View Full Version : Quy luật chính trị trong sử Việt
anbinh
10-22-2010, 09:37 PM
Những quy luật chính trị trong sử Việt
Vũ Tài Lục
Mục Lục
1. Sử Học Và Tinh Thần Sử Việt
2. Quốc Phòng
3. Chính Trị
4. Kinh Tế
5. Đạo Đức Tâm
6. Trí Thức Phần Tử
7. Giáo Dục
8. Văn Hóa Nông Nghiệp
9. Lịch Sử Và Chính Trị
TỰA
Các nhà lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ theo thói quen cũng như do thực tế của kinh nghiệm đấu tranh đưa họ lên nắm quyền nặng tính chất của một thứ businessmen (người kinh doanh) cho nên họ không đánh giá đúng mức nếu không muốn nói là họ hoàn toàn thiếu khả năng nhận thức lịch sử. Họ coi quốc gia nào cũng là một hiện tượng chung, để đưa ra một giải pháp giống hệt nhau khi các quốc gia ấy gặp khó khăn. Các chính trị gia Hoa Kỳ chỉ chăm sóc đến vấn đề nào khi họ mang trách nhiệm với vấn đề ấy, họ khoanh chân họ trong phạm vi một cục bộ mà chẳng thèm biết đến toàn bộ, đồng thời họ lại hay nhìn vấn đề một cách hết sức đơn giản, ưa chú trọng bề ngoài qua vài lời nói, ít diễn từ chứ không tìm hiểu những điều kiện lịch sử. Tỉ dụ: thái độ của Hoa Kỳ đối với De Gaulle là trường hợp khá rõ ràng, nếu De Gaulle đã chống Mỹ thì Mỹ chẳng có chuyện gì nói hay bàn với De Gaulle. Tóm lại, Hoa Kỳ về việc dùng khoa học và kỹ thuật có thể tạo ra những thành quả rất tốt nhưng khi phải đương đầu với vấn đề thuộc diễn tiến lịch sử thì lại rất bết bát. Bởi vậy, trong những năm sắp tới, vấn đề quan trọng nhất cho chánh sách của Hoa Kỳ là tính chất triết của nó (Le problème le plus grave de la politique américaine sera philosophique).
Trên đây là lời nói của Henry Kissinger trong một bài viết phê bình chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Nó đã được phát biểu sau khi thấy có những dấu hiệu đầu tiên về sự vô hiệu quả của hành động can thiệp trực tiếp bằng quân sự ồ ạt. Và nó được tán thưởng bởi đa số lực lượng chính trị nắm quyền ở Mỹ sau khi chính sách đã rõ rệt thất bại gây thành rối loạn nội bộ đến nỗi Tổng Thống Johnson, bằng nét mặt buồn thảm, phải tuyên bố không tái ứng cử.
Sự thất bại ấy không giống như thất bại một áp phe vì nó kéo theo khủng hoảng trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, tinh thần và luôn cả lòng tin cậy cho quốc gia Hoa Kỳ.
Hầu hết phần tử trí thức Hoa Kỳ đều mong mỏi hoặc phấn đấu để có thể có được cơ hội nghiên cứu, tìm hiểu biến cố quan trọng này. Tất cả đều đồng ý rằng các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã thiếu hẳn một ý thức lịch sử đứng đắn. Bắt đầu kể từ lúc Tổng Thống Roosevelt chỉ có hiểu biết rất mơ hồ nghĩ Việt Nam là một quận huyện của Trung Quốc, vậy hãy trả nó về với sự cai quản của chính phủ Tưởng Giới Thạch. Do sai lầm căn bản đó mà đi thành một chuỗi cho tới ngày toàn bộ vấn đề buộc phải đặt lại. Đặt lại vấn đề cũng như Pháp quốc năm 1952, sau 6 năm chiến tranh Việt Pháp, đã tìm hiểu duyên do thất bại trong cuốn sách: Việt Nam Sociologie duneguerre của Paul Mus với câu kết luận trên chương chót Que faire: La nation vietnamienne est pleinement formée et consciente delle même (Nước Việt Nam đã là một quốc gia hoàn chỉnh và hoàn toàn ý thức được lịch sử của mình) Une conviction traditionnelle, inséparble de son patriotisme lassure bien quil est le dernier, juge de son destin (Người Việt với niềm tin truyền thống gắn chặt vào lòng yêu nước để nghĩ rằng chỉ có người Việt là kẻ quyết định cuối cùng vận mệnh nước Việt).
Niềm tin truyền thống ấy là niềm tin lịch sử, lòng yêu nước ấy là tinh thần sử được nung đúc qua bao ngàn năm đấu tranh.
Khối tình yêu thiên cổ dòng kim cương
Ngày khai sinh nhưng chọn chốn quê hương
Hòn núi Trắng sông Xanh của nòi Việt
Cỏ hoa còn gìn giữ mặc tang thương
Tất cả bởi cháu con bền bỉ mãi
Nền kế khai đạo thống dãi Viêm Phương[1]
Ông A. Pazzi, một người Ý từng ở Việt Nam hơn hai mươi năm, đã viết trong tác phẩm: Người Việt cao quí rằng: Dân Việt là một dân tộc tự cường bất khuất đến một mức độ khá cao và tinh thần ấy giúp họ trở thành một kẻ bé nhỏ nhất mà lại mạnh nhất, bị chèn ép nhiều nhất nhưng lại quật khởi oai hùng bậc nhất. Người ta sẽ không bao giờ hiểu hết được sức mạnh ấy và sự cao lớn của tinh thần ấy nếu không đi vào bề sâu lịch sử của nòi giống Việt, nếu chỉ quan sát hời hợt sinh hoạt bình thường. Với một nhận định theo lối hình thức Tây phương người ta không sao hiểu được giá trị đích thực của nó Kẻ thù của dân tộc Việt chỉ bắt đầu thấy được sức mạnh ấy khi bọn họ đã thất bại và thật là quá muộn màng.[2]
____________________________
Chú thích:
[1] Trích thơ Thái Địch
[2] Theo bản dịch của Hồng Cúc
_______________________
Nguồn: thuvien.maivoo.com
anbinh
10-23-2010, 09:27 PM
SỬ HỌC và TINH THẦN SỬ VIỆT
Hồn lịch sử sống trong dây nguyện ước
Vẫn chu lưu tồn tại há phong sương
Bừng tỉnh ngộ bằng đồ thư đất nước
Kín uyên nguyên sâu thẳm đáy cửu trường
(Thái Địch)
Phải biết dân tộc bằng đời sống lịch sử.
Sống về mồ về mả
Không ai sống về cả bát cơm
Chúng ta thường hiều sai lầm phương ngôn trên nảy sinh từ khoa phong thủy để đất để cát. Nếu đem ghép liền với câu:
Mồ cha không khóc khóc đống mối
Mồ mẹ không khóc khóc bối bòng bong
thì sẽ thấy rằng đó là căn bản ý thức lịch sử của người Việt. Trong cuộc đấu tranh để sống, không chỉ dành bát cơm manh áo cho sinh mệnh cá nhân mà còn điều quan trọng hơn là bảo vệ mồ mả. Mồ mả không có nghĩa là ba thước đất vùi chôn một xác người đã tận số trần gian. Mồ mả đây là anh linh tiên tổ hay anh linh lịch sử.
Cho nên suốt dòng lịch sử Việt, cái thất bại chính trị lớn nhất bao giờ cũng là chuyện: Rước voi về dầy mồ
từng xảy ra cuối đời nhà Hồ, đời Lê mạt và đầu triều Nguyễn Gia Long.
Lịch sử là gì?
Tri thức của loài người tuy nói rằng còn ngàn vạn cửa mênh mông không bến bờ nhưng nếu thu lại cũng chỉ còn hai loại:
- một thuộc tự nhiên, và
- một thuộc nhân văn
Mọi hiện tượng trên thế giới không đi ra ngoài hai loại đó. Tự nhiên là tất cả những gì thuộc nhân dĩ ngoại, nhân văn là tất cả những gì thuộc bản thân xã hội loài người. Đành rằng một người sinh vào cõi đời hoàn toàn là một chuyện thuộc tự nhiên, nhưng vì ta đứng trên lập trường người và xem trọng địa vị nhân sinh cho nên ta mới phân thế giới thành hai đại loại tự nhiên và nhân văn. Điều này chẳng có chi nghịch lý, vì có thể nói một cách rất thường thức rằng:
Tự nhiên từ buổi khai thủy chỉ thuần là vật chất, rồi do sự đào dã tự nhiên mà thành ra có sinh mệnh rồi lại do sự đào dã của sinh mệnh mà sản sinh tâm linh, từ tâm linh sản sinh thành lịch sử.
Lịch sử tức là nhân sinh, toàn bộ nhân sinh và toàn bộ kinh nghiệm nhân sinh. Bản thân lịch sử là tất cả những kinh nghiệm dĩ vãng. Dùng văn tự ghi chép hoặc gìn giữ những kinh nghiệm dĩ vãng để cho người đời sau liễu giải tìm về nhận thức những việc đời trước gọi là sử học. Phải suy xét gốc ngọn, tìm tòi căn nguyên những việc đã qua để hiểu rõ những vận hội tri loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc. Chủ đích là để làm cái gương chung kim cổ cho người cả nước được đời đời coi vào đấy mà biết sự sinh hoạt cùa người trước đã phải lao tâm lao lực như thế nào mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này. (Trần Trọng Kim- Việt Nam sử lược).
Nghiên cứu và liễu giải sử học như vậy không phải chỉ để bảo lưu kinh nghiệm nhân sinh mà còn để phát huy giá trị cùng ý nghĩa trọng đại của lịch sử truyền tới hậu thế, căn cứ vào đó mà chỉ đạo tương lai bởi vì lịch sử không phải là một thứ dĩ vãng chết mà là dĩ vãng đã đúc kết thành tinh thần kiên cố và những sức mạnh tối linh (Force obscures) vượt khỏi tầm với của lập luận “logique” tầm thường. Nếu không vượt khỏi tầm của lập luận “logique” tầm thường hỏi làm sao vua Quang Trung sau khi nghe bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm dâng lời chịu tội kể chuyện quân Tầu thế mạnh sợ đánh không nổi nên phải lui thì cười mà nói rằng:
“Chúng sang phen này là mua cái chết cả đó thôi. Ta chuyến này thân coi việc quân đánh giữ đã định mẹo rồi, đuổi quân Tầu về chẳng qua mười ngày là xong việc”.
Vấn đề quan trọng chỉ ở chỗ có vận dụng hay không vận dụng được sức mạnh lịch sử. Vậy thôi. Cái “logique” tầm thường ấy đã từng được nhân dân Việt trả lời bẳng thần thoại: Thánh Gióng Phù Đổng Thiên Vương.
Sách “Lĩnh Nam Chích Quái” kể:
“Về đời Hùng Vương thứ sáu thiên hạ thái bình, dân gian sống yên vui, vua không đem lễ vật triều cống nhà Ân bên Tầu. Bạo chúa nhà Ân thấy vậy, mượn cớ đi tuần thú nhưng ngầm mang quân sang cướp nước Nam.
Vua Hùng Vương lo sợ, vời quần thần vào hỏi kế đối phó, có người tâu: “Bệ hạ nên kêu khấn với Long quân để ngài giúp mới xong”.
Vua nghe lời lập đàn cúng tế ba ngày đêm. Bỗng trời nổi cơn giông, sấm sét ầm ầm mưa như trút nước. Có một ông cụ già mặt mũi to lớn, đầu râu bạc trắng cao đến 9 thước ngồi ở ngã ba đường vừa cười vừa nói, ngâm hát múa may.
Ai trông thấy cũng cho làm lạ mới báo cho vua hay. Vua thân hành ra mời ông cụ ấy và dâng cơm rượu thết đãi. Ăn xong, ông cụ ấy chẳng nói câu gì. Vua mới hỏi:
- Sắp có giặc Bắc xâm phạm nước Nam, được thua thế nào xin cụ dạy bảo cho.
Ông cụ lâu mãi mới nói rằng:
- Sau ba năm nữa, giặc Bắc tất kéo đến đây. Nhà vua nên tìm khắp cả thiên hạ mà cầu lấy người kỳ tài phá được giặc. Nếu được người giỏi mà phá giặc thì không khó gì nữa.
Nói đoạn ông cụ bay vụt lên trời biến mất.
Vua hiểu ông cụ đó tức là Long quân giáng hiện.
Vừa đúng ba năm, quan quân trấn giữ biên ải cáo cấp về triều có giặc Ân kéo tới. Vua liền cho người đi khắp nước tìm người dẹp giặc.
Bầy giờ ở làng Phù Đổng huyện Võ Ninh có một nhà hiếm hoi sinh độc một đứa con trai mà khốn nỗi nó đã bốn tuổi mà chưa biết nói, không ngồi đứng được chỉ nằm ngửa. Khi sứ giả nhà vua đến làng ấy, người mẹ cười nói bỡm con rằng:
- Đẻ được một mụn con trai chỉ biết ăn uống, ngồi đứng còn không được thì đánh thế nào được giặc mà lĩnh thưởng vua ban.
Thằng bé nghe vậy, bỗng nhiên bật nói thành tiếng bảo mẹ gọi sứ giả lại đây.
Mẹ nó lấy làm lạ, nói chuyện với chòm xóm. Ai ai cũng khuyên bà ta hãy làm theo lời thằng bé.
Sứ giả đến trông thấy nó bé bỏng hỏi:
- Tiểu nhi kia, mày còn nhỏ mới bập bẹ, gọi ta đến làm gì?
Thằng bé ngồi dậy bảo với sứ giả rằng:
- Mau về tâu với vua đúc cho ta một con ngựa sắt cao 18 trượng, một thanh kiếm dài bảy thước, một chiếc nón sắt đem lại đây cho ta. Giặc đến trông thấy ta tự nhiên phải sợ mà chạy, nhà vua chẳng cần phải nhọc công lo lắng.
Sứ giả mừng rỡ về tâu với vua. Vua vui sướng bảo đám quần thần:
- Đây là Long quân cứu ta đây.
Rồi hối hả sai thợ rèn đúc ngựa sắt, kiếm sắt sai người đem lại đưa cho thằng bé làng Phù Đổng.
Sứ giả sắp tới nơi, người mẹ ở nhà lo lắm, chỉ sợ con nói xằng bậy thì vạ lây đến cả nhà.
Thằng bé cười ầm lên nói rằng:
- Mẹ cứ kiếm rượu thịt cho nhiều để con ăn uống còn việc đánh giặc mẹ khỏi phải lo.
Thằng bé từ đấy ăn mỗi ngày một lớn, cơm mẹ kiếm không đủ cho con, nên xóm giềng phải xúm vào kẻ đỡ tiền người cho thóc, người dâng rượu thịt, thế mà thằng bé ăn vẫn không đủ.
Khi giặc Ân kéo đến núi Châu Sơn thì sứ giả đem ngựa kiếm đến nhà giao cho thằng bé. Gặp sứ giả, nhận đủ đồ binh giáp, nó bỗng đứng lên vươn vai mạnh một cái, mình liền cao vọt hơn mười trượng, ngẩng mặt lên trời gầm vài mươi tiếng, rồi rút thanh trường kiếm khỏi vỏ, nhảy lên mình ngựa sắt, chân đạp vào mình ngựa, ngựa hét ra lửa mà phóng chạy như bay.
Phù Đổng trỏ gươm đi trước quan quân kéo theo sau, tiến sát đến trại giặc. Giặc bày trận dưới chân núi Châu Sơn, ngài xông vào trận đánh giết một hồi lâu, gãy mất cả kiếm, mới lấy tre mọc bên đường nhổ cả tảng mà quật vào đám giặc. Quân giặc tan nát tựa hồ đất lở ngói tan, tranh nhau lạy phục xuống đất xin hàng”.
Thằng bé làng Phù Đổng chính là lực lượng tối linh nung luyện bởi kinh nghiệm dĩ vãng của lịch sử. Long quân là tri thức để vận dụng sức mạnh tối linh kia.
Bằng ấy thứ đánh bạt hẳn cái “logique” tầm thường cho rằng một nước nhỏ đánh với một nước quá lớn thì khác chi chuyện châu chấu đá voi. Nhờ đó, lịch sử Việt đã lập nên những đại công mà văn chương bình dân ca tụng với vẻ ngạo nghễ đầy tự tin:
Nực cười châu chấu đá xe
Tưởng rằng chấu ngả ai ngờ xe nghiêng
Chim chích cắn cổ diều hâu
Gà con tha quạ biết đâu mà tìm
Có người hỏi quá khứ nhân sinh trên lịch sử làm sao diễn lại một lần nữa được? Quang Trung, Lê Lợi, Gia Long đã đi hẳn vào quá khứ không thể có Quang Trung, Lê Lợi, Gia Long nữa. Việc cũ xong, chúng ta nên hướng về phía trước mà tìm kiếm những điều mới. Lịch sử đã thành quá khứ làm sao chúng ta có thể dựa trên quá khứ để chỉ đạo tương lai?
Câu hỏi nêu lên một vấn đề trọng đại. Thời gian trên lịch sử khác hẳn với thời gian thường nói hôm nay ngày mai. Thời gian của lịch sử qua đi, ta có thể bảo rằng nó chưa thật sự quá khứ, và vị lai lịch sử, ta có thể bảo rằng vị lai ấy đã từng đến rồi vậy. Thời gian của lịch sử mang tính chất miên diên (dắt dây kéo dài) trong chớp mắt của biến hóa lịch sử đã cô đọng thành một đặc thù tính (sự ngưng đọng này xây dựng nên tinh thần sử và dân tộc tính). Nói cho dễ hiểu hơn, tỉ dụ: giáo sư giảng bài, những lời giảng của giờ trước ảnh hưởng đến lời giảng của giờ sau. Nếu coi giờ giảng trước là hoàn toàn quá khứ thì ta sẽ chẳng hiểu những lời giảng sau.
Thành Lục Niên gai liếc kiếm rùa thần
Bóng ngàn u thiên nhận dấn kinh luân
Vua Lê Lợi một bữa ngự thuyền rồng chơi trong hồ Tả Vọng, bỗng thấy một con rùa to lớn bơi trên mặt nước, ngài cầm thanh kiếm thần bắt được khi trước mà chỉ xuống, không ngờ bị con rùa ấy đớp lấy rồi lặn mất, vua Lê mới đổi hồ Tả Vọng bằng tên hồ Hoàn Kiếm nghĩa là trả kiếm trời.
Tích bắt được thanh gươm báu đến việc rùa thần đòi gươm báu lặn xuống hồ chính là một hình ảnh triết lý sử diễn tả sự liên hệ miên diên giữa quá khứ với vị lai trên thời gian của sử. Quá khứ vị lai là thanh thần kiếm, rùa thần là vận động lịch sử. Lê Lợi là anh hùng lịch sử. Do rùa thần mà quá khứ với vị lai cùng anh hùng sử xanh quấn quít nhau thành:
Một vòng không đáy đáy sinh người
Ngoảnh lại trông đi mấy việt khơi
Thường vậy vô danh văng vẳng
Mà nay hữu thực bời bời
Lịch sử giảng dạy cho chúng ta kinh nghiệm và sự nghiệp nhân sinh. Sự nghiệp bao giờ cũng bền bỉ lâu dài cho nên phàm đã thuộc sự kiện lịch sử thì tất phải là sự kiện có tính chất trì cửu nối liền quá khứ với hiện tại và vươn qua tương lai.
Nghiên cứu lịch sử tuyệt đối không chỉ nghiên cứu quá khứ của sự kiện mà thực là căn cứ vào quá khứ để hiểu hiện tại và tương lai đi theo một tinh thần lịch sử nhất quán.
Người nào đó đặt chân tại Cao Ly, quốc gia bị Nhật Bản đô hộ non trăm năm, những điều người ấy nhìn thấy không phải chỉ là Hàn Quốc ngày nay, còn cần nhìn thấy vết tích 100 năm đô hộ Nhật Bản nữa. Nếu không biết lịch sử 100 năm đô hộ kia tất sẽ không thể hiểu tường tận Hàn Quốc ngày nay. Mới non 100 năm đã ảnh hưởng đến thế huống chi cả chuỗi dài lịch sử mấy ngàn năm.
Nói gì xa xôi, một người nào đó ở bệnh viện chừng ba năm không liên lạc tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Lúc ra, cầm tờ báo đọc mười việc thì có đến chín việc không hiểu. Chẳng phải vì đã quên mất văn tự, chính bởi tại đã cắt đứt với dòng lịch sử cho nên khi không rõ quá vãng ra sao đương nhiên cũng khó biết được hiện tại. Chứng tỏ rằng cái hiện tại bây giờ là một mặt của lịch sử, theo diễn biến của toàn bộ lịch sử triển khai tích lũy mà thành.
Lịch sử là sinh mệnh, sinh mệnh không thể nửa đường gián đoạn, nói sinh mệnh hôm nay chẳng dính dấp chi đến sinh mệnh hôm qua thì thật khó nghe. Sinh mệnh hôm nay chẳng qua chỉ là tầng bình diện của một đoạn thời gian được khai triển tích lũy từ một sinh mệnh quá vãng. Tỉ dụ đơn giản: giả thử không có biến động lịch sử 1954 chia đôi đất nước, chắc hẳn miền Nam không có bộ mặt như bây giờ, chắc hẳn còn cả triệu người chưa biết miền Nam là gì? Sinh mệnh dĩ vãng như vậy đã không hề qua đi, vì qua đi kể như là chết, nhưng sinh mệnh lại không thể chết, quá khứ, hiện tại tương lai sống mãi trong nó.
Tìm hiểu lịch sử xin hãy tìm hiểu qua ý nghĩa trên. Sách “Trung Dung” của Khổng Khâu có câu:
“Sở quá giả hóa, sở tồn giả thần”
Tất cả qua đi đều được biến hoá để bảo lưu lại một cái “Thần”.
Quá khứ lịch sử đều đã hóa, hóa đi để tạo thành hiện tại, đem cái thần đó cho hiện tại rồi lịch sử hôm nay đều cũng sẽ phải hóa đi để tạo thành tương lai, đem cái thần đó cho tương lai.
Đấy dòng nước băng băng chảy mãi
Chớp bể mưa nguồn nào có ngơi
Cái thần ấy là tinh thần lịch sử chảy như dòng nước còn mãi mãi như chớp bể mưa nguồn. Có tinh thần này thì mới hình thành lịch sử. Nếu quá khứ buột đi không tồn lưu thần cho hiện tại tức là quá khứ vô sinh mệnh, không mang ý nghĩa lịch sử và giá trị lịch sử. Tôn Thất Thuyết bỏ vua lập vua, tranh quyền tranh lợi, những hành động ấy làm gì có ý nghĩa và giá trị lịch sử. Nhưng Tôn Thất Thuyết nửa đêm nổ súng đánh Tây thất bại chạy sang Tầu hóa điên, hằng đêm uống rượu mài gươm chém đá lại là hành động có ý nghĩa và giá trị lịch sử vì cái “thần” muốn tuyết quốc sĩ.
Thẹn đất nước dưới chân giầy uế sú
Người Lâm Thao Bến Ngự luống tâm cơ
Mà bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ
Để đàn nhạn Cô Tô đài thoi thóp
Giả thử chỉ có ngày hôm nay mà không có ngày mai thì cũng chẳng có luôn giá trị luôn cả ý nghĩa lịch sử. Hôm nay phải có ngày mai thì hôm nay mới là hôm nay của lịch sử. Ý nghĩa nhân sinh ở đấy, giá trị nhân sinh cũng ở đấy.
Lịch sử là cái gì từ quá khứ thẩm thấu vào hiện tại rồi trực đạt đến tương lai. Như A. Pazzi viết : “Trên khuôn mặt người Việt Nam có cả vết hằn lịch sử của họ. Các vết hằn ấy ở khóe môi, ở vừng trán, ở trong ánh mắt nụ cười, ở trên màu da và trong tiếng nói”. Thời gian lịch sử khác hẳn với một giây một khắc qua đi là qua dứt của thời gian vật lý.
Phần sinh mệnh nói đây không phải là sinh mệnh tự nhiên mà là sinh mệnh lịch sử, không phải là sinh mệnh vật chất mà là sinh mệnh tinh thần. A. Pazzi viết: “Khuôn mặt người Việt Nam là do quá trình gian khổ của dân tộc họ làm thành và sức quật cường lớn lao của dân tộc họ tạo nên. Cặp mắt họ biết quắc mắt nhìn giận dữ mà không tàn bạo, đôi môi họ biết mím chặt căm hờn mà không ác tâm”.
Một người cho dù có thọ lắm chẳng qua sống được 90 hay 100 tuổi. Đó chỉ là một sinh mệnh tự nhiên. Nhưng một quốc gia, một dân tộc có thể có đời sống sử xanh cả nhiều ngàn năm. Đó mới là sinh mệnh văn hóa, sinh mệnh tinh thần hay sinh mệnh lịch sử.
Văn hóa tinh thần, lịch sử, dân tộc, ba danh từ cùng chung một thực chất. Dân tộc không tồn tại tự nhiên vì tự nhiên chỉ có thể sinh dục loài người không thể sinh dục dân tộc. Người Việt Nam phải có một tâm linh Việt, một tinh thần Việt mới thành người Việt Nam được. Tâm linh và tinh thần ở đâu ra? Do văn hóa lịch sử dân tộc nung đúc thành, không thể tự nhiên mà có. Khả dĩ đưa ra một định nghĩa như sau: “Người tự nhiên dung hợp với văn hóa lịch sử mới xây dựng thành dân tộc. Vậy văn hóa, lịch sử, dân tộc tuy ba danh từ nhưng cùng chung một thực chất”.
anbinh
10-24-2010, 12:22 AM
SỬ HỌC và TINH THẦN SỬ VIỆT (tt)
***
“Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, voi uống nước, sông phải cạn.
Đánh một trận sạch không kinh ngạc, đánh hai trận tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô, tổ kiến hổng sụt toang đê cũ.
Thôi Tụ phải quì mà xin lỗi
Hoàng Phục tự trói để ra hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường
Xương Giang Bình Than máu trôi đỏ nước”.
Mấy câu trong bài “Ngô Ngô đại cáo” nhưng cũng là tinh thần Sử Việt ngàn đời. Lịch sử các dân tộc trên thế giới. từ hồng hoang đến nay, có 4 loại tinh thần nguyên hình (prototype)::
a) Tinh thần hòa đồng (harmonieux
b) Tinh thần tu ẩn (ascétique)
c) Tinh thần anh hùng (héroique)
d) Tinh thần cứu thế (messiaque)
Tinh thần hòa đồng tìm thấy trong đạo Khổng, trong các nhân vật sử của Homère hay trong tâm hồn người theo thiên chúa giáo ở thời kỳ “gothique” quan niệm vũ trụ là một khối thái hòa, con người hãy tan biến vào khối tái hòa đó mà sống đừng cố gắng bắt vũ trụ chung quanh phải theo ý mình, cứu cánh là đi đến một thế giới thái hòa (harmonie du mande).
Tinh thần tu ẩn tìm thấy trong Ấn Độ giáo, trong triết lý Hy Lạp phái tân Plato (néo-platonicien), trong đạo Tiên của Lão Trang, quan niệm cuộc đời là sự lầm lạc, hãy tránh sự lầm lạc đó mà đưa ta tới cõi thanh thản huyền vi, hãy xuất thế diệt dục với không một tham vọng chấn chỉnh sửa đổi, cứu cánh là chối bỏ thế gian (renoncement au monde).
Tinh thần cứu thế tìm thấy trong giáo lý của Thiên Chúa giáo ở thời kỳ phát đoan, trong tư tưởng dân Slave (Nga quốc) và tinh hoa Hồi Giáo với cứu cánh muốn đem cho trái đất một trật tự siêu việt (ordre supérieur) hoặc phi phàm (divine).
Tinh thần anh hùng tìm thấy trong hình ảnh vị thần Prométhée của thần thoại Hy Lạp, kẻ ăn cắp lửa trời cho xuống nhân gian, trong thời La Mã đế quốc, trong đa số triết gia Đức hiện thời và cũng trong hai câu thơ của Lý Thường Kiệt:
Cớ sao giặc dám hoành hành
Rồi đây bay sẽ tan tành cho coi
(Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư)
quan niệm cõi đời là một cuộc trường kỳ đấu tranh, hãy đem sức ra để tồn tại.
Tinh thần sử Việt là tinh thần anh hùng đấu tranh bám chặt lấy đất nhưng không ngước nhìn lên trời như tinh thần cứu thế. Người Việt có thể tôn kính Khổng học nhưng nhất quyết không chấp nhận tinh thần hòa đồng với giống Hán, gọi người đàn bà Việt lấy Tầu là thằng Ngô con đĩ, người Việt có thể sùng bái và cúng tế Phật đạo, tôn trọng nhà tu hành nhưng luôn luôn bài bác cái chuyện đi ở chùa. Lý Công Uẩn ở chùa Ứng Tâm, hàng ngày đem oản lên cúng Phật, Uẩn thường khoét ruột ăn trước. Long thần thấy vậy báo mộng cho nhà sư trụ trì, nhà sư mắng Uẩn. Khi biết việc Long thần mách lẻo, Uẩn liền tới đánh vào cổ Long thần ba cẳng, viết trên lưng Long thần mấy chữ “Lưu đày đi ba ngàn dặm”. Long thần phải khóc xin nhà sư vận động với Uẩn mới yên.
Tích Lý Công Uẩn cho thấy cái giá trị con người lãnh đạo thế tục cao gấp bội thần thánh và tu hành. Đến ngay như vị đại cao tăng đời Lý là Từ Đạo Hạnh tu thành chính quả mà vẫn trở lại kiếp đời là vua Thần Tôn.
A. Pazzi viết: “Nếu người ta quay trở lại khởi điểm để thấy người Việt từ lúc vùng dậy ban đầu với những vũ khí thô sơ, những gậy tầm vông và giáo mác thì người ta sẽ hiểu rõ hơn nữa sức tiềm tàng nơi họ phi thường như thế nào. Những kẻ thù vốn tự hào là hùng mạnh nhất của dân tộc Việt không thể nhìn thấy điều ấy. Làm sao mà nhìn thấy được khi cái ý chí bất khuất của dân tộc Việt bắt nguồn từ trong lịch sử ngàn xưa, thấm sâu ở trong xương tủy, chan hòa trong máu huyết, bàng bạc trong niềm kiêu hãnh vô biên của một giống nòi không chịu sống trong tủi nhục, luôn luôn có sự gắn bó mãnh liệt vào mảnh đất quê hương, vào di sản của dân tộc, di sản đau thương mà rất kiêu hùng”.
Kiêu hùng như tiếng thơ sang sảng của Trần Quang Khải ngất ngưởng ngâm giữa bữa tiệc khao quân sau khi đã phá tan quân Mông Cổ:
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái Bình nghi nỗ lực
Vạn cổ thử giang san
Văn hóa, lịch sử và dân tộc để được tồn tại đời đời phải đấu tranh trên hai mặt: vừa trì tục vừa biến hóa.
Nhất tại cầu kỳ biến
Nhất tại cầu kỳ cửu
Vừa nghe như có vẻ mâu thuẫn, đã biến hóa thì làm gì còn trì tục (tiếp nối gìn giữ) và ngược lại. Tự nhiên giới hơi đã biến thành nước tất thể hơi hoàn toàn tiêu diệt. Văn hóa sinh mệnh khác hẳn, trong trì tục có biến hóa, trong biến hóa có trì tục. Giảng lịch sử hay làm lịch sử phải nắm vững được quy luật “cầu biến cầu cửu” mới khỏi làm mất ý nghĩa lịch sử và tiêu diệt mệnh sử.
Năm 1921, phong trào vận động văn học, nhà sử học gọi bằng phong trào “Ngũ Tứ” (vì nó phát khởi nhằm ngày 4 tháng 5) do nhu cầu biến quá mạnh nên phong trào mới thành quá khích với những lời thống mạ lịch sử:
- Trung Quốc nhân hai ngàn năm nay toàn nô lệ tính.
- Đả đảo bọn Khổng học (Khổng gia điếm)
- Tội ác ở tên Khổng Tử
- Toàn ban Tây hóa (hãy Tây hóa suốt lượt)
(Sau này khi tình trạng bồng bột của huyết tính ngàn xuống, mọi người mới nhận thấy cái nộ khí ấy thật là điên, dấu hiệu của tuyệt vọng).
Việt Nam tuy cũng ở vào hoàn cảnh tương tự, hơn nữa Khổng học còn là thứ học vay mượn mà không có phong trào chối bỏ lịch sử điên đến như vậy. Người Việt không hề bị văn minh Tây phương nắm cổ mình dù rằng nó đã làm cho người Việt thất trận. Trước sau thằng Tây vẫn là giặc cướp nước sao lại Tây hóa làm gì? Học Tây có thể được nhưng Tây hóa tuyệt đối không. Cho nên tất cả phong trào do âm mưu của giặc muốn hóa nhất loạt đều bị xa lánh chửi rủa, ngoại trừ một số vong quốc nô hí hửng tham dự, rốt cuộc rồi cũng đi tới chỗ vui đấy bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
Ngày Tây tưởng niệm hải quân đại tá Henri Rivière, bắt người Việt dự lễ, ngày ấy bài văn tế Rivière được sáng tác bí mật truyền tay nhau đọc: “Hỡi ôi! Ông ở bên Tây. Ông qua bảo hộ. Cái tóc ông quăn. Cái mũi ông lõ. Đít ông cưỡi lừa. Miệng ông huýt chó. Lưng ông mang súng lục liên. Chân ông đi giày có mỏ. Ông dẹp cờ Đen. Để yêu con đỏ. Ai ngờ. Nó bắt được ông. Nó chặt mất sỏ. Cái đầu ông đâu? Cái đít ông đó. Khốn khổ thân ông. Đéo mẹ cha nó. Nay tôi có. Cau một buồng. Xôi một chõ. Rượu một ve. Trứng một ổ. Vâng lời quan trên. Cúng ông một cỗ. Mời ông xơi cho. Ông ăn cho no. Ông nằm cho yên. Ô hô thượng hưởng”.
Tây là Tây, Việt là Việt. Tây tóc quăn, mũi lõ, miệng huýt chó, đi giày có mỏ. Việt vẫn giữ nếp cau một buồng, xôi một chõ. Rivière chắc không dễ dàng gì ăn được những thứ đó. Phải ngăn cách để khỏi bị đồng hóa để hoàn thành mặt đấu tranh gìn giữ lâu bền (cầu kỳ cửu). Tuy nhiên, không vì thế mà người Việt lãng quên mặt đấu tranh cầu biến. Đời sống Việt từ ngày mở nước là một thời gian dài tìm mọi cách hấp thụ cái hay, cái đẹp của người, tài trí hấp thụ tài tình đến độ thường hóa luôn của người làm của mình chứ không để mình hóa ra người. Chữ Hán là một điển hình thứ nhất, học Hán tự nhưng ta có lối đọc riêng và thường gọi là chữ Nho chứ không kêu bằng chữ Hán, rồi lại ghép chữ Hán để biến thành chữ Nôm. Thật là lý thú biết chừng nào khi một người Việt đọc bản “Chinh phụ ngâm” thấy bên trái là những dòng chữ Hán người Việt sáng tác:
Thiếp tâm tùy quân tự minh nguyệt
Quân tâm vạn lý thiên san tiễn
Trịch ly bôi hề vũ long tuyền
Hoành chinh sáo hề chỉ hổ huyệt
lại thấy bên phải là những dòng chữ Nôm, viết giống như chữ Hán nhưng người Hán không đọc được, do người đàn bà Việt dịch:
Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi
Chàng sầu sa tìm cõi thiên san
Múa gươm rượu tiễn chưa tàn
Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo
Điển hình thứ hai là tiếng nói Việt Nam đã được La Mã hóa và phát triển thật mau, vất bỏ chữ Nôm không thương tiếc vì tính cách thiếu thuận lợi, không hợp với thời đại. Đọc “Tế Cấp bát điều” của Nguyễn Trường Tộ qua những đoạn:
“Nước ta thời ngoại thuộc và triều Tiền Lê về trước cũng ví như tuổi thành đồng; từ nhà Trần trở về trước, cũng như tuổi thiếu niên. Kịp đến ngày nay mới thật là lúc tuổi giàu sức mạnh, tức cái thời kỳ đại hành vi, đại hoạt động.
“ … Đến ngày nay mà còn có nhiều người không lãnh hội được cái thế sự biến thiên qua đời xưa và đời nay, mà lại cực lực ngợi khen đời thượng cổ cho rằng đời sau không theo kịp họ, làm gì cũng muốn trở về xưa. Bọn Tống Nho làm cho nước nhà lầm đường và trở thành ủy mị không thể chấn hưng được, cũng vì thế… ”
Các nước Đông phương tuy là thủy tổ của bách nghệ nhưng họ có tính đam mê an lạc, không thích canh cải. Vả ngày xưa họ cũng đã từng uy hành thiên hạ nên họ giàu lòng tự túc, nghĩ rằng thiên hạ không ai hơn mình. Một khi có ngoại địch thốt đến thì họ cho là nhân vật kỳ dị, trí xảo kỳ dị mà không biết rằng cơ xảo ngày nay của nó đều là những thừa thãi của Đông phương chúng ta ngày trước. Chúa Tạo Vật đã đem cái đó cho chúng ta trước mà chúng ta chưa dùng được một cách tận thiện, thì lại do chúng ta, sự chúng ta gây vạ cho họ mà đem trao cái đó cho họ. Họ nhận được cái thừa của ta thì cho là rất quí, ngày ngày trau dồi cho thật tinh xảo rồi trở lại đem bán cho chúng ta để kiếm lợi to. Nhưng đại phàm một vật đã phát triển đến chỗ cùng tột, thì phải trở. Cổ lai không có cái luật gì là bất khả phá. Không ngoài trăm năm nữa thì các nước Đông phương cũng sẽ dùng cái đó mà thắng họ… Người Tây phương là kẻ buôn trí xảo, nếu ta biết mua nó một cách khéo léo thì không lâu của họ sẽ chuyển thành của ta… Lấy trí lực của ta vốn có lại đem cái trí lực mua được nơi họ mà thêm vào. Trí xảo của họ sẽ cũ dần mà trí xảo của ta thì đổi mới. Đem hai trí địch một trí, lẽ nào không thắng?
Mới chỉ tiếp xúc với Tây phương một thời gian rất ngắn, Nguyễn Trường Tộ đã nhìn thấy nhu yếu cầu biến để tồn tại, ông đi trước cả Minh Trị, Duy Tân của Nhật Bản, trước cả đề nghị biến pháp của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu.
Sau Nguyễn Trường Tộ là ông Nguyễn Lộ Trạch viết tập “Thời Vụ Sách” (1877) gửi đến triều đình, xin trích một đoạn:
“Lấy ta so đọ với chúng (Tây) thì thấy bên yếu bên mạnh rõ ràng như thế. Vậy bàn đến việc đóng tàu thủy thì tốn tiền nhiều quá, bàn đến việc chế súng đạn thì nói việc làm khó quá, nên tìm một phép lạ gì để sáng chế ra thì hơn. Đó cũng giống như chuyện sợ bữa sớm bữa tối phải thổi nấu lôi thôi mà muốn dùng cây cỏ để ăn cho khỏi đói. Nhưng nếu cây cỏ có thể ăn được no thì ruộng đất không bằng rừng hoang mà cày cấy cũng chẳng cần thiết nữa, tàu và súng nếu có thể dùng ảo thuật để chế tạo ra thì hình người gỗ có thể đâm chém, gươn Mạc Gia (?) cũng thành vô dụng. Vậy thì tàu và súng đã không thể dùng phép lạ gì để chế tạo ra được, mà lại không chịu dụng tâm để tìm hiểu nguyên do vì sao mà người ta làm được bền được tốt, nếu sau này có lúc ra đối địch ở chiến trường có lẽ ta sẽ xin chịu nhận mình là thua kém hay sao? Hay là rồi cũng theo lề lối cũ của ta mà chịu để cho xe chạy quáng cờ lướt xuống hay sao? Vả chăng cái mạnh của giặc là vì chúng nó nắm được phương pháp, cái yếu của ta chứa sẵn từ lâu rồi, nếu biết sửa chữa cái nếp yếu hèn đã lâu, cố gắng lo tìm phương pháp vươn lên thì biết đâu không nhân lúc thua này mà làm nên việc?”.
Qua tác phẩm của Nguyễn Trường Tộ, của Nguyễn Lộ Trạch và của đa số những danh nhân học sĩ Việt Nam khác, người ta thấy chung một điểm tinh thần văn hóa anh hùng đi tìm học và nghĩ với mục tiêu đem về cho mình một quyền lực nhưng không coi tư tưởng và học thuật như một động cơ giải phóng của đời sống (Seul l’homme de culture héroique envisage le science ou la pensée comme un facteur de puissance et non comme un facteur de libération).
Đấy cũng là cái lý khá vững để giải thích tại sao nhà Trần lại cướp ngôi nhà Lý rồi phát động phong trào tư tưởng Nho để đánh dẹp tư tưởng Phật đang hồi cực thịnh. Nhà Lý đổ vỡ nhanh chóng vì tinh thần tu ẩn (ascétique) muốn tràn lấn có thể làm tiêu mòn ý chí đấu tranh của dân tộc, tinh thần tu ẩn quá phổ biến đã xóa nhòa phong độ phá Tống bình Chiêm ngày trước.
Người Việt bao giờ cũng hãnh diện và hoài bão tinh thần truyền thống đấu tranh anh hùng.
Nam nhi tự hữu xung thiên chí
Hưu hướng Như Lai hành xé hành
(Tài trai có chí xông trời thẳm
Dẫm vết Như Lai uổng nhọc mình)
hơn là cái cảnh:
Chống gậy non cao rũ bụi đời
Nằm trong mộng huyễn ngắm mây trôi
Quạnh quẽ am mây, ai gõ cửa
Chuông chùa xa lắng dạ khôn nguôi
Để thay thế cho tinh thần tu ẩn ảnh hưởng quá mạnh của đời Lý, Nho phái mới cho đặt câu vè:
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ Cha kình Mẹ mới là chân tu
Và câu ngạn ngữ: “Bụt trong nhà không thờ lại đi thờ Thích Ca ngoài đường”.
***
Trong quan niệm người Việt Nam thì sức mạnh của đất quan trọng hơn sức mạnh của máu, vấn đề thuần túy giống nòi không bằng vấn đề giang sơn gấm vóc. Đôi bàn chân Giao Chỉ còn hay mất không đáng quan tâm bằng bờ cõi bị xâm phạm. Mã Viện dựng cột đồng ở chỗ phân địa giới khắc sáu chữ: “Đồng trụ chiết Giao Chỉ diệt”, người Giao Chỉ đi qua chỗ ấy ai cũng bỏ vào chân cột đồng trụ một hòn đá, cho nên về sau chỗ ấy thành ra núi, đến bây giờ không biết cột ở chỗ nào? Cứ làm thế nào xua giặc ra khỏi bờ cõi đã, không bao giờ để cái đồng trụ phân địa giới đổ. Còn như vấn đề giòng giống máu huyết, trước cả Anh quốc từ mấy ngàn năm người Việt đã bằng lòng nhận làm dân Việt tất cả trẻ sinh trên đất Việt dù cha mẹ nó có thể vẫn giữ quốc tịch gốc, luật “jus soli” ưu tiên hơn luật “jus sanguinis”.
Có những thời kỳ người Tàu tranh đấu chống lại luật trên nhưng cũng chỉ dành được quyền cho đứa trẻ đầu lòng mang quốc tịch bố, từ đứa thứ hai là của Việt. Vào thời kỳ Nam Tiến, luật này được áp dụng chặt chẽ đối với người Tàu theo nhà Minh chống giống Mãn chạy sang nước ta được triều đình cho tham gia chính sách Nam Tiến. Tuy nhiên, không phải vì luật “jus soli” được coi trọng hơn luật “jus sanguinis” mà ý thức luân lý bảo vệ nòi giống không được đặt nặng.
A. Pazzi có nhận xét sau đây:
“Bài học lịch sử của dân tộc Việt là chuyện cô gái Mỵ Châu lấy người ngoài nước tên là Trọng Thủy mà cơ nghiệp nhà vua sụp đổ tan tành, đất nước bị sự lệ thuộc lâu dài. Có lẽ do những phản ứng sâu xa, do những kinh nghiệm lịch sử, người Việt vẫn khinh ghét rất đậm đà tất cả những phụ nữ lấy chồng nước ngoài, nhất là khi nước ngoài ấy thuộc về các dân tộc đã làm phương hại đến quyền lợi vật chất hay tinh thần của họ. Trong ngôn ngữ ngày xưa có câu thành ngữ “Thằng Ngô con đĩ” để chỉ người Tàu và các bà vợ Việt mặc dầu họ vẫn tiếp đón niềm nở văn hóa Trung Quốc và quí trọng nền văn hóa ấy.
Đối với lớp người lấy Pháp, họ vẫn quen gọi bằng tiếng Me Tây và bất cứ người nước nào đến xứ sở của họ và có vợ con như Mỹ chẳng hạn thì các người vợ sẽ đươc gọi bằng Me Mỹ.
Tiếng Me của họ là tiếng gọi rất đặc biệt ngụ ý chỉ trích, khinh miệt hết sức. Tất nhiên chỉ có những người đàn bà gọi là hư hỏng ở trong xã hội Việt Nam mới lấy chồng ở ngoài nước. Cũng có một số con nhà gọi là khá giả, có học nhiều năm ở trường hay du học ở nước ngoài, lấy chồng ngoại quốc và cho đó là dấu hiện văn minh, nhưng xét cho cùng lớp phụ nữ này vẫn bị đa số đồng bào của họ khinh miệt rõ rệt hoặc âm thầm vì họ xem như là mất gốc lạc nòi của một bọn người đã đứt cội rễ. Nếu ta đi sâu thêm một tí nữa thì ta có dịp thấy rõ rằng giữa những người đàn bà hạ lưu trụy lạc đi lấy chồng nước ngoài vẫn cảm thấy sự âm thầm tủi nhục, xót xa hơn là lớp phụ nữ có trình độ học vấn được sinh trưởng trong những gia đình gọi là tử tế. Tại sao những lớp người đàn bà cùng khốn bị đẩy vào thế lấy chồng nước ngoài vì kế mưu sinh lại có ý thức dân tộc hơn là những lớp tự gọi là có học. Điều này chỉ giải thích được như sau: lớp gọi là có học này đã bị văn hóa nước ngoài đầu độc làm cho mất hết ý niệm quốc gia dân tộc của những người Việt yêu nước. Tất nhiên lớp người đàn bà này không nhiều ở trong xã hội Việt Nam và hình như thế nào về sau họ cũng cảm thấy chán chường, xấu hổ hoặc là âm thầm hối hận về sự đi lấy chồng ngoài nước vốn đã bị dân tộc của họ xem như là sự phản bội, là sự đe dọa nhân cách”.
Thế nhưng, trong trường hợp để đổi lấy cái lợi thực tiễn cho công cuộc mở mang bờ cõi thì vua Anh Tôn nhà Trần sẵn sàng gả con gái yêu của mình là Huyền Trân công chúa cho Chế Mân để lấy hai Châu Ô, Châu Rí.
Tản Viên sơn thần xưa có một quyển sách ước, trong sách hoàn toàn để trắng không có viết gì cả. Qua tích thần thoại Tản Viên, tổ tiên ta muốn dạy bảo con cháu đời sau rằng:
“Mỗi hành động hãy bắt đầu bằng sự nhận thức những điều căn bản, những điều kiện riêng biệt của chính trị đương thời. Muốn được như vậy cần phải có một tinh thần thực tiễn sáng suốt đầy tin tưởng vào nghị lực phấn đấu của lịch sử, đừng để bị giam hãm trong huyền hoặc hay tình tự nông nổi của quần chúng”.
(L’action doit-être commencée par l’acceptation des conditions fondamentales de toute politique, des conditions propres à l’époque donnée. Il faudrait être capable de lucidité et de foi: croire à une volonté historique sans croire ni aux mythes ni aux foules. - Raymond Aron)
Sách ước để trắng có nghĩa là: “Lịch sử hoàn toàn tự tại bởi vì lịch sử không bao giờ đã định đoạt từ trước”.
(L’histoire est libre parce qu’elle n’est pas écrite d’avance).
Lịch sử phải được xây dựng theo điều kiện của thực tiễn chính trị, thực tiễn đấu tranh, lấy tùy thời và thời trung làm nguyên tắc.
Người Việt thường nói: “Thời nào theo kỷ cương ấy”, một câu thông tục mà đầy đủ ý nghĩa của triết lý sử học.
anbinh
10-26-2010, 09:38 PM
QUỐC PHNG
Ta phải giữ gn cho cẩn thận, đừng để
cho ai lấy mất một phn ni, một tấc
sng của đất nước.
(L Thnh Tn)
Nước M Linh trăng thu cn vằng vặc
Sng Bạch Đằng sng vỗ thuyền cắc cắc
Non Chi Lăng gi cuốn rừng cung đao
Đồng Đống Đa xương người phơi man mc
Buổi St Tht chm vai thề đầu mất
Ngy bnh Ng nổi cờ khng khuất tất
Khi Cần Vương nhổ mặt lũ gian hng
Lc Cứu quốc vng bn lao uất uất
(Thi Địch)
Bởi những điều kiện đặc th của địa l, của lịch sử, trọng tm chnh trị Việt l vấn đề quốc phng, cho nn văn minh cổ đại của Việt tộc mới l văn minh trống đồng.
Trống đồng l dấu hiệu của sự ku gọi nhn dn, điều động ba qun thc qun thu qun, trống cầm canh, trống ngũ lin nhằm đưa sinh hoạt đon thể khun theo nhịp trống. Tiếng trống đồng vang ln như tiếng sấm rền rĩ rung chuyển trời đất.
Gio sư Nguyễn Đăng Thục viết ngụ triết học của trống đồng rằng: V trống đồng dng lm trống trận, cụ thể ha ci thức vật tổ thần b tức l thức đon thể dn tộc cho nn tiếng trống đồng cng c hiệu lực, uy linh đại diện cho tiếng ni của đon thể m sớm được thần ha, phụng thờ như một vị thần linh, như l ch tối cao ton năng của quốc gia vậy. Nhn dn đ dựng đền thờ hằng năm hương khi cng tế. Đến khi dn tộc đ quật cường bằng xương mu của biết bao anh hng liệt nữ th thức tập thể quốc gia cng trở nn uy linh để bảo vệ đất nước, nh vua với quần thần lnh đạo quốc gia cng phải đồng tm nhất tr, cho nn thần Đồng Cổ tức thần Trống đồng đ được gọi ln lm chứng cho lời thề trung thnh với tổ quốc của quần thần một triều đại, v thần Trống đồng cũng như thần Sấm St biểu thị ch ton dn c uy lực chu diệt kẻ phản quốc, phản dn tộc. V thế m nhn dn đ chọn ngy 4 thng 4 hng năm để cho quần thần uống mu ăn thề, v thần Trống đồng đ đồng nhất hon ton với thần Sấm hằng năm chỉ bắt đầu ln tiếng vo giao tiết cuối Xun sang Hạ bo hiệu nhn dn nng nghiệp c nước để cy cấy.
Quốc phng đối với người Việt đ thnh ra một tn gio. Tất cả những vị anh hng cứu nước diệt giặc bất kể thuộc đẳng cấp no, vua, quan hay dn giả đều được lập miếu, lập đền thờ cng. Thờ cng anh hng (Culte des hros) m Thomas Carlyle mi đến 1922 mới đưa ra v được thế giới nồng nhiệt tn thưởng th người Việt đ thực hnh từ lc mới bắt đầu lập quốc. Khng phải chỉ lc sống đnh nhau với giặc, ngay cả lc ở ngi vị thần thnh rồi vẫn cn tiếp tục nhiệm vụ quốc phng.
Sch Lĩnh Nam Chch Qui kể:
Khi nước Nam nội thuộc nh Đường, Cao Biền sang lm Đ Hộ, muốn trấn yểm cc nơi linh tch, bắt đứa con gi 17, 18 tuổi chưa chồng cho ăn đồ hoa quả, mặc o quần tề chỉnh, sang trọng đặt ngồi ln ngai rồi rnh khi cất nhắc chn tay, thốt nhin chm đi. Thường hay dng thuật ấy để trấn p bch thần. Khi Biền dng mẹo ấy để trấn p thần ni Tản th thần cưỡi ngựa trắng đứng trn đm my m đi.
Cao Biền than rằng: Linh kh nước Nam cn thịnh vượng lắm, khng ti no m trừ được.
Thời vua Tn nh Đường, Cao Biền được lm Tiết Đ Sứ bn nước Nam tự xưng l Cao Vương. Cao Biền thng hiểu thin văn địa l, cho xy một thnh mới đặt tn l Đại La Thnh. M bắc thnh ấy c con sng tự sng Lư, chảy vo pha ty bắc rồi xuống pha nam, vng quanh La thnh rồi lại đổ vo Sng Ci. Mỗi năm đến thng 6 ma mưa nước sng trn ln mng mnh. C lần Cao Biền ngồi thuyền chơi trong sng bỗng thấy một cụ gi đầu bạc phơ phơ, ru my trắng xa, hnh dung kỳ dị đang bơi tắm trn sng cười ni vui vẻ. Biền lấy lm lạ, hỏi tn họ th ni l họ T tn Lịch, hỏi chỗ ở th ni ở trong sng. Ni đoạn vỗ tay cười ầm ln rồi tự nhin trời đất tối sầm, ng cụ ấy biến mất. Cao Biền biết l thần, nhn thế gọi sng ấy l sng T Lịch.
Lại một buổi sớm, Cao Biền đứng ở cửa đng nam La thnh trng ra sng T Lịch thấy trong sng nổi cơn gi to, sng đnh cuồn cuộn, my ko m mịt rồi c một người dị dạng mặc o vng, đầu đội mũ đỏ, tay cầm hốt vng c bng thấp thong như my phủ, mi đến lc mặt trời gần cao ba trượng m chưa tan. Cao Biền lấy lm lạ, muốn dng thuật trấn p, bn đem vng bạc đồng sắt chọn huyệt m chn xuống cng với l ba yểm. Đm ấy, mưa gi sấm st ầm ầm, c tiếng quỉ thần h ht qut tho kinh thin động địa. Một lt sau ba yểm cng vng bạc đồng sắt đều bị st đnh bật tung ln tan ra như gi rồi bay tản vo trong khng mất cả.
Cao Biền sợ hi than rằng: Ở xứ ny c thần thing như thế, ta nn về Tu chớ ở đy lu tất c ngy mang họa.
******
Tục truyền sau khi Hng Vương nhờ Ph Đổng Thin Vương dẹp xong giặc n, nước nh thi bnh rồi, vua mới tnh chuyện truyền ngi cho con, bn hội hai chục người con lại m phn rằng: Ta muốn truyền ngi cho đứa con no tm được vật phẩm cng tin tổ qu bu nhất.
Cc cng tử người no cũng lo đi tm sơn hảo hải vị bằng cch vo su trong rừng săn bắn hoặc m dưới đy biển khơi. Duy người con thứ chn tn l Lang Liu ngy đm thao thức ăn ngủ khng yn v chưa biết lấy g dng ln vua cha.
Gần đến kỳ hạn bỗng c thần đến bo mộng cho Lang Liu bảo rằng: Trong trời đất khng c vật g qu hơn gạo, v gạo l của nui dn, ngy ngy con người ăn mi m khng thấy chn. Nếu lấy gạo nếp nấu ln gi thnh hnh trn tượng trưng cho vm trời, đồng thời cũng gi thnh hnh vung tượng trưng cho đất.
Lang Liu tỉnh dậy mừng rỡ lm theo lời thần dậy, đem lựa hột gạo nếp no trắng tinh vo đi cho sạch, dng l xanh gi thnh hnh vung đặt vị ngon vo giữa đem nấu chn đặt tn l bnh chưng. Lại lấy gạo nếp đồ xi, gi cho nhuyễn nặn thnh hnh trn gọi l bnh dy.
Tới kỳ hạn, cc con tề tựu trnh ln vua cha cc loại bu vật, chỉ c Lang Liu đem bnh trn, bnh vung ln dng vua. Hng Vương lấy lm lạ mới hỏi Lang Liu tại sao lại coi hai loại bnh bằng gạo đ l bu vật?
Lang Liu kể hết tự sự. Vua nếm bnh thấy ngon v cng, chấm cho Lang Liu được giải nhất rồi truyền ngi cho.
Truyền kỳ trn đy cho biết, sau khi định cương thổ (ph giặc n xm lăng) th kế hoạch xy dựng văn ha, nng nghiệp v kinh tế nng nghiệp được p dụng, vấn đề quốc phng cũng phải dựa trn những nguyn tắc mới, tổ chức quốc phng qua định cư lng x canh tc chứ khng cn ở tnh trạng nửa du mục du liệp, nửa nng canh như trước kia nữa. Việc xy dựng văn ha v kinh tế nng nghiệp mi đến đời L mới hon chỉnh, mới thnh Nam quốc sơn h.
Paul Mus trong cuốn Sociologie dune guerre viết: Nhờ sức mạnh bm chặt lấy đất, nhờ lối tổ chức lng x m gần một ngn năm Bắc thuộc, dn tộc Việt Nam chẳng những đ khng bị tiu mn tri lại, cn lợi dụng được văn ha Trung Hoa để sống mạnh hơn ln.
Cũng theo lời Paul Mus: Cho tới ngy chế độ thực dn Php, qun đội Php cũng bị chnh sức mạnh thần b đ đnh bại
Mỗi lng l một đơn vị chiến đấu c thể tự tc trn mọi mặt, kinh tế, vũ trang v văn ha.
Đ hộ Tần v đ hộ Php xưa v nay đều đ chỉ đặt được uy quyền của họ trn một vi trung tm tỉnh thị nhưng năng lực quốc phng chủ yếu vẫn khng hề bị tiu diệt, v n tiềm ẩn vo trong tổ chức lng x vy bọc bởi lũy tre xanh ngắt rải rc trong đồng ruộng mng mnh, ngun ngt cả ngn cy số khắp giang sơn đất nước, lng nọ tiếp lng kia, thn xm đan vo nhau ngoằn ngoo chằng chịt những bờ ruộng, những con đường đắp. Một kẻ lạ no đến đ l bị nhn bằng con mắt nghi ngờ, nếu l một ngoại nhn chắc chắn khng bao giờ được chứa chấp.
*****
Gần như ton bộ lịch sử Việt đc kết vo vấn đề đối ph với phương bắc. Bởi vậy ni đến quốc phng của nước ta tất phải đề cập Trung Quốc (m người Việt gọi bằng danh từ nm na miệt thị l nước Tu) để nghin cứu so snh.
Từ rất sớm, dn tộc Trung Quốc đ dựng nước trn nng nghiệp v ton thiện một nền văn ha nng nghiệp. Nng nghiệp ln pha Bắc đến một ranh giới buộc phải ngừng lại v qu nửa kh hậu rất lạnh, khng c mưa, chỉ c sa mạc v những cnh đồng cỏ, chẳng cch g pht triển được nng nghiệp thnh thử ton vng cực bắc Trung Quốc tạo thnh một bin cương giữa hai nền kinh tế du mục v nng nghiệp lun lun c sự cướp bc.
Đời Tần Thủy Hong đ phải cho xy Vạn L trường thnh để lm phng tuyến chống giữ. Vũ trang của dn tộc du mục lấy kỵ binh lm chủ, loi ngựa chịu rt ưa vng kh, cứ cuối ma thu đến, lng ngựa mọc di, sức lực sung mn. Cn kỵ binh dng chất dẻo chế thnh dy cung, trời trở lạnh chất dẻo cứng lại bắn tn rất xa. Cũng vo giữa lc ny th lương thực dn tộc du mục đ cạn. Trong khi dn tộc nng nghiệp gặt hi vừa xong đem thc về cất vo kho, chọn gạo tốt m ủ men nấu rượu khiến cho dn tộc du mục thm rỏ ri, liền tập trung qun đội chọn một khu yếu nhất của phng tuyến Vạn L trường thnh m o ạt tấn cng cướp lương thực v tn ph, sức mạnh như một cơn cuồng phong. Đường xa xi diệu vợi, đợi lc viện binh tới nơi th giặc đ cao chạy xa bay. Vạn L trường thnh trở nn v dụng. Trung Quốc phải chuyển đổi thế thủ sang thế cng, huấn luyện một đạo qun viễn chinh cơ động tm chủ lực đối phương m đnh trước, gọi l chnh sch quốc phng Nhất lao vĩnh dật (Một lần kh nhọc để được yn ổn lu di). Chnh sch ny chỉ c hiệu lực một thời gian v n lại gặp kh khăn, thứ nhất đại qun viễn chinh, sự vận chuyển lương thực hết sức nan giải, dn du mục xuống miền nam chỉ cần người ngựa cung tn đi đu cướp lương ăn đấy; đại qun viễn chinh khng được hưởng lợi thế đ cho nn mỗi lần mở cửa quan xuất kch (khai ti xuất kch) l phải tnh lm sau thắng mau; thứ hai dn tộc du mục liền tm mọi cch để khng cho đại qun viễn chinh thắng mau, họ rt vo vng sa mạc hoang vu, bảo ton chủ lực đợi khi đại qun Trung Quốc triệt thoi lại trn xuống. Muốn nhất lao vĩnh dật khng thể khng tiến thm một bước nữa l tuyệt mạc cng truy (đuổi đến cng tận của sa mạc) triệt để thực hnh tiu diệt chiến lược. Nhưng đu phải dễ dng, nhiều lần cả mấy vạn qun thọc su vo vng thảo sục sạo m khng kiếm thấy một tn địch. Rt cuộc vẫn phải trở về kiện ton chiến lược phng thủ.
Vấn đề phương bắc của Việt Nam ngược hẳn lại vấn đề phương bắc của Tu. Tu trn xuống nước ta dễ thch ứng với phong thổ hơn cho nn lun lun dng mưu toan đặt chnh sch đ hộ lu di m đồng ha mở mang bờ ci về pha nam.
Dn tộc Việt muốn tồn tại khng thể p dụng chnh sch v chiến lược như cc dn tộc du mục miền bắc Trung Quốc. Nước ta khng c sa mạc, khng c đồng cỏ, khng c kh hậu rt cắt da để luyện tn nui ngựa. Tạo kh khăn cho xm lược Tu tr năng văn ha cần hơn sức mạnh vũ lực. Trước hết l nhu yếu cầu biến, nhanh chng chuyển từ tnh trạng nửa du mục du liệp, nửa nng nghiệp sang hẳn nng nghiệp với một nền tảng văn ha nng nghiệp vững chắc, học ci hay của kẻ địch phương bắc để lm vũ kh m chống lại n, rồi lại dng thứ vũ kh đ m mở mang bờ ci xuống phương nam. Kinh tế nng nghiệp lm kinh tế quốc phng, tổ chức lng x lm mun vn thnh lũy, văn ha nng nghiệp lm văn ha dn tộc, quốc lực đời ny qua đời khc l vng nng thn rộng lớn. Đền thờ quan thi th Nhm Din, người đ đem văn ha cng kỹ thuật nng nghiệp sang truyền cho dn cc quận Giao Chỉ, quận Cửu Chn v quận Nhật Nam l chứng tch của thời kỳ biến ha di của sử Việt m sch vở thường quen gọi l thời kỳ Bắc thuộc ko từ năm 111 trước Ty lịch đến năm 931 sau Ty lịch chia lm ba thời kỳ cch nhau bởi nhiều cuộc nổi dậy của b Trưng, b Triệu v cc ng L Nam Đế, Triệu Quang Phục, Bố Ci Đại Vương, cha con nh Khc, Ng Quyền thảy đều l những vị anh hng cứu quốc tiền phong của sử Việt. Nhưng, bấy giờ Việt Nam chưa hon ton chnh bị một nền thống nhứt chnh trị nn sự nổi dậy lẻ tẻ dễ bị quan qun Tu dẹp tan. Xem như vụ xảy ra ở đời Tiền L th đủ r. Chỉ v chia rẽ m L Phật Tử đnh p Triệu Việt Vương để rồi lại xin hng Trung Quốc, mở vo thời kỳ Bắc thuộc lần thứ ba. Với binh lực lẻ tẻ nổi dậy từng địa phương tất nhin khng thể đương đầu bằng một cuộc chiến tranh qui m với Tu được.
Tuy nhin, những cuộc nổi dậy đ gặt hi kh nhiều kinh nghiệm chiến đấu cho hậu thế, đồng thời khởi sự xy dựng tinh thần yu nước thnh một tn gio anh hng bằng đền thờ hai b Trưng, đền thờ b Triệu Ẩu, đền thờ vua L Nam Đế, đền thờ Dạ Trạch Vương v.v
Phải đến đời Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn thập nhị sứ qun nước Việt mới thống nhất, c một binh lực khả dĩ tiến hnh chiến tranh, tiến sang thời đại một quốc gia tự chủ.
Cờ bng lau dập du đầy non nước
nh huy hong rực rỡ khắp đng ty
Đường vua Đinh đ bước
Nghiệp vua Đinh cn đy
Hang Luồn, giốc Sỏi mấy ghềnh My
Giặc Tống qun Hầu np mng vy
Sng Hong Long dạt do sng vỗ
Động Hoa Lư rầm rập bo bay
Phục lại ngn năm giờ pht ấy
Theo sử chp th đnh dẹp xong loạn Thập Nhị Sứ Qun, Đinh Bộ Lĩnh ln ngi hong đế đng đ ở Hoa Lư, cho xy cung điện, chế triều nghi, định phẩm hm cc quan văn v. Việc quan trọng nhất l kiến tạo binh lực, giao chức thống sy cho L Hon phong lm Thập đạo tướng qun.
Năm 981, binh lực đảm nhiệm sứ mạng quốc phng lần đầu, đnh nhau với qun xm lăng phương bắc dưới triều Tống trn hai mặt thủy bộ, thủy ở Bạch Đằng Giang, bộ ở Chi Lăng (Lạng Sơn). Tướng Tu l Hầu Nhn Bảo v Tn Ton Hưng đại bại ở Chi Lặng bị qun ta chm chết. Mặt trận Bạch Đằng nghe tin thua quay đầu chạy.
Từ đấy m đi, cuộc chiến giữa ta với phương Bắc khng cn mang tnh cch nổi dậy vũ trang quận huyện m l cuộc chiến giữa hai binh lực của hai quốc gia.
Phương bắc như vậy, phương nam sự thắng lợi của ta cũng chẳng km phần huy hong. L Hon ph xong qun Tống rồi liền đặt vấn đề bang giao với Chim Thnh ở phương nam. Trước kia, Chim Thanh thường đem qun sang cướp ph, giết hại dn ta nhiều lắm, ta căm giận m khng lm g được bao giờ cũng phải nhờ qun Tu đi đnh dẹp. Nay tnh thế đ đổi khc. L Hon cho sứ giả l Từ Mục v Ng Tử Cảnh qua bn Chim Thnh. Vua quan Chim Thnh khước từ quan hệ bang giao mới với Việt Nam, bắt giam hai sứ giả. L Hon mang binh đi đnh giết được tướng Chim Thnh l Từ My Thuế, cướp nhiều chu bu, vng bạc mang về cng với 100 cung nữ Chim.
Binh lực dưới sự lnh đạo của Thập Đạo tướng qun L Hon nay l vua Đại Hnh mang lại thắng lợi rực rỡ. Phương bắc L Hon khng chỉ p dụng chnh sch thủ, ng cn nhiều lần mưu toan tấn cng ngược ln, đem chiến thuyền vo trấn Như Hồng đnh ph, thả dn ven biển trn vo nội địa Trung Quốc khiến cho vua quan Trung Quốc nể sợ để tiến ln chnh sch ngoại giao bnh đẳng với Tu, xa bỏ hẳn vết tch của một ngn năm Bắc thuộc. Mỗi lần tiếp sứ giả Tu, ng L Hon thường ngồi trn mnh ngựa m thi lễ, rồi cng dong cương với sứ giả m tiến bước. Để uy hiếp tinh thần sứ giả Tu, nh vua ưa dắt hai con cọp đến chầu cuộc đm phn. Binh lực Việt pht triển mau lẹ đến nỗi vo đời L Thi Tn, nh Tống đ c lc nhờ binh lực Việt đnh dẹp hộ giặc Nng hay sang quấy nhiễu Quảng Đng, Quảng Ty.
Năm 1044, vua Thi Tn nh L ngự gi đi đnh Chim Thnh về tội Chim Thnh khng chịu thng sứ v cứ quấy nhiễu ở vng duyn hải. Đnh trận no thắng trận ấy, tướng lnh Chim Thnh nổi loạn chm đầu quốc vương l Xạ Đẩu để xin hng. L Thi Tn tiến binh vo quốc đ Chim Thnh l Phật Thệ (thuộc huyện Hương Thủy tỉnh Thừa Thin by giờ) bắt vương phi l nng Mế Hệ v cc cung nữ đem về.
Năm 1075, lc Vương An Thạch ở chức tể tướng Tống triều, c quan Tu tn Lưu Gi trấn nhiệm vng bin cương Hoa Việt c muốn gy sự để tm cớ xm lăng nn hạ lệnh cấm dn khng cho bun bn với người Việt, lại cn bắt bớ nhiều thuyền b hng ha của dn Giao Chu. Triều đnh nh L thấy sự tnh như thế mới viết thư sang hỏi Tống triều th Tống triều lờ đi. Vua L Nhn Tn mới sai L Thường Kiệt v Tn Đản đem 10 vạn binh chia ra hai đường thủy bộ sang đnh nh Tống chiếm lun một hơi ba chu lớn của Tu l Chu Ung, Chu Lim, Chu Khm, giết nhiều qun tướng nh Tống. Triều đnh Tống sai Quch Qu cử đại binh mật hội với Chim Thnh hai mặt gip cng đnh chiếm nước Nam. Qun Tu gip chiến với qun L Thường Kiệt ở sng Như Nguyệt. Hai bn giằng co, trận đnh ko di su bảy thng rng, qun Tống chết qu nửa đnh rt về.
Nam quốc sơn h Nam đế cư
Tiệt nhin định phận tại thin thư
Như h nghịch lỗ lai xm phạm
Nhữ đẳng hnh khan thủ bại hư
Bốn cu thơ của L Thường Kiệt được phổ biến trong dn chng, c thể gọi đy l bản quốc ca đầu tin của Việt Nam.
Nh Tống v nh L nối lại bang giao. L Nhn Tn đuổi người Tu về nước v cho thch vo trn, con trai từ 15 tuổi th thch ba chữ Thin Tử binh, 20 tuổi thch ba chữ Đầu Nam Triều, con gi thch hai chữ Quan khch.
Đời nh Trần, vng bắc Trung Quốc bị đặt dưới thống trị Mng Cổ, đe dọa xm lăng cn nặng hơn trước, nước Chim Thnh đ chịu uy sang tiến cống nhưng vẫn chưa từ bỏ chnh sch cướp ph nn việc kiện ton binh lực cng cần thiết, nhn lực trong nước đều bị động vin để tham gia chiến đấu v học tập qun sự, thnh thử khi chiến tranh với Mng Cổ, nước Việt Nam nhỏ b đ c một binh lực to tt đến 20 vạn người.
Năm 1257, tướng Mng Cổ trấn giữ Vn Nam l Wouleanggotai (Ngột Lương Hợp Thai) cho người sang bảo vua Trần Thi Tn về thần phục. Thi Tn thấy tn Mng Cổ c thi độ hỗn lo cho bắt giam lại rồi cử Trần Quốc Tuấn đem binh ln phng bị pha Bắc. Ngột Lương Hợp Thai ồ ạt từ Vn Nam ko sang địa phận nước ta, đi theo đường sng Thao đnh thẳng vo Thăng Long. Ban đầu, để trnh nhuệ kh của giặc, Trần Quốc Tuấn lui về Sơn Ty đợi cho qun Mng Cổ mệt mỏi mới tiến binh đnh trận Đng Bộ Đầu, Mng Cổ thua chạy. Thấy việc chinh chiến ở đy chưa lợi nn Mng Cổ lui binh. Khi dứt nốt khu vực Nam Tống, mặc dầu Trần triều chịu đi sứ v triều cống nhưng Mng Cổ, phần muốn trả th cũ, phần muốn pht triển đế quốc về phương Nam nn lại tm cch gy sự, gửi lễ bộ thượng thư l Si Thung qua nước ta để hạch hỏi vụ vua Trần Nhn Tn ln ngi m khng xin php Nguyn triều v đi đch thn vua Trần Nhn Tn phải sang bệ kiến Nguyn Thi Tổ.
Năm 1282, Nguyn Chủ xuống chiếu lập Ta Tuyn Phủ đặt hệ thống liu thuộc đưa sang đi cai trị nước Nam. Tuyn Phủ Ti sang đến nơi bị Trần Nhn Tn khng nhận lời đuổi về Tu.
Năm 1284, chiến tranh Nguyn Việt bng nổ chia lm hai đợt. Đợt thứ nhất do con trai Nguyn Chủ l Thot Hoan cng với cc tướng Toa Đ, M Nhi mang một lc sang nửa triệu qun, thế lực lượng mạnh như chẻ tre, tiến binh như cuộn đất. Vua nh Trần phải chạy vo mi Thanh Ha tiếp tục khng chiến khắp nơi. Ba thng sau, qun ta tổng phản cng đại thắng tại Hm Tử Quan rồi Chương Dương Độ, rồi Ty Kiết, rồi Vạn Kiếp. Toa Đ tử trận. M Nhi trốn về Tu, Thot Hoan khng cn hồn va no nữa cũng bỏ chạy. Tnh ra cuộc chiến ko di 6 thng kể từ thng chạp năm Gip Thn (1284) đến thng 6 năm Ất Dậu (1285). Qun dn nước Nam đuổi sạch 50 vạn hng binh Mng Cổ ra khỏi bờ ci. Thot Hoan khi mới sang uy thế hng dũng bao nhiu lc chạy về tan tc bấy nhiu.
Ma xun năm Đinh Hợi (1287), Nguyn Chủ lại cử Thot Hoan lm Đại nguyn sy đem hơn 30 vạn qun thủy bộ rầm rộ ko sang đnh nước Nam. Triều đnh nước ta rời Thăng Long ẩn vo Thanh Ha lần nữa. Đợi cho nhuệ kh của giặc st giảm bấy giờ mới vy đnh khắp nơi. Tướng Trần Khnh Dư cắt đứt đường lương địch trong trận Vn Đồn khiến cho qun Nguyn ở Vạn Kiếp mất tinh thần chiến đấu, Thot Hoan vốn l con chim một lần bị tn nn lo sợ muốn bỏ về cho rảnh. Trần Hưng Đạo đon biết giặc, sai người ln thượng lưu sng Bạch Đằng dng cy tre vt nhọn đng cọc giữa dng sng rồi sau ba bốn mặt tiến đnh, chiến thuyền của M Nhi mắc cạn đắm vỡ mất cả, qun Nguyn chết như rạ, cc tướng giặc l M Nhi, Phn Tiếp, Tch Lệ, Cơ Ngọc đều bị Trần Hưng Đạo bắt sạch. Thot Hoan nghe tin thủy qun tan vỡ, hồn va ln my cố sức mở đường mu m chạy.
anbinh
10-26-2010, 09:50 PM
QUỐC PHNG (tt)
Xa gi Thượng hong v Trần Nhn Tn trở lại kinh sư, khi đến Long Hưng, tiếp nhận lễ hiến ph của bọn M Nhi qu dng ấn ngọc. Vua Trần Thnh Tn c lm hai cu thơ kỷ niệm:
X tắc lưỡng hồi lao thạch m
Sơn h thin cổ điện kim u
A. Pazzi viết: Nếu người ta nghĩ đến giặc Mng Cổ v ci đế quốc mnh mng chừng no, c lẽ người ta mới thấy được sức chiến đấu lạ lng của người Việt Nam. Người ta c thể nhận định một ch r rng v dứt khot rằng chỉ mnh dn tộc Việt Nam duy nhất trn địa cầu ny đ đnh bại qun Mng Cổ. Đ l đon qun xm lược lớn lao, đ đặt Trung Hoa dưới ch thống trị bạo tn, đ chiếm Ty Hạ, Ty B Lợi , cai trị Trung u, uy hiếp o Đức vậy m đon qun bch thắng của họ khi vo Việt Nam đ bị đnh cho thảm bại tiếp liền ba lần.
Ngy 20 thng 8 năm Canh T (1300) Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bệnh nặng sắp mất, vua Trần Anh Tn đến thăm, hỏi rằng:
- Thượng phụ một mai khuất ni, phỏng c qun Bắc lại sang th lm thế no?
Hưng Đạo Vương tu rằng:
- Nước ta thủa xưa Triệu V Vương dựng nghiệp, Hn đế đem binh đến đnh. V Vương sai dn đốt sạch đồng ng khng để lương thảo cho giặc chiếm được rồi đem đại qun sang chu Khm, chu Lim dng đoản binh m đnh được, đ l một thời. Đến đời Đinh L, nhiều người hiền lương gip đỡ, bấy giờ nước Nam đang cường, vua ti đồng lng, bụng dn phấn khởi, m bn Tu đang lc họ suy nhược cho nn ta đắp thnh Bnh Lỗ ph được qun Tống, đ l một thời. Đến đời nh L qun Tống sang xm, L đế sai L Thường Kiệt đnh mặt Khm Lim dồn đến Mai Lĩnh, qun hng tướng dũng đ l c thế đnh được. Kế đến bản triều giặc Nguyn ko đến vy bọc bốn mặt, may được vua ti đồng lng, anh em ha mục, cả nước đấu sức lại m đnh mới bắt được tướng kia, cũng l lng trời gip ta mới được thế. Đại để, kẻ kia cậy c trng trận m ta th cậy c đoản binh, lấy đoản chống nhau với trng, php dng binh thường vẫn phải thế. Cn như khi no qun giặc ko đến ầm ầm như gi, như lửa thứ ấy lại dễ chống. Nếu c dng cch dần d như tầm ăn l, thong thả m khng ham của dn, khng cần lấy mu, việc thế ấy mới kh trị th ta nn kn tướng giỏi liệu xem quyền biến v như đnh cờ phải ty cơ m ứng biến, dng binh phải đồng lng như cha con một nh th mới c thể đnh được. Cch ấy cốt phải tự lc, bnh th khoan sức cho dn, để lm kế su rễ bền gốc, đ l ci thuật giữ nước hay hơn cả.
Giặc Nguyn ba lần thua trận khng cn dm c dm dỏ nước ta nữa. By giờ l lc thuận tiện để lo pht triển phương nam. Nhn một chuyến ngự gi thn chinh đi dẹp đm giặc cỏ Ai Lao, vua Nhn Tn c gh sang Chim Thnh xem phong cảnh. Nhn thấy đất đai Chim Thnh r rng l một hậu cứ khng thể thiếu cho nước Việt trong cng cuộc chống lại giặc phương bắc. Mở đầu cho chnh sch xy dựng hậu cứ đ, vua Nhn Tn dng chiến lược ha bnh kết thn bằng việc ước gả Huyền Trn cng cha cho vua Chim Thnh l Chế Mn. Đổi lại, Chế Mn dng cho nước ta hai chu v chu R lm lễ cưới. Hai chu ny c một lợi thế chiến lược quan trọng cho cả hai mặt phng thủ lẫn tấn cng đối với cc ln quốc phương nam. Năm 1306 (đời vua Anh Tn), cng cha về Chim Thnh Đầu năm 1307, vua Anh Tn thu nhận hai chu , R v đổi tn l Thuận Chu v Ha Chu rồi sai quan l Đon Như Hi vo kinh l sắp xếp việc cai trị.
Huyền Trn cng cha lấy Chế Mn chưa được một năm th Chế Mn mất, Chế Ch ln lm vua Chim Thnh, vốn l người tm tnh phản trắc thường khng giữ những giao ước trước, cho nn năm Tn Hợi (1311) Anh Tn mới cng cc v tướng phn binh lm ba đạo sang đnh Chim Thnh bắt được Chế Ch đem về v phong cho người em l Chế Đ A B lm vua Chim Thnh.
Năm 1334, Trần Minh Tn đi đnh giặc Ai Lao xm phạm bờ ci, quấy nhiễu vng Kiềm Chu (Nghệ An by giờ), qun Ai Lao vừa nghe tin đại qun ta ko tới liền bỏ chạy hết. Trần Minh Tn sai Nguyễn Trung Ngạn lm bia khắc tn trn ni để ghi cng. Bi bia ấy chữ to bằng bn tay, khắc vo đ thật su, đến nay vẫn cn.
Bi bia viết như sau: Chương Nghiu Văn Triết Thi Thượng Hong l vua thứ 6 đời nh Trần, nước Hong Việt chịu mệnh trời, nhất thống ci trung ba, trong đất ngoi bể đu cũng thần phục. Nước Ai Lao nhỏ mọn kia dm ngạnh vương ha, cuối ma thu năm Ất Hợi, vua thn đem su qun đi tuần ci ty. Thế tử nước Chim Thnh, nước Chn Lạp, nước Xim La v t trưởng cc đạo mn l Qu, Cầm, Xa, Lạc, t trưởng rợ Bồ Nam mới phục v cc bộ mn Thanh Xa đều mang phương vật tranh nhau đến đn rước. Chỉ c tn nghịch Bổng cứ giữ m tối sợ phải tội chưa lại chầu ngay. Cuối ma đng, vua đng qun ở cnh đồng Cự thuộc chu Mật, sai cc tướng v qun rợ mọi vo tận nước, nghịch Bổng theo gi chạy trốn. Vua mới xuống chiếu đem qun về. Lc bấy giờ l ngy thng chạp nhuận năm Ất Hợi, nin hiệu Khai Hữu thứ 7 khắc vo đ. (Theo bản dịch nm của Trần Trọng Kim).
Bi bia của Nguyễn Trung Ngạn l một văn kiện cng khai ni ln đường lối chnh trị quyền lực (politique de puissance) đối với phương nam. Người Chim Thnh v chịu ảnh hưởng trực tiếp với đồ Nguyễn Trung Ngạn nn đến đời vua Dụ Tn (1367) chnh sự nh Trần bắt đầu suy yếu, Chế Bồng Nga một anh qun Chim Thnh, ngy đm ra sức tập trận luyện binh với mục đch đnh nước Nam rửa những th trước.
Năm 1376, đời vua Duệ Tn, quan trấn thủ Ha Chu l Đỗ Tử Bnh ăn cắp những đồ tiến cống của Chim Thnh rồi dng sớ ni dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn v lễ, tự bi bỏ việc tiến cống. Duệ Tn liền cất binh đi hỏi tội, giao chiến với qun Chim Thnh ở trận Đồ Bn, ta thua to, Duệ Tn tử trận. Chế Bồng Nga thừa thắng đnh trn ln quốc đ Thăng Long tha hồ cướp ph rồi rt, qua mấy năm sau cũng vậy, qun Chim Thnh ra vo nước Nam ta như đi vo chỗ khng người, ba lần vua v triều đnh phải bỏ kinh thnh m chạy. Dn gian khổ sở v giặc Chim Thnh khng biết thế no m kể. Mi đến năm 1390, nhờ may mắn tướng Trần Khắc Chn bắn chết được Chế Bồng Nga trong một trận thủy chiến ở sng Luộc (tỉnh Hưng Yn by giờ). Tự đấy nạn giặc Chim mới yn.
Phương nam yn ổn chưa được bao lu th mối lo phương bắc ti pht. Hồ Qu Ly cướp ngi nh Trần, tự xưng lm vua thiết lập triều đại nh Hồ. Cng lc ấy nh Minh bn Tu cũng đ chấn chỉnh xong cc vấn đề nội bộ, c dm dỏ nước Nam. Hồ Qu Ly biết lắm nn mỗi lần thiết triều ng thường hỏi cc đại thần: Ta lm thế no cho c 100 vạn qun để đnh giặc Bắc?.
Năm 1405, nh Minh sai sứ mang chiếu sang đi đất Lộc Chu. Để đnh đổi, Hồ Qu Ly đnh phải cắt ra 59 thn ở Cổ Lu nhường cho Tu. Lm sao cho vừa miệng cọp, nh Minh vẫn cứ mượn cớ nh Hồ về tội tiếm nghịch. Sứ nh Hồ sang Tu th nh Minh giữ lại khng cho ai về. Hồ Qu Ly nhận thấy kh lng qua khỏi chiến tranh với giặc phương Bắc bn sai đắp thnh Đa Bang (tỉnh Sơn Ty) bắt lấy gỗ đng cọc ở sng Bạch Hạc, chia cc vệ qun ở Đng Đ ra giữ mọi đường hiểm yếu.
Cuối năm 1406, nh Minh pht động chiến tranh xm lăng, cử Chu Năng lm đại tướng cng với cc tướng Trương Phụ, Mộc Thạch chia binh lm hai đạo m tiến vo Nam quốc. Khi nh Minh đến Long Chu th đại tướng Chu Năng chết, Trương Phụ ln thay.
Tuy rằng nh Hồ trước đ phng bị nhưng Trương Phụ biết rằng nh Hồ khng được lng dn, bn lm hịch kể tội họ Hồ, viết hịch ấy vo những mảnh vn nhỏ bỏ xuống sng, tri đến đu qun sĩ ta bắt được, nhiều người chn nản khng muốn đnh nhau nữa. Nhờ thế qun Trương Phụ tiến được mau hơn. Qun nh Hồ phải lui về giữ thnh Đa Bang. Đa Bang thất thủ, thm trận Mộc Phm Giang, rồi trận Hm Tử Quan, Hồ Qu Ly chạy trốn vo Nghệ An v bị qun Minh bắt ở cửa Kỳ La (H Tĩnh). Nh Minh chiếm giữ nước Nam đặt nền đ hộ hơn 20 năm.
Ma xun Mậu Tuất (1418), L Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn dng d 10 năm chiến tranh cch mạng dn tộc, kết quả thắng lợi được ghi trong bi Bnh Ng đạo co đoạn sau đy:
Trận Bồ Đằng sấm vang st dậy, miền Tr Ln trc ph tro bay. Sĩ kh đ hăng, qun thanh cng dậy. Trần Tr, Sơn Thọ mất va chạy tan. Phương Chnh, L An tm đường trốn trnh. Đnh Ty Kinh ph tan thế giặc, lấy Đng Đ thu lại ci xưa. Dưới Ninh kiều mu chảy thnh sng, bến Tụy Động xc đầy ngoi nội. Trần Hiệp đ thiệt mạng, L Lương lại phơi thy. Vương Thng hết cấp lo lường. M Anh khng đườc cứu đỡ. N đ tr cng lực kiệt b tay khng biết tnh sao, ta mưu phạt tm cng chẳng đnh m người chịu khuất. Tưởng n phải thay lng đởi dạ hiểu lời lẽ tới lui, ngờ đu cn kiếm kế tm phương gy mầm tội nghiệt. Cậy mnh l phải, chỉ quen đổ vạ cho người; tham cng một thời, chẳng b by tr dở duốc. Đến nỗi đứa trẻ ranh như Tuyn Đức (chỉ vua nh Minh bn Tu) nhm v khng thi, lại sai đồ nht nht như Thạnh Thăng đem dầu chữa chy. Năm Đinh Mi thng 9, Liễu Thăng từ Khu n tiến sang, Mộc Thạnh từ Vn Nam ko đến. Ta đ điều binh giữ hiểm để ngăn lối Bắc qun; ta lại sai tướng chẹn ngang để tuyệt đường lương đạo. Mười tm Liễu Thăng thua ở Chi Lăng, hai mươi Liễu Thăng chết ở M Yn. Hai mươi lăm Lương Minh trận vong, hai mưới tm L Khnh tự vẫn. Lưỡi dao ta đang sắc, ngọn gio giặc phải li. Lại thm qun bốn mặt vy thnh hẹn đến rằm thng mười diệt giặc. Sĩ tốt ra oai t hổ, thần thứ đủ mặt trảo nha. Gươm mi đ, đ ni cũng mn, voi uống nước, nước sng phải cạn. Đnh một trận sạch khng knh ngạc, đnh hai trận tan tc chim mung. Cơn gi to trt sạch l kh, tổ kiến hổng sụt toang đ cũ. Thi Tụ phải qu m xin lỗi, Hong Phc tự tri để hng. Lạng Giang, Lạng Sơn thy chất đầy đường, Xương Giang, Bnh Than mu tri đỏ nước. Gớm gh thay, sắc phong vn cũng đổi, thảm đạm thay sng nhật nguyệt phải mờ. Binh Vn Nam nghẽn ở L Hoa, sợ m mất mật; qun Mộc Thạnh tan chưng Cần Trạm chạy để thot thn. Suối mu Lnh Cu nước sng rền rĩ, thnh xương Đan X cỏ nội đầm đa. Hai mặt cứu binh, cắm đầu trốn chạy; cc thnh cng khấu cởi gip xuống đầu. Bắt tướng giặc mang về, n đ vẫy đui phục tội, thể lng trời bất st ta cũng mở đường hiếu sinh. M Kỳ, Phương Chnh cấp cho năm trăm chiến thuyền, ra đến bể chưa thi trống ngực, Vương Thng M Anh pht cho vi ngn cỗ ngựa về đến Tu cn đổ mồ hi.
Đnh đuổi xong qun Minh, bờ ci phương bắc yn được nhiều năm, phần v đường lối ngoại giao kho lo của nước Nam, phần v thế lực thống trị Minh triều đang đi su vo đường hủ bại, phần v quan qun nh Minh e d vũ lực qun Nam.
By giờ l lc thuận tiện để tnh chuyện bờ ci phương nam. Nhn v vua nước Chim Thnh l B Cai cứ hay xua qun sang cướp ph đất Ha Chu nn năm 1446, vua L Nhn Tn sai bọn L Thu, L Khả đem binh sang đnh Chim Thnh lấy được Đồ Bn (kinh đ Chim) bắt được B Cai v cả phi tần đem về, rồi lập người chu vua Bồ Đề l Ma Khu Qui Lai ln lm vua.
Do trận đnh năm 1446, hai năm sau c một bộ tộc ở pha ty nam dng thơ xin nội thuộc nước ta, đ l bộ tộc Tồn Man m bin cướng gip với cc tỉnh Nghệ An, Quảng Bnh v Hưng Ha. Vua Nhn Tn thu nhận đặt lm chu Qui Hợp.
Năm 1470, vua nước Chim Thnh l Tr Ton muốn gy dự trở lại, đem qun sang đnh ph đất Ha Chu rồi cho người sang cầu viện nh Minh bn Tu.
Vua L Thnh Tn cho sứ sang Tu cho biết việc Tr Ton quấy nhiễu rồi ngi tự lm tướng cử đại binh hơn 20 vạn sang đnh Chim Thnh, chiếm cửa Thi Nại (Bnh Định) xong rồi tấn cng Đồ Bn, ph thnh bắt được Tr Ton.
C tướng Chim Thnh l B Tr Tr chạy về đất Phan Lung, sai sứ vo cống v xưng thần. Thnh Tn c muốn lm nước Chim Thnh yếu thế đi, mới chia đất ra lm ba nước phong cho ba vua, một nước gọi l Chim Thnh, một nước gọi l Ha Anh v một nước nữa l Nam Phan.
Cn đất Đồ Bn, đất Đại Chim v đất Cổ Lũy th vua L Thnh Tn cho st nhập vo nước ta m lập đạo Quảng Nam gồm 3 phủ 9 huyện.
Tr Toại, em vua Tr Ton trốn vo ni, sai người sang Tu nhờ can thiệp. Nh Minh c sai sứ sang cầu vua L phải trả đất Chim Thnh. Thnh Tn khng chịu, bảo tướng L Niệm đi bắt Tr Toại đem về giam giữ ở kinh sư. Thấy nước Nam đương hồi cường thịnh, vua Minh cũng lờ lun ci chuyện Chim Thnh.
Kể từ đấy thanh thế nước Nam lừng lẫy, nước Lo v cc mường mn ở pha ty đều về triều cống. Năm 1611, nước Việt chia lm Nam Bắc triều, họ Trịnh lm cha xứ Bắc, họ Nguyễn lm cha phương Nam. Để mở mang khu vực mnh, Nguyễn Hong đnh vo nước Chim Thnh lấy đất lập ra phủ Ph Yn. Năm 1653, vua nước Chim Thnh l B Thấm sang khuấy ph đất Ph Yn, cha Nguyễn Phc Tần sang đnh, B Thấm phải xin hng. Cha Nguyễn liền vạch ranh giới để từ sng Phan Lung trở vo cho vua Chim, cn từ Pham Lung trở ra st nhập vo nước Việt lập ra phủ Din Khnh (tức Khnh Ha by giờ).
Năm 1693, vua nước Chim Thnh bỏ khng tiến cống, cha Nguyễn l Nguyễn Phc Chu đem binh đi đnh bắt được vua Chim l B Tranh v bọn thần tử l Tả Tr Vin, Kế B Tử, B n đem về Ph Xun. Lần ny, cha Nguyễn đổi lun đất Chim Thnh lm Thuận phủ cho Tả Tr Vin, Kế B Tử, B n lm đề đốc cai trị, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt Nam.
Từ đ nước Chim Thnh mất hẳn.
Vấn đề quốc phng phương nam chuyển sang một giai đoạn khc với những điều kiện chnh trị mới, nhiều tnh chất chnh trị hơn qun sự.
Nước Chim Thnh bị xa bỏ để st nhập v đồng ha với nước Việt nn by giờ bin giới pha Nam của nước Việt tiếp gip với nước Chn Lạp, tuy nhin việc bang giao giữa Chn Lạp với cha Nguyễn đ c từ lu rồi. Năm 1620, cha Si đ gả Ngọc Vạn cng cha cho vua Chn Lạp tn l Chei-Chetta, sau khi đ hai lần mang qun gip Chn Lạp đnh đuổi giặc Tim La (Thi Lan ngy nay). Lấy vợ Việt, Chei-Chetta c muốn người nhờ người ln bang gip đỡ khi quốc biến, Chetta từng sống trn đất Tim La nhưng lại ght người Tim La v qu người Việt hơn. Nhn đ, cha Nguyễn mới điều đnh với vua Chn Lạp mở một khu đồn điền tại B Rịa cho dn vo khẩn hoang lm ruộng v đất Chn Lạp bỏ trống nhiều qu. Trn danh nghĩa chnh thức chỉ ni c một khu, thực tế n ko theo cả một cuộc di dn v một chnh sch đồn điền vo đất hứa với đất đai ph nhiu, rộng mnh mng, sng ngi chằng chịt rất thuận lợi cho nng nghiệp. Tất nhin, đi km chnh sch di dn đồn điền phải c quyền lực hậu thuẫn đằng sau để giữ được m ả tới 40 năm.
Tới năm 1658 th tnh hnh chnh trị Chn Lạp rối loạn triền min, con chu cc dng vua cng một mu mủ gy nội chiến can qua khng dứt, kẻ đi cầu viện Tim La, người nhờ cha Nguyễn thnh thử sinh mệnh chnh trị Chn Lạp suy kiệt dần, lnh thổ Chn Lạp biến ra vng tranh chấp giữa cha Nguyễn với Tim La. Cuối cng, Tim La yếu thế hơn phải li bước chịu để gần nửa lnh thổ Chn Lạp đặt dưới quyền bảo hộ của cha Nguyễn rồi cũng bị đồng ha cng chung số phận của Chim Thnh. Bang giao Chn Lạp với cha Nguyễn tổng cộng được chừng 140 năm. Khi khng cn l quan hệ bang giao nữa th lnh thổ nước Việt nới rộng xuống đến mũi C Mau. Do những tranh chấp nội bộ nh Nguyễn, do cuộc xm lăng của Php nn việc mở mang bờ ci ở phương nam đang tốt đẹp bị dừng lại.
Trở lại phương bắc, mặc dầu nước ta phản đối tranh chấp Trịnh Nguyễn, ngoi bắc cn c thm nội chiến Trịnh Mạc dng d cả trăm năm, nhưng bờ ci được yn ổn l v Minh triều bn Tu cũng ở trong tnh trạng nội loạn thường trực, cuối cng giống Mn Chu trn vo xm lược đ hộ lập thnh Thanh triều. Cho mi tới năm 1788, sau khi đặt nền thống trị vững vng rồi, Thanh triều mới dm ng phương nam, tnh ra từ ngy L Lợi đnh dẹp giặc Minh đến đ khoảng cch thời gian l hơn 300 năm.
Ci cớ m Thanh triều mượn để lm danh nghĩa xm lăng l do lời yu cầu của vua L Chiu Thống, vị vua cuối cng của nh L.
Đại nguyn sy của đon qun viễn chinh Thanh triều l Tn Sĩ Nghị với hai ph tướng Sầm Nghi Đống v Hứa Thế Hanh, ko một hơi từ Lạng Sơn, Cao Bằng về thủ đ Thăng Long.
Tướng Ng Văn Sở sợ thế yếu đnh khng nổi bn rt qun thủy bộ về đng giữ ni Tam Điệp, rồi cho người về Ph Xun co cấp. Bắc Bnh Vương Nguyễn Huệ hay tin qun Thanh đ sang đng ở Thăng Long liền tự mnh dẫn thủy bộ đại binh ra đnh giặc. Đng đm trừ tịch khua trống, phất cờ ko ra bắc. Nửa đm mồng 5 thng Ging năm Kỷ Dậu (1789), qun vua Quang Trung đến lng H Hồi m thầm vy kn cc đồn giặc, bố tr xong đu đấy mới cho nổi trống rầm rầm như sấm st, bắc loa go tht như thin binh trn trời rầm rầm ko xuống. Vua Quang Trung quấn chiếc khăn vng ở cổ cưỡi voi đi đầu h qun xung phong. Đon tượng binh cả trăm con xng xo lm cho hng ngũ địch tan vỡ ngay, chng vội c rt vo trong thnh cố thủ.
Năm 1784, Nguyễn nh (Gia Long) cử bộ tướng Chu Văn Tiếp sang Tim La cầu viện về đnh Ty Sơn. Vua Tim La đem 300 chiến thuyền sang gip đnh p lấy được Rạch Gi, Ba Thắc, Tr n, Sa Đc. Qun Tim La thả cửa cướp bc, hm hiếp dn lnh. Tướng Ty Sơn l Trương Văn Đa co cấp về Qui Nhơn. Nguyễn Huệ thn chinh đi diệt giặc Tim La, by trận ở Rạch Gầm v Soi Mt, chỉ c một trận ấy thi m 10 vạn qun Tim La tan tc chết qu nửa, chạy về đến nước nh cn lại vi ngn. (Chỗ ny chắc sắp chữ lầm) Địch cắm chng tua tủa, đạn tn bắn ra như mưa. Qun ta lấy ba mảnh vn gỗ ghp ba mảnh lm một, dng rơm cỏ dấp nước quấn bn ngoi, cứ mười người khnh vn đi trước lại hai mươi người dắt đoản binh theo sau lăn xả vo quăng vn xuống đ ln chng o o như thc lũ. Hai bn đnh xp l c, lớp ny ng, lớp kia xng tới. Mun ngn tiếng h ht, tiếng loa, tiếng trống, mi mu cng mi thuốc sng. Chm giết cng lc cng thm c liệt, qun Thanh chịu khng nổi cắm đầu cắm cổ chạy. Đon qun chiến thắng reo h tiến thẳng ra Thăng Long.
Trận chiến cn c liệt hơn, đề đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Triều Long, tả dực Thượng Duy Thắng v một số tướng Tu khc bỏ mạng ngay tại mặt trận. Sầm Nghi Đống trốn ln một g cao rồi thắt cổ tự vẫn trn cnh đa (g ny gọi l G Đống Đa). Tn Sĩ Nghị mất tinh thần khng kịp đng yn ngựa dẫn vi đội qun vượt cầu phao sng Nhị H qua tỉnh Bắc Ninh. Qun đội cũng chạy theo chủ tướng, cầu đổ nt hất cả vạn người ngựa xuống sng. Tn Sĩ Nghị vứt lại cả sắc thư lẫn ấn tn trn dọc đường. Vỏn vẹn 7 ngy, hai mươi vạn qun Thanh bị đnh vỡ tan tnh.
Trong thời gian nội chiến giữa Nguyễn Ty Sơn với Nguyễn Gia Long, nước Chn Lạp (Cao Min) nay chỉ cn phần đất pha ty đặt dưới quyền bảo hộ của Tim La. Khi Gia Long dứt được Ty Sơn rồi, Nặc ng Chn vua Chn Lạp lại bỏ Tim La m xin thần phục vua Gia Long theo lệ tiến cống cứ ba năm một lần. Đời vua Minh Mệnh (1834) thừa dịp nước ta c loạn L Văn Khi, vua Tim La sai qun thủy bộ chia ra lm 5 đạo sang đnh. Đạo thứ nhất l thủy qun với 100 chiến thuyền tấn cng H Tin, đạo thứ hai bộ qun sang đnh Nam Vang rồi tiến chiếm Chu Đốc, An Giang, đạo thứ ba đnh Cam Lộ, đạo thứ tư đnh Cam Ct, Cam Mn, đạo thứ năm đnh Trấn Ninh. Chia ra 5 đạo nhưng chủ Tim La l dm ng Chn Lạp v cc tỉnh miền Nam nước Việt.
Tướng Trương Minh Giảng đnh tan qun Tim La ở Cổ Cắng đuổi qun Tim La ra khỏi bờ ci rồi lấy lại thnh Nam Vang, trao trả quyền cho vua Chn Lạp l Nặc ng Chn. Cc mặt trận khc, qun Tim La đều thất bại như trận Cổ Cắng. Cuộc chiến ko di chừng 4 thng.
anbinh
10-26-2010, 10:01 PM
QUỐC PHNG (tt)
Thng 3 năm Nhm Dần (1782), vua Ty Sơn l Nguyễn Nhạc v Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiến thuyền vo cửa Cần Giờ đnh nhau với Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang. Trận ấy qun Nguyễn Vương thua lớn, c một chiếc tu Php m thuyền trưởng tn Manuel bị qun Ty Sơn vy v đốt chm. Đ l cuộc gip chiến đầu tin giữa Việt Nam với một kẻ xm lăng mới, một thứ du mục thời đại theo định nghĩa của sử gia Oswald Spengler.
Hơn 50 năm sau (1847), đời vua Triệu Trị c hai chiến hạm Php vo Đ Nẵng bắn ph. Sau hai giờ tc chiến, tất cả cc chiến thuyền, hng trăm thuyền b của ta chỉ cn l những mảnh vụn tri lều bều. Kể từ sau đ, giặc Php nhờ c thuyền kin pho lợi tiến hnh mưu m xm lược hết Nam Kỳ rồi ra Trung v Bắc. Hết đời vua Tự Đức th mưu m xm lược cũng vừa hon tất, nước ta mất về tay người Php, sống dưới nền đ hộ mới gọi l thực dn địa. Khắp nơi chỉ cn c những cuộc khng Php của nhn dn từng địa phương, vẫn cn vua cn quan, cn triều đnh nhưng đấy chỉ l hnh ảnh của một đm vong quốc n.
Ngai vng nặng để chề non nước.
*****
5000 năm sử Việt l 5000 đấu tranh sắt mu khng dứt với ni Hn để tồn chủng, với cc giống khc để khỏi bị cướp lấn, tn ph triền min trong hng chuỗi chiến tranh chống xm lược, chiến tranh cch mạng dn tộc v chiến tranh mở mang bờ ci v lẽ sống cn.
Chiến tranh đối với người Việt l cuộc đổ mu đầy nghĩa. Chiến tranh bắt thời đại đi vo những con đưng m thời đại ngại ngng do dự mi khng dm tiến vo. Chiến tranh l thời cơ sống chết, ngn năm một dịp của những ai bị đ nn v p bch mong chờ. N để cho mnh một thuận tiện: lấy vũ lực ra cứu nước, đem sắt lửa với mu ra tranh đi lấy chủ quyền, ci chủ quyền của tự mnh được tự do, dng ch của mnh đối với đất đai dn chng, việc lm, đường đi v vận mệnh của tự mnh. Khng đổ mu tuyệt khng mong xoay chuyển được thời đại, lịch sử. (Trch Huyết Hoa).
Lc no cũng sẵn sng với tranh chiến như vậy nhưng người Việt lại cng sẵn sng hơn với việc chấm dứt chiến tranh, lựa đng lc đổi vũ thnh văn, đổi binh thnh lễ, đem can qua m biến thnh lụa ngọc chứ khng qu hăng như “dn Sparte bảo rằng nếu gươm anh qu ngắn th hy tiến ln một bước cho n di ra”. (Si ton pe est trop courte, allonges-la d’un pas!).
Đọc tinh thần bức thư của vua Quang Trung gửi cho vua nh Thanh sau khi 20 vạn qun Tn Sĩ Nghị đ khng cn mảnh gip chạy về:
“Trộm nghĩ binh đao vẫn l việc bất đắc dĩ của thnh nhn. Đại hong đế thm nghim ngự nơi cửu trng. Những truyện cương trường, Tn Sĩ Nghị khng hề tu r từng một việc một. Hắn che lấp tai mắt nh vua đến nỗi lm cho sự thể rối ren đến thế.
“Chu chấu đ xe, ti thật khng dm, song cửa vua xa cch mun dặm, hễ ti nhc nhch g th liền bị kẻ khổn thần hiếp đp khng sao chịu nổi, nn hnh tch mới dường như chống cự.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
“V bằng cht tnh trước đy khng được by tỏ, Thin triều khng chịu khoan dung một cht no cứ muốn động binh để tranh chiến th bấy giờ Đại quốc c dạy bảo g, ti cũng chỉ xin theo thi”.
Vẫn sẵn sng đnh m vẫn cầu ha, ci tinh thần tự chế cao nhường ấy chứng tỏ người Việt c một bản chất cực hiếu ha. Thắng lớn nhưng khng hề kiu dũng. Tinh thần quốc phng lun lun đặt ở điểm qun bnh giữa thắng bại, thắng khng vnh vc, trễ biếng, bại khng hn hạ, tuyệt vọng, tuyệt đối thực tế khng viển vng. Phm đ l người anh hng cứu quốc th d thnh cng hay thất bại, dn chng vẫn mi mi thờ phụng. Thắng lợi th lấy l tr m ph phn, thất bại th đem tnh cảm m tn knh. Đền thờ vua L khng lớn hơn đền thờ b Triệu Ẩu hay đền thờ Triệu Quang Phục v lng sng knh của dn chng chẳng đặt ai hơn ai. Hai mươi mốt L Lai, hai mươi hai L Lợi, người Việt đơn giản nhớ ngy giỗ của hai người với sự đối đi hon ton bnh đẳng. D Gia Long lm đủ mọi cch để hạ nhục Quang Trung, thậm ch đến đem sọ của Nguyễn Huệ lm b đi tiểu, nhưng cng lm nhục th lng dn cng thương xt sng bi người anh hng o vải Ty Sơn.
*****
Sử Trung Quốc, đời Xun Thu chỉ c qu tộc binh, sang thời Chiến Quốc mới c việc mộ binh. Tần đại c trưng binh v tới đời Hn bắt đầu c chnh sch binh dịch.
Sử Việt khng hề ni tới qu tộc binh, sự tch đức Thnh Ging được sứ giả vua đi tm, cho thấy chnh sch mộ binh v bnh dn được đầy đủ quyền hnh trọng vọng để tham dự việc binh của nước ta đ c từ lu lắm.
Cuộc cch mạng dn tộc vũ trang do hai b Trưng Trắc, Trưng Nhị lnh đạo đưa ra phương chm để động vin ton dn.
Về sau ny, chế độ binh dịch của ta đặt trn tinh thần (chỗ ny chắc sắp chữ lộn), tinh thần phương chm đ, cho nn khng xảy ra những thảm kịch c nghiệt như vụ nng Mạnh Khương tm chồng bị trưng binh lnh th ở Vạn L Trường Thnh, như chuyện người con trai của Ti ng bị ng ngựa m khỏi phải đi lnh, hay những cảnh bắt lnh gy ai on tả trong cc bi thơ của Đỗ Phủ.
Tất nhin cũng c những chia ly buồn b:
Thng thng trống đnh ngũ lin
Bước chn xuống thuyền nước mắt như mưa
v những cực nhọc khổ sở:
Chm tre đẵn gỗ trn ngn
Hữu thn hữu khổ phn nn cng ai
Phn nn cng trc cng mai
nhưng khng l nạn nhn của tội c. Nếu phải chống giặc l tự nguyện khắc hai chữ “st đt” vo cnh tay, khắc như vậy để chấp nhận thực sự sống chết với giặc.
Mỗi trận chiến tranh xảy ra trn đất Việt đều thấy c cảnh tượng ton dn vi binh. Nếu lần no khng c tất l qun sự quốc phng thất bại, tỉ dụ nh Hồ chống qun Minh, qun cha Trịnh vo miền nam đnh nhau với cha Nguyễn.
Binh th vậy, cn tướng th sao?
Sch “Nam Hải Dị Nhn” của Phan Kế Bnh chp: “Một khi Phạm Ngũ Lo ngồi vệ đường vt tre đan sọt, sực c Hưng Đạo Vương từ trại Văn An vo kinh, qun quyền ko đi rất đng. Qun quyền h thấy Ngũ Lo ngồi xếp bằng trn bn cạnh đường, qut ln bắt phải đứng dậy. Ngũ Lo cứ ngồi nghiễm nhin như khng nghe tiếng. Qun lnh cầm ngọn gio đm vo đi, Ngũ Lo vẫn cứ ngồi vững khng động mnh. Đến lc xe Hưng Đạo Vương đến nơi trng thấy thế lấy lm lạ, gọi đến hỏi th bấy giờ mới biết l c quan qun đi qua v qun lnh đm vo đi mnh.
Hưng Đạo Vương hỏi:
“Nh thầy ở đu sao ta đi qua đy m cứ ngồi lỳ lm vậy?”.
Lo đp:
“Ti đang mi nghĩ một việc cho nn khng biết ngi qua đy”.
“Hưng Đạo Vương lấy lm kỳ, hỏi đến sự học hnh th hỏi đu ni đ, kinh truyện thao lược khng thiếu một chỗ no, ứng đối nhanh như nước chảy.
“Hưng Đạo Vương mới sai đi lấy thuốc dịt vo chỗ gio đm rồi cho ngồi xe đem về kinh dng ln vua Thnh Tn. Sau Phạm Ngũ Lo theo Hưng Đạo Vương đi đnh giặc Mng Cổ nn cng trạng rất nhiều. Hưng Đạo Vương c lng yu mến mới gả con nui l Nguyn quận cha cho.
“Đo Duy Từ khi ở ngi trọng thần của cha Nguyễn trong nam, một hm nằm mộng thấy c con hổ đen chạy vo chợt lại mọc hai cnh m bay ln được. Sực tỉnh dậy th thấy Nguyễn Hữu Tiến mặc o thm, cầm quạt từ ngoi vo đứng hầu ở dưới thềm. Duy Từ trng trạng mạo phi thường của Tiến mới hỏi chuyện rồi ln la đm đạo về cc việc chnh sự, qun sự, Tiến phn tch, l luận rất hay. Duy Từ liền tấn cử Nguyễn Hữu Tiến với cha Nguyễn, sau Tiến trở nn một tướng giỏi thường được gọi l Nam triều hổ tướng”.
Tướng vị theo truyền thống nước ta đều lấy ti thao lược lm chuẩn v căn cứ trn cng tch để ln cao khng c vấn đề b phi. Do đ, chiến trận thường rất gay gắt, thua được khng bao giờ dễ dng, nếu c thua th cũng đ ging vo đầu qun địch những tổn thất nặng. Một truyền thống khc l Nguyễn X, Nguyễn Tri lặn lội đi tm L Lợi coi chnh trị việc chung, mỗi người đều c bổn phận đng gp, khc hẳn tinh thần tự đề cao thn gi của Khổng Minh trong tch Tam Cố thảo lư chờ Lưu Bị gội mưa đạp tuyết cầu hiền.
Binh sự Việt đều đặt trn nền tảng “văn vũ hợp nhất”. Tối cao chỉ huy thường thường l một văn nhn, nếu khng th vị v tướng cũng phải c khả năng văn học hơn người. Bởi v từ ngn xưa dn Việt phải đương đầu với ni Hn c nhiều kinh nghiệm về tnh chất quan trọng của tư tưởng chiến tranh. Sự thắng bại của đi bn trong một cuộc chiến tranh khng ở nơi trận địa cục bộ. Một vị tướng lnh theo tiu chuẩn của lịch sử Việt l văn ha rn luyện, đạo đức tu dưỡng, hiểu biết nhiều mặt đầu no chnh trị, ngoại giao phong độ phối hợp với nhau. L Thường Kiệt l điển hnh.
*****
Sch “Cảnh Phạm” viết:
“Từ xưa đến nay, định đứng ở phương no, trước nhất phải xem xt kỹ cng đại thế thin hạ, nếu khng xem xt m cứ xng bừa th cng lẫn thủ tuy khc nhau đấy nhưng bại vong vẫn l một, bảo rằng dựng nước th phải c kế hoạch quốc phng, kế hoạch ấy chỉ c thể hoạch định sau khi đ hiểu rất r hon cảnh địa l.
“Quốc phng tuyến nước ta sng tạo từ đời Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chan ha khắp giang sơn đất nước, mỗi lng x l một phng tuyến chiến đấu linh động, uyển chuyển khng chết đứng như Vạn L Trường Thnh. Nay rước vua vo Thanh Ha, mai đ thiết lập triều đnh tại Hải Dương (thời kỳ đnh giặc Mng Cổ) khng cố thủ bằng thnh lũy no hết, lng x vốn c khả năng tự cấp tự tc nn cũng khng c trung tm kinh tế no lọt vo tay giặc m tạo thnh quyết định sinh tử cho cuộc chiến”.
Sch “Cảnh Phạm” viết:
“Hữu căn bản chi địa, hữu khởi sự chi địa, lập bản tất thẩm thin hạ chi thế, nhi khởi sự giả bất trạch địa”. nghĩa l c đất lm nơi khởi sự, lập căn cứ phải xt thế của thin hạ, c khởi sự khng cần chọn chỗ đất no”.
Rừng ni, nơi thẳm su của nội địa ta thường được dng lm căn cứ địa, chỗ khởi sự đnh giặc th ở bất cứ nơi no. Hếu hết mọi cuộc chiến tranh trn đất Việt, trận địa chiến bao giờ cũng xảy ra vo pht cht, pht sắp phn thắng bại. Nhiều lần những nt giao thng lọt cả vo tay giặc m ta vẫn khng rơi vo thế tuyệt vọng l nhở ở căn cứ địa vững vng, đng thế, nhờ phạm vi khởi sự qu rộng, sự đối khng vẫn khng giảm st. Vận động biện chứng giữa căn cứ địa với khởi sự lun lun đẩy qun xm lược vo thế bao vy v phản bao vy ni theo từ ngữ mới. Sở dĩ nh Tống bn Trung Quốc khng chống nổi qun Mng Cổ l v hồi ấy Tống c qu nhiều trung tm kinh tế lớn lao quyết định sinh hoạt ton bộ dn chng, qun Mng Cổ chỉ việc chiếm cc trung tm ấy l lập tức sinh hoạt r rời. Khi sang ta, Mng Cổ p dụng cng một chiến lược gặp phải quốc phng tuyến Việt khng đặt ở cc trung tm cho nn sự chiếm cứ thật mau cc trung tm đ chẳng mang lại cho Mng Cổ cng một hiệu quả như đ xảy ra bn Trung Quốc. Nước ta vốn dĩ sống trong tnh trạng giặc gi thường trực nn quốc phng tuyến bắt buộc phải ghp liền với chiến tranh thường kỳ.
Quan trọng hơn hết l kinh tế quốc phng. Sch “Cảnh Phạm” viết: “Tự cổ lai vị hữu bất sự dn sinh nhi khả dĩ lập quốc gia”, nghĩa l: “Từ xưa đến nay chưa thấy ai khng hon tất việc dn sinh m c thể lập quốc. Kinh tế mới thật l cơ sở quốc phng”.
Anh ơi phải lnh th đi
Cửa nh đơn chiếc đ th c ti
Thng Chạp l tiết trồng khoai
Thng Ging trồng đậu, thng Hai trồng c
Thng Ba cy bở ruộng ra
Thng Tư reo mạ thuận ha mọi nơi
Thng Năm gặt hi xong rồi
Trời đổ mưa xuống nước tri đầy đồng
Anh ơi giữ lấy việc cng
Để em cy cấy mặc lng em đy
Cu ca dao bnh dị nơi dn giả cho thấy sự khắng kht giữa qun sự v kinh tế trong chiến đấu. Tối cao nguyn tắc của chiến tranh l sự nhất ch của điều kiện sinh hoạt với điều kiện chiến đấu. Tỉ dụ: Cổ đại nng nghiệp dn tộc đ p dụng phương trận nng điền để chống với du mục dn tộc, mỗi phương trận trở thnh một tiểu đơn vị phng thủ, đ p dụng đồn điền để trn lấn vo lnh thổ cc dn tộc du mục.
Ni chiến đấu no tất nhin phải c kế hoạch kinh tế thch hợp với lề lối chiến đấu ấy.
Điều kiện sinh hoạt m nhất ch được với điều kiện chiến đấu th mạnh, rời r th yếu, tương phản th thua.
Một qun sự gia Trung Quốc trong thời khng Nhật viết: “Chiến lược du kch trường kỳ chỉ c thể thnh cng nếu cng tc vận động sinh sản tự cấp tại nng thn thực hiện tốt đẹp”.
Sức mạnh quốc phng của nước ta tự lc lập quốc đến nay đều ở trong sự kết hợp nhất ch giữa tr tuệ vũ lực chnh quyền với một hệ thống lng x đan kết chặt chẽ nơi đồng ruộng bao la. (Elle s’installe sous une forme vgtative mais capable de durer dans la justaposition perte de vue de ses villages en rizire - Paul Mus).
Với một lịch sử cả 5000 năm đấu tranh tch lũy kinh nghiệm đ tạo cho dn tộc Việt một ci tr tuệ quốc phng thật hon bị. Thời kỳ m ci tr tuệ đ khng được đn đốc, khai triển đều đưa ta đến vong quốc.
Như đời Tự Đức ngự duyệt cuộc thao diễn binh lực. Giữa lc ng đang ngồi tại hnh cung bỗng nghe ngoi khơi c tiếng sng nổ. Th ra thuyền vận tải của ta bị hai chiếc tu của Tầu đnh cướp. Thuyền của ta tuy đng m vẫn thua, thậm ch hai chiếc tu của giặc c một chiếc dm cả gan xng vo bờ khng thm đếm xỉa đến vua quan ta đang tụ tập cả ở Cửa Thuận. Tức th lực lượng thủy qun ta được lệnh ra tiếp cứu đon thuyền bị nạn, nhưng sng c bắn ra m chẳng vin đạn no trng đch.
Thấy tận mắt v lực triều đại mnh, vua Tự Đức qu xc động về lm một bi thơ nm gửi sang bn v quở trch m đoạn cht như sau:
Phen ny mắt thấy tai nghe
Tham sinh y tử một b như nhau
(Chỗ ny chắc sắp chữ thiếu)
Đến khi c giặc rt đầu rt đui
Cũng xưng l đấng lm ti
Cớ sao chẳng biết hổ ngươi trong mnh
“Tr tuệ quốc phng Việt mở ra từ luật tắc biện chứng: “Xch hữu sở đoản, thốn hữu sở trường”. Thước m ngắn tấc m di, ci lẽ ưu thế liệt thế mạnh yếu của tương quan lực lượng khng đứng chết một chỗ, n xoay chuyển khng ngừng, cần phải nắm được giềng mối vận động biện chứng của n. Đấy l l do tại sao “Thế giặc mạnh ta yếu m ta địch nổi, qun giặc nhiều ta t m ta được lun. Nhật nguyệt hối m lại minh, cn khn bĩ m lại thi”.
“Dĩ chiến vi thủ, thủ tất cố, dĩ thủ vi chiến, chiến tất cường”, lời Đức Trần Hưng Đạo ghi trong “Vạn Kiếp b truyền” nghĩa l : dng chiến để thủ, thủ kin cố, dng thủ để chiến th chiến phải cường, chnh l biện chứng của chiến lược. Đối với phương Bắc, chiến lược thường nghing về dng chiến để thủ, đối với phương Nam chiến lược thường nghing về dng thủ để chiến, lấn đến đu dựng đồn điền phương trận đến đ. Tuy nhin, nếu ni về ton bộ diễn tiến của chiến tranh th biện chứng thủ chiến cng hết sức linh hoạt, c nơi thủ chẳng bằng chiến, c nơi chiến chẳng bằng thủ”
Bao trm ln hết tất cả l tinh thần quốc phng. Sch “Cảnh Phạm” viết: “Cng thủ vạn đoan, sảo chuyết di dụng, thần nhi minh chi diệc tồn hồ kỳ nhn nhi dĩ”, nghĩa l “tấn cng hay phng ngự trăm ngn hnh thi, giỏi hay vụng khc nhau ở nơi tinh thần con người m thi”.
“Thiết hiểm dĩ đắc nhn vi bản, bảo hiểm dĩ tr kế vi tin, nhn thắng hiểm vi thượng, hiểm thắng nhn vi hạ, nhn dữ hiểm qun, ti đắc trung sch”, nghĩa l: “Gy một hiểm địa điều gốc l phải được người phng giữ hiểm địa tr v kế l cần nhất, thượng sch ở chỗ đắc nhn, chỉ dựa vo hiểm địa l hạ sch; người với hiểm địa ngang nhau l trung sch”.
“Địa lợi diệc h thường chi hữu tai, Hm Quan Kiếm Cc, thin hạ chi hiểm d, Tấn dụng Hm Quan khước lục quốc chi hữu dư, đại kỳ mạt d, cự quần đạo nhi bất tc. Gia Ct Vũ Hầu xuất Kiếm Cc chấn Tần Lũng, qui Tam Phụ; Lưu Thuyền hữu Kiếm Cc nhi thnh đ bất năng bảo. Cố kim thnh, thang tr bất đắc kỳ nhn dĩ thủ chi tằng bất cập bồi lũ chi khu, phiếm lng chi thủy, đắc kỳ nhn tắc kh mộc hủ th giai khả dĩ vi địch nạn”, nghĩa l: “Địa lợi trong thin hạ chỗ no m chẳng c, cửa Hm Quan, cửa Kiếm Cc đều l hiểm địa của thin hạ. Nh Tần dng Hm Quan đ thừa sức thn tnh lục quốc, thế m cuối đời Tần, Hm Quan khng cn đủ sức để ngăn kẻ trộm cướp. Gia Ct Khổng Minh ra cửa Kiếm Cc chấn định Tần Lũng, qui phục Tam Phụ trong khi Lưu Thuyền cũng từng giữ Kiếm Cc m cung điện thnh đ cũng khng giữ nổi. Thnh đồng, tường sắt m lm g nếu khng c người để bảo vệ n, gi trị của n chẳng bằng m đất bn, vũng nước, cỏ mục cy kh, nếu c lng người quyết tm th bn nước, cỏ cy cũng dư sức để lm cho địch qun khốn khổ”.
Tinh thần quốc phng tức l sự xc định chiến ch. Tại lng An Nhn ngoi Bắc, dn lập đền thờ ng Đon Thượng, đền thờ ấy l tượng trưng cho ci chiến ch hằng tại của ni giống.
Thời Huệ Tn nh L, Đon Thượng phụng mệnh trấn thủ ở Hồng Chu. Khi L Chiu Hong nhường ngi cho vua Trần Thi Tn, Đon Thượng chiếm giữ một chu khng chịu theo nh Trần. Thi sư nh Trần l Trần Thủ Độ sai sứ đến dụ hng. Thượng nhất định khng nghe, chiu tập binh m c muốn khi phục nh L.
Trần Thủ Độ đem qun xuống đnh nhau lun mấy năm khng ph nổi. Cuối cng l trận Văn Giang, qun nh Trần hai mặt đnh dồn vo một, qun Đon Thượng vỡ chạy tn lạc mất cả. Đon Thượng bị một tướng nh Trần chm trộm một nht vo cổ gần đứt. Đon Thượng ngoảnh lại th tướng kia sợ hi chạy mất. Đon Thượng mới cởi dy lưng ra buộc vo cổ cho khỏi rơi đầu, rồi hầm hầm tế ngựa chạy về pha Đng. Chạy đến đu qun nh Trần phải rn đường cho chạy chớ khng dm đnh.
Khi chạy đến lng An Nhn, c một ng cụ gi, o mũ chững chạc, chắp tay đứng bn đường ni rằng:
- Tướng qun trung dũng lắm. Thượng Đế kn ngi lm thần xứ ny rồi đy. C một ci g bn cạnh kia, đ l hương quả của tướng qun xin tướng qun lưu tm cho.
Đon Thượng vng một tiếng rồi đến chỗ g ấy xuống ngựa gối đầu vo ngọn mc m nằm, một lt th mất, mối đn ln lấp thnh mồ.
Một khi chiến ch đ được xc định, người Việt no cũng sẽ gan dạ chiến đấu như Đon Thượng.
Ci đng qu nhất cho quốc phng khng c g bằng tinh thần quốc phng, tức ci ch quyết chiến. C chiến ch ấy th mới c dốc một lng phụ tử vc cần cu m đnh giặc. C chiến ch ấy th mới “th lm ma nước Nam cn hơn lm vương đất Bắc”. C chiến ch mới c lời ni “Nếu bệ hạ muốn hng xin hy chặt đầu ti trước đ”.
Năm Đinh Sửu nin hiệu Tự Đức thứ 30, người Php hứa trả lại bốn tỉnh v nối lại ha hiếu, triều đnh vui mừng cho l đ được v sự. Cho nn trong khoa thi hội, đ lấy việc “Sứ nước Php vo chầu, ha hiếu hợp lễ” để ra đầu đề bi thi. Với ci tinh thần quốc phng như thế nước mất l điều đương nhin.
Tinh thần quốc phng Việt l kết tinh của bốn nhn tố:
- Lng yu với người thn, nhiễu điều phủ lấy gi gương.
- Hai bn tay với đất đai, nước mắt v mồ hi xy dựng giang sơn.
- Tr tuệ sng tạo như trăm ngn hoa nở.
- Mu đo v tranh đấu với giặc, tổ tin con chu cng nhuộm mu trn giải đất từng chứng kiến bao nhiu trận oanh liệt cn ghi dấu anh hng (Trch “Chu tri lục”).
Powered by vBulletin® Version 4.2.2 Copyright © 2024 vBulletin Solutions, Inc. All rights reserved.