giavui
10-26-2010, 02:10 PM
Hạ bất ngờ trước một vồng hoa cải đang vàng rực, rung rinh trong nắng sớm. Đêm qua, chuyến xe khuya đưa cô và Tuấn về tới nhà trọ thì trời mịt mù tối, chỉ văng vẳng tiếng tắc kè kêu khiến cái cảm giác chợn rợn theo Hạ suốt những giấc mơ dài. Trước khi mẹ đẻ của cô mất, bà nói, quê Hạ ở một miền quê có hoa cải nở dọc triền sông. Chắc cũng giống miền quê này.
Ảnh minh họa
“Hứa với mẹ nhé, con phải học tha thứ và phải tìm cha mình”… Khi mẹ Hạnh nắm tay chờ một cái gật đầu từ Hạ thì Hạ không có chút kí ức nào về người cha và cả về mẹ đẻ. Cô lớn lên trong sự thương yêu của mẹ Hạnh – cho tới khi vào đại học, mười tám tuổi, cô mới biết đó là mẹ nuôi mình. Hạ đã khóc òa, khóc tấm tức, khóc câm lặng… khóc đủ mọi cách, mọi trạng thái sau khi vỡ lẽ ra điều đó, trong nhiều đêm dài. Để rồi quyết định giữ điều bí mật ấy cho riêng mình. Suy cho cùng, cô coi mẹ Hạnh như mẹ ruột. Mẹ Hạnh chỉ có một mình cô là người thân.
“Cha con đâu,mẹ?” – “Cha con đi làm ăn xa, chưa về” – “Rồi bao giờ cha về?” – “Cha sẽ về, ngủ đi”… Những giấc ngủ ấu thơ bắt đầu như thế. Không thắc thỏm lo âu vì luôn có vòng tay mẹ Hạnh.
- Con thắp nhang vái mẹ con đi.
Giọng mẹ Hạnh nghẹn đi trôi theo chiều gió. Trước mắt Hạ là ngôi mộ mà từ trước tới giờ cô vẫn gọi là dì ba, ngỡ tưởng đó là người em gái duy nhất của mẹ Hạnh.
Lúc ấy, cô bước qua tuổi mười tám. Lần đầu môi lắp bắp gọi người sinh ra mình là mẹ.
“Ngày đầu mẹ gặp con, con bé như con mèo ướt. Lúc ấy, khoảng nửa đêm, mưa rất lớn, ai cũng tắt đèn ngủ rồi. Không hiểu sao mẹ lại không ngủ được. Nhờ thế mà tiếng người đàn bà trong cơn vượt cạn giữa đường khiến mẹ chột dạ, sấp ngửa chạy ra xem”…
Vào đến nhà, người đàn bà không thể leo lên giường khi gần một nửa đầu của đứa bé đã nhô ra. Mẹ Hạnh trở thành người đỡ đẻ bất đắc dĩ khi chưa một lần chứng kiến cảnh sinh nở, cũng chưa một lần vượt cạn.
Đàn ông đi biển có đôi/ Đàn bà vượt cạn mồ côi một mình.
Đã từng nghe câu ca dao đó, mẹ Hạnh thấy yên tâm hơn, thấy trách nhiệm hơn khi giúp một người “mồ côi một mình”. Khi mẹ Hạnh đã tắm táp, bế Hạ ngủ ngon như con mèo trên vòng tay thì hoảng hốt nhìn người phụ nữ bị băng huyết sau khi sinh. Đấy lại là vùng hẻo lánh, tới bệnh viện cũng mất gần nửa ngày đường. Mẹ Hạnh chỉ biết ôm con đang khát sữa, đắng nghẹn trong lòng vì bất lực.
Mẹ Hạnh tìm quên mối tình đầu ở nơi hẻo lánh ấy. Và rồi, mẹ phải ôm Hạ quay về phố huyện vì sợ một ngày nào đó, nói dại, chỉ vì xa trung tâm mà mẹ lại bất lực khi thần chết gõ cửa.
Mẹ Hạnh lồng vào tay Hạ chiếc vòng gốm có khắc hình những chùm hoa cải nhỏ li ti. Kỷ vật của mẹ đẻ để lại cho cô. “Con nhớ nhé, mẹ con tên Sương, quê con ở một vùng bến sông đầy hoa cải vàng. Mẹ biết vậy thôi nhưng mẹ tin có duyên, có nợ rồi con sẽ gặp. Con phải đi tìm.”
Mẹ Hạnh vẫn thường xuyên nhắc Hạ như vậy.
Chợt trong tâm thức, mỗi khi đi qua một bến sông vàng hoa cải, Hạ lại thấy thắc thỏm như ai đó đang gọi mình. Nghề báo cho cô nhiều cơ hội đi qua nhiều bến sông như thế. Cô luôn tranh thủ những cơ hội ấy hỏi về cô gái tên Sương. Có cô Sương đã qua Mỹ định cư, gửi tiền về cho gia đình cất nhà lầu. Có cô thì nay đã thành một bà bán trái cây trên chợ nổi. Không có cô Sương nào hao hao hoàn cảnh mẹ Hạ. Thậm chí, những bến sông Hạ đến không có bến hoa cải nào lớn tuổi hơn tuổi cô.
Anh đồng nghiệp nheo mắt nhìn Hạ: “Xong việc, mình vô làng hỏi nha Hạ?”. Hạ cười không rõ đồng tình. Từ khi vô tình biết chuyện của Hạ, Tuấn luôn nhiệt tình, bất kể đó là đi với Hạ hay không, miễn là có bến sông và hoa cải. Ban đầu, Hạ chỉ nghĩ, Tuấn đi nhiều hơn Hạ, sẽ có thêm nhiều cơ hội để tìm. Nhưng khi gặp sự nhiệt tình của Tuấn, Hạ lại ngại. Có khi mệt mỏi, Hạ lắc đầu buông xuôi suy nghĩ, bến sông xưa ấy biết đâu giờ được gia quá, hoa cải đã nhổ hết để làm nhà không chừng. Như vậy, biết đâu mà tìm.
Tuấn đọc được những mong mỏi trong đôi mắt buồn thẳm của Hạ. Anh động viên: “Hạ ơi, cố lên!”. Chỉ thế thôi là Hạ lại cười.
Tuấn rủ Hạ vào ngôi chùa cổ nằm ngay bên bờ sông đầy hoa cải. “Ông sư trụ trì có thể là một nhân vật cho một bài kí hay. Ổng có nhiều tác phẩm gốm sứ nghệ thuật, tự tay ổng làm mà không bán. Ổng còn có một gia tài đá thiên nhiên đẹp mê man, có những viên đá người ta trả bạc triệu mà ổng cũng không bán. Không ít người nói ổng khùng, nhưng mà, tôi thích những kẻ khùng như vậy” – Tuấn hào hứng. Hạ bị sự hào hứng ấy kéo theo.
Sư trụ trì ngoài năm mươi. Không giống nhiều vị chân tu khác thường bàng bạc màu khổ hạnh trong đôi mắt màu bình an, ông có vẻ hào hứng như một chủ nhà bình dân, hiếu khách khi đón hai người bạn trẻ. Tuy vậy, khi lấy sổ sách, máy ảnh ra thì ông nhẹ nhàng: “Nếu các con muốn nghe, thầy sẽ kể. Nhưng thầy không muốn lên báo”.
Đã hơn hai mươi năm thầy làm gốm sứ. Chỉ để tặng, để trong chùa chứ không bán. Cũng đã hơn hai mươi năm thầy đi nhặt đá mỗi khi có thời gian. Chỉ đơn giản vì thầy thấy có dáng người trong đá, có sự sẻ chia trong đá…
Tuổi trẻ – tuổi đẹp nhất của một đời. Các con đã từng yêu chưa? Câu chuyện bất ngờ kết thúc. Bất ngờ với một câu hỏi lạ từ một vị chân tu.
Tuấn đáp, giọng tỉnh queo: “Dạ, con đang yêu”. Anh nheo mắt nhìn Hạ.
Cô bâng quơ nhìn ra sân chùa. Ở đó, những luống hoa cải vàng rực rỡ trong nắng. “Mọi điều vô lí đều trở nên có lí khi bắt đầu từ tình yêu”. Giọng Tuấn đầy chia sẻ. Hạ ngại ngần: “Con cứ nghĩ, sẽ không thể nói chuyện tình yêu khi trò chuyện với thầy chùa?”. Giọng sư thầy cười sảng khoái: “Đã tu thì tu ở mọi hoàn cảnh chứ. Ta không nghĩ tình yêu là điều gì cấm kị trong chùa”.
Hơn hai mươi năm trước, cũng như tuổi của Hạ, của Tuấn, sư thầy từng yêu. Mối tình ấy hẳn không bao giờ đến đích, hẳn đã là một nỗi đau quá lớn. Lớn đến mức chỉ khi vào chùa tìm quên, sư thầy mới cân bằng được ở đó. “Câu chuyện không quá lạ ở những cửa chùa” – Tuấn tỏ vẻ am hiểu. Hạ thì thấy lạ. Một sự lạ mơ hồ mà cô không thể cắt nghĩa, cũng không dám mở miệng để hỏi cho rõ vì không biết bắt đầu từ đâu. Khi Hạ nhìn tất cả tác phẩm của sư thầy, cô đọc được ở đó một nỗi niềm rất chung. Khi tiễn Hạ và Tuấn ra khỏi sân chùa, mắt sư trụ trì nhìn theo đầy sẻ chia, ấm áp và chất chứa nỗi niềm gì đó thật khó cắt nghĩa.
Tất cả nhiều điều khó cắt nghĩa ấy khiến bước chân Hạ ngập ngừng. Cô mím môi, thở dài nhìn vồng hoa cải vẫn vàng rực, vô tư dưới nắng.
“Chuyến cuối cùng của ngày đấy, anh chị đi không?”. Người lái xe thò gương mặt sạm đen nắng gió ra khỏi cửa hỏi. Hạ bất chợt quay đầu lại. Tuấn lững thững bám theo cô. Gương mặt người lái xe nhìn với theo ngán ngẩm. Gã nhổ nước bọt xuống đất ra vẻ bất cần.
“Con muốn hỏi thầy, về một cô gái tên Sương” – Hạ ngập ngừng. Gương mặt bình tâm của sư trụ trì thoáng chau mày: “Sương nào?” – “Cô Sương, tóc dài, da trắng. Hơn hai mươi năm trước, cô ấy chừng hai mươi” – Hạ miêu tả theo lời kể của mẹ Hạnh…
Người ta nói cô ấy là con của trời. Trẻ, đẹp, trắng như một búp hoa huệ. Khác hẳn những người anh em chung con thuyền mà cô ở. Khi cô bỏ làng này ra đi, một người đàn ông đã theo tìm cô khắp mọi chân trời góc bể nhưng không thể tìm ra.
Sư trụ trì kể ngắn, gọn. Nhưng dường như thật khó khăn ông mới kể hết được bằng ấy câu chuyện. Cơn ho khiến ông ngừng lại.
- Cô gái ấy, vì sao bỏ làng đi?
Gia đình cô cũng như nhiều gia đình vạn chài khác. Họ mang một lời nguyền với dòng sông, không rời sông lên bờ. Người đàn ông của cô lại là người sống trong làng này. Mẹ anh mù, nên không thể bỏ mẹ để nổi nênh trên dòng sông. Anh ta đến bây giờ vẫn không hiểu vì sao cô gái lại ra đi. Một sáng mai, khi con thuyền không còn nơi ấy, anh đã đi dọc dòng sông kiếm tìm. Sau mỗi ngày mê mải tìm, anh đã về bên bến sông vàng hoa cải và gào gọi bất lực. Chỉ có tiếng sóng oàm oạp liếm vào bờ dỗ dành anh. Cuối cùng, ai đó đã nói với anh rằng, thôi đừng kiếm tìm chỉ vô ích, cô gái ấy là con của trời. Con thuyền ấy trong một sớm mai dày sương sớm đã đi xa, không ai biết một chút tung tích. Cứ như thể chưa từng xuất hiện.
Từ lúc nào, giọng sư thầy đã nghẹn đi. Nước mắt nóng hổi lăn trên má Hạ.
Đó là mối tình đẹp nhất mà Hạ được nghe kể. Cô gái ấy sinh ra trong một gia đình có ba anh em. Cha mẹ chết vì bệnh tả. Năm ấy, tới tôm cá của sông người trên bờ cũng không dùng, nước của sông người ta cũng không rửa chứ đừng nói chuyện xin chôn nhờ người chết trên đất. Sau cái đêm đưa cha mẹ đi, không kèn không trống, không bia mộ, chôn lén lút xác cha mẹ trên con đê vắng của làng, hai anh đã trở về, cắt máu ăn thề đó sẽ là lần cuối cùng đặt chân lên đất.
Sương ở tuổi mười tám, cái tuổi mà những hận thù chưa có chỗ trong tâm hồn cô. Nhưng những khác lạ của cơ thể thiếu nữ đang khát khao trỗi dậy thì cô cảm nhận rõ từng ngày. Nhất là trong những đêm trăng sáng. Khi ấy, Sương và anh Ba thường kéo nhau ra đầu thuyền ngồi ngắm trăng. Con thuyền khẽ chao nghiêng, tiếng thì thào, tiếng hổn hển của mây, của nước, của chị dâu, và dường như tiếng thở gấp của anh chị phía trong khoang khiến cô tò mò, khó ngủ. Khi không có anh Ba, cô thường ghé mắt lén nhìn hai cái bóng quấn chặt vào nhau, trong ánh đèn dầu dịu ngọt.
Những tò mò, những đam mê của cô được giải thoát sau những đêm cô lén lên bờ sông chơi, tình cờ gặp, và tin tưởng anh, người – đàn – ông – của – đất.
Anh thường hái tặng cô những bó hoa cải rất đẹp. Màu vàng hiền dịu, ấm áp, thấm ướt át ánh trăng khiến cô thích mê nhưng chẳng bao giờ cô dám đem theo lên thuyền. Cũng như hơi thở nồng nàn mùi đàn ông của anh, Sương tưởng có thể tan đi trong hơi thở ấy, nhưng cô cũng phải gội rửa kĩ càng trước khi về lại con thuyền.
Nó tên gì? Nó là thằng nào?
… Mày ngu lắm em ạ. Tao đã cấm mày vác xác lên bờ, vậy mà… tại sao… tại sao?!
Ngày chị dâu phát hiện sự khác lạ trong cơ thể Sương, người anh cả đã gầm lên những câu hỏi như một con thú bị thương nặng. Xót em, anh chỉ biết cầm con dao chặt dấm dứ như muốn sát phạt bất cứ vật cản nào trước mắt. Ngồi rúm ró giấu mình trong vách con thuyền, Sương mím môi đến bầm đỏ. Cô câm lặng đến ngạt thở. Cô biết, anh Hai có thể cầm dao tìm người – đàn – ông – của – đất mà cô yêu thương để xử theo cách của anh. Người anh sau một đêm dày vò em thì quyết định bỏ bến sông, đi từ rất sớm.
Tôi đã linh cảm có điều bất an, nhưng không đành bỏ người mẹ mù đang cơn bệnh già. Mãi sau này, chỉ mê mải với những gốm sứ, tôi mới không bị dày vò, tiếc nuối. Tôi đã đi tìm nhiều nơi, chỉ thấy sỏi đá mang tâm hồn người, vọng nỗi bất lực… Đó, lí do vì sao tôi không bao giờ bán những tác phẩm của mình đó.” Lặng đi một lúc lâu, sư trụ trì hít một hơi thở dài. Tuấn nhìn Hạ, mắt cô hoe đỏ từ lúc nào.
- Ngày xưa, thầy có làm tặng cô ấy một chiếc vòng gốm không? – Giọng Hạ nghẹn đi.
Sư trụ trì nhìn Hạ. Dường như tất cả những nếp nhăn trên khuôn mặt ông xô lại chỉ trong vài giây tích tắc ấy. Ông khổ sở gật đầu.
Hạ run rẩy mở ba lô lấy chiếc vòng gốm được cô cất giữ như một báu vật của cuộc đời. Đã rất nhiều lần, cô tưởng không thể sẻ chia với ai bí mật ấy. Cô trao nó cho sư thầy. Ông ngỡ ngàng nhìn chiếc vòng thật kĩ. Rồi nắm chiếc vòng gốm trên tay, ông nhìn Hạ, run run không nói lên lời. Ánh mắt ông không còn vẻ chất chứa khó cắt nghĩa như bao lần Hạ vẫn thấy. Hạ thấy trong đó, một màu vàng ấm áp của những vồng hoa cải đêm trăng…
Ảnh minh họa
“Hứa với mẹ nhé, con phải học tha thứ và phải tìm cha mình”… Khi mẹ Hạnh nắm tay chờ một cái gật đầu từ Hạ thì Hạ không có chút kí ức nào về người cha và cả về mẹ đẻ. Cô lớn lên trong sự thương yêu của mẹ Hạnh – cho tới khi vào đại học, mười tám tuổi, cô mới biết đó là mẹ nuôi mình. Hạ đã khóc òa, khóc tấm tức, khóc câm lặng… khóc đủ mọi cách, mọi trạng thái sau khi vỡ lẽ ra điều đó, trong nhiều đêm dài. Để rồi quyết định giữ điều bí mật ấy cho riêng mình. Suy cho cùng, cô coi mẹ Hạnh như mẹ ruột. Mẹ Hạnh chỉ có một mình cô là người thân.
“Cha con đâu,mẹ?” – “Cha con đi làm ăn xa, chưa về” – “Rồi bao giờ cha về?” – “Cha sẽ về, ngủ đi”… Những giấc ngủ ấu thơ bắt đầu như thế. Không thắc thỏm lo âu vì luôn có vòng tay mẹ Hạnh.
- Con thắp nhang vái mẹ con đi.
Giọng mẹ Hạnh nghẹn đi trôi theo chiều gió. Trước mắt Hạ là ngôi mộ mà từ trước tới giờ cô vẫn gọi là dì ba, ngỡ tưởng đó là người em gái duy nhất của mẹ Hạnh.
Lúc ấy, cô bước qua tuổi mười tám. Lần đầu môi lắp bắp gọi người sinh ra mình là mẹ.
“Ngày đầu mẹ gặp con, con bé như con mèo ướt. Lúc ấy, khoảng nửa đêm, mưa rất lớn, ai cũng tắt đèn ngủ rồi. Không hiểu sao mẹ lại không ngủ được. Nhờ thế mà tiếng người đàn bà trong cơn vượt cạn giữa đường khiến mẹ chột dạ, sấp ngửa chạy ra xem”…
Vào đến nhà, người đàn bà không thể leo lên giường khi gần một nửa đầu của đứa bé đã nhô ra. Mẹ Hạnh trở thành người đỡ đẻ bất đắc dĩ khi chưa một lần chứng kiến cảnh sinh nở, cũng chưa một lần vượt cạn.
Đàn ông đi biển có đôi/ Đàn bà vượt cạn mồ côi một mình.
Đã từng nghe câu ca dao đó, mẹ Hạnh thấy yên tâm hơn, thấy trách nhiệm hơn khi giúp một người “mồ côi một mình”. Khi mẹ Hạnh đã tắm táp, bế Hạ ngủ ngon như con mèo trên vòng tay thì hoảng hốt nhìn người phụ nữ bị băng huyết sau khi sinh. Đấy lại là vùng hẻo lánh, tới bệnh viện cũng mất gần nửa ngày đường. Mẹ Hạnh chỉ biết ôm con đang khát sữa, đắng nghẹn trong lòng vì bất lực.
Mẹ Hạnh tìm quên mối tình đầu ở nơi hẻo lánh ấy. Và rồi, mẹ phải ôm Hạ quay về phố huyện vì sợ một ngày nào đó, nói dại, chỉ vì xa trung tâm mà mẹ lại bất lực khi thần chết gõ cửa.
Mẹ Hạnh lồng vào tay Hạ chiếc vòng gốm có khắc hình những chùm hoa cải nhỏ li ti. Kỷ vật của mẹ đẻ để lại cho cô. “Con nhớ nhé, mẹ con tên Sương, quê con ở một vùng bến sông đầy hoa cải vàng. Mẹ biết vậy thôi nhưng mẹ tin có duyên, có nợ rồi con sẽ gặp. Con phải đi tìm.”
Mẹ Hạnh vẫn thường xuyên nhắc Hạ như vậy.
Chợt trong tâm thức, mỗi khi đi qua một bến sông vàng hoa cải, Hạ lại thấy thắc thỏm như ai đó đang gọi mình. Nghề báo cho cô nhiều cơ hội đi qua nhiều bến sông như thế. Cô luôn tranh thủ những cơ hội ấy hỏi về cô gái tên Sương. Có cô Sương đã qua Mỹ định cư, gửi tiền về cho gia đình cất nhà lầu. Có cô thì nay đã thành một bà bán trái cây trên chợ nổi. Không có cô Sương nào hao hao hoàn cảnh mẹ Hạ. Thậm chí, những bến sông Hạ đến không có bến hoa cải nào lớn tuổi hơn tuổi cô.
Anh đồng nghiệp nheo mắt nhìn Hạ: “Xong việc, mình vô làng hỏi nha Hạ?”. Hạ cười không rõ đồng tình. Từ khi vô tình biết chuyện của Hạ, Tuấn luôn nhiệt tình, bất kể đó là đi với Hạ hay không, miễn là có bến sông và hoa cải. Ban đầu, Hạ chỉ nghĩ, Tuấn đi nhiều hơn Hạ, sẽ có thêm nhiều cơ hội để tìm. Nhưng khi gặp sự nhiệt tình của Tuấn, Hạ lại ngại. Có khi mệt mỏi, Hạ lắc đầu buông xuôi suy nghĩ, bến sông xưa ấy biết đâu giờ được gia quá, hoa cải đã nhổ hết để làm nhà không chừng. Như vậy, biết đâu mà tìm.
Tuấn đọc được những mong mỏi trong đôi mắt buồn thẳm của Hạ. Anh động viên: “Hạ ơi, cố lên!”. Chỉ thế thôi là Hạ lại cười.
Tuấn rủ Hạ vào ngôi chùa cổ nằm ngay bên bờ sông đầy hoa cải. “Ông sư trụ trì có thể là một nhân vật cho một bài kí hay. Ổng có nhiều tác phẩm gốm sứ nghệ thuật, tự tay ổng làm mà không bán. Ổng còn có một gia tài đá thiên nhiên đẹp mê man, có những viên đá người ta trả bạc triệu mà ổng cũng không bán. Không ít người nói ổng khùng, nhưng mà, tôi thích những kẻ khùng như vậy” – Tuấn hào hứng. Hạ bị sự hào hứng ấy kéo theo.
Sư trụ trì ngoài năm mươi. Không giống nhiều vị chân tu khác thường bàng bạc màu khổ hạnh trong đôi mắt màu bình an, ông có vẻ hào hứng như một chủ nhà bình dân, hiếu khách khi đón hai người bạn trẻ. Tuy vậy, khi lấy sổ sách, máy ảnh ra thì ông nhẹ nhàng: “Nếu các con muốn nghe, thầy sẽ kể. Nhưng thầy không muốn lên báo”.
Đã hơn hai mươi năm thầy làm gốm sứ. Chỉ để tặng, để trong chùa chứ không bán. Cũng đã hơn hai mươi năm thầy đi nhặt đá mỗi khi có thời gian. Chỉ đơn giản vì thầy thấy có dáng người trong đá, có sự sẻ chia trong đá…
Tuổi trẻ – tuổi đẹp nhất của một đời. Các con đã từng yêu chưa? Câu chuyện bất ngờ kết thúc. Bất ngờ với một câu hỏi lạ từ một vị chân tu.
Tuấn đáp, giọng tỉnh queo: “Dạ, con đang yêu”. Anh nheo mắt nhìn Hạ.
Cô bâng quơ nhìn ra sân chùa. Ở đó, những luống hoa cải vàng rực rỡ trong nắng. “Mọi điều vô lí đều trở nên có lí khi bắt đầu từ tình yêu”. Giọng Tuấn đầy chia sẻ. Hạ ngại ngần: “Con cứ nghĩ, sẽ không thể nói chuyện tình yêu khi trò chuyện với thầy chùa?”. Giọng sư thầy cười sảng khoái: “Đã tu thì tu ở mọi hoàn cảnh chứ. Ta không nghĩ tình yêu là điều gì cấm kị trong chùa”.
Hơn hai mươi năm trước, cũng như tuổi của Hạ, của Tuấn, sư thầy từng yêu. Mối tình ấy hẳn không bao giờ đến đích, hẳn đã là một nỗi đau quá lớn. Lớn đến mức chỉ khi vào chùa tìm quên, sư thầy mới cân bằng được ở đó. “Câu chuyện không quá lạ ở những cửa chùa” – Tuấn tỏ vẻ am hiểu. Hạ thì thấy lạ. Một sự lạ mơ hồ mà cô không thể cắt nghĩa, cũng không dám mở miệng để hỏi cho rõ vì không biết bắt đầu từ đâu. Khi Hạ nhìn tất cả tác phẩm của sư thầy, cô đọc được ở đó một nỗi niềm rất chung. Khi tiễn Hạ và Tuấn ra khỏi sân chùa, mắt sư trụ trì nhìn theo đầy sẻ chia, ấm áp và chất chứa nỗi niềm gì đó thật khó cắt nghĩa.
Tất cả nhiều điều khó cắt nghĩa ấy khiến bước chân Hạ ngập ngừng. Cô mím môi, thở dài nhìn vồng hoa cải vẫn vàng rực, vô tư dưới nắng.
“Chuyến cuối cùng của ngày đấy, anh chị đi không?”. Người lái xe thò gương mặt sạm đen nắng gió ra khỏi cửa hỏi. Hạ bất chợt quay đầu lại. Tuấn lững thững bám theo cô. Gương mặt người lái xe nhìn với theo ngán ngẩm. Gã nhổ nước bọt xuống đất ra vẻ bất cần.
“Con muốn hỏi thầy, về một cô gái tên Sương” – Hạ ngập ngừng. Gương mặt bình tâm của sư trụ trì thoáng chau mày: “Sương nào?” – “Cô Sương, tóc dài, da trắng. Hơn hai mươi năm trước, cô ấy chừng hai mươi” – Hạ miêu tả theo lời kể của mẹ Hạnh…
Người ta nói cô ấy là con của trời. Trẻ, đẹp, trắng như một búp hoa huệ. Khác hẳn những người anh em chung con thuyền mà cô ở. Khi cô bỏ làng này ra đi, một người đàn ông đã theo tìm cô khắp mọi chân trời góc bể nhưng không thể tìm ra.
Sư trụ trì kể ngắn, gọn. Nhưng dường như thật khó khăn ông mới kể hết được bằng ấy câu chuyện. Cơn ho khiến ông ngừng lại.
- Cô gái ấy, vì sao bỏ làng đi?
Gia đình cô cũng như nhiều gia đình vạn chài khác. Họ mang một lời nguyền với dòng sông, không rời sông lên bờ. Người đàn ông của cô lại là người sống trong làng này. Mẹ anh mù, nên không thể bỏ mẹ để nổi nênh trên dòng sông. Anh ta đến bây giờ vẫn không hiểu vì sao cô gái lại ra đi. Một sáng mai, khi con thuyền không còn nơi ấy, anh đã đi dọc dòng sông kiếm tìm. Sau mỗi ngày mê mải tìm, anh đã về bên bến sông vàng hoa cải và gào gọi bất lực. Chỉ có tiếng sóng oàm oạp liếm vào bờ dỗ dành anh. Cuối cùng, ai đó đã nói với anh rằng, thôi đừng kiếm tìm chỉ vô ích, cô gái ấy là con của trời. Con thuyền ấy trong một sớm mai dày sương sớm đã đi xa, không ai biết một chút tung tích. Cứ như thể chưa từng xuất hiện.
Từ lúc nào, giọng sư thầy đã nghẹn đi. Nước mắt nóng hổi lăn trên má Hạ.
Đó là mối tình đẹp nhất mà Hạ được nghe kể. Cô gái ấy sinh ra trong một gia đình có ba anh em. Cha mẹ chết vì bệnh tả. Năm ấy, tới tôm cá của sông người trên bờ cũng không dùng, nước của sông người ta cũng không rửa chứ đừng nói chuyện xin chôn nhờ người chết trên đất. Sau cái đêm đưa cha mẹ đi, không kèn không trống, không bia mộ, chôn lén lút xác cha mẹ trên con đê vắng của làng, hai anh đã trở về, cắt máu ăn thề đó sẽ là lần cuối cùng đặt chân lên đất.
Sương ở tuổi mười tám, cái tuổi mà những hận thù chưa có chỗ trong tâm hồn cô. Nhưng những khác lạ của cơ thể thiếu nữ đang khát khao trỗi dậy thì cô cảm nhận rõ từng ngày. Nhất là trong những đêm trăng sáng. Khi ấy, Sương và anh Ba thường kéo nhau ra đầu thuyền ngồi ngắm trăng. Con thuyền khẽ chao nghiêng, tiếng thì thào, tiếng hổn hển của mây, của nước, của chị dâu, và dường như tiếng thở gấp của anh chị phía trong khoang khiến cô tò mò, khó ngủ. Khi không có anh Ba, cô thường ghé mắt lén nhìn hai cái bóng quấn chặt vào nhau, trong ánh đèn dầu dịu ngọt.
Những tò mò, những đam mê của cô được giải thoát sau những đêm cô lén lên bờ sông chơi, tình cờ gặp, và tin tưởng anh, người – đàn – ông – của – đất.
Anh thường hái tặng cô những bó hoa cải rất đẹp. Màu vàng hiền dịu, ấm áp, thấm ướt át ánh trăng khiến cô thích mê nhưng chẳng bao giờ cô dám đem theo lên thuyền. Cũng như hơi thở nồng nàn mùi đàn ông của anh, Sương tưởng có thể tan đi trong hơi thở ấy, nhưng cô cũng phải gội rửa kĩ càng trước khi về lại con thuyền.
Nó tên gì? Nó là thằng nào?
… Mày ngu lắm em ạ. Tao đã cấm mày vác xác lên bờ, vậy mà… tại sao… tại sao?!
Ngày chị dâu phát hiện sự khác lạ trong cơ thể Sương, người anh cả đã gầm lên những câu hỏi như một con thú bị thương nặng. Xót em, anh chỉ biết cầm con dao chặt dấm dứ như muốn sát phạt bất cứ vật cản nào trước mắt. Ngồi rúm ró giấu mình trong vách con thuyền, Sương mím môi đến bầm đỏ. Cô câm lặng đến ngạt thở. Cô biết, anh Hai có thể cầm dao tìm người – đàn – ông – của – đất mà cô yêu thương để xử theo cách của anh. Người anh sau một đêm dày vò em thì quyết định bỏ bến sông, đi từ rất sớm.
Tôi đã linh cảm có điều bất an, nhưng không đành bỏ người mẹ mù đang cơn bệnh già. Mãi sau này, chỉ mê mải với những gốm sứ, tôi mới không bị dày vò, tiếc nuối. Tôi đã đi tìm nhiều nơi, chỉ thấy sỏi đá mang tâm hồn người, vọng nỗi bất lực… Đó, lí do vì sao tôi không bao giờ bán những tác phẩm của mình đó.” Lặng đi một lúc lâu, sư trụ trì hít một hơi thở dài. Tuấn nhìn Hạ, mắt cô hoe đỏ từ lúc nào.
- Ngày xưa, thầy có làm tặng cô ấy một chiếc vòng gốm không? – Giọng Hạ nghẹn đi.
Sư trụ trì nhìn Hạ. Dường như tất cả những nếp nhăn trên khuôn mặt ông xô lại chỉ trong vài giây tích tắc ấy. Ông khổ sở gật đầu.
Hạ run rẩy mở ba lô lấy chiếc vòng gốm được cô cất giữ như một báu vật của cuộc đời. Đã rất nhiều lần, cô tưởng không thể sẻ chia với ai bí mật ấy. Cô trao nó cho sư thầy. Ông ngỡ ngàng nhìn chiếc vòng thật kĩ. Rồi nắm chiếc vòng gốm trên tay, ông nhìn Hạ, run run không nói lên lời. Ánh mắt ông không còn vẻ chất chứa khó cắt nghĩa như bao lần Hạ vẫn thấy. Hạ thấy trong đó, một màu vàng ấm áp của những vồng hoa cải đêm trăng…