằng ” bởi vậy tụi cán bộ ngốc nghếch mới rặn ra hai câu: “ Thằng trời đứng ra một bên.
Để cho thủy lợi tiến lên thay trời ”… -Dương thế đúng là đại loạn rồi cho nên mới có đứa nào mất dạy kêu Trời bằng thằng. Ngươi biết ai làm hai câu thơ đó không để ta hỏi thăm sức khỏe của nó? Tố Bồi Bút lắc đầu cười gượng. -Bẫm Diêm Vương dạ con hổng biết đứa nào làm hai câu thơ đó nhưng mà con biết cái nguồn gốc sâu xa ở đâu mà có tiếng ” thằng ”… Số là “ Trong tiếng Việt của ta cách xưng hô thật phong phú. Vào Hỏa Lò tôi mới biết ở đây, hay nói cho đúng trong ngành công an, có lệ bất cứ ai bị bỏ tù đều là thằng hết, còn ai chưa bị bỏ tù, nhưng có thể bị bỏ tù, thì gọi tên không. Cách gọi thằng, con trong ngôn từ chính trị có cội nguồn của nó. Nó xuất hiện vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính ông Hồ Chí Minh dùng cách gọi này trong những cuộc nói chuyện với cán bộ và trong những bài viết trên báo Cứu Quốc: thằng Mỹ, thằng Pháp, thằng Xihanúc, thằng Lý Quang Diệu, thằng Măng-đét Phrăng. Theo gương ông, về sau người ta gọi kẻ thù nào cũng bằng thằng hết: thằng Bảo Đại, thằng Diệm, thằng Khánh, thằng Kỳ, thằng Thiệu…”(Trích Đêm Giữa Ban NgàyVũ Thư Hiên); bởi vậy mà mấy thằng cán ngố mới dám gọi trời là thằng… Nghe Tố Bồi Bút nói xong Diêm Vương cười hực. -Như vậy các ngươi cũng gọi ta bằng thằng Diêm Vương hả? Xanh mặt họ Tố giẫy nẩy lên mếu máo thốt. -Dạ bẫm Diêm Vương… Con đâu có vô lễ như vậy… Con là người có ăn học mà đâu có thói quen mất dạy và hạ cấp đó… Vừa định xì nẹt tiếp song bắt gặp cái nháy mắt làm hiệu của Thôi Phán Quan nên Diêm Vương cố dằn cơn thịnh nộ. Bước tới đứng trước mặt bị can Hình Chí Mô, vị biện lý của âm phủ rắn giọng. -Kính thưa 9 vị bồi thẫm… Quí vị đã nghe tôi trình bày về hành động bán nước của bị can và các đồng chí của ông ta. Sau đây tôi xin trình bày thêm về một tội ác mà theo tôi nó là một đại tội của bị can đối với dân tộc Việt Nam. Đó là tội phá hủy văn hóa, tiêu diệt tín ngưỡng và phá hoại các di tích lịch sử và văn hóa. Tôi xin mời quí vị nghe qua bài viết sau đây có nhan đề: TẠI SAO GIẶC HỒ VÀ ĐỒNG ĐẢNG TRIỆT PHÁ CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA DÂN TỘC, để thấy được dã tâm thâm độc của bị can Hình Chí Mô và băng đảng cộng sản Việt Nam… Giặc Tầu đô hộ nước ta một ngàn năm không ai vong thân, không ai lẫn lộn căn cước. Giặc Pháp đô hộ Việt Nam một trăm năm, dân Việt Nam vẫn là Việt Nam. Giặc Hồ mang học thuyết Cộng Sản vào cai trị nước ta mới có 60 năm, dân bị lẫn lộn căn cước và vong thân. Xã hội Việt Nam từ khi lập quốc cho tới nay chưa có thời nào suy đốn như thời Hồ. Bài này trình bày sự kiện và nguyên nhân vì sao giặc Hồ và Đồng đảng thực thi âm mưu này và hậu quả của kế hoạch ấy đối với dân tộc. Đảng Cộng Sản VN xóa bỏ nền văn hóa truyền thống và hủy diệt các di tích lịch sử và văn hóa.
1. Xóa bỏ văn hóa truyền thống. Người Cộng Sản chủ trương xây dựng nền văn hóa Mác-Xít Duy Vật để thay nền văn hóa duy tâm truyền thống của dân tộc Việt Nam được xây dựng gần 4.000 năm trên nền tảng: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và đó cũng là nền tảng của mọi tôn giáo, Cộng Sản hủy diệt luôn tất cả mọi cảm nghiệm tâm linh man mác sâu thẳm trong con người Việt Nam. Học thuyết duy vật, mà Hồ Chí Minh mang vào Việt Nam, nhằm thay con người Việt Nam thành con người Xã Hội Chủ Nghĩa vô gia đình, vô luân, vô đạo, vong bản, vô trách nhiệm, chỉ biết hận thù giai cấp. Vì thế mọi giá trị, biểu tượng thiêng liêng của đạo đức, và trí tuệ tột đỉnh của dân tộc Việt Nam bị coi là đối tượng nguy hiểm, là kẻ thù số một, cần phải đào tận gốc trốc tận rễ. Vậy làm thế nào thực hiện nhiệm vụ kéo sụp đổ cả một vũ trụ tâm linh, tình cảm, tâm lý, ý thức dân tộc của con người cũ? Con người Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học duy vật, phải đánh vào mối quan hệ gia đình trước tiên: mối tương quan liên hệ giữa vợ chồng, giữa cha con, giữa người với người. Đánh vào cả “xác” lẫn “hồn”. Đánh vào những sợi dây vô hình kết hợp cái tinh anh của vũ trụ, của kiếp người, mà gia đình là “tế bào gốc” trở thành mục tiêu đầu tiên bị triệt hạ. Những tế bào hạt nhân họ hàng, gia tộc, làng xã Việt Nam là những thành lũy phòng thủ cuối cùng của nền văn hiến, văn hóa truyền thống chống lại văn hóa “duy vật” của đảng Cộng Sản . Đây là một đòn hết sức hiểm độc. Về phương diện nhân bản, gia đình là cái nôi nuôi dưỡng, nơi nương dựa an toàn êm ấm nhất. Nó là tổ ấm để an ủi con người. Với chính sách phá tan sự “liên lụy”… của sợi dây tình cảm gia đình, Đảng Cộng Sản VN, không cho phép các thành viên trong gia đình đùm bọc, thương yêu hoặc an ủi nhau lúc gặp hoạn nạn, khó khăn… Điều này được bộc lộ hết sức rõ rệt, trong các chiến dịch CCRĐ năm 1954-1956. Gia đình thân nhân được khuyến khích đấu tố công khai, lên án hành hạ, sỉ nhục nhau. Cứ điểm cuối cùng kết liễu tình thân ái vợ chồng, cha con, họ hàng, xóm làng là gia đình bị thanh tóan. Nhiều người vì thế đã tự tử. Hàng triệu triệu gia đình phải đối mặt với tai họa khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người. Đảng Cộng Sản VN, đứng đầu là Hồ Chí Minh, theo chỉ đạo của cố vấn Trung Cộng, đã đánh những đòn trí mạng vào nền tảng đạo lý gia đình Việt Nam. Khi con tố cha, vợ tố chồng…, thì không có cách nào chuộc lại được sự phản bội của mình. Một vết thương không thể lành, nhiều người chết ôm hận xuống mồ! Còn những người bị quẳng vào các trại cải tạo khi có cơ may sống sót trở về quê hương, họ rất khổ sở… và không chấp nhận vợ con… Nhưng có điều họ không nhận ra thủ phạm chính đã gây ra thảm kịch này là những con quỷ sáng tạo ra học thuyết “Đấu tranh giai cấp”, và những con quỷ đã lãnh đạo, thực hành việc đấu tranh giai cấp. Ở miền Bắc Việt Nam, những kẻ ấy đã tự nhận là kẻ theo Chủ Nghĩa Xã Hội khoa học, chủ nghĩa duy vật khoa học và tự hào là đã làm “chủ quy luật khách quan, làm chủ thiên nhiên và làm chủ lịch sử” đứng ở “trên đỉnh cao trí tuệ v.v…” Nhưng họ lại hoàn toàn vô ý thức về cái nhân tính của chính họ. Họ đi làm cách mạng để thay đổi thế giới và cải tạo “loài người”. Nhưng họ lại vô ý thức vì cái muôn thuở, bẩm sinh của tình cảm tư hữu, tình cảm quốc gia, gia đình họ hàng. Nếu ba thành tố cơ bản này thiếu vắng một thì đó sẽ là một xã hội suy đồi băng hoại và quốc gia đó không bao giờ vươn lên thành một xã hội văn minh. Cộng Sản chủ trương xóa bỏ cả ba thành tố căn bản đó. Họ chỉ có thể kéo xã hội trở lại thời kỳ đồ đá! Cộng Sản chủ trương “giai cấp vô sản không có tổ quốc”. Họ muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia, xóa bỏ văn hóa truyền thống, để chỉ còn một thứ văn hóa vô sản duy nhất. Việc đầu tiên người Cộng Sản thực hiện là xóa bỏ các đơn vị “gia đình”, là những vệ tinh tế bào trong cộng đồng dân tộc, tương tự như những hạt nhân xoay quanh các vòng tròn lớn nhỏ quy tụ gia đình, họ hàng, thân tộc, làng xã đến quốc gia. Muốn xóa bỏ ranh giới quốc gia trước tiên phải xóa bỏ đơn vị nhỏ nhất là “gia đình”. Ở Campuchia, sau chiến thắng của Khờ Me Đỏ năm 1975 dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn của cố vấn Trung Quốc, Pol Pot đã vội vã thiết lập Chủ Nghĩa Xã Hội, một xã hội không có giai cấp. Không có cách biệt giữa thành thị và nông thôn, không còn giầu nghèo, không có tiền tệ và thương mại. Các gia đình bị “xóa bỏ”. Và thay vào đó bằng các đội lao động, gần giống như các hợp tác xã nông nghiệp cao cấp, hay nông trường tập thể ở miền Bắc thập niên 70-80. Tất cả đều phải làm việc ăn chung, mặc bộ quần áo đồng phục mầu xanh hoặc đen. Sau khi bị hủy diệt về tinh thần và thể xác đến năm 1978, một phần ba dân số đất chùa Tháp đã bị giết! Ở miền Bắc VN trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất 1954-1956 cũng do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng giết chóc tùy tiện bừa bãi, để tạo ra sự khiếp sợ tối đa trong dân chúng. Những người lãnh đạo đảng muốn loại bỏ hẳn ý thức hệ cũ (phong kiến). Giáo dục ý thức hệ Xã Hội Chủ Nghĩa để đào tạo con người mới. Hồ Chí Minh thường dạy các đảng viên: “muốn xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa trước hết phải có con người Xã Hội Chủ Nghĩa.” Chiến lược “trồng người” xuất phát từ đó. Trong một xã hội bình thường, mọi người tỏ sự quan tâm và tình cảm với nhau. Tôn kính, hiếu thảo với cha mẹ, thân thiện với người láng giềng như anh em ruột thịt của mình, và hòa đồng với làng xã. Nhưng chủ trương đấu tranh giai cấp của Đảng Cộng Sản VN khuyến khích sự hằn thù, phân chia xã hội thành nhiều loại người và luôn luôn khích lệ nhân dân giết hại lẫn nhau, và nó cố làm cho mọi người trở nên thờ ơ lãnh đạm với nhau, không ai yêu thương ai. Mặc Tử nói: “Kiêm tương ái, giao tương lợi”. Ông cho rằng sở dĩ xã hội đương thời đại loạn nguồn gốc của nó chính là ở chỗ quan hệ giữa con người với con người không yêu mến lẫn nhau! Thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất nông dân miền Bắc không còn gì cả. “Ngay cả những quyền quyến luyến yêu thương cũng bị nghiêm cấm, con người sống trơ trọi không có bạn hữu, không có láng giềng, không có quyền cảm mến, quyền làm người bị chối bỏ, tài Sản không được thừa nhận dù chỉ là một túp lều, dù chỉ là một tấc đất, dù chỉ là một nấm mồ [1] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn1) ”. Chính sách giết người, đập phá đền miếu… đã trở thành phong trào thi đua của Đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, giết chóc đập phá, đào mồ mả ông cha để bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối với Bác Đảng. Các cháu ngoan “bác Hồ” hô những khẩu hiệu vang trời dậy đất: Hồ Chí Minh muôn năm. Mao chủ tịch muôn năm”, đả đảo địa chủ cường hào ác bá v.v…” và hát bài:
Giết, giết nữa bàn tay – không phút nghỉ
Cho ruộng đồng, lúa tốt – Thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng – Rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Stalin bất diệt…
Thiếu nhi cháu ngoan bác Hồ xem cảnh chém giết là bình thường; các cháu trở nên quen với cảnh đổ máu. Một số lớn bắt đầu cảm thấy hứng thú. Thế hệ trẻ bị giáo dục theo tư tưởng vô thần của chủ nghĩa Cộng Sản không còn nể sợ điều gì. Bất luận một con người kia, sinh ra trong một gia đình nông dân thuần phác, hiền lành và hiếu thảo với cha mẹ đến đâu, hễ đã gia nhập vào đoàn thanh niên Hồ Chí Minh, liền biến thành một phần tử trong lực lượng phá hoại, ai càng trong trắng sẽ càng trở thành kẻ phá hoại mạnh. Đảng Cộng Sản VN, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, đã biến con người thành quái vật, bởi bản thân nó tàn bạo hơn bất kỳ một con quái vật nào. Đây là một sự thật, đang được chính các đảng viên phản tỉnh khui ra. Cộng Sản nguy hiểm, kinh khủng hơn bất cứ một thứ bệnh dịch nào mà vi trùng của nó len lỏi khắp các bộ phận cơ thể, gặm nhấm các tế bào, sản sinh độc tố khiến cho các tế bào chung quanh cũng lây nhiễm. Nó khuếch tán bao nhiêu chất độc hại, đầu độc xã hội. Mỗi thế hệ lại đắp lên một tầng về nhiều mặt ác độc, dối trá, lừa phỉnh khác nhau. Kết quả khiến xã hội Việt Nam ngày nay trở nên ô nhiễm, giá trị đạo đức văn hóa ngày càng bị xói mòn. Là một Phật tử, tôi thực lòng muốn xả bỏ quá khứ, vứt hết cho nhẹ, sống hòa hợp. Tổ tiên ta dạy: một điều nhịn, chín điều lành. Chữ HÒA trở thành cốt tủy của văn hóa và đời sống Việt. Nếp sống hòa hợp và bao dung ấy như sợi chỉ vàng rực rỡ xuyên suốt trong dòng lịch sử dân tộc ta. Con người Việt Nam lấy thiện làm gốc, tình nghĩa làm đầu, nên oán thì phải giải, thù thì lại càng cần phải quên. Nhưng không hiểu sao mỗi khi cầm bút viết, lại không sao quên được những thành tích khát máu của Đảng Cộng Sản hồi Cải Cách Ruộng Đất. Tôi mới lớn lên thấy ai cũng sợ hãi quá, trước sự tàn ác vô đạo trong giết chóc liên miên…, mạng sống của mọi người trong xã hội bị đe dọa thường trực, nên không ai dám có phản ứng gì, Đảng Cộng Sản và Hồ Chí Minh đã biến người thành sói, “con người Xã Hội Chủ Nghĩa” do Hồ Chí Minh đào luyện thậm chí còn dữ hơn cả sói. Vì sói chúng không ăn thịt con. Nhưng dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản, cha mẹ, vợ chồng tố cáo lẫn nhau là điều bình thường. Các chiến dịch trên quy mô lớn được thực hiện từ giết chóc ở nông thôn, giết chóc ở thành thị, từ truy lùng các phần tử phong kiến phản động… đến xóa bỏ các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, lịch sử, giáo dục. Chính sách của Đảng Cộng Sản thực hiện, gần bẩy thập niên đất nước bị tàn phá tan hoang ra trăm ngàn mảnh vụn như hiện nay, với bao nhiêu hệ quả tang thương không sao kể xiết, mà hậu quả hàng đầu là làm liệt kháng sức sống dân tộc trước họa xâm lăng của Trung Quốc. Nguy hiểm hơn nữa ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam theo lệnh của Bắc Kinh đã biến lực lượng công an thành công cụ của Trung Quốc, chúng đàn áp bắt bớ những chiến sĩ yêu nước. Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với đồng bào, chúng là loại người “ân đoạn nghĩa tận”.
2. Hủy diệt di tích văn hóa lịch sử. Triệt phá các công trình văn hóa, đập phá đình chùa, miếu mạo và các văn chỉ, được thực hiện trong một kế hoạch quy mô có tính toán trên cả nước, gồm cả mở những chiến dịch đào mồ mả tổ tiên trong đó có nhiều vị anh hùng dân tộc. Tới thời kỳ “mở cửa” trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu một vùng văn hóa”, Ông Võ Văn Trực một đảng viên kỳ cựu, đã mô tả nỗi kinh hãi, đau xé ruột gan khi thấy những di tích văn hóa như đình chùa miếu mạo, các nhà thờ họ ở khắp quê ông bị đập phá, cùng với những chiến dịch đào bới mồ mả tổ tiên, do đám thanh niên mới lớn lên trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất, vào thời kỳ chúng sửa soạn bước vào thế giới thù nghịch, ngay chính đối với ông cha mình! Về việc phá hoại các đình chùa, một chuyên gia Ba Lan đã phát biểu: “Hiếm có một đất nước như Việt Nam, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo, là một mặt biểu hiện của nền văn hiến dân tộc. Lạ thay, Nền văn hiến ấy đang bị hủy hoại [2] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn2) .” Cũng là Cộng Sản, nhưng người Cộng Sản Ba Lan không u tối cuồng tín như Hồ Chí Minh và đám lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN. Sự đập phá ấy diễn ra từ trong lòng thủ đô Hà Nội, nơi Hồ Chí Minh và những người lãnh đạo Đảng đang sống. Nó lan ra toàn quốc. Ở Nghệ An, thời kỳ “cởi trói” cho văn nghệ sĩ năm 1987, một cán bộ văn hóa của tỉnh nói mỉa mai rằng: “Về cơ bản, tỉnh nhà đã phá xong những di tích lịch sử [3] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn3) ”. Đó là lời nói của một cán bộ Cộng Sản làm công tác văn hóa. Trước năm 1945 ở Miền Bắc, làng nào cũng có đình chùa, miếu mạo. Sau 1945, dù trải qua chiến tranh, hàng vạn ngôi chùa với di sản vô giá, nhiều pho tượng hay đồ Phật sự được lưu truyền từ thời nhà Lý, nhà Trần, nhà Lê và Nguyễn vẫn còn nguyên vẹn. Trong thời gian Cải Cách Ruộng Đất, đình chùa, miếu mạo và các cổ vật ấy bị phá sạch vì đó là tàn dư của phong kiến. Chim có tổ, người có tông. Hồ Chí Minh và bè đảng đã phá sạch những di tích lịch sử được tạo dựng lên hàng ngàn năm, phá sạch sẽ những đình, chùa, miếu mạo, biểu tượng của nền văn hóa dân tộc. Hủy diệt truyền thống đạo lý, nhân nghĩa, làm biến dạng những khuôn mặt phúc hậu chốn đồng quê. Đồng quê Việt Nam là cơ sở bền vững để bảo tồn sức sống và văn minh dân tộc mà bao thế hệ đã đổ xương máu, mồ hôi để vun đắp. Bao nhiêu tầng cao văn hóa được xếp lên với chiều cao bốn ngàn năm lịch sử đầy kiêu hãnh bỗng đổ vỡ tan tành! Hèn hạ hơn cả là việc lén lút giấu mặt để bè đảng đào mồ, phá đền thờ các vị vua, những cuộc tấn công đầu tiên nhắm vào các vị anh hùng dân tộc, nổi tiếng như vua Trần Nhân Tông, Lê Đại Hành, Hai Bà Trưng v.v… Để hiểu rõ nhiều khía cạnh và góc độ của việc thẩm định những vấn đề lịch sử, được khách quan hơn, chúng ta phải đọc các tập sách và nghiên cứu văn học trong thập niên 60 ở miền Bắc. Trước hết là chúng ta nghe những buổi nói chuyện với giáo sư Nguyễn Huệ Chi trên đài RFI tháng 7/2005, với bà Thụy Khê được ghi lại trên “thế kỷ XXI” tháng 9/2005. Giáo sư Nguyễn Huệ Chi nguyên là Chủ Tịch Hội Đồng Khoa Học của Viện trong bẩy năm, nguyên là Trưởng Ban Văn Học cổ cận đại của viện trong gần 30 năm ở Hà Nội chắc những bài viết và ý kiến của giáo sư này mang một ý nghĩa trung thực và công tâm đối với lịch sử. Dưới đây tôi xin trích dẫn một số câu hỏi của bà Thụy Khuê và trả lời của giáo sư Nguyễn Huệ Chi về vấn đề phá hoại các di tích lịch sử. “Thụy Khuê: Việc đốt phá sách, dường như đi đôi với việc phá phách các di tích lịch sử và anh cũng đã từng chứng kiến nhiều lần. Vậy có thể nói, chúng ta rút ra được những kinh nghiệm gì về những vụ tàn phá di sản văn hóa này? Nguyễn Huệ Chi: “Trong mấy chục năm đi điền dã để làm bộ Thơ Văn Lý – Trần, chúng tôi đã thấy không biết bao nhiêu di tích bị tàn phá một cách vô tội vạ, mà cái người chủ trương tàn phá, phải nói, hoặc là, biểu hiện của một thứ cực đoan không thể chấp nhận được nữa; hoặc nữa là, có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử, hay cũng có thể là hách dịch đối với lịch sử, cho nên họ đã đập phá tàn bạo. Chẳng hạn như di tích nơi vua Trần Nhân Tông tịch ở Am Ngọc Vân phía Tây núi Yên Tử, một ông Vua anh hùng khoáng đạt như thế có tội tình gì để họ phá cho tan tành? Hay vì đã không “cực quyền” như họ? Lại chẳng hạn như việc phá đình phá chùa trong chủ trương “hộ tụ” năm 1948 đã làm mất bao nhiêu di tích văn hóa quý giá từ lâu đời ở Nghệ Tĩnh, ấy thế mà việc đó lại được lập lại với quy mô rộng rãi ở hầu khắp miền Bắc trong những năm 60 thế kỷ XX. Tôi còn nhớ là vào ngày 9/5/1966, tôi đến thăm cụ Lê Thước, một học giả nổi tiếng ở Chợ Hôm thì gặp lúc nghệ sĩ nhiếp ảnh Nguyễn Bá Khoản cũng đến và ông ấy đã trình bày với cụ việc một ngôi đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng ở Mai Động tức Hà Nội ngày nay, bây giờ là trong “nội thành” đã bị cán bộ chỉ đạo đem hoành phi câu đối và cỗ kiệu ra làm bàn ghế và xe phân cho hợp tác xã. Ông Nguyễn Bá Khoản đã chụp trộm được mấy tấm ảnh và suýt nữa thì bị dân quân tự vệ bắt và tịch thu máy nhiếp ảnh. Khi ông ấy đã chạy thoát rồi vẫn còn nghe văng vẳng ông Bí thư đảng ủy: “Hãy bắt gông nó lại, tội vạ gì tôi chịu”. Ông Khoản kể lại với tất cả cái thảng thốt và bất bình của mình. [4] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn4) Ở đây ta thấy giáo sư Nguyễn Huệ Chi, tuy không chỉ đích danh người chủ trương đó và thù hằn lịch sử ghê gớm đối với lịch sử đó là ai? Nhưng ai cũng biết rõ đó là Hồ Chí Minh. Đọc tới đây tôi lại chợt nhớ tới chuyện đào mồ tổ tiên trong bài ký sự “Tiếng kêu cứu của một vùng văn hóa” của Võ Văn Trực, thời mở cửa đã miêu tả như sau: “Ba năm sau một đoàn thanh niên khác lại được huy động để đào kỳ được hài cốt của Võ Tướng Hùng Lê Bá. Do lòng kiên nhẫn, lần này họ đã tìm được. Mấy bô lão ôm hài cốt, nước mắt chảy ròng ròng, rồi kéo nhau lên gặp ông chủ nhiệm hợp tác xã xin một ít tiền mua tiểu sành đựng hài cốt. Ông Chủ Nhiệm trừng mắt nói như đinh đóng cột: Mộ vua chúa, mộ thượng thư cũng đập thành đất, mộ ông tướng của các cụ đã ra cái gì? [5] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn5) ” Được đào luyện trong lò “trồng người” của Hồ Chí Minh – tên Bí Thư Đảng Ủy ở Hà Nội và tên cán bộ chủ nhiệm hợp tác xã ở Nghệ An giống nhau như đúc. Trong một bài khác trên trang WEB http://www.talawas.org GS Nguyễn Huệ Chi kêu gọi rằng: “Việc xây dựng chiếc cầu nối giữa văn hóa truyền thống với thế hệ hôm nay là điều hết sức cần kíp.” G.S nói rằng các di tích cổ VN đã bị đối xử tệ hại: “… Tại sao đi thăm viếng di tích của các nước, thấy người ta chăm chú, trân trọng từng hiện vật rất nhỏ, rồi trở về nhìn lại cung cách tu bổ chăm nom di tích của nước mình thì lại có tâm trạng xấu hổ đến chán ngán? Hầu như khắp đất nước, đâu đâu cũng tôn tạo lại đình, chùa, miếu mạo mà một thời đã từng bị đập phá tan nát, nhưng than ôi tôn tạo theo cái kiểu bôi xanh bôi đỏ lòe loẹt, chữ Hán viết đã xấu lại sai, bẩn và cứ đến đình miếu nào cũng chỉ thấy rặt một vài câu sáo rỗng (…) (dùng tiền LHQ, UNESCO để vụ lợi)” [6] (http://vietvungvinh.net/2011/index.php?option=com_content&view=article&id=2575:chuong-21-tai-sao-giac-ho-va-dong-dang-triet-pha-cac-di-tich-lich-su-va-van-hoa-dan-toc&catid=80:cac-chuong-trong-tac-pham-thang-long-xua-ha-noi-n&Itemid=130#_ftn6) …. Ở một đoạn khác GS viết: “Trèo lên Ngọa Vân Am ở phía tây hòn Yên Tử, ở độ cao khoảng 1.000 mét, nơi người anh hùng kia lãnh đạo cả nước chống giặc Nguyên cũng là vị Tổ Của Nền Phật Giáo Thống Nhất đời Trần: dòng Thiền Trúc Lâm – Trần Nhân Tông – an tịch, người ta thấy choáng váng đến sững sờ: ngôi Tháp Phật Hoàng tức tháp Vua Trần Nhân Tông cao sừng sững, bị đào rỗng ruột, đứng vật vờ trước gió, bài vị bằng một tấm đá đen và một tấm đá bán nguyệt rất lớn khắc mấy chữ “Phật Hoàng Tháp” thật đẹp trong niên hiệu Minh Mạng (1839) bị đập thành nhiều mảnh. Một tấm bia cao lớn đề năm 1689 do chúa Trịnh Căn cho khắc để ghi nhớ việc ông dẫn các con vương tử và quận chúa, trèo lên đây chiêm bái người anh hùng, cũng bị đập thành năm bẩy mảnh.

giavui
07-11-2014, 09:15 PM
Bên cạnh đó, ở một ngọn núi khác có động Hồ Thiên nằm ở độ cao khoảng 800 mét, cũng là nơi Trần Nhân Tông tu Phật. Có nhiều ngôi tháp rất đẹp phía dưới bằng đá xanh phía trên bằng đá đỏ gắn khít với nhau không hề thấy dấu vết vôi vữa, đều bị phạt ngang hết cả. Một ngôi thạch thất được kiến tạo bằng những tấm đá xẻ mỏng rất to lớn nguyên phiến không chắp. Kể cả hai mái cũng bằng đá, cũng bị đào rỗng phía dưới và đập vỡ mất một bên vách, mà ở trong còn đựng một tấm bia chạm khắc tinh xảo vào thế kỷ XVIII (tấm bia sẽ đổ bất cứ lúc nào).”
Xem đoạn văn trên ta thấy các vua chúa sau Trần Nhân Tông, đều đến Ngọa Vân khắc bia và chiêm bái người anh hùng dân tộc. Đến cả người phương Bắc cựu thù địch thủ, không thể không kính phục và nể trọng những con người như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo. Chỉ Hồ Chí Minh và đồng đảng lại phỉ báng tiền nhân, lên án tiền nhân là phong kiến… Là người dân Việt Nam ai cũng biết chiến công đáng ca ngợi nhất, vinh quang nhất và khó khăn nhất là cuộc chiến giữa quân dân nhà Trần và giặc Nguyên. Và đây còn là một cuộc chiến vô ngã… Cái hùng khí và tính bất khuất không chỉ có một vài người mà tất cả toàn dân: đã đem máu, nước mắt, mồ hôi, trí huệ nhiệm mầu để thay thế cho thành quách và gươm đao để ngăn ngừa vó ngựa Thành Cát Tư Hãn, mạnh như những cơn gió lốc đã cuốn đi hàng trăm những thành trì kiên cố khắp thế giới… Ngăn lại mà không hủy diệt, phóng thích 6 vạn quân Mông Cổ, đại xá cho tất cả những kẻ phản bội, ngăn lại mà vẫn nở những nụ cười nhân ái với kẻ cựu thù địch thủ. Đau khổ mà không nuôi dưỡng oán thù. Phẫn nộ nhưng vẫn chính trực và không độc ác. Kiên cường mà vẫn nhân từ. Ngày nay nhìn lại những trận đánh cách đây trên bẩy trăm năm, ai yêu nước thương nòi không khỏi kính trọng ông cha mình. Thế mà bọn Hồ Chí Minh đã cho đồng đảng đập phá mộ phần và đền thờ các vị anh hùng dân tộc. Và nay thì sao? Đến đây xin dừng lại để bạn đọc xem tiếp bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi về hiện trạng. “Không thể không nhắc lại rằng từ hơn 50 năm lại đây, văn hóa truyền thống đã trải qua một “đại nạn”. Vì nghĩ rằng là những tàn tích phong kiến, chúng ta đã công nhiên lên án chúng, thẳng tay “đàn áp”, “xử tội” chúng; đã để cho bao nhiêu đình chùa, bia mộ, sách vở quý giá ở khắp mọi vùng bị đốt phá, hoặc mất mát hư hỏng mà không một chút động tâm, như nhiều thế hệ đã tận mắt nhìn thấy” … Tuy nhiên, một chi tiết cho thấy tấm lòng trong sáng của các sử gia và khảo cổ Việt Nam khi ra sức gìn giữ di tích. Đặc biệt, các vị đã cứu được ngôi chùa Diên Hựu khỏi bị phá sập để xây lăng Hồ, như tiết lộ sau: “Nhân nói về Hồ Chí Minh, tôi nhớ lại có nhiều lần đưa khách nước ngoài đi thăm một số di tích ở Hà Nội, nhưng cứ hễ đến ngắm cảnh quan chùa Một Cột hiện nay là ai cũng ngao ngán lắc đầu. Bảo tàng Hồ Chí Minh đã choán hết không gian của cụm chùa Diên Hựu và chùa Một Cột, đến nỗi mới nhìn tưởng đâu như cụm di tích này là một thứ công trình phụ, nép vào bảo tàng, hoặc được mọc lên từ một đáy giếng … (…)” Sau khi tìm địa điểm làm bảo tàng Hồ Chí Minh người ta không thèm hỏi gì giới chuyên môn, để cho một di tích vào loại cổ nhất Thăng Long và là một biểu tượng của Thăng Long ngàn năm văn vật, nên nhớ là vào năm 1954 khi người Pháp rút khỏi nơi đây có kẻ nào đó muốn phá biểu tượng kia đi đã manh tâm giật sập chùa Một Cột. ( Kẻ nào manh tâm giáo sư không vạch mặt chỉ tên, nhưng ai cũng biết là Hồ Chí Minh): phải lâm vào tình trạng bị “cớm” một cách tệ hại mà khách nước ngoài cũng phải thấy là bất nhẫn? Chẳng lẽ với cơ chế này trí thức chẳng một ai có cơ hội bộc lộ chính kiến thật của mình hay sao? Hay người ta có hỏi mà không ai dám trả lời? Không giải đáp nổi thắc mắc cho mình, tôi bèn cất công đi tìm, thì hỡi ôi, lại còn biết thêm một sự thật bàng hoàng hơn! Khi xây bảo tàng, thấy chùa Diên Hựu đứng đó làm vướng víu công trình tưởng niệm Bác. Một chức sắc cao cấp trong ngành xây dựng chịu trách nhiệm thi công đã ngấm ngầm lệnh cho thợ xây phun nước liên tục vào chùa cho nó sập quách đi, may mà về sau có người – GS Trần Quốc Vượng – tìm mọi cách “rỉ tai” nên trước nguy cơ ngàn cân treo sợi tóc, ngôi chùa vẫn còn giữ được “cái mạng” già lão. Nghe rồi bần thần mất một lúc, lại liên tưởng đến bọn Taliban đã phá hại tượng Phật khổng lồ ở Afghanistan hóa ra mọi cái đầu độc tôn giáo bản chất đều giống nhau, chỉ khác về tầm mức… Trên đây là một phần bài viết của GS Nguyễn Huệ Chi. Còn nhiều bài viết về vấn đề triệt phá các di tích lịch sử. Không thể nêu hết. Thời “mở cửa” báo Văn Nghệ năm 1990 có bài phóng sự, ký sự của tác giả Xuân Ba “Huyện hai vua ở Thọ Xuân xứ Thanh góp cho triều Tiền Lê một Lê Hoàn và Hậu Lê là Lê Lợi khởi đầu cho 30 vị vua sau này.” Lê Hoàn và Lê Lợi đều là những vị anh hùng dân tộc. Nhưng đền thờ các vị vua đó đã bị tàn phá và biến thành trại chăn nuôi. Bài phóng sự khá dài chỉ xin dẫn ra đây một đoạn: “Làng Trung Lập sinh ra Lê Hoàn, chẵn ngàn năm rồi mà tên làng vẫn không thay đổi từ thời Đinh! Phong thủy hiểm yếu đắc địa như thế nào chẳng biết nhưng Trung Lập như một cái gò lớn được bồi tích bởi phù sa của sông Cầu Chày trước có tên là Trùy Chày Giang và sông Chu (xưa có tên là Lương Giang). Đợt khảo cổ năm 1985 đã tìm thấy ở Trung Lập trống đồng, bình thạp, mũi tên giáo mác bằng đồng có niên đại cách đây 2500 năm. Cách đây 3000 năm đã có người Việt cổ sinh sống ở bãi bồi hai con sông lớn này như bây giờ dân Trung Lập cư trú vậy! Năm Ất Tý 1005 vua Lê Đại Hành mất. Làng Trung Lập chỉ có một ngôi miếu nhỏ ngay trên túp lều ngày trước mẹ con Lê Hoàn từng sống. Đầu thời Lý, vua Lý Thái Tổ cho xây dựng đền thờ theo hình chữ công. Lạ nữa, qua từng ấy năm, những tao loạn trận mạc lẫn sức tàn phá của thời gian mà ngôi đền thiêng liêng này vẫn được giữ gìn cho đến ngày nay! Hiềm nỗi cũng cách đây chả lâu mấy, ngôi đền thiêng gồm nhà tiền đường năm gian, trung đường ba gian, hậu cung năm gian mà dân Trung Lập quen gọi là Nghè bị coi là tàn dư của đế quốc phong kiến một thời gian dài hết thành trại chăn nuôi rồi nhà kho. Đồ thờ tự trong nội cung bị thất tán bị phá khá nhiều. Nhưng may gần đây đã được tôn tạo bổ sung nên vẫn giữ được vẻ nghiêm ngắn khang trang như bây giờ. Đây là công trình kiến trúc cổ độc đáo vào loại bậc nhất còn lại ở đất Thọ Xuân. Hậu thế rồi phải biết ơn những người có tên lẫn vô danh ở làng Trung Lập đã từng cất giữ những hiện vật tỷ như chiếc đĩa đá, dân còn gọi là đĩa Ngọc do vua Tống Thái Tông là Triệu Khuông Nghĩa tặng vua Lê Đại Hành năm Canh Dần (990). Đĩa đường kính 47,5 cm giờ vẫn rõ nét hai hàng chữ Giang Nam nhất phiến tuyết, Tác Khí vạn niên trân (Giang Nam có phiến đá sắc trắng tựa tuyết làm thành vật quý vạn năm). Dưới dòng lạc khoản đã mờ là chiếc chĩnh chiện quốc ấn của vua Tống. Rồi còn những đạo sắc phong nữa chứ! Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy, những ai đó đã đủ tỉnh trí lẫn lanh khôn đút vội chúng vào đòn tay ống luồn rải rác ở một số nhà. Thất thoát bao nhiêu chả biết nhưng bây giờ giữa điều may mắn có 14 đạo sắc phong của các triều đại. Cổ nhất là triều vua Lê Gia Tông (năm Giáp Dần 1674(?)). Mới nhất là Đồng Khánh nhị niên (1888). Rồi còn chiếc chậu men lam thời Hậu Lê kia, một báu vật thờ cúng của đền may sao không đem đi muối cà hay đựng mắm hoặc rơi vào tay bọn bất lương chuyên săn lùng đồ cổ! (…)” Về vua Lê Đại Hành, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: “Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặt đánh Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân, Quân xâm lược nhà Tống dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi đã yên tĩnh. Cái công đánh dẹp ấy tuy nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được.” Những người anh hùng có công lớn với Tổ quốc Lê Đại Hành, đã bị Hồ Chí Minh và đồng đảng Cộng Sản của y “truy lùng gắt gao” tác giả bài ký sự mô tả bọn Cộng Sản “khí thế hừng hực” chắc trong lòng dạ bọn chúng phải căm giận ông cha ta lắm, bọn chúng rất xa lạ với tiền nhân. Trong cái thời khắc nghiệt gắt gao đó nhân dân đã phải bỏ cả ngày kỷ niệm các vị anh hùng dân tộc. Thời trước, vào những năm chẵn, dịp mồng tám tháng ba âm lịch đúng ngày mất của Lê Hoàn (vua Lê Đại Hành) có lễ ở đền rất trọng gọi là Quốc Lễ: “Nếu không có quan ở triều đình về trực tiếp lễ tế, thì quan đầu tỉnh phải làm phận sự ấy”.
o O o Truyền thống thờ cha kính mẹ đã được chuyển hóa từ mỗi gia đình Việt Nam ra đến ngoài quốc gia xã hội, đều là nền móng cơ bản của các mối dinh dưỡng, hỗ tương trong đời sống xã hội, từ thế hệ này qua thế hệ khác trong xã hội Việt Nam. Đây là một sợi dây vô hình đã liên kết và thống nhất được tất cả các sinh mệnh, tính mệnh của văn hóa, văn hiến trong suốt 4000 năm lịch sử. Cuộc sống Đạo lý và văn hóa nẩy sinh ra những chồi non và cứ thế nối tiếp. Tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam tưởng đến những cổ nhân của mình, mà tất cả các triều đại, cùng con dân thời đại nào cũng bảo vệ và trùng tu những Tông Miếu, Xã Tắc để thờ kính Trời Đất, Tổ Tiên, Tiền Nhân và các vị anh hùng liệt nữ có công dựng nước và giữ nước. Nên họ đã trở về với đời sống vĩnh hằng trường cửu, bất sinh, bất diệt để làm thành HỒN THIÊNG NÚI SÔNG cho muôn ngàn thế hệ con cháu Tôn Kính và thờ lạy trong Tông Miếu. Chỉ bọn vô đạo Hồ Chí Minh không chấp nhận. Như GS Nguyễn Huệ Chi nói: “Chúng có một sự thù hằn gì ghê gớm đối với lịch sử”. Chúng thù hằn cả những người đã sinh ra chúng. Hồ Chí Minh bôn ba hải ngoại, đến lúc về nước tranh đấu, khi công thành danh toại làm Chủ Tịch Đảng, Chủ Tịch nước, Ông Phó Bảng Nguyễn Sinh Huy không có một nén hương trên mộ, cũng không có lễ cúng cha mẹ mình. Ông làm gương cho toàn đảng, toàn dân nên chỉ có cúng Mác Lênin, thờ Stalin, thờ Mao Trạch Đông. Còn ông cha tiền nhân bị lên án là phong kiến, nên đã cho bọn lâu la phá sạch! Trong khi người Việt Nam coi Tổ Quốc là Đất Mẹ, từ trên 4000 năm qua vẫn thờ Mẹ như bóng dáng của những gì khả kính nhất, nhân từ nhất, nhẫn nhục nhất, thánh thiện nhất, bao dung nhất và tinh thần ấy đã tỏ lộ rất rõ ràng khi toàn thể quốc dân Việt Nam, từ thời vua Hùng đến nay đều gọi quê hương là Đất Mẹ với tất cả lòng tôn kính và yêu thương nồng nàn. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng của y là không thừa nhận. Nên nhớ rằng mãi đến năm 2000 quốc hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa mới nhìn nhận Tổ Hùng Vương. Bởi xuất phát từ triết học vô thần, lại được những kẻ lãnh đạo u mê cuồng tín thực hiện thì tai họa khó lường. Đối với nhân dân, chúng chỉ dựa vào các cực hình sắt đá là bắt hàng loạt, giết hàng loạt với mục đích làm cho dân chúng ở trong nước hoảng sợ. Khổng Tử nói: “Ái dân trị quốc năng vô vị hồ” nghĩa là yêu dân cai trị mới không thể không theo lẽ tự nhiên ư? Thuận theo tự nhiên thì không có hành động xấu xa tàn ác. Các vị vua ta coi ý dân là ý trời. Chính vì thế mà các ngài chủ trương văn trị dân chủ hiến định, các ngài không làm theo ý riêng của các ngài. Người ta thường nghe nói: “Thế thiên hành đạo” là trong ý nghĩa đó, còn loại vua hạ đẳng như Hồ Chí Minh là loại người chuyên dùng thủ đoạn dối trá làm cho nhân dân ngu muội, lấy ngụy trá để lừa đảo nhân dân. Đã gọi là chính quyền thì phải “chính khí vương quyền và chính quyền là bất chính thì gọi là tiếm quyền, tà quyền, bạo quyền Cộng Sản .” Các tư tưởng trị quốc của vua ta, đều lấy “ngay thẳng” làm cơ sở, lấy “chính” để an dân, lấy chân tình để sống với người, lấy đạo đức để cảm hóa người. Còn Hồ Chí Minh “lấy tà ngụy” làm cơ sở trị quốc. Chúng không tin vào Trời Phật, trong khi các tôn giáo truyền thống tin vào thần thánh, đạo Phật tin vào luân hồi và quy luật nhân quả, trái lại triết học Cộng Sản hoàn toàn phủ nhận thần thánh. Đảng Cộng Sản chỉ tin vào thuyết vô thần, nên tất cả chủ trương đường lối của họ hoàn toàn đi ngược lại và mâu thuẫn với văn hóa Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam phủ nhận dân tộc, “giai cấp vô sản không có tổ quốc” . Văn hóa truyền thống đề cao sự thương yêu đùm bọc đồng bào trong khi Cộng Sản chủ trương đấu tranh giai cấp, xui đồng bào giết lẫn nhau như thú vật. Trong khi tinh thần dân tộc và văn hóa truyền thống đề cao lòng tốt, từ bi, bác ái, dung hòa, hòa đồng giữa đời sống nội tại và thiên nhiên, hòa đồng giữa gia đình, xã hội và đồng loại, dung hòa, bác ái.
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn
hay:
Anh em bốn bể đều là nhà
Đó là mối giao cảm sâu sắc giữa người và người, đó là thứ hương hoa của nhân bản và văn minh hóa viết thành chữ. Ôi! Mầu nhiệm thay, trong cái rừng ca dao, tục ngữ kia lẫn lộn vào đó bao nhiêu là thánh thư suốt chiều dài lịch sử, cũng như về khả năng dung hòa văn hiến, văn hóa trước những thử thách cam go ghê gớm của lịch sử thăng trầm ngàn năm. Đến hôm nay Đảng Cộng Sản còn muốn bức tử và chà đạp lên sinh mệnh văn hiến, văn hóa dân tộc ta. Thông thường ai cũng hiểu rằng sự phát triển của nền văn hóa làm ra lịch sử của nền văn minh của một đất nước. Sự phá hủy hoàn toàn văn hóa dân tộc sẽ dẫn tới sự diệt vong của dân tộc đó, thí dụ những dân tộc cổ xưa có nền văn minh cao như Andes ở Nam Mỹ và nền văn minh của người Maya và Aztec ở Trung Mỹ, những dân tộc sáng tạo ra nền văn minh huy hoàng đó bị coi như đã biến mất, khi văn hóa của họ bị hủy diệt. Ở Việt Nam sau khi đảng Cộng Sản đã phá phách các di tích văn hóa, các di tích lịch sử bằng các chiến dịch truy lùng tàn dư phong kiến kéo dài nhiều thập niên. Nó lại lừa dối nhân dân và cộng đồng quốc tế là nó “kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống và phát triển lên một mức cao hơn, sâu sắc hơn toàn diện hơn ở thời đại mới.” Nòi giống Tiên Rồng đã xây dựng sự nghiệp gian nan trên oan khiên nghiệt ngã: đã từng thất bại và uống những chén đắng không thể nuốt nổi (một ngàn năm giặc Tầu đô hộ). Dân tộc này biểu lộ trọn vẹn cái dũng khí, thần khí, chí khí, hùng khí…, và đã vác những gánh nặng tưởng như không thể vác nổi trên đôi vai (ba lần chống quân Nguyên) để sản sinh ra những con người như Bà Trưng, bà Triệu, Lê đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ v.v… Nhưng con người da vàng, gan sắt, đã chịu đựng những cơn giông bão triền miên để chứng minh về nguồn gốc Tiền Nhân của mình. Những vị anh hùng ấy, hôm nay bị Hồ Chí Minh và đồng đảng, đào mồ, phá đền thờ. Tội bọn chúng không thể tha thứ! Nhưng đời sống thiên thu của những con người đã sáng tạo ra lịch sử dựng nước còn đó. Sự sống thiêng liêng mầu nhiệm của họ luôn luôn tác động ngấm ngầm suốt dòng lịch sử để giúp cho dân tộc này tiến hóa và trường tồn. Qua sự việc nhiều sử gia, khảo cổ gia Việt Nam đã tìm mọi cách để cứu được ngôi chùa Diên Hựu ở Hà Nội khỏi bị bọn Cộng Sản đập phá, đến việc những người dân làng Trung Lập, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. “Trong âm thanh chói gắt trống kẻng của khí thế hừng hực truy lùng tàn dư phong kiến vào những năm khó khăn ấy đã cất giấu được các bảo vật vô giá” chứng tỏ rằng con cháu Lạc Hồng không ai nhạt lòng với Tiền Nhân. Chỉ có Hồ Chí Minh và đồng đảng là những kẻ vong ân bội nghĩa. Lương tri của mỗi người chúng ta vốn có từ trước khi chúng ta sinh ra và sẽ tồn tại đến thiên thu vĩnh cửu nếu chúng ta biết bảo vệ duy trì và phát huy nó, thì nó sẽ tương ứng đồng điệu hay đồng thanh tương ứng với một chân lý, Chân Thiện Mỹ, mà cái lương tri của người nông dân thôn Trung Lập là một thứ Ngọc Quý trong những hòn đá sần sùi, xấu xí. Đó là những tinh báu vô tì vết. Ai hằng quan tâm đến lịch sử cũng biết từ khi Hồ Chí Minh và đồng đảng của y cướp được chính quyền, chúng đã tận dụng mọi thời cơ vào việc triệt phá nền văn hóa truyền thống Việt Nam. Ác ý này, tuyệt đối không phải là vì cán bộ “cấp dưới làm sai”. Chính sách của Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản VN, như bọn chúng thường tuyên truyền để bao che tội ác trong bao nhiêu thập niên qua, mà nó xuất phát từ sự “đối nghịch” về ý thức hệ giữa chủ nghĩa Cộng Sản với văn hóa truyền thống của dân tộc. Chính vì thế việc phá hoại văn hóa và các di tích lịch sử đã được lập kế hoạch có tổ chức kỹ lưỡng, có tính toán, có hệ thống được chỉ đạo từ Bộ Chính Trị. Bây giờ họ lại âm mưu biến tên đồ tể sát nhân trở thành vị bồ tát được đem vào trong chùa thờ. Ở đây không phải chuyện “vứt dao đồ tể để thành Phật” mà là một chuyện phỉ báng lịch sử, bôi nhọ Phật Giáo. Biến nơi thờ phụng trang nghiêm thanh tịnh trở thành ô uế! Nên hiểu rõ rằng, không có một tấc đất nào của Tổ Quốc dành cho kẻ phản bội lại dân tộc. Lịch sử nhân loại cũng không hề có một đất nước nào thờ kẻ sát nhân. Đây là một xúc phạm nặng nề nhất đối với cả dân tộc Việt Nam. Thiết tưởng ở đây cũng cần nói qua về tình trạng văn học miền Bắc dưới thời Hồ. Cách mạng tháng 8, kế đó việc đưa đẩy sự thường trực của bạo lực chuyên chế… Sự đeo đẳng căng thẳng cùng sự nhọc nhằn của đời sống lý lịch, tem phiếu… Sự thâm nhập của chính trị được đẩy bằng bạo lực trở lên ngày càng khủng khiếp, thêm vào đó là sự biến cải tâm lý xã hội và sự xuống dốc của đạo đức từ các chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất … Đứng trước những thù nghịch của đấu tranh giai cấp quyết liệt, hăm hở ấy, nhà văn chỉ còn rắp nữa là chờ dịp may, có cơ hội… “Thế rồi. Một ảnh hưởng quốc tế do bài diễn văn của Krushev đọc tại Đại hội Ðảng Cộng Sản Liên Xô lần thứ 20, hạ bệ thần tượng Stalin gây nên. Nguyên nhân đã cho phép phong trào Nhân Văn khai hỏa thái độ đối kháng với chế độ. Hai là ảnh hưởng trực tiếp của chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất mà giới trí thức miền Bắc lúc bấy giờ gọi là một cuộc “ám sát tập thể! Phải nhận rằng sự định hướng này cũng là kết quả của nhiều yếu tố khác dồn dập mang lại do một hoàn cảnh bùng vỡ về chính trị, mà cụ Phan Khôi có thể được coi như người chủ xướng phong trào Nhân Văn. Trường hợp của cụ đáng được chú ý nhất là vì ngay trong thời kỳ ở vùng kháng chiến, cùng sống chung với người Cộng Sản, cụ thấy rõ tim đen của họ. Ngay trong Đại hội văn nghệ ở khu vực Bắc 1951, cụ đã tỏ thái độ bất bình, khi thời cơ đến đã mạnh mẽ khai triển tư tưởng chống cộng, một cách khác thường. Nói chung văn nghệ sĩ họ đã tổ chức tấn công, phòng thủ chủ động,chống chủ nghĩa Cộng Sản bằng chính vũ khí của Mác Lenin. Trường hợp GS Trần Đức Thảo chẳng hạn. Ta có thể thấy đủ các hình thức phản kháng, bằng lý luận, bằng nghệ thuật. Sự độc đáo là sự trốn núp trong thơ, trong truyện và ta cũng nên thông cảm những điều rất khó đối với những người trong cuộc. Nhưng phải thừa nhận rằng họ biết diễn giải với một nghệ thuật tuyệt diệu… Một sự sáng suốt, thận trọng, một sự suy cứu vững vàng, mà đành lòng chấp nhận những giới hạn. Vì những kẻ cầm mã tấu đứng bên cạnh họ…Văn học hơn bao giờ hết trở thành chứng liệu, những công việc sáng tác với họ vẫn là điều bí mật kéo dài. Truyện “Cái Bình Vôi” của Lê Đạt, “Thằng người máy” của Trần Dung v.v… giải thích những bí hiểm ấy. Tờ Đất Mới của sinh viên bị cấm chỉ sau một số đầu tiên. Tuy nhiên nó vẫn còn để lại một cái gì chưa đi đến kết thúc… Tôi hy vọng ở thế hệ sinh viên ngày nay sẽ kết thúc. “Tờ Đất Mới đã gây chấn động cho thế hệ 60. Nó được lôi cuốn bởi thế hệ đàn anh. Ở thời kỳ ấy những nhà văn, nhà thơ có tài như Trần Dần, Phùng Quán, Minh Hoàng, Nguyễn Tuân, Văn Cao… không hiếm, nhưng sau này hoàn toàn bị tê liệt vì những hà khắc do ý thức hệ và bộ máy mật vụ. Nhưng ở phương diện khác, ta cũng phải nhận rằng nó hãy còn chưa cho phép nảy nở những tác phẩm lớn có tầm cỡ quốc tế, ngoại trừ trong lĩnh vực truyện ngắn, tiểu thuyết thì còn đang ở trong giai đoạn thai nghén đã bị bóp chết. Nhà văn đương đầu một cách trực tiếp với vấn đề chính trị, xã hội của thời đại. Trong bối cảnh của lịch sử về phương diện này, tâm lý của nhà văn liên quan đến hoàn cảnh của con người sống trong xã hội đó, bao giờ họ cũng nắm vai trò chủ động, những ước vọng về sự cải tạo xã hội, mà luôn luôn văn học nắm bắt được, trong mối liên hệ giữa nhà văn với thế giới giữa con người và lịch sử. Bằng sự dấn thân, hoặc khước từ dấn thân trong cuộc sống. Bằng hành trang sống với người Cộng Sản trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, với di sản quá lớn, quá đớn đau trước mặt là cuộc Cải Cách Ruộng Đất. Lòng khao khát rửa thù cho những oan hồn còn nặng nề hơn cả mối thù thực dân, họ tiếp xúc thẳng với những “cái thực độc ác”. Đó là những chứng liệu hết sức ác liệt, tàn bạo, vô luân. Một mạch nguồn rộng lớn liên đới đến nỗi thống khổ của người dân miền Bắc. Thương tích trong thân xác và tâm hồn bị dìm trong sắt máu, mê muội, cuồng tín tràn trề, một tình trạng phi dân tộc, phi văn hóa. Có lẽ những tác phẩm lớn cỡ đó đã bị tuột khỏi tầm tay thế hệ trước. Sau sự vùng dậy can đảm thể hiện lần đầu tiên vào mùa Xuân 1956 trong không khí bốc cháy, xác nhận một cách tàn nhẫn, lẩy bẩy vì phẫn nộ bởi máu thịt đồng bào trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, rồi đến lượt họ, phần lớn vào trại cải tạo, phần thì bị kềm kẹp không lối thoát. Văn học chấm dứt! Văn học sau này bị thu vào một chuỗi độc điệu gồm toàn tác phẩm truyền giáo tư tưởng Mao Trạch Đông, Mác-Lê với những khuôn mặt nghèo nàn, tối tăm cũ kỹ. Sự yếu kém của văn học miền Bắc không lạ gì với ai. Kể cả giới phê bình, họ mất khả năng diễn đạt “độc lập” dù là những nhà phê bình có tài năng đích thực thì cũng phải diễn tả bằng những công thức tương tự, và đồng giá trị, để giữ được “Sổ lương thực”, mà cái nòng cốt của bản chất nghệ thuật nguyên thủy là sự đa dạng, thì làm sao có thể theo công thức? Sự thực cái gọi là “khuynh hướng hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa” nhuộm mầu sắc, Mác Lênin này thâm nhập vào mọi địa hạt văn học lộ rõ tính chất phi dân tộc. Ngay cả lớp trẻ sau này nhiều người cũng không thoát khỏi tâm trạng ấy! Âu cũng là một cái luật chung cho giới cầm bút nhất là những thập niên thời Hồ. Văn học toàn là thứ cầu nguyện Bác Đảng đến thời Nguyễn Văn Linh “mở”, “đóng”, “trói”, “cởi”, hoặc khép kín trong giáo điều lý luận Mác Lê. Nguồn gốc sinh ra không biết bao nhiêu là thứ quái thai dị dạng! Tôi nghĩ đã đến lúc nhà văn phải thoát khỏi mọi ràng buộc của nghi lễ chế độ nhất thời, tự giải thoát để đi vào hiện thực. Không ai ban phát tự do dân chủ cho các anh. Nếu các anh không tự mình giành giật lấy, chẳng bao giờ có cả. Chúng ta không nên hy vọng vào sự tự tỉnh ngộ của những người lãnh đạo Đảng Cộng Sản. Kỳ vọng vào sự tỉnh ngộ của họ chẳng khác nào mong chó sói đừng ăn thịt. Đó là chuyện nằm mơ giữa ban ngày. Chúng ta chỉ có thể sửa đổi chế độ chính trị bằng cách áp lực quần chúng buộc họ phải từ bỏ chế độ độc tài, độc đảng, rằng không phải ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN sẽ thay đổi thời cuộc, mà nhân dân Việt Nam sẽ thay đổi. Con đường trước mặt mà chúng ta phải dẫn đầu trong cuộc xuống đường tràn vào Ba Đình, ngoài con đường đó chẳng còn con đường nào khác. Thông điệp mà tác giả muốn gởi đến mọi người Việt Nam. Thông qua cuốn sách này trước hết là các chiến sĩ dân chủ, thanh niên, sinh viên. Những người đầu tiên đã xuống đường chống Trung Quốc chiếm Hòang Sa, Trường Sa. Ngày 14 tháng 9 năm 2008 trước Sứ quán Trung Quốc, 46 Hoàng Diệu – Hà Nội. Hành động của anh chị em hôm nay sẽ là những bước đi vĩ đại trong vận mệnh dân tộc ngày mai. Công lý, sự thật sẽ trở thành sức mạnh đạp đổ sợ hãi, tiêu diệt cường quyền và áp bức. Chiếu sáng niềm tin đến mọi con đường, và mọi nơi chốn. Tất cả đồng lòng, đồng thanh, đồng hành động cùng toàn thể đồng bào. Tổ quốc kêu gọi sự thức tỉnh của từng cá nhân chúng ta, nếu mọi người đều hiểu rõ giá trị của quyền làm người, thấy được rõ bộ mặt thật của những nhân vật lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN. Cho dù là mới hay cũ, cũng chỉ là một thứ “dối trá”, phản bội đồng bào, phản bội tổ quốc và xa lạ với cội nguồn.
Hãy đứng dậy! Hỡi anh chị em!
Đây là mệnh lệnh lương tâm của chúng ta.
Nếu chúng ta muốn trở thành người chân chính.
Hãy hành động chân thật và ngay thẳng.
Tiền nhân ta từ những người phụ nữ, như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, bà Triệu là đàn bà đến Lê Đại Hành, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ… những bậc anh hùng đã chiến đấu để bảo tồn giống nòi, xứ sở, làm nên những trang sử vẻ vang cho dân tộc Việt Nam, mà chất liệu của bản trường ca anh hùng ấy không phải là những bậc thánh siêu phàm. Có khi họ xuất phát từ những người nông dân hiền lành, làm ruộng, chất phác, nhân hậu. Nhưng không biết sống cuộc đời nô lệ, không biết khuất phục, không khiếp nhược và đã tự mình làm ra số phận của mình bằng thái độ đấu tranh không nản lòng với các thế lực xâm lăng phương Bắc. Đó là hình tượng những người đi tiền phong cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Tiền nhân ta đã phải trải lắm gian truân nguy hiểm suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, đã chiến thắng những gian truân nguy hiểm ấy, để bảo tồn non sông gấm vóc và xây dựng cuộc đời hạnh phúc phong phú có trí tuệ. Hãy ngẩng cao đầu, hãnh diện về tiền nhân của mình.
Trân trọng. Trần Nhu. Thôi Phán Quan ngừng đọc. Gian phòng xử im lặng thật lâu. Lát sau vị đại diện cho luật pháp của âm hắng giọng. -Kính thưa bồi thẫm đoàn. Mấy ngày nay 9 vị đã nghe, thấy tôi trình bày về tội ác của bị can Hình Chí Mô. Đại diện cho dân tộc Việt Nam đòi hỏi công lý, tôi hi vọng rằng quí vị sẽ đưa ra một hình phạt tương xứng với tội ác mà bị can Hình Chí Mô đã làm. Xin cám ơn quí vị… Đán bước tới thì thầm với Diêm Vương những gì không ai nghe được, chỉ thấy ông vua âm phủ gật đầu cười tỏ vẻ hài lòng xong tuyên bố ngày mai bồi thẫm đoàn sẽ đưa ra hình phạt cho bốn bị can la Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. Thiên hạ lục tục ra về. Họ vừa đi vừa bàn ra tán vào cố đoán xem bồi thẫm đoàn sẽ có hình phạt gì.

giavui
07-11-2014, 09:16 PM
- 30 –
Gian phòng xử không còn một chỗ trống nào. Người tham dự phải đứng ngoài hành lang và ngoài sân nữa. Tất cả đều nôn nóng chờ nghe bồi thẫm đoàn tuyên bố hình phạt dành cho bốn bị can cuối cùng là Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. 9 giờ. Mọi người đứng lên chào đón Diêm Vương khi ông ta xuất hiện. Ra lệnh cho mọi người an tọa, ông vua của âm phủ gõ búa ba tiếng báo hiệu phiên xử bắt đầu. Nhân danh chủ tịch bồi thẫm đoàn, Đán đứng lên tuyên bố: -Kính thưa Diêm Vương… Kính thưa Thôi Phán Quan… Kính thưa quí vị khán thính giả tham dự phiên tòa cũng như toàn thể dân chúng Việt Nam trong nước và ngoài nước… Sau khi bàn thảo với nhau, 9 vị bồi thẫm chúng tôi đã tìm ra hình phạt dành cho bốn bị can Võ Khôi Nguyên, Ba Duân, Sáu Búa và Hình Chí Mô. Đầu tiên tôi kính mời bồi thẫm Quá đứng lên tuyên bố cho mọi người biết hình phạt dành cho Võ Khôi Nguyên… Phòng xử im lặng như tờ. Mọi người chăm chú nhìn bồi thẫm Quá. -Kính thưa quí vị. Đảng cộng sản Việt Nam là một tai họa lớn cho đất nước và dân tộc Việt Nam. Do đó bị can Võ Khôi Nguyên cũng có tội với đất nước. Xét rằng, Võ Khôi Nguyên làm đến chức đại tướng mà vô dũng vô mưu để thân bại danh liệt, lại thêm vô tình vô nghĩa với anh em, thấy đồng chí bị hoạn nạn mà không cứu giúp. Lúc còn sống ông ta là tướng nên tôi sẽ cho ông ta làm ông tướng trên bàn cờ… -Tôi chịu ý kiến này anh Chín… -Chắc tôi phải học đánh cờ tướng để rượt Võ đại tướng… Ai ai cũng đều im lặng khi thấy bồi thẫm Trung và Vui đứng lên cùng một lúc. Họ đồng tuyên bố cho Ba Duân và Sáu Búa đầu thai lên dương thế thành hai con dê cụ bị thiến. Diêm Vương truyền lệnh cho lục sự ghi vào hồ sơ của hai bị can. Mấy ngàn người như nín thở khi thấy bồi thẫm Bình đứng dậy. Họ biết ông ta sẽ có hình phạt cho bị can cuối cùng là Hình Chí Mô. -Kính thưa Diêm Vương… Kính thưa quí đồng bào… Tôi nghĩ thật là khó khăn để có một hình phạt tương xứng với tội ác mà bị can Hình Chí Mô đã làm. Thể theo đức hiếu sanh của trời đất thêm giáo lý từ bi của Phật và luân lý của tổ tiên, tôi đề nghị với Diêm Vương cho Hình Chí Mô đầu thai làm một người Việt Nam… -Cha này cộng sản thứ thiệt rồi anh Chín ơi… -Trời ơi… Ông nói gì kỳ vậy ông… -Ông này bị đút lót rồi… -Chắc ổng bị tụi nó rỉ tai… -Ông có nói lộn thì nói lại đi ông ơi… Thiên hạ la rầm lên phản đối ý kiến của bồi thẫm Bình khiến cho Diêm Vương phải gõ búa lia lịa để cho mọi người im lặng. Chính Diêm Vương và Thôi Phán Quan cũng tỏ vẻ không bằng lòng về hình phạt của bồi thẫm Bình. Tuy nhiên cả hai không có lời nào phản đối vì tôn trọng phán quyết của bồi thẫm đoàn. -Hổng được đâu… Ông cho hắn làm người Việt Nam rồi mai mốt hắn lên làm sếp lớn nữa thì chết mẹ dân Việt… -Cho hắn làm cái gì khác đi ông ơi… Thiên hạ cứ la rầm lên phản đối mặc dù Diêm Vương gõ búa mấy lần. Bỗng lúc đó có tiếng khóc hù hụ cùng với giọng nói vang lên. -Bẫm Diêm Vương… Ngài làm ơn làm phước cho con làm dân xứ khác đi… Thì ra người khóc chính là Hình Chí Mô. Ngạc nhiên khi nghe bị can van xin, Diêm Vương cau mày thốt. -Ngươi nói chi lạ. Ngươi tội lỗi lút đầu mà bồi thẫm đoàn thương tình cho ngươi làm dân Việt Nam thì tại sao lại xin làm dân xứ khác. Đâu ngươi nói lý do tại sao ngươi không muốn làm dân Việt Nam cho ta nghe đi. Nếu nghe lọt lỗ tai thì ta sẽ xét lại… Hình Chí Mô mếu máo lên tiếng. -Bẫm Diêm Vương… Ngài ở dưới âm phủ nên hổng có biết chứ làm dân Việt Nam khổ lắm. Khổ đủ điều. Khổ trăm chiều. Đói triền miên. Con già cả ốm yếu như vầy thì làm sao sống nổi. Lạng quạng còn bị công an đạp vào mặt. Con thì thích nói về tự do độc lập, nhân quyền, dân chủ mà làm dân thì tụi nó đâu có cho con nói… Nếu ngài muốn cho con làm dân Việt Nam thì ngài cho con làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng kiêm tổng bí thư… Diêm Vương lắc đầu. -Đâu có được… Ngươi tội lỗi lút đầu thì ta đâu có cho ngươi làm cha thiên hạ được. Cho ngươi làm dân Việt là quá lắm rồi. Mấy đồng chí của ngươi đều thành con này con nọ chứa đâu có được làm người như ngươi… -Dạ bẫm Diêm Vương… Như vậy con xin ngài cho con làm con chó ở xứ Mỹ đi… Trợn mắt nhìn Hình Chí Mô giây lát, Diêm Vương phán một câu. -Ngươi đừng có giỡn mặt ta khó làm việc… -Bẫm Diêm Vương… Dạ con hổng có dám giỡn mặt với ngài đâu. Để con giải bày cho ngài và bồi thẫm đoàn nghe. Hồi xửa hồi xưa lúc còn làm cách mạng con đã làm chó săn cho Liên Xô, cho Tàu, cho thực dân Pháp và cho đế quốc Mỹ rồi nên con biết làm con chó Mỹ còn sướng hơn làm dân Việt Nam dưới chế độ cộng sản. Chó Mỹ có cơm ăn ngày ba bữa, mà thức ăn lại hợp vệ sinh thêm đủ tiêu chuẩn dinh dưỡng; trong khi dân nước Việt Nam con phải ăn cơm độn khoai, thịt thì chỉ có xương, tôm thì chỉ có đầu vì thịt để dành xuất khẩu. Con chó Mỹ còn được nhiều quyền tự do hơn dân ở xứ Việt Nam… -Chó mà cũng có tự do… Ngươi nói chi lạ… -Bẫm Diêm Vương… Trong thời gian ở âm phủ con đã đọc sách báo Mỹ nên biết rõ về tụi tư bản Mỹ lắm. Ở Mỹ có Hội Bảo Vệ Nhân Quyền đã đành mà còn có Hội Bảo Vệ Chó, Hội Bảo Vệ Súc Vật, Hội Bảo Vệ Chó Quyền nữa. Chó Mỹ muốn sủa là tự do sủa, trong khi dân con muốn tự do nói mà nhà nước đâu có cho nói. Ra trước tòa, dân con muốn nói mà công an bịt miệng đâu cho nói… Ở Mỹ, người nào mà đánh đập, hành hạ, bỏ đói chó mèo là sẽ bị đưa ra tòa và lãnh án tù. Trong khi ở xứ của con, nhà nước tha hồ bỏ đói dân, mạ lỵ dân, tra tấn, hành hạ dân mà đâu có bị trừng phạt. Ngay cả Hội Bảo Vệ Dân còn chưa có huống hồ gì hội bảo vệ chó. Chó của Mỹ, được ăn ngon, được ngồi chễm chệ trên ghế nệm xem truyền hình. Chó của Mỹ được mặc quần áo đẹp trong khi con nít ở Việt Nam vì cha mẹ bị bóc lột nên trần truồng quanh năm suốt tháng. Chó của Mỹ được ngồi xe hơi dạo mát buổi chiều. Bịnh thì có sẵn bác sĩ và bệnh viện đầy đủ thuốc men và dụng cụ để chữa bịnh, còn dân con hể bịnh thì chỉ có nằm chờ chết mà thôi. Nói tóm lại dưới sự cai trị của đảng và nhà nước thì thân phận của người dân Việt Nam còn tệ hơn, còn thua con chó của Mỹ. Bởi vậy nếu Diêm Vương và bồi thẫm đoàn có thương con thì cho con làm con chó Mỹ để đỡ khổ cái thân già côi cút của con… Nghe Hình Chí Mô nói tới đó, Ba Duân vội vọt miệng. -Bác nói nghe ngon quá vậy con cũng xin với Diêm Vương cho con làm con dê của Mỹ đi… Diêm Vương xì tiếng dài. -Đâu có được… Ta nghe đồn ngươi ghét Mỹ lắm mà sao bây giờ lại xin làm con dê Mỹ… -Bẫm Diêm Vương… Theo lời bác con nói thì ở bên Mỹ người ta cưng súc vật lắm. Nếu con được đầu thai thành con dê Mỹ thì con tha hồ dê mà hổng có ai dám làm gì con hết… -Con nữa… Con cũng xin làm con dê xòm của Mỹ để tha hồ dê… Tới phiên Sáu Búa lên tiếng. Phạm Văng Vàng cũng hùa vào. -Con nữa… Bẫm Diêm Vương con xin được đầu thai làm con sâu đo Mỹ… Con nghe nói tư bản Mỹ có kỹ thuật đo đạc tối tân, đo bằng tia sáng la-se… Xứ con nghèo, lạc hậu đo bằng chân tay mệt lắm… Cái gì của Mỹ cũng hay cũng đẹp hết. Bác bảo với con như thế… Bác bảo trăng của Mỹ cũng tròn cũng đẹp hơn trăng của Trung Quốc. Đồng hồ Mỹ cũng đẹp hơn đồng hồ Trung Quốc… -Bẫm Diêm Vương… Tiền Mỹ cũng thơm hơn tiền của Trung Quốc nữa… Diêm Vương cười lắc đầu khi nghe cựu tổng bí thư Liêu Khả Phê phụ họa. Không biết nghĩ sao mà Diêm Vương nói với Hình Chí Mô và các đồng chí của ông ta. -Chuyện các ngươi xin làm chó, dê và sâu bọ của Mỹ thì với ta không có rắc rối gì. Tuy nhiên đây là thẩm quyền của bồi thẫm đoàn. Vậy để ta bàn bạc với Thôi Phán Quan và 9 vị bồi thẫm rồi sau đó sẽ quyết định… Nói xong Diêm Vương cùng với bối thẫm đoàn và Thôi Phán Quan vào họp kín. Trong lúc ngồi chờ, thiên hạ bàn ra tán vào một cách sôi nổi và hào hứng để đoán xem kết qua của buổi họp kín giữa Diêm Vương, Thôi Phán Quan và 9 vị bồi thẫm. Tới lúc thấy Diêm Vương xuất hiện, họ mới im lặng chờ nghe. -Sau khi bàn luận với Thôi Phán Quan cũng như với 9 vị bồi thẫm ta có quyết định như sau. Xét rằng bị can Hình Chí Mô đã gây ra nhiều đau thương và thống khổ cho đất nước và dân tộc. Xét rằng âm phủ tôn trọng tự do và dân chủ, do đó với sự gợi ý của Thôi Phán Quan và sự chấp thuận của bồi thẫm đoàn, nhân danh âm phủ ta sẽ mở ra cuộc trưng cầu dân ý để cho toàn dân Việt Nam quyết định số phận của bị can Hình Chí Mô. Chuyện cho Hình Chí Mô làm người Việt Nam hay làm chó Mỹ tùy thuộc vào ý muốn của dân tộc Việt Nam… Dứt lời Diêm Vương tuyên bố phiên tòa dưới âm phủ chấm dứt.
http://baovecovang2012.files.wordpress.com/2013/03/chusalan_sign.gif?w=640
2-2012